Nội dung thực tiễn thực hiện nguyên tắc
PACTA SUNT SERVANDA.
I. Khái quát về nguyên tắc Pacta sunt servanda
1. Khái niệm:
Nguyên tắc Pacta sunt Servanda hay còn gọi nguyên tắc tận tâm, thiện chí
thực hiện cam kết quốc tế được xuất hiện từ rất sớm. "Pacta" nghĩa
thỏa thuận, điều ước cũng như hợp đồng, theo từ ngữ La Tinh. Thiện chí
các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ quốc tế, thực hiện các điều ước
quốc tế phải mục đích tốt đẹp, lợi ích của tất cả các bên tham gia, kết.
Việc thực hiện các cam kết phải trên sở tự nguyện, không chịu sự ép buộc
từ bất yếu tố nào khác. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết
quốc tế được hiểu khi các bên chủ thể trong quan hệ quốc tế tham gia vào
kết các Điều ước quốc tế (ĐƯQT) thì phải dựa trên sở của sự thỏa
thuận tự nguyện, bình đẳng. Đồng thời, khi đã tham gia vào ĐƯQT đó các
quốc gia phải nghĩa vụ tuân thủ nội dung mình đã cam kết.
2. Nguồn gốc:
Trong hệ thống các quy phạm pháp luật của mỗi một ngành hay một hệ thống
pháp luật, đều một số các quy phạm được gọi nguyên tắc của ngành
hay hệ thống pháp luật ấy. Trong luật quốc tế, nguyên tắc bản của ngành
luật này thực hiện hai chức năng quan trọng ổn định quan hệ quốc tế ấn
định khuôn khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ quốc tế, tạo điều kiện
cho quan hệ quốc tế phát triển.
Bảy nguyên tắc của luật quốc tế bao gồm:
(i) Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hoặc sử dụng lực
(ii) Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình
(iii) Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
(iv) Nguyên tắc hợp tác với các quốc gia khác
(v) Nguyên tắc bình đẳng tự quyết của các dân tộc
(vi) Nguyên tắc thiện chí thực hiện các nghĩa vụ
Trong tổng cộng bảy nguyên tắc bản của luật quốc tế, nguyên tắc tận tâm,
thiện chí thực hiện cam kết quốc tế hay n gọi nguyên tắc Pacta sunt
servanda nguyên tắc lịch sử lâu đời nhất được công nhận rộng rãi.
Tiền thân của nguyên tắc này nguyên tắc tuân thủ các điều ước xuất hiện
từ thời La cổ đại tồn tại hàng nghìn năm dưới dạng tập quán pháp
quốc tế trước khi được ghi nhận chính thức. Một trong những nguyên tắc
bản điều chỉnh việc xác lập thực thi các nghĩa vụ pháp lý, bất kể thuộc
nguồn nào, nguyên tắc thiện chí. Sự tin tưởng, tin cậy bản chất của hợp
tác quốc tế, đặc biệt trong thời đại hợp tác trong nhiều lĩnh vực đang
trở thành một phần thiết yếu.
3. sở pháp lý:
Khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc: "Tất cả các thành
viên đều phải thực hiện một cách thiện ý những nghĩa vụ
họ phải đảm nhận theo Hiến chương này, nhằm đảm bảo
hưởng toàn b các quyền ưu đãi do tư cách thành viên có."
Cùng với đó, Điều 26 Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế chỉ
ra rằng: "Mọi điều ước đã hiệu lực đều ng buộc c bên tham gia phải
được các bên thi hành với thiện chí". Ngoài các văn bản trên, nguyên tắc này
còn được ghi nhận một cách chính thức trong Tuyên bố năm 1970 về các
nguyên tắc bản của luật quốc tế. phạm vi áp dụng cho tất cả c nghĩa
vụ pháp quốc tế phát sinh từ tất cả cam kết quốc tế (bao gồm cả điều ước
quốc tế, tập quán quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung hay hành vi pháp
đơn phương).
