lOMoARcPSD| 61716358
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
I. LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái quát về Luật Hình sự
1.1. Khái niệm Luật Hình sự
Luật Hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm hệ thống
các quy phạm pháp luật quy định về tội phạm, hình phạt và một số vấn đề liên quan đến tội
phạm, hình phạt. Nội dung cơ bản của Luật hình sự được chia làm hai phần. Luật Hình sự
Phần chung quy định vnhững điều khoản cơ bản, hiệu lực của BLHS, tội phạm, hình phạt,
quyết định hình phạt, biện pháp pháp, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự,
các biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự, xóa án tích, trách nhiệm hình sự của người
dưới 18 tuổi phạm tội trách nhiệm nh sự của pháp nhân thương mại phạm tội. Luật
Hình sự Phần các tội phạm quy định về từng tội phạm cụ thể và khung hình phạt tương ứng
với mỗi tội phạm ấy.
Nhiệm vụ của Luật Hình sự là bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo
vệ chế độ hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng
giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật,
chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa
đấu tranh chống tội phạm. BLHS quy định về tội phạm hình phạt (Điều 1 BLHS
2015).
1.2. Đặc điểm của Luật Hình sự
Với cách một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật Hình sự
một số đặc điểm riêng thể hiện thông qua đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh
của Luật Hình sự.
Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là quan hệ hội phát sinh giữa Nhà nước và
người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm.
Khi có một tội phạm xảy ra, đó có thể là sự kiện pháp lý làm phát sinh nhiều quan hệ pháp
luật khác nhau như quan hệ pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, lao động,… Trong đó,
chỉ những quan hệ pháp luật phát sinh giữa Nhà nước người phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội liên quan đến việc họ thực hiện tội phạm mới là quan hệ pháp luật hình sự.
Quan hệ pháp luật hình sự, với tư cách đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự, luôn
có hai chủ thể: (i) Nhà nước; (ii) người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội. Mỗi chủ
thể có quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau khi tham gia vào quan hệ pháp luật nh sự.
lOMoARcPSD| 61716358
Trong đó, Nhà nước là người bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội và lợi ích của
giai cấp thống trị nên Nhà nước có quyền điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội, áp dụng
các biện pháp cưỡng chế hình sự đối với người phạm tội. Nhà nước ủy quyền cho các Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự nhân danh mình tham gia
vào quan hệ pháp luật hình sự. Người phạm tội là người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và năng lực TNHS; pháp nhân thương mại
phải chịu trách nhiệm hình sự khi đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 75 BLHS
2015. Người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội có nghĩa vụ tuân thủ các biện pháp
cưỡng chế của nhà nước; có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng chế
tài trong giới hạn luật định, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của mình. Quyền của Nhà
nước là nghĩa vụ của người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội và ngược lại. Quan
hệ pháp luật hình sự quan hệ hội bất bình đẳng. Ngưi phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội không có quyền từ chối hay thỏa thuận với Nhà nước về loại mức hình
phạt được áp dụng đối với mình. Người phạm tội và bị hại không có quyển thỏa thuận với
nhau về trách nhiệm nh sự của người phạm tội. Tính chất của quan hệ pháp luật hình sự
quyết định phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự.
Thứ hai, về phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự
Phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự phương pháp quyền uy, thể hiện việc
nhà nước sử dụng quyền lực của mình để điều chỉnh quan hệ pháp luật hình sự. Trong đó,
nhà nước chủ thể (chủ yếu) quyền người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm
tội là chủ thể (chủ yếu) có nghĩa vụ.
Việc nhà nước sử dụng phương pháp quyền uy để điều chỉnh quan hệ pháp luật hình
sự xuất phát từ quan hệ bất bình đẳng giữa Nhà nước với người phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội. Nhà nước, với cách người bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của hội
đã thực hiện quyền “tự vệ” của hội trước hành vi phạm tội đi ngược với lợi ích chung
của hội. Phương pháp quyền uy trong Luật Hình sự thể hiện qua việc Nhà nước chủ
thể trực tiếp quyền buộc người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà họ đã gây ra trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trước Nhà
nước về tội phạm họ đã thực hiện; đồng thời, họ không thể ủy thác hay chuyển giao
trách nhiệm hình sự của mình cho người khác; họ cũng không quyền thoả thuận với Nhà
nước hoặc với bị hại về trách nhiệm hình sự của mình. Đây là điểm khác biệt giữa phương
pháp điều chỉnh của Luật hình sự so với Luật dân sự và một số ngành luật khác.
2. Một số nội dung cơ bản của Luật Hình sự
lOMoARcPSD| 61716358
2.1. Tội phạm
2.1.1. Định nghĩa, đặc điểm và phân loại tội phạm Thứ
nhất, định nghĩa tội phạm.
Điều 8 BLHS 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS, do người năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc ý, xâm phạm độc lập, chquyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con
người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Thứ hai, đặc điểm của tội phạm.
Định nghĩa về tội phạm trong Điều 8 BLHS 2015 đã nêu ra một số đặc điểm của tội
phạm.
Tội phạm hành vi nguy hiểm cho hội. nh vi nguy hiểm cho xã hội hành vi
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho xã hội. Tính nguy hiểm chohội của
tội phạm căn cứ để nhà làm luật bổ sung hay xóa bỏ một tội phạm, tăng hay giảm hình
phạt đối với một hành vi phạm tội được quy định trong BLHS. a án căn cứ vào tính nguy
hiểm cho hội của hành vi phạm tội để áp dụng hình phạt các biện pháp cưỡng chế
khác đối với người phạm tội. Các căn cứ đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội gồm: Tính chất của quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm
xâm hại; Tính chất của hành vi khách quan, trong đó bao hàm cả phương pháp, thủ đoạn,
công cụ, phương tiện phạm tội; Tính chất mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
hoặc đe dọa gây ra; Hoàn cảnh kinh tế, chính trị, hội lúc nơi tội phạm xảy ra; Tính
chất mức độ lỗi; động cơ, mục đích phạm tội; Nhân thân người phạm tội; Các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác.
Tội phạm phải được quy định trong BLHS. Điều 2 BLHS 2015 quy định: “1. Chỉ
người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Chỉ
pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới
phải chịu trách nhiệm hình sự”. Các văn bản quy phạm phạm luật khác (các thông liên
tịch, nghị quyết, công văn…) thể giải thích, hướng dẫn áp dụng các quy định về tội phạm
hình phạt trong BLHS nhưng không thể sửa đổi, bổ sung hoặc xbỏ các quy định về
tội phạm và hình phạt trong BLHS.
Tội phạm phải do người năng lực trách nhiệm hình sự và lỗi thực hiện. Người
có năng lực trách nhiệm hình sự là người có khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi của
lOMoARcPSD| 61716358
mình khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nếu một người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không năng lực trách nhiệm
hình sự nên không có lỗi, không phạm tội và không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều
21 BLHS 2015). Ngoài ra, người phạm tội phải có lỗi cố ý hoặc vô ý khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho hội. Nếu một người không lỗi khi gây thiệt hại lớn cho hội (như
sự kiện bất ngờ – Điều 20 BLHS 2015) sẽ không bị coi là tội phạm.
Tội phạm là hành vi theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự. Khi quy định một
hành vi nguy hiểm cho hội tội phạm trong BLHS, đồng thời nhà làm luật quy định
hình phạt đối với tội phạm đó. Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt, BLHS quy định
người phạm tội có thể được miễn hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự nên không phải chịu
hình phạt. Định nghĩa về tội phạm trong Điều 8 BLHS 2015 chỉ quy định người phạm tội
phải bị xử hình sự (BLHS quy định về hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn nh
phạt) không quy định người phạm tội phải chịu hình phạt hoặc trên thực tế phải bị xử
lý hình sự.
Thứ ba, phân loại tội phạm
Phân loại tội phạm phân chia các tội phạm được quy định trong BLHS thành các
nhóm (loại) khác nhau dựa trên các căn cứ nhất định. Tùy theo mục đích khác nhau mà tội
phạm có thể được phân chia thành các các nhóm khác nhau, dựa trên các căn cứ phân loại
khác nhau. Trong BLHS cũng như trong khoa học pháp hình sự có nhiều căn cứ phân
loại tội phạm như: căn cứ vào hình thức lỗi; căn cứ vào đặc điểm đặc biệt của chủ thể của
tội phạm; căn cứ độ vào tuổi của chủ thể; căn cứ vào giới tính; căn cứ vào nh vi phạm
tội được phát hiện; căn cứ vào hình thức thể hiện của hành vi phạm tội; căn cứ vào khách
thể loại của tội phạm và căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội.
Trong những căn cứ phân loại nêu trên, căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng các quy định của
BLHS BLTTHS. Điều 9 BLHS 2015 quy định căn cứ vào tính chất mức độ nguy
hiểm cho hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành
bốn loại sau đây:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là phạt
tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
lOMoARcPSD| 61716358
- Tội phạm nghiêm trọng tội phạm tính chất mức độ nguy hiểm cho hội
lớn mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy từ trên 03
năm đến 07 năm tù;
- Tội phạm rất nghiêm trọng tội phạm tính chất mức độ nguy hiểm cho
hội rất lớn mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy từ
trên 07 năm đến 15 năm tù;
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy
là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
dụ: Khoản 1 Điều 171 BLHS 2015 quy định: “Người o cướp giật tài sản của
người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 9
BLHS 2015, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS 2015 nêu trên tội phạm
nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm tù.
