-
Thông tin
-
Quiz
Nội dung ôn tập Triết học mác lênin | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Các nhà triết học duy vật cận đại: đồng nhất vật chất với khối lượng, coi mọi sự vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, tìm nguồn gốc của vận động bên ngoài vật chất; coi nguyên tử là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được, tách rời nguyên tử với vận động, không gian, thời gian. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Triết học Mác-Lênin (philosophy) 114 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.3 K tài liệu
Nội dung ôn tập Triết học mác lênin | Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Các nhà triết học duy vật cận đại: đồng nhất vật chất với khối lượng, coi mọi sự vận động của vật chất chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, tìm nguồn gốc của vận động bên ngoài vật chất; coi nguyên tử là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được, tách rời nguyên tử với vận động, không gian, thời gian. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Triết học Mác-Lênin (philosophy) 114 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 2.3 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:




















Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
NỘI DUNG ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN 1. ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT
a. Quan điểm của CNDV trước Mác:
- Các nhà triết học duy vật cổ đại: đồng nhất vật chất nói chung với các dạng tồn tại cụ thể của nó - các vật
thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
- Các nhà triết học duy vật cận đại: đồng nhất vật chất với khối lượng, coi mọi sự vận động của vật chất
chỉ là biểu hiện của vận động cơ học, tìm nguồn gốc của vận động bên ngoài vật chất; coi nguyên tử là
phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được, tách rời nguyên tử với vận động, không gian, thời gian...
b. Định nghĩa vật chất của Lênin:
- Hoàn cảnh ra đời: Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện hàng loạt phát minh mới trong khoa học tự
nhiên: Năm 1895 Rơnghen phát hiện ra tia X; năm 1896 Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ; năm
1897 Tômxơn phát hiện ra điện tử; năm 1901 Kaufman phát hiện ra khối lượng của điện tử không phải là
khối lượng tĩnh mà thay đổi theo vận tốc của nó.
Những phát minh khoa học trên đã bác bỏ quan niệm siêu hình về vật chất. CNDT cho rằng "vật chất đã
tiêu tan, CNDV bị bác bỏ" xuất hiện cuộc khủng hoảng trong vật lý học.
- Trên cơ sở phân tích sâu sắc cuộc "khủng hoảng trong vật lý học", phê phán những quan niệm duy tâm, siêu
hình về vật chất, khái quát những thành tựu của khoa học tự nhiên, Lênin đã đưa ra định nghĩa vật chất:
"Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác". - Phân tích định nghĩa:
+ Về phương pháp định nghĩa mà Lênin sử dụng:
Vật chất là phạm trù rộng nhất nên phương pháp định nghĩa thông thường trở nên bất lực.
Vật chất chỉ có thể định nghĩa bằng cách đặt nó trong quan hệ đối lập với ý thức, xem cái nào có
trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
+Nội dung cơ bản của định nghĩa:
"Vật chất là một phạm trù triết học":
- Đây là sự xác định "góc độ" của việc xem xét để tránh nhầm lẫn giữa quan niệm của triết học với các
quan niệm của KHTN về cấu trúc và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất khác nhau.
- Với tư cách là phạm trù triết học, phạm trù vật chất phải thể hiện thế giới quan và hướng đến việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Thuộc tính chung của vật chất là tồn tại khách quan - tồn tại bên ngoài ý thức và không phụ thuộc
vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được:
- Vật chất là vô cùng tận, có vô vàn các thuộc tính khác nhau rất đa dạng mà khoa học càng phát triển thì
càng phát hiện thêm những thuộc tính mới của nó, nhưng trong tất cả các thuộc tính của vật chất thì "thực
tại khách quan" - tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức là thuộc tính chung, duy nhất của vật chất.
- Thuộc tính "tồn tại khách quan bên ngoài và độc lập với ý thức" chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là
vật chất, cái gì không phải vật chất cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Đây cũng là tiêu chuẩn để
khẳng định thế giới vật chất có tồn tại thực sự, tồn tại do chính nó hay không?
* Vật chất "được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh":
- Vật chất tồn tại khách quan nhưng không phải tồn tại trừu tượng mà là sự tồn tại hiện thực, cụ thể, cảm
tính. Khi vật chất tác động vào các giác quan của con người thì gây ra cảm giác, đem lại cho con người sự
nhận thức về nó. Về nguyên tắc - đối với thế giới vật chất, chỉ có cái con người chưa nhận thức được chứ
không có cáiA con người không thể nhận thức được.
- Vật chất là nguồn gốc của cảm giác, ý thức - nó có trước và tạo nên nội dung của ý thức. Cảm giác, tư duy,
ý thức chỉ là sự "chép lại, chụp lại, phản ánh", nó có sau vật chất. Rõ ràng vật chất là tính thứ nhất, ý thức là
tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức.
c. Ý nghĩa của định nghĩa:
- Khắc phục được tính trực quan, siêu hình, máy móc trong quan niệm về vật chất của CNDV cũ, làm cho
CNDV phát triển lên một trình độ mới, trở thành CNDV biện chứng - tạo cơ sở khoa học cho quan niệm duy
vật trong lĩnh vực xã hội (CNDVLS), đồng thời tạo cơ sở khoa học cho sự thống nhất giữa CNDVBC và CNDVLS.
- Là cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống CNDT (cả CNDTKQ lẫn CNDTCQ) và thuyết
không thể biết, đảm bảo sự đứng vững của CNDV trước sự phát triển mới của KHTN.
- Trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học trong nghiên cứu thế giới vật
chất, động viên họ tin ở khả năng nhận thức của con người, cổ vũ họ tiếp tục đi sâu khám phá những thuộc
tính mới của vật chất. Do vậy, nó đã có tác dụng đưa KHTN, nhất là vật lý học thoát khỏi cuộc khủng hoảng
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX để tiếp tục tiến lên.