4. Ý nghĩa của nguyên tắc Pacta sunt servanda:
Với nguyên tắc Pacta sunt servanda tận tâm, thiện chí sẽ đảm bảo việc thực
hiện các cam kết đã kết giữa các quốc gia, đảm bảo được sự tự nguyện
khi tham gia kết điều ước quốc tế hoặc quyết định c điều khoản trong
hiệp ước của mình. đảm bảo trật tự pháp quốc tế. Ngoài ra, đây còn căn
cứ giải quyết tranh chấp quốc tế, khi sự phát sinh hiệu lực của điều
ước quốc tế.
II. Nội dung:
Thứ nhất, c điều ước quốc tế đang hiệu lực đối với các bên kết thì
đều ràng buộc (binding) đối với các n đó, bất kể chính điều ước quốc tế
ghi nhận trong điều khoản về nguyên tắc pacta sunt servanda hay không. Một
điều ước quốc tế đang hiệu lực thì sẽ tạo ra ràng buộc pháp đối với
quốc gia thành viên. Nội dung này tính chất đương nhiên, minh thị,
không thể phủ nhận, cũng không cần thiết chứng minh thêm.
đây, nguyên tắc pacta sunt servanda hai điều kiện để thể áp dụng:
văn kiện liên quan phải điều ước quốc tế đã bắt đầu hiệu lực đối với
quốc gia thành viên. Điều ước "đang hiệu lực" cũng bao gồm cả trường
hợp áp dụng tạm thời điều ước theo Điều 25 của Công ước Viên 1969
(provisional application). Điều ước "đang hiệu lực" bao gồm điều ước chưa
hiệu lực, điều ước bị hiệu, điều ước đã bị đình chỉ thi hành hay hủy
bỏ. Bên cạnh đó, mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ
điều ước quốc tế, tuân thủ một cách triệt để, không do dự không phụ thuộc
vào các sự kiện xảy ra trong nước cũng n quốc tế. Không chó phép các
quốc gia đơn phương ngừng thực hiện xem xét lại điều ước quốc tế. nh
vi này chỉ được thực hiện với phương thức đình ch xem xét hợp pháp
theo sự thỏa thuận của các bên thành viên điều ước.
Thứ hai, các bên kết nghĩa vụ phải thực thi các điều ước đang hiệu
lực một ch thiện chí. Khi điều ước đã bắt đầu hiệu lực ràng buộc, thì các
quốc gia cũng bắt đầu phải thực thi điều ước quốc tế đó, phải thực thi theo
cách thứ thiện chí. Cụ thể mọi chủ thể nghĩa vụ thực hiện tự nguyện
thiện chí các nghĩa vụ quốc tế được xác lập theo pháp luật quốc tế. Các quốc
gia không quyền kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với nghĩa vụ của mình
được quy định theo điều ước quốc tế hiện hành quốc gia kết. Ngoài ra
việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các quốc gia thành
viên của điều ước quốc tế không làm ảnh hưởng đến các quan hệ pháp
phát sinh giữa các quốc gia, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao, quan hệ
lãnh sự đối tượng cho việc thực hiện điều ước quốc tế. c quốc gia
thành viên điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy định của pháp luật
quốc gia để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình.
III. Ngoại lệ:
Khi Điều ước quốc tế nội dung trái với Hiến chương Liên Hiệp Quốc,
nguyên tắc bản của Luật Quốc tế: trong trường hợp xung đột giữa
nghĩa vụ của Thành viên Liên Hợp Quốc theo Hiến chương này nghĩa vụ
theo bất kỳ thỏa thuận quốc tế khác, nghĩa vụ theo Hiến chương này được
ưu tiên áp dụng. Quốc gia không phải thực hiện Điều ước Quốc tế khi một
trong các bên hoặc các bên vi phạm quy định của pháp luật quốc gia về thẩm
quyền thủ tục kết điều ước quốc tế. Khi một thành viên không thực hiện
nghĩa vụ điều ước của mình thì một trong c thành viên khác quyền từ
chối thực hiện nghĩa vụ. Quốc gia quyền từ chối thực hiện điều ước quốc
tế khi sự thay đổi bản của hoàn cảnh (Rebus sis Stantibus).