2.1.2. Cấu thành tội phạm và yếu tố cấu thành tội phạm
Trong thực tế, hành vi phạm tội diễn ra rất đa dạng và phong phú. Mỗi hành vi phạm
tội được thực hiện bởi một chủ thể nhân thân khác nhau, trong không gian, thời gian,
hoàn cảnh phạm tội với các công cụ, phương tiện, phương pháp thực hiện tội phạm khác
nhau… Tuy nhiên, nhà làm luật phải khái quát được những dấu hiệu chung nhất, đặc trưng
cho một loại tội phạm cụ thể vào trong BLHS. Tổng hợp những dấu hiệu đó được gọi
cấu thành tội phạm.
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho một
loại tội phạm cụ thể được quy định trong Luật Hình sự. Tất cả các tội phạm đều được tạo
nên bởi các yếu tố nhất định - gọi là các yếu tố cấu thành tội phạm. Khoa học luật nh sự
chia cấu thành tội phạm thành 4 yếu tố gồm: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của
tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chquan của tội phạm. Tuy nhiên, nội dung cụ thể của
từng yếu tố cấu thành tội phạm trong mỗi tội danh sẽ khác nhau. Chính sự khác biệt này
cho phép chúng ta thể định tội danh đối với hành vi phạm tội, phân biệt tội phạm y
với tội phạm khác.
Khách thể của tội phạm những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Trong số các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, chỉ quan hệ xã hội nào
quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại phát triển của xã hội mới được luật hình sbảo
vệ. Khi hành vi xâm hại quan hệ hội được luật hình sự bảo vệ thì quan hệ hội đó
được coi là khách thể của tội phạm. Hành vi phạm tội, muốn xâm hại đến khách thể của tội
phạm thì phải tác động lên đối tượng tác động của tội phạm. Đối ợng c động của tội
lOMoARcPSD| 61716358
phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến để gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội.
dụ: Luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu của mọi tổ chức, nhân. Khi A (20 tuổi)
trộm cắp xe máy trị giá 30 triệu đồng của B thì hành vi này của A đã xâm phạm đến khách
thể của tội phạm là quyền sở hữu của B đối với xe máy đó và đối tượng tác động của hành
vi trộm cắp tài sản này là xe máy mà A đã trộm cắp.
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên
ngoài thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm gồm hành vi
phạm tội, hậu quả của tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả
của tội phạm, các dấu hiệu bên ngoài khác của tội phạm như công cụ phạm tội, thời gian,
địa điểm, hoàn cảnh phạm tội…
Hành vi phạm tội là những xử sự của con người thể hiện ra bên ngoài thế giới khách
quan dưới hình thức nhất định, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội. Luật
hình sự chỉ điều chỉnh hành vi của con người, không điều chỉnh suy nghĩ của con người
nên tội phạm phải được thể hiện dưới dạng hành vi (hành động hoặc không hành động
phạm tội). Hành vi khách quan của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành tội
phạm.
Hậu quả của tội phạm những thiệt hại cho hội do hành vi phạm tội gây ra. Có
một số cấu thành tội phạm, nhà làm luật quy định hậu quả là dấu hiệu định tội danh. dụ:
tội ý làm chết người (Điều 128 BLHS 2015) dấu hiệu luật định gây hậu quả chết
người; nếu hành vi vi phạm các quy tắc an toàn trong cuộc sống mà chưa gây ra hậu quả
chết người thì không phạm tội này. một số cấu thành tội phạm nhà làm luật quy định
hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội, hành vi phạm tội chưa gây ra hậu quả
vẫn bị coi là tội phạm. Ví dụ: tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, mặc dù chưa gây
ra bất kỳ thiệt hại nào về thể chất, tinh thần hay vật chất cho nạn nhân nhưng vẫn có thể bị
coi là tội phạm.
Chủ thể của tội phạm là nhân phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội.
nhân phạm tội phải không thuộc trường hợp không năng lực trách nhiệm hình sự theo
quy định tại Điều 21 BLHS 2015 đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại
Điều 12 BLHS 2015.
Điều 12 BLHS 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
lOMoARcPSD| 61716358
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134,
141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265,
266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
BLHS 2015 bổ sung pháp nhân thương mại thể trở thành chủ thể của một số tội
phạm được quy định tại Điều 76 BLHS 2015. Theo quy định này, pháp nhân thương mại
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi đủ các điều kiện sau đây: a) Hành vi phạm tội
được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; b) Hành vi phạm tội được thực hiện
lợi ích của pháp nhân thương mại; c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều
hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 BLHS 2015.
- Mặt chủ quan của tội phạm là trạng thái tâm lý của người phạm tội đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện và hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc
đối với khả năng gây ra hậu quả đó. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm bao
gồm lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.
Lỗi thái độ m của một người đối với hành vi nguy hiểm cho hội của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Có 4 hình thức lỗi cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp,
vô ý do quá tự tin và vô ý do cẩu thả (Điều 10 và Điều 11 BLHS 2015). Lỗi là dấu hiệu bắt
buộc trong mọi cấu thành tội phạm. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nếu
không có lỗi thì không phạm tội.
Lỗi cố ý trực tiếp trường hợp người phạm tội nhận thức hành vi của mình nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố
ý gián tiếp trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Lỗi vô ý do quá tự tin là trường hợp người phạm tội
tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng
hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Lỗi vô ý do cẩu thảtrường hợp
người phạm tội không thấy trước hành vi của mình thể gây ra hậu quả nguy hại cho
hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Động phạm tội động lực thôi thúc người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội
của mình với lỗi cố ý. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm
tội đặt ra mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Phần lớn các tội phạm
trong BLHS, dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội không có ý nghĩa trong việc định tội
danh.
lOMoARcPSD| 61716358
Tất cả các tội phạm đều phải đầy đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm nêu trên, hợp
thành một thể thống nhất mà thiếu một trong các yếu tố đó thì không có tội phạm.
1.2.3. Một số chế định liên quan đến việc thực hiện tội phạm Thứ
nhất, các giai đoạn thực hiện tội phạm.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm các bước trong quá trình cố ý thực hiện tội phạm,
bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Chuẩn bị phạm tội
là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện
tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia
nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, Điểm a Khoản 2 Điều 113 hoặc Điểm a Khoản 2
Điều 299 của BLHS 2015 (Điều 14 BLHS 2015). Phạm tội chưa đạt cố ý thực hiện tội
phạm nhưng không thực hiện được đến cùng những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội (Điều 15 BLHS 2015). Tội phạm hoàn thành khi hành vi phạm tội thỏa
mãn hết các dấu hiệu pháp được tả trong cấu thành tội phạm. Trong mỗi giai đoạn
phạm tội, hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm cho hội khác nhau nên mức độ trách
nhiệm nh sự của người phạm tội khác nhau. Trong đó, chỉ những người chuẩn bị phạm
tội theo quy định tại Khoản 2 Khoản 3 Điều 14 mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành trong mọi trường hợp đều phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Ví dụ: A tìm mua trên mạng một khẩu súng K54 và 10 viên đạn để chuẩn bị cho việc
cướp tài sản tại tiệm vàng của B. A đã mua được súng nhưng chưa thực hiện hành vi cướp
tài sản thì bị phát hiện bắt giữ. Như vậy, hành vi mua bán trái phép khí quân dụng
(Điều 304 BLHS 2015) của A đã thực hiện xong và hành vi này ở giai đoạn tội phạm hoàn
thành. A mới thực hiện được hành vi chuẩn bị công cụ phạm tội (mua súng) để thực hiện
tội ớp tài sản (chưa thực hiện hành vi cướp tài sản) nên được coi là phạm tội cướp tài sản
ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Thứ hai, đồng phạm.
Điều 17 BLHS 2015 quy định: “Đồng phạm là trường hợp hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm”. Căn cứ vào hành vi tham gia vào việc phạm tội, BLHS 2015
phân loại người đồng phạm thành người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người
giúp sức. Người thực hành người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức người
chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ
dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức người tạo điều kiện tinh
thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Người đồng phạm không phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.
lOMoARcPSD| 61716358
dụ: A, B, C những thanh niên nghiện ma túy, từ 18 đến 23 tuổi. Do không
tiền để mua ma túy nên A lên kế hoạch cho cả nhóm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của
nhà chị M. Tưởng cả gia đình chị M cuối tuần về quê nên A phân công B vào nhà chM
lấy trộm xe máy trị giá 70 triệu đồng, C ngoài cổng để cảnh báo nếu bị hàng xóm phát
hiện. Khi B vào trong nhà chị M thì phát hiện chị M đang ở trong bếp, B định bỏ chạy thì
bị chị M túm được và tri hô nên B nhặt con dao đâm chị M tử vong. Như vậy, trong vụ án
này, A, B, C là đồng phạm với nhau về tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS 2015), trong
đó A người tổ chức, C là người giúp sức, B là người thực hành. Bên cạnh đó, B đã thực
hiện hành vi vượt quá so với thỏa thuận ban đầu của những người phạm tội âm chết chị
M) nên chỉ B phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người.
Thứ ba, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là những trường hợp chủ thể có hành
vi gây thiệt hại đáng kcho hội nhưng không đủ yếu tố cấu thành tội phạm người
gây thiệt hại đó không phải chịu trách nhiệm hình sự. BLHS 2015 quy định về những
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự tại Chương IV, gồm 7 trường hợp: Sự kiện bất ngờ
(Điều 20), Tình trạng không năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21), Phòng vệ chính
đáng (Điều 22), Tình thế cấp thiết (Điều 23), Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm
tội (Điều 24), Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật
công nghệ (Điều 25), Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26).
Trong số những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trên, có một số trường hợp thường
áp dụng gồm:
Tình trạng không năng lực trách nhiệm nh sự tình trạng của người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Người không có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi được quy định trong BLHS thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự (Điều 21 BLHS 2015).