- Mặc dù KHTN ngày nay đã có những bước tiến lớn so với khi định nghĩa này ra đời (1908), song định
nghĩa ấy vẫn khẳng định giá trị của nó, vẫn là tiêu chuẩn căn bản nhất để phân biệt TGQ duy vật và TGQ duy tâm.
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC, Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN?
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
Về nguồn gốc của ý thức:
- CNDT tách ý thức ra khỏi vật chất, lấy ý thức làm điểm xuất phát để suy ra giới tự nhiên.
- CNDV siêu hình máy móc không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức, thậm chí coi bộ não sinh
ra ý thức như gan tiết ra mật.
- Dựa trên cơ sở những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh, CNDVBC cho rằng:
+ Ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không phải của mọi dạng vật chất, mà chỉ là thuộc tính
của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Bộ óc là cơ quan vật chất của ý thức; ý thức là
chức năng của bộ óc con người, phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt
động của ý thức sẽ không bình thường.
+Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng riêng có của con người, được phát triển từ thuộc tính phản
ánh có ở mọi dạng vật chất.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức (bộ óc của con người và sự tác động của thế giới khách quan lên bộ óc con người)
- Bộ óc là cơ quan vật chất của ý thức; ý thức là chức năng của bộ óc con người, phụ thuộc vào hoạt động của bộ óc
- Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng riêng có của con người, được phát triển từ thuộc tính phản ánh có ở mọi dạng vật chất
+ Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong
quá trình tác động qua lại của chúng
+ Phản ánh có nhiều cấp độ, tương ứng với các trình độ khác nhau của kết cấu vật chất. Ý thức là hình
thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực
Nguồn gốc xã hội của ý thức (lao động và ngôn ngữ)
- Lao động: Làm biến đổi thế giới khách quan, đồng thời làm biến đổi chính bản thân con người, làm cho
con người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn thế giới khách quan
- Ngôn ngữ: Là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức, là cái "vỏ vật chất của tư duy", là
phương tiện để con người giao tiếp với nhau, đồng thời là công cụ của tư duy nhằm khái quát hoá, trừu tượng hoá hiện thực
Về bản chất của ý thức:
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng
tạo, là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” Ý thức là một
Sự ra đời và phát triển của ý thức không
hiện tượng xã hội, mang bản chất xã hội.
chỉ chịu sự chi phối của các quy luật sinh học mà chủ yếu là quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và
các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định
Vật chất quyết định ý thức
Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức
Vật chất quyết định nội dung, bản chất của ý thức
Vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức
Vật chất quyết định quá trình hiện thực hoá ý thức
Tính độc lập và vai trò của ý thức
- Thứ nhất, Ý thức có tính độc lập tương đối trong sự phản ánh, thông qua họat động thực tiễn của con
người, ý thức có thể làm biến đổi những điều kiện, hoàn cảnh vật chất phục vụ cho cuộc sống của con người.
- Thứ hai, Nói tới vai trò của ý thức cần phải hiểu thực chất đó là vai trò của con người. -
, Sự tác động của ý thức diễn ra theo hai hướng ( Thứ ba
Tác động tích cực và tác động tiêu cực)
Ý nghĩa phương pháp luận.
Vật chất là nguồn gốc khách quan sản sinh ra ý thức. Ý thức là sản phẩm, là phản ánh thế giới khách
quan vì vậy trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần rút ra quan điểm khách quan.
+ Khi xem xét và nhận thức sự vật phải xuất phát từ chính sự vật, phải phản ánh sự vật trung thành như nó
vốn có, phải tôn trọng sự thật, không lấy ý chí chủ quan áp đặt cho sự vật.
+ Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan
Cần nhận thức rõ vai trò tích cực của ý thức, tinh thần vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phát huy tính
năng động chủ quan của ý thức.
+ Phát huy vai trò của nhân tố con người trong hoạt động và cải tạo hiện thực
+ Cần không ngừng nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng quy luật khách quan của con người. Muốn
vậy đòi hỏi con người phải tích cực học tập, làm chủ tri thức khoa học, vận dụng tri thức vào thực tiễn,. Tự
giác rèn luyện nhân sinh quan...
Cần phải khái quát, tổng kết thực tiễn để thường xuyên nâng cao năng lực nhận thức, năng lực chỉ đạo
thực tiễn, chống tư tưởng thụ động ngồi chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh, vào điều kiện vật chất; khắc phục bệnh
trì trệ, thụ động, chủ quan duy ý chí:
+ Thứ nhất, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, thụ động, ỷ lại, trông chờ vào sự biến đổi của hiện thực,
không tích cực tự giác biến đổi hiện thực ấy.
+ Thứ hai, khắc phục tư tưởng chủ quan duy ý chí, không căn cứ vào thực tế khách quan để hành động mà
lấy ý muốn chủ quan, lấy tình cảm, nguyện vọng cá nhân để hành động.
3. HAI NGUYÊN LÝ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG: NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
3.1. NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ BIẾN a.
Khái niệm về mối liên hệ:
- Các sự vật, hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại, tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách rời nhau?
+ Những người theo quan điểm siêu hình cho rằng các SVHT tồn tại một cách độc lập, tách
rời nhau, không có khả năng chuyển hoá lẫn nhau…
+ Các nhà triết học theo quan điểm biện chứng lại cho rằng, các sự vật, hiện tượng của thế
giới vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau.
- Cái gì quy định mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng?
+ Những người theo CNDT cho rằng, cái quyết định mối liên hệ là một lực lượng siêu tự
nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người.