IV. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Pacta sunt servanda
Các quốc gia nghĩa vụ thực hiện các điều ước đã kết một cách tận tâm,
thiện chí như đối với vụ Philippines kiện Trung Quốc. Trung Quốc thi hành
chính sách ba không: không công nhận thẩm quyền của Tòa, không tham gia,
không chấp nhận thi hành phán quyết. Nhưng một thành viên Hiến chương
Liên Hợp Quốc, Công ước viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế
UNCLOS, Trung Quốc nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các quy định
của Công ước, trong đó nghĩa vụ thực thi phán quyết của Tòa Trọng tài
(theo nguyên tắc Pacta Sunt Servanda - tận tâm, thiện chí thực hiện các cam
kết quốc tế). Là chủ thể của luật quốc tế, Trung Quốc nghĩa vụ tuân thủ
các nguyên tắc bản của luật pháp quốc tế - những tưởng chính trị, pháp
mang tính chỉ đạo, bao trùm, giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với
mọi chủ thể luật quốc tế, một trong những nguyên tắc quan trọng của luật
pháp quốc tế nguyên tắc Pacta sunt servanda. Khoản 2 Điều 2 Hiến
chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 hay Điều 26 Công ước Viên năm 1969 về
Luật Điều ước quốc tế chỉ ra rằng: "Mọi điều ước đã hiệu lực đều ràng
buộc các bên tham gia phải được các bên thi nh với thiện chí". Nguyên
tắc này n được ghi nhận một cách chính thức trong Tuyên bố năm 1970 về
các nguyên tắc bản của luật quốc tế. Trong khi đó, Trung Quốc bên
kết phê chuẩn UNCLOS nghĩa họ đồng ý với toàn bộ Công ước,
trong đó những phần điều khoản liên quan đến giải quyết tranh chấp.
Philipines đã căn cứ vào mục giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước
để đưa các vấn đề ra Tòa. Tòa Trọng tài được thành lập theo đúng quy định
phụ lục VII của Công ước. Công ước cũng quy định thủ tục thành lập
Tòa quy trình xét xử nếu một bên trực tiếp liên quan không tham gia
trên thực tế, Tòa trọng tài vụ kiện Philippines - Trung Quốc đã được thành lập
tiến hành xem xét các nội dung theo đúng các quy trình này. vậy, khi
phán quyết được ban hành, một thành viên của UNCLOS, Trung Quốc
nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các quy định của Công ước, trong đó
nghĩa vụ thực thi phán quyết của Tòa Trọng tài. Ngoài ra, Trung Quốc từng
tuyên bố rút khỏi UNCLOS nhưng cũng sẽ không làm mất đi nghĩa vụ của họ
phải thực hiện theo phán quyết của Tòa Trọng tài do không nh hưởng đến
giá trị pháp của phán quyết.
Như vậy, các nguyên tắc bản của Luật quốc tế căn cứ pháp để giải
quyết các tranh chấp quốc tế, các nguyên tắc bản của Luật quốc tế
thường được viện dẫn trong hệ thống các quan của Luật quốc tế. Trong
đó, nguyên tắc pacta sunt servanda ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi lẽ
trong quan hệ quốc tế không tồn tại bộ máy hoàn toàn thực hiện chức năng
cưỡng chế tuân thủ quy phạm pháp luật quốc tế, việc thực hiện phụ
thuộc trước hết chủ yếu vào thiện chí tính tự giác của các bên chủ thể.

Preview text:

Nội dung và thực tiễn thực hiện nguyên tắc PACTA SUNT SERVANDA.