Phòng vệ chính đáng hành vi của người bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng
của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của quan, tổ chức chống trả
lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính
đáng không phải tội phạm. Tuy nhiên, người gây thiệt hại cho hội do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS (Điều
22 BLHS 2015).
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là hành vi của người để bắt giữ người
thực hiện hành vi phạm tội không còn ch nào khác buộc phải sử dụng vũ lực cần
lOMoARcPSD| 61716358
thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ. Người gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm
tội thì không phải tội phạm nên không pahỉ chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp gây
thiệt hại do sử dụng vũ lực ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu
trách nhiệm hình sự (Điều 24 BLHS 2015).
2.2. Hình phạt
2.2.1. Định nghĩa, mục đích, hệ thống hình phạt và quyết định hình phạt
Điều 30 BLHS 2015 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người
hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,
pháp nhân thương mại đó”. Như vậy, hình phạt 4 đặc điểm: (i) hình phạt biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước; (ii) hình phạt được quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật duy nhất BLHS; (iii) chỉ Tòa án mới có thẩm quyền quyết định áp
dụng hình phạt; (iv) hình phạt chỉ được áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại
phạm tội.
Khi quy định áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại
phạm tội, Nhà nước không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà
còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ
phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm (Điều 31 BLHS 2015 quy định về mục đích của hình phạt).
BLHS 2015 quy định về hai hệ thống hình phạt áp dụng đối với nhân và pháp nhân
thương mại phạm tội. Trong mỗi hệ thống hình phạt này đều hình phạt chính hình
phạt bổ sung. Điều 32 BLHS 2015 quy định 7 hình phạt chính 7 hình phạt bổ sung áp
dụng đối với người phạm tội. Các hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo
không giam giữ; trục xuất; thời hạn; chung thân; tử hình. Các hình phạt bổ sung
bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm
trú; quản chế; tước một số quyền ng n; tịch thu tài sản; phạt tiền và trục xuất khi không
áp dụng là hình phạt chính. Trong đó, hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, chỉ
áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm
phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham
nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định. Đồng thời
BLHS 2015 cũng quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi
phạm tội, phụ nữ thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi
trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.
lOMoARcPSD| 61716358
Điều 33 BLHS 2015 quy định các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
bao gồm 3 hình phạt chính và 3 hình phạt bổ sung. Hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền;
Đình chhoạt động thời hạn; Đình chỉ hoạt động nh viễn. Hình phạt bổ sung bao gồm:
Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt
tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình
tiết giảm nhẹ tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội,
pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính thể bị áp dụng
một hoặc một số hình phạt bổ sung.
2.2.2 Các biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự, hình phạt và xóa án tích
Điều 8 BLHS 2015 quy định một trong các đặc điểm của tội phạm phải bị xử
hình sự theo quy định của BLHS. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phạm tội
các tình tiết đáng được khoan hồng đặc biệt, BLHS quy định các biện pháp miễn, giảm
trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với người phạm tội. Miễn, giảm trách nhiệm hình sự là
các biện pháp có tính khoan hồng của Nhà nước được quy định trong BLHS thể hiện bằng
việc miễn, giảm sự tác động cưỡng chế thuộc nội dung của trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội do các quan nhà nước thẩm quyền
áp dụng trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự và thực hiện trách nhiệm hình sự của
người phạm tội. Các biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự hình phạt gồm: miễn
trách nhiệm hình sự; miễn hình phạt; án treo; miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình
phạt đã tuyên; tha trước thời hạn điều kiện; hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù.
Xóa án tích là việc công nhận một người coi như chưa bị kết án sau khi học đã chấp
hành xong bản án, trải qua một thời hạn nhất định hội đủ các điều kiện luật định. Tùy
thuộc vào hình phạt, loại tội phạm và độ tuổi của người phạm tội khác nhau mà BLHS quy
định thời hạn các điều kiện để xóa án tích khác nhau. Theo quy định của BLHS 2015,
có một số trường hợp người phạm tội bị kết án nhưng không có án tích.
2.3. Một số tội phạm cụ thể
2.3.1. Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015)
Giết người là hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác trái pháp luật.
Tội giết người xâm phạm quyền sống của con người đối tượng tác động cơ
thể của người khác, đang sống.
lOMoARcPSD| 61716358
Hành vi khách quan của tội giết người hành vi tước bỏ tính mạng của người khác
trái pháp luật. Hành vi này thường được thực hiện ới dạng hành động phạm tội (đâm,
chém, bắn, bóp cổ...). Trong trường hợp đặc biệt hành vi giết người có thể được thực hiện
dưới dạng không hành động phạm tội (người mẹ bỏ mặc một đứa trẻ 1 tháng tuổi, không
cho ăn uống, không chăm sóc làm cho đứa trẻ chết). Tội giết người hoàn thành khi có hậu
quả chết người và hậu quả này có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội.
Người phạm tội có lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi giết người, họ mong muốn hậu quả
chết người xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Chủ thể của tội giết người nhân, người có năng lực trách nhiệm hình sự đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 123 BLHS 2015 quy định hình phạt đối với người phạm tội giết người phạt
tù từ 07 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
2.3.2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 134
Bộ luật hình sự 2015)
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác hành vi cố ý
tác động trái phép đến thân thể người khác gây thương tích hoặc gây thiệt hại cho sức khoẻ
của họ với tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp luật định.
Tội ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có khách thể trực
tiếp là quyền được bảo vệ về sức khoẻ của con người. Đối tượng tác động của tội phạm này
là cơ thể của người khác, đang sống.
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi tác động trái phép lên thể người
khác gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khoẻ cho họ với tỉ lệ tổn thương cơ thể từ
11% trở lên; hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây: ng hung k
nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; đối với trẻ em, phụ
nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với
ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, giáo của mình; có tổ chức; trong thời
gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào sở giáo dục;
thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; tính chất n đồ hoặc tái phạm nguy
hiểm; để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Người phạm tội lỗi cố ý, khi thực hiện nh vi mong muốn hoặc để mặc cho nạn
nhân bị thương tích hoặc bị tổn hại cho sức khoẻ. Động cơ và mục đích không phải là dấu
hiệu định tội.
lOMoARcPSD| 61716358
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
Điều 134 quy định hình phạt đối với người phạm tội cố ý y thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau: cải tạo không giam gitừ 06 tháng đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm hoặc tù chung thân.
2.3.3. Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015)
Trộm cắp tài sản hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2
triệu đồng trở lên hoặc tài sản trị giá dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau đây: (i) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm; (ii) đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169,
170, 171, 172, 174, 175 290 của BLHS 2015, chưa được xóa án tích còn vi phạm;
(iii) gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (iv) tài sản là phương tiện kiếm
sống chính của người bị hại và gia đình họ; (v) tài sản là di vật, cổ vật.
Hành vi trộm cắp tài sản xâm phạm quyền sở hữu của tổ chức, nhân khác. Đối
tượng tác động của tội phạm tài sản trị giá từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu
đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp luật định.
Trộm cắp tài sản nh vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác thành tài sản của
mình. Khi thực hiện tội phạm, người phạm tội ý thức che giấu hành vi phạm tội của
mình, tránh sự phát hiện của người đang quản lý tài sản.
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản nhân, năng lực trách nhiệm hình sự đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội trộm cắp tài sản lỗi cố ý trực tiếp. Động mục đích không
phải là dấu hiệu định tội.
Điều 173 BLHS 2015 quy định người phạm tội trộm cắp tài sản có thể bị phạt cải tạo
không giam giữ từ 06 tháng đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm.
2.3.4. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260 Bộ luật Hình sự
2015)
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi của người tham gia
giao thông đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại
cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Làm chết người; b) Gây thương
tích hoặc y tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; c)
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên tổng tỷ lệ tổn
thương thể của những người này từ 61% trở lên; d) Gây thiệt hại về tài sản từ
100.000.000 đồng trở lên.
lOMoARcPSD| 61716358
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ xâm phạm an toàn giao thông
đường bộ.
Hành vi phạm tội hành vi tham gia giao thông đường bộ vi phạm quy định về
an toàn giao thông đường bộ. Người tham gia giao thông thể người đi bộ hoặc điều
khiển các phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Căn cứ xác định hành vi vi phạm quy
định về an toàn giao thông đường bộ Luật giao thông đường bộ các văn bản hướng
dẫn thi thành Luật giao thông đường bộ.
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ cấu thành vật chất nên
hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ chỉ phạm tội nếu gây thiệt hại
cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây: m chết người; gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người tỷ lệ tổn thương thể 61% trở lên; gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên tổng tỷ lệ tổn thương
thể của những người này từ 61% trở lên; hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000
đồng trở lên.
Người phạm tội có lỗi vô ý.
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
2.3.5. Tội đua xe trái phép (Điều 266 Bộ luật Hình sự 2015)
Tội đua xe trái phép hành vi của người đua trái phép xe ô tô, xe máy hoặc các loại
xe khác gắn động gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau
đây hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính vhành vi quy định tại Điều này hoặc Điều 265
BLHS 2015 (tội tổ chức đua xe trái phép) hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xóa án tích còn vi phạm: gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01
người tỷ lệ tổn thương thể từ 31% trở n; gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng
trở lên hoặc làm chết người.
Tội đua xe trái phép xâm phạm an toàn giao thông đường bộ.
Người phạm tội hành vi đua trái phép các loại xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe
khác gắn động cơ. Hành vi đua trái phép xe đạp hoặc xe xích lô, xe ngựa (các loại xe
không sử dụng động cơ) không cấu thành tội đua xe trái phép mà có thể phạm tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Người có hành vi đua xe trái phép cấu thành tội phạm khi:
- Gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây: gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở
lOMoARcPSD| 61716358
lên; gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng trở lên hoặc làm chết người. Trong trường
hợp này, người phạm tội có lỗi vô ý.