+ Các nhà triết học duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ
sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
- Triết học duy vật biện chứng khẳng định rằng: Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy
định, sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của
một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
- Cái gì quy định mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng?
+ Những người theo CNDT cho rằng, cái quyết định mối liên hệ là một lực lượng siêu tự
nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người.
+ Các nhà triết học duy vật biện chứng khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ
sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng. b.
Các tính chất của mối liên hệ:
-Tính khách quan: Mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng là khách quan, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng. -Tính phổ biến:
+ Thứ nhất: Bất cứ sự vật nào cũng liên hệ với sự vật, hiện tượng khác.
+Thứ hai: Mối liên hệ thể hiện ở những hình thức riêng biệt, cụ thể tuỳ theo điều kiện nhất định. Song, dù
dưới hình thức nào, chúng cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất, chung nhất.
-Tính đa dạng, nhiều vẻ:
+ Tuỳ từng tiêu chí khác nhau người ta có thể phân chia ra
các mối liên hệ khác nhau theo từng cặp: Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài; chủ yếu và mối
liên hệ thứ yếu; bản chất và mối liên hệ không bản chất; tất nhiên và mối liên hệ ngẫu nhiên; trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp...
+ Mỗi loại mối liên hệ có vai trò khác nhau đối với sự vận
động và phát triển của sự vật (trong đó, các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ bản
chất,… giữ vai trò chi phối).
+ Sự phân chia các loại liên hệ cũng chỉ mang tính chất tương đối.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quan điểm toàn diện: Vì bất cứ SVHT nào của thế giới cũng đều tồn tại trong mối liên hệ với các SVHT
khác và mối liên hệ rất đa dạng phong phú, do đó, khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải có
quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện.
+ Đòi hỏi chúng ta nhận thức SVHT trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu
tố, giữa các mặt của chính bản thân SVHT và trong sự tác động giữa SVHT đó với các SVHT khác.
+ Phải biết phân biệt từng mối liên hệ; phải biết chú ý đến mối liên hệ bên trong, mối liên hệ
bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên... để hiểu bản chất của sự vật và có phương pháp tác
động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể: Mọi sự vật đều có quá trình ra đời, tồn tại và phát triển với những mối quan
hệ cụ thể của nó, cho nên trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm lịch
sử cụ thể - đòi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh
lịch sử cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
3.2. NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
a. Những quan niệm khác nhau về sự phát triển: -Quan điểm siêu hình:
+ Phát triển chỉ là sự tăng lên về mặt lượng, không có sự thay đổi về mặt chất của sự vật hoặc nếu có
sự thay đổi về chất thì sự thay đổi đó diễn ra theo một vòng khép kín.
+ Phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục, không có những bước quanh co, thăng trầm phức tạp.
-Quan điểm biện chứng: Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
+ Phát triển là một quá trình tiến lên từ thấp đến cao, quá trình đó diễn ra vừa dần dần, vừa nhảy vọt
đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ.
+ Phát triển là kết quả của quá trình thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc, dường
như quay trở về cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn về chất.
+ Nguồn gốc của sự phát triển nằm trong bản thân sự vật - đó là mâu thuẫn trong chính bản thân sự
vật, do đó cũng là quá trình tự thân phát triển.
b. Tính chất của sự phát triển: -
Sự phát triển mang tính khách quan:
không phụ thuộc vào ý thức con người bởi nguồn gốc của sự phát triển
nằm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng - đó là quá trình giải quyết liên tục những mâu thuẫn nảy sinh
trong sự tồn tại của sự vật, hiện tượng. -
Sự phát triển mang tính phổ biến:
ở mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Sự phát triển mang tính đa dạng, phong phú:
+Mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau
+Trong quá trình phát triển của mình, mỗi sự vật hiện tượng còn chịu tác động của sự vật hiện tượng khác,
của điều kiện, hoàn cảnh...
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quan điểm phát triển: Mọi sự vật, hiện tượng đều nằm trong quá trình phát triển, nên trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn chúng ta phải có quan điểm phát triển.
+ Quan điểm phát triển đòi hỏi không chỉ nắm bắt những cái hiện đang tồn tại ở sự vật, mà còn phải
thấy rõ khuynh hướng phát triển trong tương lai của chúng, phải thấy được những biến đổi đi lên cũng
như những biến đổi có tính chất thụt lùi.
+ Xem xét sự vật theo quan điểm phát triển còn phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy
thành những giai đoạn để tìm ra phương pháp nhận thức và tác động phù hợp…
4. QUY LUẬT CHUYỂN HOÁ TỪ NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY
ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI (Cách thức của sự phát triển)
a. Khái niệm về chất và khái niệm về lượng: Khái niệm về chất:
-Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất
hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.
-Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố... cấu thành sự vật. Đó là những
cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận động và phát triển của nó.
-Mỗi sự vật có nhiều thuộc tính, mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật; do vậy, mỗi sự vật có
nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan
không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật.
-Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính, trong đó có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất của sự vật, chính chúng quy định sự tồn tại, vận động,
phát triển của sự vật. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản chỉ mang
tính chất tương đối; sự phân biệt giữa chất và thuộc tính cũng chỉ mang tính chất tương đối.
-Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố cấu thành mà còn bởi phương thức
liên kết giữa chúng (kết cấu của sự vật). Khái niệm về lượng:
- Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình
độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.
-Lượng là cái vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó - mang tính khách quan.
-Có lượng được xác định bởi những đơn vị đo lường cụ thể, nhưng có lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng
trừu tượng và khái quát; có lượng biểu thị yếu tố quy định kết cấu bên trong của sự vật, nhưng có lượng
vạch ra yếu tố quy định bên ngoài sự vật.
-Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ mang tính chất tương đối, nó phụ thuộc từng mối quan hệ cụ thể.
b. Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất:
-Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất hữu cơ giữa hai mặt chất và lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau.
-Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động, phát triển của sự vật. Sự thay
đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay đổi về chất của nó và ngược lại:
+ Sự thay đổi về lượng có thể làm thay đổi ngay lập tức chất của sự vật.
+ Ở một giới hạn nhất định, khi lượng của sự vật thay đổi mà chưa làm chất của sự vật thay đổi cơ bản - đó là "độ": •
"Độ" là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa
làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy. •
"Độ" thể hiện sự thống nhất giữa lượng và chất của sự vật.
+ Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới hạn nhất định (độ) thì chất mới tương ứng với lượng mới xuất hiện: •
Điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đủ làm thay đổi chất của sự vật gọi là "điểm nút". •
"Điểm nút" là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay
đổi về chất của sự vật.
+ Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là "bước nhảy": •
"Bước nhảy" là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng của sự vật trước đó gây nên. •
"Bước nhảy" là sự kết thúc một giai đoạn phát triển, đồng thời là khởi điểm một giai đoạn phát triển
mới của sự vật. Nó là sự gián đoạn trong quá trình phát triển liên tục của sự vật.
- Sự phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng, trong "độ" nhất định cho tới
"điểm nút" để thực hiện "bước nhảy" về chất. Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng mới - nó
có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu vận động, phát triển của sự vật.
c. Các hình thức cơ bản của bước nhảy: -Dựa trên của bản thân sự vật:
nhịp điệu thực hiện bước nhảy
+Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn, làm thay đổi chất của
toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
+Bước nhảy dần dần: là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những
nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.
-Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật:
+Bước nhảy toàn bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật.
+Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của những mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật.
-Xem xét sự thay đổi về chất của xã hội:
+Cách mạng: là sự thay đổi trong đó chất của sự vật biến đổi căn bản không phụ thuộc vào hình thức
biến đổi của nó (sự thay đổi về chất mang tính tiến bộ, đi lên).
+Tiến hoá: là sự thay đổi về lượng với những biến đổi nhất định về chất không cơ bản của sự vật.
Kết luận: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong
khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất
mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự
vật không ngừng phát triển, biến đổi.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
-Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải biết tích luỹ về lượng để làm biến đổi về
chất theo quy luật. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan duy ý chí, nôn nóng,
“đốt cháy giai đoạn”, muốn thực hiện những bước nhảy liên tục.
-Khi đã tích luỹ đủ về lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay
đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hoá sang những thay đổi
mang tính chất cách mạng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
-Trong hoạt động thực tiễn còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy, tuỳ thuộc vào
những điều kiện khách quan và chủ quan.
-Phải biết cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản
chất, quy luật, kết cấu của sự vật đó.
5. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN, Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN. a. Khái niệm: Thực tiễn:
- CNDV biện chứng cho rằng: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất – cảm tính, mang tính lịch
sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội
+Trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng công cụ vật chất tác động vào đối tượng vật chất, làm biến
đổi chúng theo mục đích của mình.
+Hoạt động thực tiễn không ngừng được phát triển bởi con người qua các thời kỳ lịch sử.
+Hoạt động thực tiễn rất đa dạng phong phú, song có ba hình thức cơ bản sau: •
Hoạt động sản xuất vật chất: là hình thức hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. •
Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động của các tổ chức, cộng đồng người khác nhau trong xã hội
nhằm cải biến những mối quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội phát triển. •
Thực nghiệm khoa học: là một hình thức đặc biệt của thực tiễn.
+Các hình thức hoạt động thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong
đó hoạt động sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động cơ bản nhất, đóng vai trò quyết định đối với các hoạt động khác.
Lý luận: Lý luận khoa học là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh
những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật, hiện tượng và được biểu đạt bằng
hệ thống nguyên lý, quy luật, phạm trù.
Đặc trưng của lý luận
- Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lo gích chặt chẽ.
- Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn -
, Lý luận về bản chất có thể phản ánh được bản chất sự vật, hiện tượ Thứ ba ng
Vai trò của thực tiễn đối với lý luận: Lý luận khoa học phải được hình thành trên cơ sở thực tiễn,
xuất phát từ thực tiễn, bằng con đường tổng kết thực tiễn
- Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở của lý luận
+ Tri thức của con người nói chung, lý luận nói riêng xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn
+ Thực tiễn đã cung cấp những “chất liệu” để từ đó khái quát thành lý luận
- Thứ hai, thực tiễn là động lực của lý luận
+ Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, trên cơ sở đó thúc đẩy nhận thức, lý luận phát triển
+ Sự vận động, biến đổi, phát triển của thực tiễn quy định khuynh hướng phát triển của lý luận
+ Thực tiễn góp phần rèn luyện giác quan của con người, giúp con người nhận thức hiệu quả hơn, khái
quát lý luận đúng đắn hơn
+ Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo ra các công cụ hỗ trợ, nối dài các giác quan của con người
- Thứ ba, thực tiễn là mục đích của lý luận
+ Hoạt động nhận thức, lý luận không có mục đích tự thân, mà nhằm phục vụ thực tiễn, soi đường, dẫn
dắt, chỉ đạo thực tiễn có hiệu quả hơn
+ Mọi tri thức khoa học, mọi lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn
- Thứ tư, thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá sự đúng sai của lý luận
+ Lý luận là kết quả của quá trình nhận thức, nó có thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách
quan. Phải kiểm nghiệm qua thực tiễn mới biết đâu là chân lý
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này vừa có tính
tuyệt đối, vừa có tính tương đối
Vai trò của lý luận đối với thực tiễn: Thực tiễn luôn phải được chỉ đạo, soi đường, dẫn dắt bởi lý
luận khoa học, nếu không sẽ là thực tiễn mù quáng, mò mẫm.