I. Khái quát về nguyên tắc Pacta sunt servanda 1. Khái niệm:
Nguyên tắc Pacta sunt Servanda hay còn gọi là nguyên tắc tận tâm, thiện chí
thực hiện cam kết quốc tế được xuất hiện từ rất sớm. "Pacta" có nghĩa là
thỏa thuận, điều ước cũng như hợp đồng, theo từ ngữ La Tinh. Thiện chí
các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ quốc tế, thực hiện các điều ước
quốc tế phải vì mục đích tốt đẹp, vì lợi ích của tất cả các bên tham gia, kí kết.
Việc thực hiện các cam kết phải trên cơ sở tự nguyện, không chịu sự ép buộc
từ bất kì yếu tố nào khác. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết
quốc tế được hiểu là khi các bên chủ thể trong quan hệ quốc tế tham gia vào
ký kết các Điều ước quốc tế (ĐƯQT) thì phải dựa trên cơ sở của sự thỏa
thuận và tự nguyện, bình đẳng. Đồng thời, khi đã tham gia vào ĐƯQT đó các
quốc gia phải có nghĩa vụ tuân thủ nội dung mà mình đã cam kết. 2. Nguồn gốc:
Trong hệ thống các quy phạm pháp luật của mỗi một ngành hay một hệ thống
pháp luật, đều có một số các quy phạm được gọi là nguyên tắc của ngành
hay hệ thống pháp luật ấy. Trong luật quốc tế, nguyên tắc cơ bản của ngành
luật này thực hiện hai chức năng quan trọng là ổn định quan hệ quốc tế và ấn
định khuôn khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ quốc tế, tạo điều kiện
cho quan hệ quốc tế phát triển.
Bảy nguyên tắc của luật quốc tế bao gồm:
(i) Nguyên tắc cấm đe dọa sử dụng hoặc sử dụng vũ lực
(i ) Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình
(i i) Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác
(iv) Nguyên tắc hợp tác với các quốc gia khác
(v) Nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc
(vi) Nguyên tắc thiện chí thực hiện các nghĩa vụ
Trong tổng cộng bảy nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, nguyên tắc tận tâm,
thiện chí thực hiện cam kết quốc tế hay còn gọi là nguyên tắc Pacta sunt
servanda là nguyên tắc có lịch sử lâu đời nhất và được công nhận rộng rãi.
Tiền thân của nguyên tắc này là nguyên tắc tuân thủ các điều ước xuất hiện
từ thời La Mã cổ đại và tồn tại hàng nghìn năm dưới dạng tập quán pháp lý
quốc tế trước khi được ghi nhận chính thức. Một trong những nguyên tắc cơ
bản điều chỉnh việc xác lập và thực thi các nghĩa vụ pháp lý, bất kể thuộc
nguồn nào, là nguyên tắc thiện chí. Sự tin tưởng, tin cậy là bản chất của hợp
tác quốc tế, đặc biệt là trong thời đại mà hợp tác trong nhiều lĩnh vực đang
trở thành một phần thiết yếu. 3. Cơ sở pháp lý:
Khoản 2 Điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc: "Tất cả các thành
viên đều phải thực hiện một cách có thiện ý những nghĩa vụ mà
họ phải đảm nhận theo Hiến chương này, nhằm đảm bảo
hưởng toàn bộ các quyền và ưu đãi do tư cách thành viên có."
Cùng với đó, Điều 26 Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế chỉ
ra rằng: "Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia và phải
được các bên thi hành với thiện chí". Ngoài các văn bản trên, nguyên tắc này
còn được ghi nhận một cách chính thức trong Tuyên bố năm 1970 về các
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Có phạm vi áp dụng cho tất cả các nghĩa
vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ tất cả cam kết quốc tế (bao gồm cả điều ước
quốc tế, tập quán quốc tế, các nguyên tắc pháp luật chung hay hành vi pháp lý đơn phương).