- Hoặc chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại chưa đủ định lượng nêu trên nhưng đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đua xe trái phép, tổ chức đua xe trái phép hoặc
đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép),
Điều 266 (tội đua xe trái phép) của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Trong trường hợp này, người phạm tội có lỗi cố ý.
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
II. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái quát về Luật Tố tụng hình sự
1.1. Khái niệm về Luật Tố tụng hình sự
Luật TTHS một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước CHXHCN Việt Nam,
bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ hội phát sinh trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các quy phạm pháp luật TTHS được quy định trong
BLTTHS, Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình
sự, Luật thi hành án hình sự… Các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự này điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng với nhau; giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành ttụng với người tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự và thi hành án hình sự.
Điều 2 BLTTHS 2015 quy định nhiệm vụ của BLTTHS bảo đảm phát hiện chính
xác và xử công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
không đlọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
1.2. Đặc điểm của luật tố tụng hình sự
Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật TTHS có đối
tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng hình sự
Đối tượng điều chỉnh của Luật TTHS là quan hệ pháp luật TTHS. Quan hệ pháp luật
TTHS là những quan hệ xã hội phát sinh, thay đổi, chấm dứt trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự được các quy phạm pháp luật TTHS điều chỉnh. Như vậy, đối tượng điều chỉnh
lOMoARcPSD| 61716358
của Luật TTHS là những quan hệ xã hội phát sinh, thay đổi, chấm dứt trong quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Giống như các quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật TTHS được hợp bởi các b
phận: chủ thể, khách thể nội dung của quan hệ pháp luật TTHS. Chủ thể của quan hệ
pháp luật TTHS những cơ quan, tổ chức, cá nhân khả năng tham gia vào quan hệ pháp
luật TTHS, có quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật TTHS. Chủ thể của
quan hệ pháp luật TTHS gồm quan thẩm quyền tiến hành tố tụng, người thẩm
quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Khách thể của quan hệ pháp luật TTHS
những lợi ích các chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS mong muốn đạt được khi tham
gia vào quan hệ pháp luật TTHS nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Nội dung của
quan hệ pháp luật TTHS là những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật TTHS. BLTTHS 2015 quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của từng chủ
thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS (từ Điều 34 đến Điều 84 của BLTTHS 2015).
Phương pháp điều chỉnh của Luật Tố tụng hình sự
Phương pháp điều chỉnh của Luật TTHS ch thức Luật TTHS sử dụng để tác
động vào các quan hệ pháp luật TTHS, ớng chúng theo một trật tự nhất định phù hợp
với ý chí của Nhà nước. Luật TTHS sử dụng hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp
quyền uy phương pháp phối hợp chế ước. Trong đó, phương pháp quyền uy dùng để
điều chỉnh quan hệ pháp luật TTHS phát sinh giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự; Phương pháp phối hợp - chế ước dùng để điều chỉnh mối
quan hệ pháp luật TTHS phát sinh giữa các quan thẩm quyền tiến hành tố tụng
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với nhau.
2. Một số nội dung cơ bản của Luật Tố tụng hình sự
2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự
Chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS gồm quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Cơ quan thẩm quyền tiến nh tố tụng gồm cơ quan tiến hành tố tụng và quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Điều 34 BLTTHS 2015 quy định
quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm: Các quan của Bộ đội biên phòng;
Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng
lOMoARcPSD| 61716358
Cảnh sát biển; Các quan của Kiểm ngư; Các quan của Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 35 BLTTHS 2015).
Cơ quan điều tra có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Tiếp nhận hồ sơ ván do cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động Điều tra chuyển giao; Tiến hành Điều tra các tội phạm, áp
dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm người thực hiện hành
vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; Tìm ra nguyên nhân, Điều kiện phạm tội và yêu cầu
các quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục ngăn ngừa (Điều 8 Luật
Tổ chức cơ quan Điều tra hình sự 2015).
VKSND quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động pháp của ớc
CHXHCN Việt Nam. VKSND nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
lợi ích hợp pháp của tổ chức, nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất (Điều 2, Luật Tổ chức VKSND 2014).
TAND quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền pháp.
Trong lĩnh vực hình sự, Tòa án nhân danh nước CHXHCN Việt Nam xét xử các vụ án hình
sự theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng
cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết
định việc tội hoặc không tội, áp dụng hoặc không áp dụng nh phạt, biện pháp
pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Bản án, quyết định của
TAND hiệu lực pháp luật phải được quan, tổ chức, nhân tôn trọng; quan, t
chức, nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ
án hình sự, Tòa án có quyền: (i) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình
chỉ vụ án; (ii) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do quan
điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác cung cấp; (iii) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu
Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa
án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của BLTTHS; (iv) Yêu
cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan
đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; (v) Ra
quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của BLTTHS. TAND là cơ quan
lOMoARcPSD| 61716358
thẩm quyền ra quyết định thi hành bản án hình sự, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt, xóa án tích…; thực
hiện các quyền hạn khác theo quy định của BLHS, Luật Thi hành án hình sự (Điều 2, Luật
Tổ chức TAND 2014).
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm người tiến hành tố tụng và người được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Khoản 2 Điều 34 BLTTHS 2015 quy
định người tiến hành tố tụng gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Cán bộ điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm t viên, Kiểm
tra viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, ThưTòa án, Thẩm tra
viên. Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không phải người
tiến hành tố tụng, họ không làm việc trong các cơ quan tiến hành tố tụng nhưng trong quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, pháp luật quy định họ có nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
được quy định trong Điều 35 BLTTHS 2015.
Người tham gia tố tụng là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tố tụng theo
quy định của BLTTHS. Điều 55 BLTTHS 2015 quy định người tham gia tố tụng gồm: (i)
người tham gia tố tụng quyền và lợi ích pháp lý trong vụ án (người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp; người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; bị hại; nguyên đơn dân sự; bị
đơn dân sự; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác); (ii) người tham gia tố tụng để bảo v
quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác (người bào chữa; người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự; người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị tố
giác, bị kiến nghị khởi tố); (iii) người tham gia tố tụng để góp phần xác định sự thật vụ án
(người làm chứng; người chứng kiến; người giám định; người định giá tài sản; người phiên
dịch, người dịch thuật).
2.2. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự
Điều 86 BLTTHS 2015 quy định: “Chứng cứnhững gì có thật, được thu thập theo
trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có
hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội những tình tiết khác ý nghĩa trong
việc giải quyết vụ án”. Mọi chứng cứ trong vụ án hình sự đều phải có đầy đủ 3 thuộc tính:
tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp.
Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là những gì thật, tồn
tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người.
lOMoARcPSD| 61716358
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện mối liên hệ giữa chứng cứ với những vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án. Những tình tiết, tài liệu hay đồ vật phải nhằm xác định
một vấn đề nào đó thuộc về đối tượng chứng minh thì mới có thể được coi là chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện chỗ những tình tiết, tài liệu hay đồ vật được
coi là chứng cứ phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng quy định của pháp luật và
phải được xác định từ các nguồn của chứng cứ do luật định.
Chứng minh trong TTHS là hoạt động tố tụng của chủ thể theo quy định của pháp luật
TTHS trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ án hình sự.
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự tổng hợp những nội dung cần phải được
xác định và làm sáng tỏ trong quá trình chứng minh nhằm tìm ra sự thật để giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 85 BLTTHS 2015, những vấn đề cần chứng
minh trong vụ án hình sự gồm: hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm
các tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai người thực hiện hành vi phạm tội; lỗi
hay không, cố ý hay ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; động cơ, mục đích
phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị can, bị
cáo; tính chất mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân điều kiện
phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Chủ thể chứng minh là các cá nhân, cơ quan, tổ chức mà theo quy định của pháp
luật TTHS, chủ thể đó có quyền hoặc có nghĩa vụ làm sáng tỏ những nội dung, tình tiết
thuộc về đối tượng chứng minh của vụ án hình sự. Trong TTHS, nghĩa vụ chứng minh
thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; bị can, bị cáo có quyền chứng minh nhưng không
có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội.
Quá trình chứng minh các bước nối tiếp nhau theo một trình tự, thủ tục do pháp
luật TTHS quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền hoặc có trách nhiệm thực hiện
để thu thập, kiểm tra đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Quá trình chứng minh bao gồm ba bước: thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá
chứng cứ.
2.3. Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự
Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp ỡng chế do pháp luật TTHS quy định,
được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố hình sự nhằm kịp thời ngăn
chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, hoặc có
những hành động gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
lOMoARcPSD| 61716358
Điều 109 BLTTHS 2015 quy định các biện pháp ngăn chặn như: gingười trong trường
hợp khẩn cấp, bắt (bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả
tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn
độ), tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi trú, tạm hoãn
xuất cảnh.
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong ttụng hình sự mang tính lựa chọn.
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với một số đối tượng nhất định khi thấy thực sự cần thiết như: nhằm kịp thời ngăn chặn
những hành vi nguy hiểm cho hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, hoặc những
hành động gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Nếu việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn không nhằm các mục đích nêu trên thì không cần thiết áp
dụng các biện pháp ngăn chặn này.
Biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, theo nghĩa rộng, bao gồm các biện pháp
ngăn chặn các biện pháp khác. Theo nghĩa hẹp, biện pháp cưỡng chế trong TTHS biện
pháp ảnh hưởng một số quyền con người, quyền công dân do người thẩm quyền áp dụng
đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, người bị hại, người làm
chứng. Các biện pháp cưỡng chế trong TTHS gồm áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong
tỏa tài khoản.