- Thứ nhất, Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn
- Thứ hai, Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng để tạo thành
phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng
- Thứ ba, lý luận, nếu phản ánh đúng quy luật vận động, phát triển của sự vật, của thực tiễn sẽ góp phần
dự báo, định hướng đúng đắn cho hoạt động thực tiễn; giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng
vo, chủ động, tự giác hơn.
- Thứ tư, lý luận khoa học cung cấp cho con người những tri thức khoa học về tự nhiên, xã hội và về
bản thân con người. Trên cơ sở những tri thức khoa học đó, con người có thể thông qua hoạt động thực
tiễn làm biến đổi tự nhiên, xã hội và bản thân phục cho mục đích của mình.
- Thứ năm, lý luận có tính độc lập tương đối so với thực tiễn, do vậy nó có thể thông qua hoạt động
thực tiễn tác động trở lại thực tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn.
Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
-Thứ nhất, Quan điểm này yêu cầu nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn
-Thứ hai, Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận, của chủ trương đường lối chính Sách
-Thứ ba, phải tăng cường tổng kết thực tiễn để bổ sung hoàn thiện lý luận
6. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT. VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN.
a. Khái niệm PTSX, LLSX, QHSX: Phương thức sản xuất:
-PTSX là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.
-PTSX là sự thống nhất giữa LLSX ở một trình độ nhất định với QHSX tương ứng. Lực lượng sản xuất:
-LLSX là sự kết hợp giữa người lao động với TLSX, trước hết là công cụ lao động. LLSX biểu hiện mối
quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất. LLSX thể hiện năng lực thực tiễn của con
người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
-LLSX bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và TLSX, trước hết là công cụ lao động.
Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và TLSX, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành LLSX.
+Trong các yếu tố của LLSX, yếu tố hàng đầu là người lao động. +Công cụ lao động:
>Cũng là yếu tố cơ bản của LLSX, đóng vai trò quyết định trong TLSX.
>Công cụ lao động là yếu tố động nhất trong LLSX.
>Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu
chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
-Ngày nay, khoa học phát triển, trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất,
trong đời sống và trở thành “LLSX trực tiếp”. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện
đại là tri thức khoa học. Quan hệ sản xuất:
-QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).
-QHSX gồm ba mặt: Quan hệ sở hữu đối với TLSX, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ
trong phân phối sản phẩm sản xuất ra. Chúng thống nhất với nhau, tạo thành hệ thống mang tính ổn định
tương đối so với LLSX; trong đó:
+Quan hệ sở hữu đối với TLSX: là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho QHSX trong từng xã hội.
+Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Nếu không thích ứng
với quan hệ sở hữu, nó sẽ làm biến dạng quan hệ sở hữu.
b. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX)
- Trình độ của lực lượng sản xuất?
Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật, kinh nghiệm,
kỹ năng của người lao động, quy mô sản xuất và phân công lao động xã hội... Trình độ của lực lượng sản
xuất càng cao thì phân công lao động càng sâu sắc.
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất cho nên chúng có quan hệ với nhau.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
+ LLSX như thế nào thì QHSX như thế ấy. LLSX phát triển QHSX phát triển tương ứng với LLSX nhất
định có QHSX phù hợp với nó về tính chất trình độ.
+ LLSX quyết định QHSX vì Vai trò quyết định của nội dung (LLSX) đối với hình thức (QHSX)
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
+ Là sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung.
+ QHSX qui định: Mục đích của sản xuất, hình thức phương pháp, quy mô sản xuất, phương thức phân phối sản phẩm xã hội -
QHSX tác động LLSX theo 2 chiều: + Chiều phù hợp.
+ Chiều không phù hợp (2 loại: Lạc hậu hơn và vượt trước)
c. Sự nhận thức và vận dụng qui luật này trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta:
-Trước đổi mới (1986), chúng ta đã mắc những sai lầm trong nhận thức và vận dụng qui luật này – cho rằng
có thể đẩy QHSX đi trước một bước để mở đường cho LLSX phát triển. Do đó, trong khi thực hiện cuộc cách
mạng về QHSX đã vội vã xóa bỏ các loại hình quan hệ sở hữu ngoài sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Điều
đó tạo ra sự không phù hợp giữa QHSX tiên tiến với LLSX còn lạc hậu, không đồng đều, đã kìm hãm sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội trong một thời gian dài.
-Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta luôn nhất quán chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần. Đường lối đó là đúng đắn, dựa trên sự nhận thức và vận dụng chính xác qui luật QHSX phù hợp
với trình độ của LLSX. Xuất phát từ trình độ và tính chất của LLSX ở nước ta hiện nay vừa thấp, vừa không
đồng đều nên không thể nóng vội và nhất loạt xây dựng QHSX XHCN dựa trên chế độ công hữu về TLSX.
Việc thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo đường lối đổi mới đã khơi dậy tiềm năng, thúc đẩy sản xuất
phát triển. Tuy nhiên, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần tự nó chứa đựng mâu thuẫn. Vì vậy, để giữ vững
định hướng XHCN trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, việc không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu quả quản lý của nhà nước giữ vai trò quyết định.
7. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG. VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN.
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng: Cơ sở hạ tầng:
-Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội nhất định.
-Cơ sở hạ tầng trong một xã hội cụ thể bao gồm: QHSX thống trị; QHSX tàn dư của xã hội cũ và QHSX
mầm mống của xã hội tương lai; trong đó QHSX thống trị giữ vai trò chủ đạo, chi phối các QHSX khác, nó
quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế xã hội. Kiến trúc thượng tầng:
-Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật... cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã
hội... được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
-Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng nhưng
chúng liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng. Mặt khác, mỗi yếu tố khác nhau
có quan hệ khác nhau với cơ sở hạ tầng.
-Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, trong đó nhà nước đóng vai trò đặc biệt
quan trọng - nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị
mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.
b. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng:
-Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, chúng thống nhất biện chứng với
nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.
-Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ:
+Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của kiến trúc
thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định
+ Cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo. Tuy nhiên, sự thay đổi
của kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp:
>Có yếu tố thay đổi nhanh chóng cùng sự thay đổi của cơ sở hạ tầng.
>Có những yếu tố thay đổi rất chậm.
>Có những yếu tố vẫn được kế thừa trong xã hội mới.
Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:
-Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác
nhau có vai trò không giống nhau.
-Sự tác động của kiến trúc thượng tầng không phải bao giờ cũng tuân theo một xu hướng mà diễn ra theo hai chiều hướng:
+Nếu kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với cơ sở hạ tầng thì thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển.
+Nếu kiến trúc thượng tầng tác động ngược chiều đối với cơ sở hạ tầng thì kìm hãm hay huỷ diệt cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
-Kiến trúc thượng tầng tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế nhưng không làm đảo ngược tiến trình
phát triển khách quan của xã hội.
c. Việc vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT ở nước ta hiện nay:
- Cơ sở hạ tầng kinh tế nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần. Tính chất đan xen, quá độ và kết
cấu của cơ sở kinh tế vừa làm cho nền kinh tế năng động, phong phú song cũng mang tính phức tạp trong quá
trình thực hiện định hướng XHCN. Nó đặt ra nhu cầu khách quan là KTTT cũng phải được đổi mới để đáp
ứng những đòi hỏi của cơ sở kinh tế.
- Không phải cứ nhiều thành phần kinh tế thì nhất thiết phải đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập nhưng rõ
ràng KTTT không thể không đổi mới theo hướng: nâng cao vai trò, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng; từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN; phát huy vai trò độc lập của các tổ
chức chính trị - xã hội…
8. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI LÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ
NHIÊN. VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN
a. Phạm trù hình thái KTXH:
-Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của CNDV lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử
nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ nhất định của LLSX và với một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những QHSX ấy.
-Ba mặt cơ bản của hình thái KTXH có vị trí riêng và thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau:
+LLSX là nền tảng vật chất - kỹ thuật của hình thái KTXH. Sự phát triển của LLSX quyết định sự phát triển,
thay thế nhau của các hình thái KTXH.
+QHSX là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái KTXH có một
QHSX đặc trưng cho nó, đó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Các QHSX tạo thành cơ
sở hạ tầng của xã hội.
+Kiến trúc thượng tầng được hình thành, phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ bảo vệ,
duy trì, phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
b. Sự phát triển của các hình thái KTXH là quá trình lịch sử tự nhiên:
- Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái KTXH nối tiếp nhau. Quá trình đó diễn ra theo các
quy luật khách quan - "sự phát triển của những hình thái KTXH là quá trình lịch sử - tự nhiên".
• Các mặt cơ bản của hình thái KTXH có mối liên hệ biện chứng với nhau tạo thành các quy luật vận động
của lịch sử xã hội loài người. Đó là quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ của LLSX, cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan
đó mà các hình thái KTXH vận động phát triển từ thấp đến cao. Đây là con đường phát triển chung của nhân loại.
• Nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển xã hội là do sự phát triển của LLSX làm thay đổi QHSX, dẫn
đến kiến trúc thượng tầng thay đổi và hình thái kinh tế xã hội mới ra đời.
• Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái KTXH từ thấp đến cao, nhưng có những dân tộc bỏ qua
một hay một số hình thái KTXH nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự
nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
+ Sự phát triển phong phú, nhiều mặt của quá trình lịch sử còn có các thời kì quá độ giữa các hình thái kinh
tế - xã hội, những bước quanh co, thụt lùi của quá trình lịch sử -
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra bằng con đường phát
triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua một hoặc vài hình thái KTXH nào đó trong những điều kiện nhất định.
Vậy hiểu thế nào là bỏ qua?
Quá trình lịch sử tự nhiên này là quá trình phổ biến, tất yếu đối với lịch sử nhân loại nói chung. Tức là xét
về toàn bộ, lịch sử nhân loại nhất định phải trải qua lần lượt các hình thái kinh tế - xã hội: CSNT, CHNL, PK,
TBCN và CSCN. Nhưng đối với từng dân tộc riêng biệt thì quá trình đó lại không nhất thiết diễn ra. Trong
thực tế lịch sử có những nước đã bỏ qua một hoặc một số hình thái kinh tế - xã hội để bước thẳng lên hình thái
cao hơn như những nước châu Mĩ đã từ hình thái cộng sản nguyên thủy chuyển thẳng lên hình thái tư bản chủ nghĩa. + Quan điểm của Mác:
Tư tưởng biện chứng khách quan của Mác: Bỏ qua mà là không bỏ qua. -
Xét về thực chất là không bỏ qua. -
Bỏ qua là rút ngắn khoảng cách, thời gian, bằng tăng tốc độ Mác: "Chúng ta không thể nào.... làm dịu bớt con đau đẻ". -
Bỏ qua phải có tiến đề khách quan khi Mác nói về "Sự vận động của công xã nông thôn Nga". + Quan điểm của Lênin:
Bỏ qua vừa bình thường vừa không bình thường:
Bình thường : Hợp qui luật lịch sử từng nước.
Không bình thường: so với tiến trình chung của lịch sử... (Tính hợp qui luật... của sự phát triển đó".
Lênin nêu 3 điều kiện để một nước lạc hậu bỏ qua CNTB lên CNXH:
Đảng của quần chúng vô sản lãnh đạo.
Nhà nuớc dân chủ nhân dân thực sự.
Sự giúp đỡ của các nước XHCN
+ Quan điểm của Đảng ta: "Bỏ qua CNTB lên CNXH
Xuất phát điều kiện nước ta:
+ Năm 1954 Miền Bắc giải phóng đi lên CNXH trong điều kiện có đầy đủ yếu tố khách quan và chủ quan.
+ Hiện nay hệ thống XHCN sụp đổ. Song Đảng ta vẫn kiên định mục tiêu CNXH vì có điều kiện tất yếu
khách quan của cuộc CMKH và công nghệ hiện đại
Quan niệm về sự "bỏ qua“:
+ Khắc phục quan điểm sai lầm: Phủ định sạch trơn CNTB
+ Bỏ qua có kế thừa: kế thừa kết hợp lọc bỏ đó là tính biện chứng trong sự phát triển
Bỏ quan việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN
Kế thừa có chọn lọc những thành tựu, yếu tố của nền văn minh nhân loại.
Không trải qua chế độ TBCN với tất cả những giai đoạn phát triển đầy đủ của nó.
Ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
- Học thuyết HTKT-XH của Mác là nền tảng của CN DVLS thể hiện quan điểm lập trường DVBC trong đời
sống XH chống Duy Tâm tôn giáo, chủ quan, siêu hình trong đời sống xã hội
- Cho ta cơ sở phương pháp luận khoa học xem xét các HTKT-XH và vạch ra quy luật vận động phát triển của nó
- Phân kỳ sự vận động phát triển của lịch sử, phân kỳ chế độ XH
- Cơ sở để nhận thức đường lối xây dựng CNXH, con đường đi lên CNXH trong sự nghiệp đổi mới hiên nay của Đảng ta
9. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC, CÁC KIỂU VÀ CÁC HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC.
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY.
a. Nguồn gốc của nhà nước:
-Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Không phải giai đoạn nào của lịch sử loài người cũng có nhà nước.
Trong xã hội nguyên thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp nên chưa có nhà nước.
-Với sự phát triển của LLSX (công cụ bằng kim loại ra đời) dẫn đến sự xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội
phân chia thành các giai cấp đối kháng. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp đó ngày càng quyết liệt và không thể
điều hoà được. Để thảm hoạ các giai cấp tiêu diệt nhau và tiêu diệt xã hội không diễn ra, nhà nước - một cơ
quan quyền lực đặc biệt đã ra đời.
-Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, tiếp đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản, nhà nước XHCN.
-“Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được”. Như vậy,
nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là từ kinh tế, từ sự phát triển của LLSX; nguồn gốc trực tiếp
về kinh tế - xã hội dẫn đến sự ra đời và tồn tại của nhà nước là chế độ tư hữu và mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được.
b. Bản chất của nhà nước:
-Nhà nước bao giờ cũng mang bản chất giai cấp - "là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một
giai cấp khác"; duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác; là cơ quan quyền lực của một giai
cấp đối với toàn xã hội.
-Nhà nước là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra để hợp pháp hoá, củng cố sự áp bức
của giai cấp thống trị. Không có và không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà nước chung cho mọi giai cấp.
-Nhà nước không phải là lực lượng điều hoà sự xung đột giai cấp mà trái lại, làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt.
-Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Mọi hoạt động
chính trị, văn hoá, xã hội do nhà nước tiến hành đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị. Nhà nước chỉ là
công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
c. Các kiểu và hình thức nhà nước
- Với tư cách một bộ phận của kiến trúc thượng tầng nhà nước bao giờ cũng được xây dựng trên một cơ sở
kinh tế nhất định. Kiểu nhà nước là muốn nói nhà nước đó phục vụ cho cơ sở kinh tế nào, tương ứng với hình
thái kinh tế xã hội nào, là bộ máy thống trị của giai cấp nào.
- Mỗi kiểu nhà nước lại được thể hiện qua những hình thức khác nhau tùy điều kiện kinh tế, chính trị của mỗi
nước. Như vậy, hình thức NN là khái niệm dùng để chỉ cách thức tổ chức và phương thức thực hiện quyền lực
NN (phương thức cầm quyền của NN)
- Trong lịch sử đã tồn tại ba kiểu nhà nước của ba giai cấp thống trị khác nhau là: Nhà nước chiếm hữu nô lệ,
nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản.
+ Nhà nước chiếm hữu nô lệ thực chất là nhà nước của giai cấp chủ nô. Nó có nhiều hình thức phong phú
trong đó có hình thức phổ biến là chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa.
+ Nhà nước phong kiến thực chất là bảo vệ quyền lợi của các chúa đất phong kiến, bảo vệ quyền sở hữu tuyệt
đối của địa chủ với ruộng đất và sở hữu có hạn đối với nông nô.
+ Nhà nước tư sản là chính quyền của giai cấp tư sản. Hình thức điển hình của nhà nước tư sản là chế độ cộng
hòa đại nghị. Bên cạnh đó ở nhiều quốc gia tư sản nhà nước được tổ chức dưới hình thức quân chủ lập hiến.
- Bản chất của NNPQXHCN Việt Nam
Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định – là: “Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo”. Đó là nhà nước thuộc phạm trù nhà nước vô sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Những đặc trưng cơ bản của NN pháp quyền XHCN Việt Nam
+ Thứ nhất, đó là NN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
+ Thứ hai, quyền lực NN là thống nhất, có sự phân công rõ ràng và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan NN
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Thứ ba, NN tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, PL và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị
trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xh.
+ Thứ tư, NN tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa NN
và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
+ Thứ năm, NNPQXHCN Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát
của nhân dân; sự phản biện của xh của Mặt trân Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Như vậy, Sự khác biệt căn bản của NNPQXHCN mà nhân dân ta xây dựng so với NN bóc lột chính là bản
chất giai cấp công nhân, tính dân tộc, tính nhân dân của NN hòa quyện vào nhau
Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay:
Quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:
-Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dwowcis sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của đảng đối với
nhà nước, đảm bảo giữ vững vai trò lãnh đạo của đảng, đồng thời nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý của nhà nước.
-Cải cách tổ chức, phương thức hoạt động của nhà nước theo hướng tinh gọn, hoạt động có hiệu quả.
-Thực hành dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tang cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật; tuyên
truyền, giáo dục nhân dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
-Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực…
-Tiếp tục cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và trong toàn bộ hệ thống chính trị ở mọi
cấp, mọi ngành, từ trung ương đến cơ sở.
10. BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI, Ý NGHĨA PP LUẬN
a. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội: Tồn tại xã hội:
-Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
-Các yếu tố chính của tồn tại xã hội: PTSX vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ
dân số.., trong đó PTSX vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Ý thức xã hội:
-Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những tình
cảm, tâm trạng, truyền thống... của cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội
trong những giai đoạn phát triển nhất định.
-Tuỳ theo góc độ xem xét, người ta có thể phân ý thức xã hội thành các dạng sau: Ý thức xã hội thông
thường và ý thức lý luận, Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội…
b. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
Tồn tại xã hội quyếtđịnhý thứcxã hội:
-Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại
xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là PTSX thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm
về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức... sớm muộn cũng biến đổi theo.
-Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách trực tiếp giản đơn mà thường thông qua các
khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh
rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy
rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội:
-Nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất lâu nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại
dai dẳng (biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội).
-Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau:
+Tồn tại xã hội thường biến đổi nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Mặt khác, ý
thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
+Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như tính bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
+Ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong
xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền
bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
-Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có
thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của con người.
-Những tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội nhưng nó không thoát ly khỏi tồn tại xã hội mà
phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình:
-Những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên
cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của thời đại trước.
-Trong xã hội có giai cấp, những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước:
+Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ.
+Những giai cấp lỗi thời tiếp thu, khôi phục những tư tưởng phản tiến bộ của quá khứ.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng:
-Ở mỗi thời đại, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu và tác
động mạnh đến các hình thái ý thức khác.
-Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng.
Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội:
-Ý thức xã hội phản ánh đúng tồn tại xã hội sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển.
-Ý thức xã hội phản ánh sai tồn tại xã hội sẽ kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội thông qua hoạt động
thực tiễn của con người.
c. Ý nghĩa phương pháp luận:
-Để tìm hiểu một hiện tượng ý thức, tinh thần nào đó đòi hỏi trước hết phải phân tích, tìm hiểu những điều
kiện KT – XH mà hiện tượng ý thức, tư tưởng đó nảy sinh, tồn tại, phát triển.
-Để xây dựng và phát triển nền văn hóa mới, xây dựng ý thức xã hội mới, cần tập trung xây dựng, phá triển
nền kinh tế để tạo dựng cơ sở vật chất cho nó hình thành, phát triển.
-Vì YTXH có tính độc lập tương đối, nó có thể tác động trở lại tồn tại xã hội, do đó cùng với việc xây dựng,
phát triển nền kinh tế thì đồng thời phải xây dựng, phát triển nền văn hóa, xây dựng đời sống tinh thần của
xã hội. Trong quá trình đó cần đấu tranh với những tàn dư tư tưởng lạc hậu, bảo tồn và phát huy các giá trị
truyền thống tích cực, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại.
11. TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI, Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN.
- Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
Ý thức xã hội ra đời từ tồn tại xã hội, nhưng sau khi ra đời nó lại có đời sống riêng, quy luật vận động
riêng, do đó, nó có tính độc lập, nhưng tính độc lập của ý thức xã hội vẫn bị tồn tại xã hội chi phối, vì vậy,
sự độc lập của ý thức xã hội chỉ là tương đối.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những đặc điểm phản ánh của nó với tồn tại xã hội.
(viết phần tính độc lập tương đối của YTXH)
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy,
công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã
hội và ý thức xã hội. Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã
hội; mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu dẫn đến những thay
đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội,
với những điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
- Nghiên cứu vấn đề ý thức xã hội, không được dừng lại ở các hiện tượng ý thức mà phải đi sâu phát hiện
những mâu thuẫn của đời sống xã hội - các cơ sở làm nảy sinh các hiện tượng ý thức.
- Coi trọng lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, phát huy vai trò tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối
với quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai
lầm chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới.
- Vì ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội: Trong công tác lý luận, cần chú ý xây dựng lý luận
khoa học trên cơ sở tổng kết thực tiễn nhằm đảm bảo cho lý luận luôn luôn phản ánh kịp thời, chính xác
những thay đổi trong hiện thực cuộc sống từ đó đảm nhiệm tốt vai trò hướng dẫn, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn.
- Do tính vượt trước ý thức xã hội nên trong hoạt động thực tiễn cần phải phát huy tính năng động sáng tạo,
tính tích cực của ý thức xã hội, phát huy vai trò nhân tố con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Đảng
ta chủ trương: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yêu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững… Khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của con người Việt Nam,
quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu”.
- Do tính kế thừa ý thức xã hội nên khi xây dựng ý thức xã hội mới cần chủ động lựa chọn, kế thừa các giá
trị truyền thống của dân tộc, kế thừa các tinh hoa văn hóa của thời đại, của nhân loại vào công cuộc xây
dựng xã hội mới. Đó chính là quá trình kết hợp cái truyền thống với cái hiện đại, cái dân tộc với cái quốc tế.