4. Ý nghĩa của nguyên tắc Pacta sunt servanda:
Với nguyên tắc Pacta sunt servanda tận tâm, thiện chí sẽ đảm bảo việc thực
hiện các cam kết đã ký kết giữa các quốc gia, đảm bảo được sự tự nguyện
khi tham gia ký kết điều ước quốc tế hoặc quyết định các điều khoản trong
hiệp ước của mình. đảm bảo trật tự pháp lý quốc tế. Ngoài ra, đây còn là căn
cứ giải quyết tranh chấp quốc tế, khi có sự phát sinh và có hiệu lực của điều ước quốc tế. II. Nội dung:
Thứ nhất, các điều ước quốc tế đang có hiệu lực đối với các bên ký kết thì
đều ràng buộc (binding) đối với các bên đó, bất kể chính điều ước quốc tế có
ghi nhận trong điều khoản về nguyên tắc pacta sunt servanda hay không. Một
điều ước quốc tế đang có hiệu lực thì sẽ tạo ra ràng buộc pháp lý đối với
quốc gia thành viên. Nội dung này có tính chất đương nhiên, minh thị, và
không thể phủ nhận, và cũng không cần thiết chứng minh thêm.
Ở đây, nguyên tắc pacta sunt servanda có hai điều kiện để có thể áp dụng:
văn kiện liên quan phải là điều ước quốc tế và đã bắt đầu có hiệu lực đối với
quốc gia thành viên. Điều ước "đang có hiệu lực" cũng bao gồm cả trường
hợp áp dụng tạm thời điều ước theo Điều 25 của Công ước Viên 1969
(provisional application). Điều ước "đang có hiệu lực" bao gồm điều ước chưa
có hiệu lực, điều ước bị vô hiệu, và điều ước đã bị đình chỉ thi hành hay hủy
bỏ. Bên cạnh đó, mọi quốc gia phải tuyệt đối tuân thủ việc thực hiện nghĩa vụ
điều ước quốc tế, tuân thủ một cách triệt để, không do dự và không phụ thuộc
vào các sự kiện xảy ra trong nước cũng như quốc tế. Không chó phép các
quốc gia đơn phương ngừng thực hiện và xem xét lại điều ước quốc tế. Hành
vi này chỉ được thực hiện với phương thức đình chỉ và xem xét hợp pháp
theo sự thỏa thuận của các bên là thành viên điều ước.
Thứ hai, các bên ký kết có nghĩa vụ phải thực thi các điều ước đang có hiệu
lực một cách thiện chí. Khi điều ước đã bắt đầu có hiệu lực ràng buộc, thì các
quốc gia cũng bắt đầu phải thực thi điều ước quốc tế đó, và phải thực thi theo
cách thứ thiện chí. Cụ thể mọi chủ thể có nghĩa vụ thực hiện tự nguyện và có
thiện chí các nghĩa vụ quốc tế được xác lập theo pháp luật quốc tế. Các quốc
gia không có quyền kí kết điều ước quốc tế mâu thuẫn với nghĩa vụ của mình
được quy định theo điều ước quốc tế hiện hành mà quốc gia kí kết. Ngoài ra
việc cắt đứt quan hệ ngoại giao hay quan hệ lãnh sự giữa các quốc gia thành
viên của điều ước quốc tế không làm ảnh hưởng đến các quan hệ pháp lý
phát sinh giữa các quốc gia, trừ trường hợp các quan hệ ngoại giao, quan hệ
lãnh sự là đối tượng cho việc thực hiện điều ước quốc tế. Và các quốc gia
thành viên điều ước quốc tế không được viện dẫn các quy định của pháp luật
quốc gia để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình. III. Ngoại lệ:
Khi Điều ước quốc tế có nội dung trái với Hiến chương Liên Hiệp Quốc,
nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế: trong trường hợp có xung đột giữa
nghĩa vụ của Thành viên Liên Hợp Quốc theo Hiến chương này và nghĩa vụ
theo bất kỳ thỏa thuận quốc tế khác, nghĩa vụ theo Hiến chương này được
ưu tiên áp dụng. Quốc gia không phải thực hiện Điều ước Quốc tế khi một
trong các bên hoặc các bên vi phạm quy định của pháp luật quốc gia về thẩm
quyền và thủ tục kí kết điều ước quốc tế. Khi một thành viên không thực hiện
nghĩa vụ điều ước của mình thì một trong các thành viên khác có quyền từ
chối thực hiện nghĩa vụ. Quốc gia có quyền từ chối thực hiện điều ước quốc
tế khi có sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh (Rebus sis Stantibus).