2.4. Các giai đoạn của tố tụng hình sự
Các giai đoạn tố tụng hình sự là các ớc nối tiếp nhau của quá trình giải quyết vụ án
hình sự mỗi giai đoạn nhiệm vụ riêng, chủ thể, hành vi, quyết định tố tụng
đặc thù và được thực hiện trong một thời hạn nhất định. Khoa học luật TTHS chia các giai
đoạn tố tụng hình sự thành: giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử thẩm vụ án hình sự, giai đoạn xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự và giai đoạn xét xử đặc biệt (xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật).
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự một giai đoạn độc lập, mở đầu quá trình giải quyết án hình
sự. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ việc tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc
phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một quyết định khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án hình sự. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, quan thẩm quyền tiến hành tố
tụng được quyền tiến hành một số biện pháp điều tra như khám nghiệm hiện trường, lấy
lời khai của người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm, người bị hại, người bị tạm giữ… để xác

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61716358
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
I. LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái quát về Luật Hình sự

1.1. Khái niệm Luật Hình sự
Luật Hình sự là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm hệ thống
các quy phạm pháp luật quy định về tội phạm, hình phạt và một số vấn đề liên quan đến tội
phạm, hình phạt. Nội dung cơ bản của Luật hình sự được chia làm hai phần. Luật Hình sự
Phần chung quy định về những điều khoản cơ bản, hiệu lực của BLHS, tội phạm, hình phạt,
quyết định hình phạt, biện pháp tư pháp, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự,
các biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự, xóa án tích, trách nhiệm hình sự của người
dưới 18 tuổi phạm tội và trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm tội. Luật
Hình sự Phần các tội phạm quy định về từng tội phạm cụ thể và khung hình phạt tương ứng
với mỗi tội phạm ấy.
Nhiệm vụ của Luật Hình sự là bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng
giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật,
chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm. BLHS quy định về tội phạm và hình phạt (Điều 1 BLHS 2015).
1.2. Đặc điểm của Luật Hình sự
Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật Hình sự có
một số đặc điểm riêng thể hiện thông qua đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự.
Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự
Đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự là quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và
người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi các chủ thể này thực hiện tội phạm.
Khi có một tội phạm xảy ra, đó có thể là sự kiện pháp lý làm phát sinh nhiều quan hệ pháp
luật khác nhau như quan hệ pháp luật hình sự, hành chính, dân sự, lao động,… Trong đó,
chỉ những quan hệ pháp luật phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội liên quan đến việc họ thực hiện tội phạm mới là quan hệ pháp luật hình sự.
Quan hệ pháp luật hình sự, với tư cách là đối tượng điều chỉnh của Luật Hình sự, luôn
có hai chủ thể: (i) Nhà nước; (ii) người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội. Mỗi chủ
thể có quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau khi tham gia vào quan hệ pháp luật hình sự. lOMoAR cPSD| 61716358
Trong đó, Nhà nước là người bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của toàn xã hội và lợi ích của
giai cấp thống trị nên Nhà nước có quyền điều tra, truy tố, xét xử người phạm tội, áp dụng
các biện pháp cưỡng chế hình sự đối với người phạm tội. Nhà nước ủy quyền cho các Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự nhân danh mình tham gia
vào quan hệ pháp luật hình sự. Người phạm tội là người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp
luật hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực TNHS; pháp nhân thương mại
phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 75 BLHS
2015. Người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội có nghĩa vụ tuân thủ các biện pháp
cưỡng chế của nhà nước; có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng chế
tài trong giới hạn luật định, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Quyền của Nhà
nước là nghĩa vụ của người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội và ngược lại. Quan
hệ pháp luật hình sự là quan hệ xã hội bất bình đẳng. Người phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội không có quyền từ chối hay thỏa thuận với Nhà nước về loại và mức hình
phạt được áp dụng đối với mình. Người phạm tội và bị hại không có quyển thỏa thuận với
nhau về trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Tính chất của quan hệ pháp luật hình sự
quyết định phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự.
Thứ hai, về phương pháp điều chỉnh của Luật Hình sự
Phương pháp điều chỉnh của Luật hình sự là phương pháp quyền uy, thể hiện ở việc
nhà nước sử dụng quyền lực của mình để điều chỉnh quan hệ pháp luật hình sự. Trong đó,
nhà nước là chủ thể (chủ yếu) có quyền và người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm
tội là chủ thể (chủ yếu) có nghĩa vụ.
Việc nhà nước sử dụng phương pháp quyền uy để điều chỉnh quan hệ pháp luật hình
sự xuất phát từ quan hệ bất bình đẳng giữa Nhà nước với người phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội. Nhà nước, với tư cách là người bảo vệ pháp luật, bảo vệ lợi ích của xã hội
đã thực hiện quyền “tự vệ” của xã hội trước hành vi phạm tội đi ngược với lợi ích chung
của xã hội. Phương pháp quyền uy trong Luật Hình sự thể hiện qua việc Nhà nước là chủ
thể trực tiếp có quyền buộc người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà họ đã gây ra trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự trước Nhà
nước về tội phạm mà họ đã thực hiện; đồng thời, họ không thể ủy thác hay chuyển giao
trách nhiệm hình sự của mình cho người khác; họ cũng không có quyền thoả thuận với Nhà
nước hoặc với bị hại về trách nhiệm hình sự của mình. Đây là điểm khác biệt giữa phương
pháp điều chỉnh của Luật hình sự so với Luật dân sự và một số ngành luật khác.
2. Một số nội dung cơ bản của Luật Hình sự lOMoAR cPSD| 61716358
2.1. Tội phạm
2.1.1. Định nghĩa, đặc điểm và phân loại tội phạm Thứ
nhất, định nghĩa tội phạm.
Điều 8 BLHS 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con
người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Thứ hai, đặc điểm của tội phạm.
Định nghĩa về tội phạm trong Điều 8 BLHS 2015 đã nêu ra một số đặc điểm của tội phạm.
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi
gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho xã hội. Tính nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm là căn cứ để nhà làm luật bổ sung hay xóa bỏ một tội phạm, tăng hay giảm hình
phạt đối với một hành vi phạm tội được quy định trong BLHS. Tòa án căn cứ vào tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để áp dụng hình phạt và các biện pháp cưỡng chế
khác đối với người phạm tội. Các căn cứ đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội gồm: Tính chất của quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội phạm
xâm hại; Tính chất của hành vi khách quan, trong đó bao hàm cả phương pháp, thủ đoạn,
công cụ, phương tiện phạm tội; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra
hoặc đe dọa gây ra; Hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội lúc và nơi tội phạm xảy ra; Tính
chất và mức độ lỗi; động cơ, mục đích phạm tội; Nhân thân người phạm tội; Các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác.
Tội phạm phải được quy định trong BLHS. Điều 2 BLHS 2015 quy định: “1. Chỉ
người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. 2. Chỉ
pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới
phải chịu trách nhiệm hình sự”. Các văn bản quy phạm phạm luật khác (các thông tư liên
tịch, nghị quyết, công văn…) có thể giải thích, hướng dẫn áp dụng các quy định về tội phạm
và hình phạt trong BLHS nhưng không thể sửa đổi, bổ sung hoặc xoá bỏ các quy định về
tội phạm và hình phạt trong BLHS.
Tội phạm phải do người có năng lực trách nhiệm hình sự và có lỗi thực hiện. Người
có năng lực trách nhiệm hình sự là người có khả năng nhận thức và điểu khiển hành vi của lOMoAR cPSD| 61716358
mình khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nếu một người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không có năng lực trách nhiệm
hình sự nên không có lỗi, không phạm tội và không phải chịu trách nhiệm hình sự (Điều
21 BLHS 2015). Ngoài ra, người phạm tội phải có lỗi cố ý hoặc vô ý khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội. Nếu một người không có lỗi khi gây thiệt hại lớn cho xã hội (như
sự kiện bất ngờ – Điều 20 BLHS 2015) sẽ không bị coi là tội phạm.
Tội phạm là hành vi theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự. Khi quy định một
hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm trong BLHS, đồng thời nhà làm luật quy định
hình phạt đối với tội phạm đó. Tuy nhiên, có một số trường hợp đặc biệt, BLHS quy định
người phạm tội có thể được miễn hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự nên không phải chịu
hình phạt. Định nghĩa về tội phạm trong Điều 8 BLHS 2015 chỉ quy định người phạm tội
phải bị xử lý hình sự (BLHS quy định về hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt) mà không quy định người phạm tội phải chịu hình phạt hoặc trên thực tế phải bị xử lý hình sự.
Thứ ba, phân loại tội phạm
Phân loại tội phạm là phân chia các tội phạm được quy định trong BLHS thành các
nhóm (loại) khác nhau dựa trên các căn cứ nhất định. Tùy theo mục đích khác nhau mà tội
phạm có thể được phân chia thành các các nhóm khác nhau, dựa trên các căn cứ phân loại
khác nhau. Trong BLHS cũng như trong khoa học pháp lý hình sự có nhiều căn cứ phân
loại tội phạm như: căn cứ vào hình thức lỗi; căn cứ vào đặc điểm đặc biệt của chủ thể của
tội phạm; căn cứ độ vào tuổi của chủ thể; căn cứ vào giới tính; căn cứ vào hành vi phạm
tội được phát hiện; căn cứ vào hình thức thể hiện của hành vi phạm tội; căn cứ vào khách
thể loại của tội phạm và căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Trong những căn cứ phân loại nêu trên, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng các quy định của
BLHS và BLTTHS. Điều 9 BLHS 2015 quy định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau đây:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là phạt
tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; lOMoAR cPSD| 61716358
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù;
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy là từ
trên 07 năm đến 15 năm tù;
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy
là từ trên 15 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Ví dụ: Khoản 1 Điều 171 BLHS 2015 quy định: “Người nào cướp giật tài sản của
người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 9
BLHS 2015, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS 2015 nêu trên là tội phạm
nghiêm trọng vì có mức cao nhất của khung hình phạt là 5 năm tù.
2.1.2. Cấu thành tội phạm và yếu tố cấu thành tội phạm
Trong thực tế, hành vi phạm tội diễn ra rất đa dạng và phong phú. Mỗi hành vi phạm
tội được thực hiện bởi một chủ thể có nhân thân khác nhau, trong không gian, thời gian,
hoàn cảnh phạm tội với các công cụ, phương tiện, phương pháp thực hiện tội phạm khác
nhau… Tuy nhiên, nhà làm luật phải khái quát được những dấu hiệu chung nhất, đặc trưng
cho một loại tội phạm cụ thể vào trong BLHS. Tổng hợp những dấu hiệu đó được gọi là cấu thành tội phạm.
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng cho một
loại tội phạm cụ thể được quy định trong Luật Hình sự. Tất cả các tội phạm đều được tạo
nên bởi các yếu tố nhất định - gọi là các yếu tố cấu thành tội phạm. Khoa học luật hình sự
chia cấu thành tội phạm thành 4 yếu tố gồm: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của
tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Tuy nhiên, nội dung cụ thể của
từng yếu tố cấu thành tội phạm trong mỗi tội danh sẽ khác nhau. Chính sự khác biệt này
cho phép chúng ta có thể định tội danh đối với hành vi phạm tội, phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ và bị tội
phạm xâm hại. Trong số các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, chỉ quan hệ xã hội nào
quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của xã hội mới được luật hình sự bảo
vệ. Khi có hành vi xâm hại quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì quan hệ xã hội đó
được coi là khách thể của tội phạm. Hành vi phạm tội, muốn xâm hại đến khách thể của tội
phạm thì phải tác động lên đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội lOMoAR cPSD| 61716358
phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm bị hành vi phạm tội tác động đến để gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội.
Ví dụ: Luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu của mọi tổ chức, cá nhân. Khi A (20 tuổi)
trộm cắp xe máy trị giá 30 triệu đồng của B thì hành vi này của A đã xâm phạm đến khách
thể của tội phạm là quyền sở hữu của B đối với xe máy đó và đối tượng tác động của hành
vi trộm cắp tài sản này là xe máy mà A đã trộm cắp.
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên
ngoài thế giới khách quan. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm gồm hành vi
phạm tội, hậu quả của tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả
của tội phạm, các dấu hiệu bên ngoài khác của tội phạm như công cụ phạm tội, thời gian,
địa điểm, hoàn cảnh phạm tội…
Hành vi phạm tội là những xử sự của con người thể hiện ra bên ngoài thế giới khách
quan dưới hình thức nhất định, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội. Luật
hình sự chỉ điều chỉnh hành vi của con người, không điều chỉnh suy nghĩ của con người
nên tội phạm phải được thể hiện dưới dạng hành vi (hành động hoặc không hành động
phạm tội). Hành vi khách quan của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu thành tội phạm.
Hậu quả của tội phạm là những thiệt hại cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra. Có
một số cấu thành tội phạm, nhà làm luật quy định hậu quả là dấu hiệu định tội danh. Ví dụ:
tội vô ý làm chết người (Điều 128 BLHS 2015) có dấu hiệu luật định là gây hậu quả chết
người; nếu có hành vi vi phạm các quy tắc an toàn trong cuộc sống mà chưa gây ra hậu quả
chết người thì không phạm tội này. Có một số cấu thành tội phạm nhà làm luật quy định
hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc để định tội, hành vi phạm tội chưa gây ra hậu quả
vẫn bị coi là tội phạm. Ví dụ: tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, mặc dù chưa gây
ra bất kỳ thiệt hại nào về thể chất, tinh thần hay vật chất cho nạn nhân nhưng vẫn có thể bị coi là tội phạm.
Chủ thể của tội phạm là cá nhân phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Cá
nhân phạm tội phải không thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự theo
quy định tại Điều 21 BLHS 2015 và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015.
Điều 12 BLHS 2015 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. lOMoAR cPSD| 61716358
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134,
141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265,
266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”
BLHS 2015 bổ sung pháp nhân thương mại có thể trở thành chủ thể của một số tội
phạm được quy định tại Điều 76 BLHS 2015. Theo quy định này, pháp nhân thương mại
chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Hành vi phạm tội
được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại; b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì
lợi ích của pháp nhân thương mại; c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều
hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại; d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 BLHS 2015.
- Mặt chủ quan của tội phạm là trạng thái tâm lý của người phạm tội đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện và hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc
đối với khả năng gây ra hậu quả đó. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm bao
gồm lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra. Có 4 hình thức lỗi là cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp,
vô ý do quá tự tin và vô ý do cẩu thả (Điều 10 và Điều 11 BLHS 2015). Lỗi là dấu hiệu bắt
buộc trong mọi cấu thành tội phạm. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội, nếu
không có lỗi thì không phạm tội.
Lỗi cố ý trực tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố
ý gián tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn
có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Lỗi vô ý do quá tự tin là trường hợp người phạm tội
tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng
hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp
người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã
hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Động cơ phạm tội là động lực thôi thúc người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội
của mình với lỗi cố ý. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm
tội đặt ra và mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Phần lớn các tội phạm
trong BLHS, dấu hiệu động cơ và mục đích phạm tội không có ý nghĩa trong việc định tội danh. lOMoAR cPSD| 61716358
Tất cả các tội phạm đều phải có đầy đủ 4 yếu tố cấu thành tội phạm nêu trên, hợp
thành một thể thống nhất mà thiếu một trong các yếu tố đó thì không có tội phạm.
1.2.3. Một số chế định liên quan đến việc thực hiện tội phạm Thứ
nhất, các giai đoạn thực hiện tội phạm.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình cố ý thực hiện tội phạm,
bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Chuẩn bị phạm tội
là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện
tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ trường hợp thành lập hoặc tham gia
nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, Điểm a Khoản 2 Điều 113 hoặc Điểm a Khoản 2
Điều 299 của BLHS 2015 (Điều 14 BLHS 2015). Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội
phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của
người phạm tội (Điều 15 BLHS 2015). Tội phạm hoàn thành là khi hành vi phạm tội thỏa
mãn hết các dấu hiệu pháp lý được mô tả trong cấu thành tội phạm. Trong mỗi giai đoạn
phạm tội, hành vi phạm tội có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nên mức độ trách
nhiệm hình sự của người phạm tội khác nhau. Trong đó, chỉ những người chuẩn bị phạm
tội theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 14 mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành trong mọi trường hợp đều phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: A tìm mua trên mạng một khẩu súng K54 và 10 viên đạn để chuẩn bị cho việc
cướp tài sản tại tiệm vàng của B. A đã mua được súng nhưng chưa thực hiện hành vi cướp
tài sản thì bị phát hiện và bắt giữ. Như vậy, hành vi mua bán trái phép vũ khí quân dụng
(Điều 304 BLHS 2015) của A đã thực hiện xong và hành vi này ở giai đoạn tội phạm hoàn
thành. A mới thực hiện được hành vi chuẩn bị công cụ phạm tội (mua súng) để thực hiện
tội cướp tài sản (chưa thực hiện hành vi cướp tài sản) nên được coi là phạm tội cướp tài sản
ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Thứ hai, đồng phạm.
Điều 17 BLHS 2015 quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý
cùng thực hiện một tội phạm”. Căn cứ vào hành vi tham gia vào việc phạm tội, BLHS 2015
phân loại người đồng phạm thành người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người
giúp sức. Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Người tổ chức là người
chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người xúi giục là người kích động, dụ
dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh
thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Người đồng phạm không phải chịu trách
nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành. lOMoAR cPSD| 61716358
Ví dụ: A, B, C là những thanh niên nghiện ma túy, từ 18 đến 23 tuổi. Do không có
tiền để mua ma túy nên A lên kế hoạch cho cả nhóm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của
nhà chị M. Tưởng cả gia đình chị M cuối tuần về quê nên A phân công B vào nhà chị M
lấy trộm xe máy trị giá 70 triệu đồng, C ở ngoài cổng để cảnh báo nếu bị hàng xóm phát
hiện. Khi B vào trong nhà chị M thì phát hiện chị M đang ở trong bếp, B định bỏ chạy thì
bị chị M túm được và tri hô nên B nhặt con dao đâm chị M tử vong. Như vậy, trong vụ án
này, A, B, C là đồng phạm với nhau về tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS 2015), trong
đó A là người tổ chức, C là người giúp sức, B là người thực hành. Bên cạnh đó, B đã thực
hiện hành vi vượt quá so với thỏa thuận ban đầu của những người phạm tội (đâm chết chị
M) nên chỉ B phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi giết người.
Thứ ba, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.
Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là những trường hợp chủ thể có hành
vi gây thiệt hại đáng kể cho xã hội nhưng không đủ yếu tố cấu thành tội phạm và người
gây thiệt hại đó không phải chịu trách nhiệm hình sự. BLHS 2015 quy định về những
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự tại Chương IV, gồm 7 trường hợp: Sự kiện bất ngờ
(Điều 20), Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21), Phòng vệ chính
đáng (Điều 22), Tình thế cấp thiết (Điều 23), Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm
tội (Điều 24), Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và
công nghệ (Điều 25), Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26).
Trong số những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trên, có một số trường hợp thường áp dụng gồm:
Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Người không có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi được quy định trong BLHS thì không phải chịu trách
nhiệm hình sự (Điều 21 BLHS 2015).
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng
của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả
lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính
đáng không phải là tội phạm. Tuy nhiên, người gây thiệt hại cho xã hội do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS (Điều 22 BLHS 2015).
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là hành vi của người để bắt giữ người
thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần lOMoAR cPSD| 61716358
thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ. Người gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm
tội thì không phải là tội phạm nên không pahỉ chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp gây
thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu
trách nhiệm hình sự (Điều 24 BLHS 2015).
2.2. Hình phạt
2.2.1. Định nghĩa, mục đích, hệ thống hình phạt và quyết định hình phạt
Điều 30 BLHS 2015 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người
hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,
pháp nhân thương mại đó”. Như vậy, hình phạt có 4 đặc điểm: (i) hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước; (ii) hình phạt được quy định trong văn bản quy
phạm pháp luật duy nhất là BLHS; (iii) chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền quyết định áp
dụng hình phạt; (iv) hình phạt chỉ được áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội.
Khi quy định và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại
phạm tội, Nhà nước không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà
còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ
phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm (Điều 31 BLHS 2015 quy định về mục đích của hình phạt).
BLHS 2015 quy định về hai hệ thống hình phạt áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân
thương mại phạm tội. Trong mỗi hệ thống hình phạt này đều có hình phạt chính và hình
phạt bổ sung. Điều 32 BLHS 2015 quy định 7 hình phạt chính và 7 hình phạt bổ sung áp
dụng đối với người phạm tội. Các hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo
không giam giữ; trục xuất; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình. Các hình phạt bổ sung
bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư
trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền và trục xuất khi không
áp dụng là hình phạt chính. Trong đó, hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất, chỉ
áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm
phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham
nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định. Đồng thời
BLHS 2015 cũng quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi
phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi
trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. lOMoAR cPSD| 61716358
Điều 33 BLHS 2015 quy định các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội
bao gồm 3 hình phạt chính và 3 hình phạt bổ sung. Hình phạt chính bao gồm: Phạt tiền;
Đình chỉ hoạt động có thời hạn; Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Hình phạt bổ sung bao gồm:
Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt
tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình
tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội,
pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng
một hoặc một số hình phạt bổ sung.
2.2.2 Các biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự, hình phạt và xóa án tích
Điều 8 BLHS 2015 quy định một trong các đặc điểm của tội phạm là phải bị xử lý
hình sự theo quy định của BLHS. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người phạm tội có
các tình tiết đáng được khoan hồng đặc biệt, BLHS quy định các biện pháp miễn, giảm
trách nhiệm hình sự, hình phạt đối với người phạm tội. Miễn, giảm trách nhiệm hình sự là
các biện pháp có tính khoan hồng của Nhà nước được quy định trong BLHS thể hiện bằng
việc miễn, giảm sự tác động cưỡng chế thuộc nội dung của trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
áp dụng trong quá trình truy cứu trách nhiệm hình sự và thực hiện trách nhiệm hình sự của
người phạm tội. Các biện pháp miễn, giảm trách nhiệm hình sự và hình phạt gồm: miễn
trách nhiệm hình sự; miễn hình phạt; án treo; miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình
phạt đã tuyên; tha tù trước thời hạn có điều kiện; hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.
Xóa án tích là việc công nhận một người coi như chưa bị kết án sau khi học đã chấp
hành xong bản án, trải qua một thời hạn nhất định và hội đủ các điều kiện luật định. Tùy
thuộc vào hình phạt, loại tội phạm và độ tuổi của người phạm tội khác nhau mà BLHS quy
định thời hạn và các điều kiện để xóa án tích khác nhau. Theo quy định của BLHS 2015,
có một số trường hợp người phạm tội bị kết án nhưng không có án tích.
2.3. Một số tội phạm cụ thể
2.3.1. Tội giết người (Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015)
Giết người là hành vi cố ý tước bỏ tính mạng của người khác trái pháp luật.
Tội giết người xâm phạm quyền sống của con người và có đối tượng tác động là cơ
thể của người khác, đang sống. lOMoAR cPSD| 61716358
Hành vi khách quan của tội giết người là hành vi tước bỏ tính mạng của người khác
trái pháp luật. Hành vi này thường được thực hiện dưới dạng hành động phạm tội (đâm,
chém, bắn, bóp cổ...). Trong trường hợp đặc biệt hành vi giết người có thể được thực hiện
dưới dạng không hành động phạm tội (người mẹ bỏ mặc một đứa trẻ 1 tháng tuổi, không
cho ăn uống, không chăm sóc làm cho đứa trẻ chết). Tội giết người hoàn thành khi có hậu
quả chết người và hậu quả này có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội.
Người phạm tội có lỗi cố ý. Khi thực hiện hành vi giết người, họ mong muốn hậu quả
chết người xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
Chủ thể của tội giết người là cá nhân, người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 123 BLHS 2015 quy định hình phạt đối với người phạm tội giết người là phạt
tù từ 07 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
2.3.2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 134
Bộ luật hình sự 2015)
Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hành vi cố ý
tác động trái phép đến thân thể người khác gây thương tích hoặc gây thiệt hại cho sức khoẻ
của họ với tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các
trường hợp luật định.
Tội ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có khách thể trực
tiếp là quyền được bảo vệ về sức khoẻ của con người. Đối tượng tác động của tội phạm này
là cơ thể của người khác, đang sống.
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi tác động trái phép lên cơ thể người
khác gây thương tích hoặc gây tổn hại về sức khoẻ cho họ với tỉ lệ tổn thương cơ thể từ
11% trở lên; hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây: dùng hung khí
nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; đối với trẻ em, phụ
nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đối với
ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; có tổ chức; trong thời
gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy
hiểm; để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Người phạm tội có lỗi cố ý, khi thực hiện hành vi mong muốn hoặc để mặc cho nạn
nhân bị thương tích hoặc bị tổn hại cho sức khoẻ. Động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu định tội. lOMoAR cPSD| 61716358
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 134 quy định hình phạt đối với người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau: cải tạo không giam giữ từ 06 tháng đến 03
năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm hoặc tù chung thân.
2.3.3. Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015)
Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có trị giá từ 2
triệu đồng trở lên hoặc tài sản có trị giá dưới 2 triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau đây: (i) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm; (ii) đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169,
170, 171, 172, 174, 175 và 290 của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
(iii) gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; (iv) tài sản là phương tiện kiếm
sống chính của người bị hại và gia đình họ; (v) tài sản là di vật, cổ vật.
Hành vi trộm cắp tài sản xâm phạm quyền sở hữu của tổ chức, cá nhân khác. Đối
tượng tác động của tội phạm là tài sản có trị giá từ 2 triệu đồng trở lên hoặc dưới 2 triệu
đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp luật định.
Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác thành tài sản của
mình. Khi thực hiện tội phạm, người phạm tội có ý thức che giấu hành vi phạm tội của
mình, tránh sự phát hiện của người đang quản lý tài sản.
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là cá nhân, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội trộm cắp tài sản có lỗi cố ý trực tiếp. Động cơ và mục đích không
phải là dấu hiệu định tội.
Điều 173 BLHS 2015 quy định người phạm tội trộm cắp tài sản có thể bị phạt cải tạo
không giam giữ từ 06 tháng đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 20 năm.
2.3.4. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ (Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015)
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi của người tham gia
giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại
cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Làm chết người; b) Gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; c)
Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn
thương cơ thể của những người này từ 61% trở lên; d) Gây thiệt hại về tài sản từ
100.000.000 đồng trở lên. lOMoAR cPSD| 61716358
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ xâm phạm an toàn giao thông đường bộ.
Hành vi phạm tội là hành vi tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về
an toàn giao thông đường bộ. Người tham gia giao thông có thể là người đi bộ hoặc điều
khiển các phương tiện tham gia giao thông đường bộ. Căn cứ xác định hành vi vi phạm quy
định về an toàn giao thông đường bộ là Luật giao thông đường bộ và các văn bản hướng
dẫn thi thành Luật giao thông đường bộ.
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ có cấu thành vật chất nên
hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ chỉ phạm tội nếu gây thiệt hại
cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây: làm chết người; gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương
cơ thể của những người này từ 61% trở lên; hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng trở lên.
Người phạm tội có lỗi vô ý.
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
2.3.5. Tội đua xe trái phép (Điều 266 Bộ luật Hình sự 2015)
Tội đua xe trái phép là hành vi của người đua trái phép xe ô tô, xe máy hoặc các loại
xe khác có gắn động cơ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau
đây hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc Điều 265
BLHS 2015 (tội tổ chức đua xe trái phép) hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm: gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01
người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lên; gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng
trở lên hoặc làm chết người.
Tội đua xe trái phép xâm phạm an toàn giao thông đường bộ.
Người phạm tội có hành vi đua trái phép các loại xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe
khác có gắn động cơ. Hành vi đua trái phép xe đạp hoặc xe xích lô, xe ngựa (các loại xe
không sử dụng động cơ) không cấu thành tội đua xe trái phép mà có thể phạm tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Người có hành vi đua xe trái phép cấu thành tội phạm khi:
- Gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây: gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% trở lOMoAR cPSD| 61716358
lên; gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng trở lên hoặc làm chết người. Trong trường
hợp này, người phạm tội có lỗi vô ý.
- Hoặc chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại chưa đủ định lượng nêu trên nhưng đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đua xe trái phép, tổ chức đua xe trái phép hoặc
đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép),
Điều 266 (tội đua xe trái phép) của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Trong trường hợp này, người phạm tội có lỗi cố ý.
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
II. LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1. Khái quát về Luật Tố tụng hình sự

1.1. Khái niệm về Luật Tố tụng hình sự
Luật TTHS là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước CHXHCN Việt Nam,
bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các quy phạm pháp luật TTHS được quy định trong
BLTTHS, Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình
sự, Luật thi hành án hình sự… Các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự này điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng với nhau; giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử vụ án hình sự và thi hành án hình sự.
Điều 2 BLTTHS 2015 quy định nhiệm vụ của BLTTHS là bảo đảm phát hiện chính
xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
1.2. Đặc điểm của luật tố tụng hình sự
Với tư cách là một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật TTHS có đối
tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Tố tụng hình sự
Đối tượng điều chỉnh của Luật TTHS là quan hệ pháp luật TTHS. Quan hệ pháp luật
TTHS là những quan hệ xã hội phát sinh, thay đổi, chấm dứt trong quá trình giải quyết vụ
án hình sự được các quy phạm pháp luật TTHS điều chỉnh. Như vậy, đối tượng điều chỉnh lOMoAR cPSD| 61716358
của Luật TTHS là những quan hệ xã hội phát sinh, thay đổi, chấm dứt trong quá trình
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Giống như các quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật TTHS được hợp bởi các bộ
phận: chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ pháp luật TTHS. Chủ thể của quan hệ
pháp luật TTHS là những cơ quan, tổ chức, cá nhân có khả năng tham gia vào quan hệ pháp
luật TTHS, có quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật TTHS. Chủ thể của
quan hệ pháp luật TTHS gồm cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Khách thể của quan hệ pháp luật TTHS
là những lợi ích mà các chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS mong muốn đạt được khi tham
gia vào quan hệ pháp luật TTHS nhằm giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Nội dung của
quan hệ pháp luật TTHS là những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật TTHS. BLTTHS 2015 quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của từng chủ
thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS (từ Điều 34 đến Điều 84 của BLTTHS 2015).
Phương pháp điều chỉnh của Luật Tố tụng hình sự
Phương pháp điều chỉnh của Luật TTHS là cách thức mà Luật TTHS sử dụng để tác
động vào các quan hệ pháp luật TTHS, hướng chúng theo một trật tự nhất định phù hợp
với ý chí của Nhà nước. Luật TTHS sử dụng hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp
quyền uy và phương pháp phối hợp – chế ước. Trong đó, phương pháp quyền uy dùng để
điều chỉnh quan hệ pháp luật TTHS phát sinh giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự; Phương pháp phối hợp - chế ước dùng để điều chỉnh mối
quan hệ pháp luật TTHS phát sinh giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với nhau.
2. Một số nội dung cơ bản của Luật Tố tụng hình sự
2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự
Chủ thể của quan hệ pháp luật TTHS gồm cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Điều 34 BLTTHS 2015 quy định
cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm: Các cơ quan của Bộ đội biên phòng;
Các cơ quan của Hải quan; Các cơ quan của Kiểm lâm; Các cơ quan của lực lượng lOMoAR cPSD| 61716358
Cảnh sát biển; Các cơ quan của Kiểm ngư; Các cơ quan của Công an nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 35 BLTTHS 2015).
Cơ quan điều tra có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; Tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động Điều tra chuyển giao; Tiến hành Điều tra các tội phạm, áp
dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người thực hiện hành
vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; Tìm ra nguyên nhân, Điều kiện phạm tội và yêu cầu
các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa (Điều 8 Luật
Tổ chức cơ quan Điều tra hình sự 2015).
VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước
CHXHCN Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất (Điều 2, Luật Tổ chức VKSND 2014).
TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
Trong lĩnh vực hình sự, Tòa án nhân danh nước CHXHCN Việt Nam xét xử các vụ án hình
sự theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng
cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết
định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư
pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Bản án, quyết định của
TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ
án hình sự, Tòa án có quyền: (i) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Luật sư trong quá trình điều tra, truy tố, xét
xử; xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; đình chỉ, tạm đình
chỉ vụ án; (ii) Xem xét, kết luận về tính hợp pháp của các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan
điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; do Luật sư, bị can, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác cung cấp; (iii) Khi xét thấy cần thiết, trả hồ sơ yêu cầu
Viện kiểm sát điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc Tòa
án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của BLTTHS; (iv) Yêu
cầu Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người khác trình bày về các vấn đề có liên quan
đến vụ án tại phiên tòa; khởi tố vụ án hình sự nếu phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm; (v) Ra
quyết định để thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của BLTTHS. TAND là cơ quan lOMoAR cPSD| 61716358
có thẩm quyền ra quyết định thi hành bản án hình sự, hoãn chấp hành hình phạt tù, tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt, xóa án tích…; thực
hiện các quyền hạn khác theo quy định của BLHS, Luật Thi hành án hình sự (Điều 2, Luật Tổ chức TAND 2014).
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm người tiến hành tố tụng và người được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Khoản 2 Điều 34 BLTTHS 2015 quy
định người tiến hành tố tụng gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra
viên, Cán bộ điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, Thẩm tra
viên. Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không phải là người
tiến hành tố tụng, họ không làm việc trong các cơ quan tiến hành tố tụng nhưng trong quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, pháp luật quy định họ có nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra. Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
được quy định trong Điều 35 BLTTHS 2015.
Người tham gia tố tụng là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động tố tụng theo
quy định của BLTTHS. Điều 55 BLTTHS 2015 quy định người tham gia tố tụng gồm: (i)
người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích pháp lý trong vụ án (người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp; người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; bị hại; nguyên đơn dân sự; bị
đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân phạm tội, người đại diện khác); (ii) người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người khác (người bào chữa; người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố
giác, bị kiến nghị khởi tố); (iii) người tham gia tố tụng để góp phần xác định sự thật vụ án
(người làm chứng; người chứng kiến; người giám định; người định giá tài sản; người phiên
dịch, người dịch thuật).
2.2. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự
Điều 86 BLTTHS 2015 quy định: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo
trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có
hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong
việc giải quyết vụ án”. Mọi chứng cứ trong vụ án hình sự đều phải có đầy đủ 3 thuộc tính:
tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp.
Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải là những gì có thật, tồn
tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. lOMoAR cPSD| 61716358
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ giữa chứng cứ với những vấn đề
cần phải chứng minh trong vụ án. Những tình tiết, tài liệu hay đồ vật phải nhằm xác định
một vấn đề nào đó thuộc về đối tượng chứng minh thì mới có thể được coi là chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở chỗ những tình tiết, tài liệu hay đồ vật được
coi là chứng cứ phải được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo đúng quy định của pháp luật và
phải được xác định từ các nguồn của chứng cứ do luật định.
Chứng minh trong TTHS là hoạt động tố tụng của chủ thể theo quy định của pháp luật
TTHS trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ án hình sự.
Đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự là tổng hợp những nội dung cần phải được
xác định và làm sáng tỏ trong quá trình chứng minh nhằm tìm ra sự thật để giải quyết đúng
đắn vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 85 BLTTHS 2015, những vấn đề cần chứng
minh trong vụ án hình sự gồm: có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm
và các tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi
hay không, cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; động cơ, mục đích
phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị can, bị
cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện
phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Chủ thể chứng minh là các cá nhân, cơ quan, tổ chức mà theo quy định của pháp
luật TTHS, chủ thể đó có quyền hoặc có nghĩa vụ làm sáng tỏ những nội dung, tình tiết
thuộc về đối tượng chứng minh của vụ án hình sự. Trong TTHS, nghĩa vụ chứng minh
thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; bị can, bị cáo có quyền chứng minh nhưng không
có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội.
Quá trình chứng minh là các bước nối tiếp nhau theo một trình tự, thủ tục do pháp
luật TTHS quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền hoặc có trách nhiệm thực hiện
để thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Quá trình chứng minh bao gồm ba bước: thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ và đánh giá chứng cứ.
2.3. Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự
Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế do pháp luật TTHS quy định,
được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố hình sự nhằm kịp thời ngăn
chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, hoặc có
những hành động gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. lOMoAR cPSD| 61716358
Điều 109 BLTTHS 2015 quy định các biện pháp ngăn chặn như: giữ người trong trường
hợp khẩn cấp, bắt (bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả
tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người bị yêu cầu dẫn
độ), tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự mang tính lựa chọn. Cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với một số đối tượng nhất định khi thấy thực sự cần thiết như: nhằm kịp thời ngăn chặn
những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, hoặc có những
hành động gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Nếu việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn không nhằm các mục đích nêu trên thì không cần thiết áp
dụng các biện pháp ngăn chặn này.
Biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, theo nghĩa rộng, bao gồm các biện pháp
ngăn chặn và các biện pháp khác. Theo nghĩa hẹp, biện pháp cưỡng chế trong TTHS là biện
pháp ảnh hưởng một số quyền con người, quyền công dân do người có thẩm quyền áp dụng
đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, người bị hại, người làm
chứng. Các biện pháp cưỡng chế trong TTHS gồm áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản.
2.4. Các giai đoạn của tố tụng hình sự
Các giai đoạn tố tụng hình sự là các bước nối tiếp nhau của quá trình giải quyết vụ án
hình sự mà ở mỗi giai đoạn có nhiệm vụ riêng, có chủ thể, có hành vi, quyết định tố tụng
đặc thù và được thực hiện trong một thời hạn nhất định. Khoa học luật TTHS chia các giai
đoạn tố tụng hình sự thành: giai đoạn khởi tố vụ án hình sự; giai đoạn điều tra vụ án hình
sự, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, giai đoạn xét xử phúc thẩm
vụ án hình sự và giai đoạn xét xử đặc biệt (xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật).
Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là một giai đoạn độc lập, mở đầu quá trình giải quyết án hình
sự. Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự bắt đầu từ việc tiếp nhận thông tin về tội phạm hoặc
phát hiện dấu hiệu tội phạm và kết thúc bằng một quyết định khởi tố hoặc không khởi tố
vụ án hình sự. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng được quyền tiến hành một số biện pháp điều tra như khám nghiệm hiện trường, lấy
lời khai của người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm, người bị hại, người bị tạm giữ… để xác