IV. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Pacta sunt servanda
Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện các điều ước đã kí kết một cách tận tâm,
thiện chí như đối với vụ Philippines kiện Trung Quốc. Trung Quốc thi hành
chính sách ba không: không công nhận thẩm quyền của Tòa, không tham gia,
không chấp nhận thi hành phán quyết. Nhưng là một thành viên Hiến chương
Liên Hợp Quốc, Công ước viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế và
UNCLOS, Trung Quốc có nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các quy định
của Công ước, trong đó có nghĩa vụ thực thi phán quyết của Tòa Trọng tài
(theo nguyên tắc Pacta Sunt Servanda - tận tâm, thiện chí thực hiện các cam
kết quốc tế). Là chủ thể của luật quốc tế, Trung Quốc có nghĩa vụ tuân thủ
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế - những tư tưởng chính trị, pháp
lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với
mọi chủ thể luật quốc tế, mà một trong những nguyên tắc quan trọng của luật
pháp quốc tế là nguyên tắc Pacta sunt servanda. Khoản 2 Điều 2 Hiến
chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 hay Điều 26 Công ước Viên năm 1969 về
Luật Điều ước quốc tế chỉ ra rằng: "Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng
buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành với thiện chí". Nguyên
tắc này còn được ghi nhận một cách chính thức trong Tuyên bố năm 1970 về
các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Trong khi đó, Trung Quốc là bên ký
kết và phê chuẩn UNCLOS có nghĩa là họ đồng ý với toàn bộ Công ước,
trong đó có những phần và điều khoản liên quan đến giải quyết tranh chấp.
Philipines đã căn cứ vào mục giải quyết tranh chấp bắt buộc của Công ước
để đưa các vấn đề ra Tòa. Tòa Trọng tài được thành lập theo đúng quy định
ở phụ lục VII của Công ước. Công ước cũng quy định rõ thủ tục thành lập
Tòa và quy trình xét xử nếu một bên trực tiếp liên quan không tham gia và
trên thực tế, Tòa trọng tài vụ kiện Philippines - Trung Quốc đã được thành lập
và tiến hành xem xét các nội dung theo đúng các quy trình này. Vì vậy, khi
phán quyết được ban hành, là một thành viên của UNCLOS, Trung Quốc có
nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các quy định của Công ước, trong đó có
nghĩa vụ thực thi phán quyết của Tòa Trọng tài. Ngoài ra, Trung Quốc từng
tuyên bố rút khỏi UNCLOS nhưng cũng sẽ không làm mất đi nghĩa vụ của họ
phải thực hiện theo phán quyết của Tòa Trọng tài do không ảnh hưởng đến
giá trị pháp lý của phán quyết.
Như vậy, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là căn cứ pháp lý để giải
quyết các tranh chấp quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
thường được viện dẫn trong hệ thống các cơ quan của Luật quốc tế. Trong
đó, nguyên tắc pacta sunt servanda có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bởi lẽ
trong quan hệ quốc tế không tồn tại bộ máy hoàn toàn thực hiện chức năng
cưỡng chế tuân thủ quy phạm pháp luật quốc tế, mà việc thực hiện nó phụ
thuộc trước hết và chủ yếu vào thiện chí và tính tự giác của các bên chủ thể.
Document Outline

  • Nội dung và thực tiễn thực hiện nguyên tắc PACTA S
    • I. Khái quát về nguyên tắc Pacta sunt servanda
    • 1. Khái niệm:
    • 2. Nguồn gốc:
    • 3. Cơ sở pháp lý:
    • 4. Ý nghĩa của nguyên tắc Pacta sunt servanda: