



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077
Đề 1-Tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu 1: Phân tích và vận dụng quan điểm sau đây của Hồ Chí Minh: “Sức có mạnh mới gắng
được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”.
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.160) Bài làm
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã
được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận
dụng và phát triển sáng tạo đạo đức cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin; là sự tiếp thu có
chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại cả phương Đông lẫn
phương Tây mà Người đã tiếp cận được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử
thách vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là nguồn nuôi dưỡng, phát triển con người, là gốc, là nền tảng, là
sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng. Thiếu đạo đức thì không thể thành
người. Bắt nguồn từ chức năng điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người, đạo đức cách
mạng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của con người.
Người nhấn mạnh: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc,
giải phóng cho loài người là một công việc to tát, tự mình không có đạo đức, không có căn bản,
tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì”.
Vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: làm cách
mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng cũng là một
nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới
gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng,
mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang; có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn,
gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước, khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần
gian khổ, chất phác, khiêm tốn, mới lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, lo hoàn thành nhiệm vụ
cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa.
Cán bộ, đảng viên muốn dân tin, dân phục dân theo thì phải có tư cách đạo đức, chứ không phải
viết lên trán 2 chữ cộng sản là xong. Người cho rằng, muôn việc thành hay bại là do cán bộ có
thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Do đó, cán bộ phải lấy đạo đức làm cốt cán. Đạo
đức là chỗ dựa, giúp con người vững vàng vượt qua thử thách. Người nói, có đạo đức cách
mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước, khi gặp thuận
lợi, thành công vẫn giữ tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn.
Ngoài ra, nhấn mạnh đạo đức là gốc nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh không coi nhẹ tài năng,
Người luôn đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa đạo
đức và tài năng, Người khẳng định đạo đức là gốc, nó quyết định sức mạnh tinh thần to lớn của
con người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc. Nhờ đó mà đạo đức góp phần to lớn vào việc quyết
định sự thành bại của cách mạng nước ta. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng
giáo dục, rèn luyện đạo đức cho con người, đặc biệt là cho cán bộ, đảng viên.Đảng cần chăm lOMoAR cPSD| 22014077
lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng, vừa chuyên.
Người thường khuyên rằng: “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo
đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng”.
Đạo đức còn là thước đo lòng cao thượng của con người, mỗi người đều có tài năng khác nhau,
công việc khác nhau, nhưng làm việc lớn hay việc nhỏ, giữ được đạo đức thì là ngừoi cao thượng.
Theo Hồ Chí Minh, Đạo đức còn là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Người
cho rằng sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là lý tưởng cao xa, ở mức sống vật chất
dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết là những giá trị đạo đức cao đẹp, ở
phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động, chiến đấu cho
lý tưởng đó trở thành hiện thực.
Đạo đức cách mạng của chủ nghĩa xã hội đó chính là tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người
vì mình”, nhân dân lao động là người làm chủ tập thể, có quyền và có khả năng xây dựng đời
sống ấm no, hạnh phúc cho mình.
Hồ Chí Minh là một biểu tượng kết tinh tinh hoa hàng ngàn năm của dân tộc, là nhà cộng sản
lỗi lạc, tấm gương đạo đức và nhân cách của Người không chỉ có sức hấp dẫn đối với nhân dân
Việt Nam và thế giới mà còn là nguồn cổ vũ động viên tinh thần to lớn của nhân loại tiến bộ
đang đấu tranh cho hoà bình, độc lập, tiến bộ xã hội. *Vận dụng:
Phát huy vai trò của thanh niên trong tự học tập, tự tu dưỡng đạo đức lối sống là biện pháp quan
trọng giúp họ nhanh chóng tiến bộ, trưởng thành. Đó còn là điều kiện quyết định kết quả rèn
luyện của mỗi cá nhân. Trước hết phải hình thành cho thanh niên nhu cầu, động cơ phấn đấu,
rèn luyện đúng đắn, làm cho mỗi người có ý thức làm chủ, ham học hỏi, cầu tiến bộ, vươn lên
tự khẳng định mình. Cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để thanh niên phấn đấu, rèn luyện; đồng
thời phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả, định hướng phấn đấu cho thanh
niên. Quan tâm đáp ứng những nhu cầu chính đáng của thanh niên về vật chất, tinh thần.
Mỗi thanh niên phải xác định rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, sống có lý tưởng, có
hoài bão, khát khao vươn tới cái mới, cái tiến bộ, “không phải là hỏi nước nhà đã cho mình
những gì. Mà phải tự hỏi mình đã làm gì cho nước nhà?”
Trong học tập, rèn luyện phải kết hợp giữa lý luận với thực hành, học tập với lao động;bồi
dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên
phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó;
người có tài mà không có đức sẽ trở nên vô dụng. Hơn nữa, chính sự dốt nát là một trong những
nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển.
Bản thân mỗi người tự giác rèn luyện, biết tự kiềm chế, biết vượt qua những cám dỗ và tiêu
cực xã hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, thực dụng; cần phải tự tin vào chính
mình, giữ vững niềm tin trong cuộc sống. lOMoAR cPSD| 22014077
Phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi. “Chống
tâm lý ham sung sướng và tránh khó nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động
chân tay. Chống lười biếng xa xỉ. chống cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”.
Thực hiện tốt một số giải pháp giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng cho thanh niên trong thời
kỳ CNH, HĐH, hội nhập kinh tế thế giới là góp phần đào tạo, giáo dục 13 thế hệ thanh niên
vừa "hồng", vừa "chuyên", chủ nhân tương lai đưa nước nhà vững bước tiến cùng các dân tộc
tiên tiến, xứng đáng với mong ước của Bác Hồ kính yêu
Câu 2: Chứng minh tính sáng tạo trong luận điểm của Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng
dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Luận điểm sáng tạo trên của Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở sau:
Trước hết là về vấn đề dân tộc thuộc địa, khái niệm này chỉ xuất hiện khi chủ nghĩa tư bản
chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh, sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Ở thời đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, các ông không đi sâu nghiên cứu, giải quyết vấn đề dân
tộc, vì về cơ bản, vấn đề dân tộc ở Tây Âu đã được giải quyết trong cách mạng tư sản; nhất là
các ông chưa có điều kiện bàn nhiều về vấn đề dân tộc thuộc địa - như V.I.Lê-nin đã nhận xét
- đối với C.Mác, so với vấn đề giai cấp vô sản, thì vấn đề dân tộc chỉ là một vấn đề thứ yếu
thôi. yết. Quan điểm đó hoàn toàn đúng với đòi hỏi của cách mạng vô sản ở châu Âu đang đặt
ra lúc bấy giờ, nhưng có thể nói, không phù hợp với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa.
Ðến thời V.I.Lê-nin, chủ nghĩa đế quốc đã phát triển thành một hệ thống thế giới, cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, V.I.Lê-nin có cơ sở thực tiễn
để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa và cách mạng thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Theo
V.I.Lê-nin, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản (ở chính quốc) sẽ không thể giành được thắng
lợi, nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Mặc
dù C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lê-nin khẳng định mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp, nhưng các ông đều cho rằng, trong mối quan hệ đó, nhiệm vụ cấp
bách hàng đầu của giai cấp công nhân là phải là tiến hành cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư
sản, giành lấy chính quyền. Sau khi lên nắm chính quyền, sẽ trao trả độc lập cho các nước thuộc
địa, hoặc tạo điều kiện cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa giành thắng lợi. Có
nghĩa là, cách mạng vô sản ở chính quốc có vai trò quyết định đến thắng lợi của cách mạng giải
phóng dân tộc ở thuộc địa.
Đối với Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, là người xuất thân từ một nước thuộc địa, trên hành
trình tìm đường cứu nước, Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin tìm thấy con đường cách
mạng giải phóng dân tộc qua bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của Lê-nin. Mặc dù coi hệ thống lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin
là "cẩm nang thần kỳ", nhưng từ sự nghiên cứu, trải nghiệm thực tiễn ở các nước thuộc địa, Hồ
Chí Minh cho rằng, nhiều vấn đề lý luận các nhà kinh điển đưa ra, chỉ đúng với điều kiện châu
Âu, cho nên, cần phải nghiên cứu, bổ sung và phát triển lý luận, vận dụng vào thực tiễn một
cách sáng tạo, phù hợp, không giáo điều, dập khuôn.
Nghiên cứu về sự thay đổi của tình hình cách mạng thế giới từ sau Cách mạng Tháng Mười
Nga, Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng thuộc địa là không phải là làm
ngay một cuộc cách mạng vô sản (như các nước tư bản), mà trước hết phải tiến hành đấu tranh lOMoAR cPSD| 22014077
giành lại độc lập cho dân tộc; có độc lập dân tộc rồi, mới có điều kiện để giải phóng giai cấp.
Theo quan điểm của Người, giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; giải phóng dân tộc
là tiền đề để giải phóng giai cấp; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo Người,
trong mối quan hệ dân tộc - giai cấp, dân tộc là tổng thể, giai cấp là một bộ phận. Do đó, quyền
lợi của giai cấp, (tức là quyền lợi của bộ phận) phải phục tùng quyền lợi của dân tộc (bộ phận
phục tùng tổng thể). Ðó là những quan điểm lý luận sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa.
Thứ hai về mối quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng
vô sản ở các nước tư bản chính quốc. Theo quan điểm của Mác - Ăng-ghen, các dân tộc thuộc
địa không thể tự mình làm cách mạng thắng lợi. Quan điểm này còn tồn tại trong Quốc tế Cộng
sản đến tận Ðại hội VI, (1928). Thể hiện trong Những luận cương về phong trào cách mạng ở
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa: Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các
thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến.
Ðối với Hồ Chí Minh, qua nghiên cứu phong trào cách mạng thuộc địa, ngay từ năm 1921,
Người đã nhận định: "trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản
là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm
vụ giải phóng hoàn toàn". Năm 1924, Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng thuộc địa không
những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể giành thắng lợi trước.
Hơn nữa, yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc không cho phép ỷ lại,
ngồi chờ thắng lợi của cách mạng vô sản ở châu Âu để được trả lại nền độc lập cho các dân tộc
thuộc địa. Ðây là một quan điểm cách mạng sáng tạo của Hồ Chí Minh, có giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới. Ðặc biệt, đối với cách mạng Việt Nam,
luận điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã được vận dụng một cách chủ động, sáng tạo trong
tiến trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945 ở Việt Nam, là một minh chứng khẳng định luận điểm của Hồ Chí Minh hoàn toàn đúng đắn. lOMoAR cPSD| 22014077
Đề 4-Tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu 1: Phân tích để làm rõ quan điểm sau của Hồ Chí Minh trong tác phẩm: Tuyên ngôn độc
lập (1945): “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do…
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc ngày
2/9/1945 không chỉ khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc Việt Nam bước
vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội mà còn có ý nghĩa
thời đại sâu sắc, bởi tư tưởng về quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân
gắn với quyền bình đẳng thiêng liêng giữa các dân tộc; tinh thần và ý chí đấu tranh cho độc
lập, tự do của nhân dân Việt Nam trong hành trình giành lại quyền tự do, độc lập.
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã mở đầu kỷ nguyên độc lập, tự do của nước Việt Nam
sau 80 năm bị giặc Pháp đô hộ và sau một nghìn năm chế độ phong kiến, đồng thời khởi đầu
cho sự tan rã của hệ thống thuộc địa trên thế giới. Bản Tuyên ngôn khẳng định sức mạnh của lẽ phải và chính nghĩa
Tuyên ngôn độc lập 1945 khẳng định các dân tộc trên thế giới đều có quyền tự do và bình đẳng;
Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành độc lập, tự do và bình đẳng là một cuộc đấu tranh chính nghĩa.
Bản Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy "những lẽ phải không thể chối cãi
được" của hai bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền năm 1791 của Pháp để khẳng định những quyền chính đáng của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ nêu rõ: Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng,
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
năm 1791 cũng khẳng định: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được
tự do và bình đẳng về quyền lợi. Như vậy cả hai bản tuyên ngôn ra đời trước đó hơn một thế
kỷ đều đề cập đến quyền tự do và bình đẳng của con người như một lẽ tự nhiên. Những điều
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong hai bản tuyên ngôn của nước Pháp và nước Mỹ đã từ lâu
trở thành những chân lý lớn không ai có thể bác bỏ được. Tuy nhiên hai bản Tuyên ngôn ấy
mới tập trung vào quyền con người, quyền của người dân mà chưa nói đến quyền độc lập của
dân tộc. Trên cơ sở ấy, trong Tuyên ngôn độc lập 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy rộng ra:
các dân tộc trên thế giới đều có quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền được sung
sướng. Người đã phát triển quyền con người thành quyền của dân tộc. Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh thì quyền con người và quyền dân tộc gắn bó mật thiết với nhau. Quyền con người luôn
gắn liền với độc lập, tự do của dân tộc bởi lẽ dân tộc có độc lập thì quyền con người mới được
thực hiện. Đây chính là điểm then chốt, đặc biệt trong hoàn cảnh nước ta đang bị thực dân đô
hộ. Người khẳng định: Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Trên thế giới, cho đến đầu thế kỷ XX, các nước tư bản và đế quốc vẫn chưa hề có tuyên bố về
việc tôn trọng chủ quyền độc lập dân tộc. Năm 1917, tại Đại hội Xô Viết toàn Nga, Lênin cho
thông qua Pháp lệnh về hoà bình, tuyên bố tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc nhược tiểu
như một chính sách đối ngoại. Hiến chương Liên hiệp quốc thừa nhận quyền bình đẳng của các
nước ký ở Cựu Kim Sơn tháng 6/1945, đến ngày 24/10/1945 mới có hiệu lực. Như vậy Tuyên
ngôn Độc lập đã nêu quyền độc lập, tự do của dân tộc như một lẽ phải trong quan hệ quốc tế
để khẳng định quyền độc lập của một dân tộc thuộc địa, chưa được các nước lớn thừa nhận. lOMoAR cPSD| 22014077
Tất nhiên, không phải đến thời điểm đó Chủ tịch Hồ Chí Minh mới quan tâm đến vấn đề tự do,
bình đẳng của dân tộc mà ngay từ rất sớm - vào độ tuổi 13- như Người từng nói, Người đã chú
ý đến những khái niệm Tự do- Bình đẳng- Bác ái và Người đã muốn "tìm xem những gì ẩn sau
những chữ ấy". Sau này, ánh sáng lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của đại cách mạng Pháp
1789 cũng là tinh thần của bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 đã hướng
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đến con đường đấu tranh để đem lại tự do và bình đẳng cho dân tộc mình.
Từng làm giáo viên của trường Dục Thanh, là một trí thức yêu nước, hơn ai hết Chủ tịch Hồ
Chí Minh hiểu được giá trị của hai tiếng "tự do", Người cảm nhận được đầy đủ và sâu sắc nỗi
cay đắng, nhục nhã của sự mất tự do. Sau này giáo sư Vũ Khiêu cũng nhận định: "mất tự do là
điều mãi mãi day dứt tâm tư người trí thức. Bởi nó trói buộc tâm hồn, hạ thấp nhân phẩm và
ngăn cản sáng tạo. Đất nước bị xâm lược, nhân dân mất tự do, sống lầm than đau khổ. Với
người trí thức chân chính, đau khổ ấy gấp bội lần. Ở họ, nỗi đau khổ của nhân dân được cộng
thêm suy tư của người trí thức. Với họ, mất tự do là cảm thấy đời sống thực không còn nữa.
Không được tự do suy nghĩ, tự do sáng tạo, tự do hành động, người trí thức mất đi bản chất tri
thức, mất đi điều kiện cơ bản nhất để tồn tại với danh nghĩa là trí thức". Vì lẽ đó mà thầy giáo
Nguyễn Tất Thành đã đặt quyết tâm phải tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đồng bào.
Trên hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định với mục tiêu đòi tự
do cho đồng bào và quyền tự quyết cho dân tộc. Điều đó được thể hiện rất cụ thể trong bản Yêu
sách của nhân dân An Nam mà Nguyễn Ái Quốc đã gửi tới hội nghị Versaille với những đòi
hỏi hết sức chính đáng: Đòi ân xá cho tất cả các tù chính trị người bản xứ, đòi cải cách pháp
chế ở Đông Dương bằng ban hành những bảo đảm cho người bản xứ cũng như người Âu, đòi
tự do báo chí, đòi tự do hội họp và lập hội, tự do dạy học, đòi thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế
độ pháp luật, và sau cùng, đòi có một đoàn đại biểu thường trực của dân bản xứ được bầu vào
nghị viện Pháp… Trong bài báo Vấn đề bản xứ, đăng trên báo L'Humanité, ngày 2- 8-1919,
một lần nữa Người khẳng định: "Chúng tôi chỉ có thể coi các yêu sách rất đúng đắn đó cũng là
của chính mình, trong thời đại mà ý muốn của nhân dân là nắm quyền tự quyết" (2).
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không có quyền tự do thì con người ngày nay chỉ là kẻ nô lệ khốn
nạn. Vì vậy, "không ai có thể phủ nhận rằng nếu không có các quyền tự do ấy, thiết yếu việc
truyền bá những tư tưởng và kiến thức mà đời sống hiện tại đòi hỏi thì không thể trông mong
tiến hành bất cứ một công cuộc giáo hóa nghiêm chỉnh nào cả". Người cho rằng, nguyện vọng
của nhân dân An Nam về việc đòi quyền tự quyết là hết sức đúng đắn, phù hợp với xu thế thời
đại, hòa cùng ý nguyện nắm quyền tự quyết của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Ngày
20/9/1919, khi Nguyễn Ái Quốc trả lời phỏng vấn của một phóng viên Mỹ hỏi Người về mục
đích đến Pháp, Người đã trả lời không chút đắn đo: Để đòi những quyền tự do mà chúng tôi
phải được hưởng. Đúng 46 năm sau, những nguyện vọng chính đáng đó đã trở thành hiện thực,
và được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập: "Nước Việt Nam có
quyền được hưởng tự do độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập".
Có thể thấy, việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn độc lập của nước Pháp và nước Mỹ để mở đầu
cho bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam là một lập luận vừa kiên quyết vừa khôn khéo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, khiến cho Pháp và Mỹ là hai cường quốc không thể không công nhận
chủ quyền tự do của nước Việt Nam dựa trên những lý lẽ mà chính họ đưa ra đó là quyền sống,
quyền tự do, bình đẳng và quyền được mưu cầu hạnh phúc của mỗi con người. Và từ vấn đề
nhân quyền và quyền cá nhân nêu ra ở hai bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và nước Pháp,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bằng những lí lẽ sắc bén, khoa học để nâng cao, mở rộng vấn đề lên
thành quyền tự do bình đẳng của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đồng thời Người muốn cho lOMoAR cPSD| 22014077
thế giới thấy được mục đích của cách mạng Việt Nam cũng giống mục đích của cách mạng
Pháp và cách mạng Mỹ, đó là tranh đấu vì hạnh phúc của con người. Như vậy các cường quốc
không có lý do gì để chối bỏ quyền độc lập chính đáng của Việt Nam, vì đó là lẽ phải không ai chối cãi được.
Câu 2: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đoàn kết quốc tế trong sự nghiệp
cách mạng. Hiện nay, sinh viên cần làm gì để có thể kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại?
Hồ Chí Minh cho rằng đoàn kết quốc tế có 2 vai trò đối với sự nghiệp cách mạng: 1. Đoàn kết
quốc tế nhắm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách
mạng; và 2. Đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các
mục tiêu của cách mạng thời đại.
1. Đoàn kết quốc tế nhắm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thử sự đồng tình, ủng hộ,
giúp đỡ của bè bạn quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo ra sức mạnh
tổng hợp để chiến thắng kẻ thù là nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng là bài
học quan trọng nhất mang tính thời sự sâu sắc của cách mạng Việt Nam.
Sức mạnh dân tộc có sự tổng hợp của các yếu tố vật chất, tinh thần của dân tộc, trước hết đó là
sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, ý chí tự học, tự cường, tinh thần đoàn kết, anh dũng, bất
khuất đấu tranh cho độc lập, tự do…
Sức mạnh thời đại là sức mạnh của các trào lưu phong trào cách mạng thế giới, của chủ nghĩa
Mác-Lênin được xác lập bởi Cách mạng tháng 10 Nga.
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết
toàn dân tộc phải là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế. Nếu đại đoàn kết toàn dân tộc
phải là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, thì đoàn kết
quốc tế cũng là một nhân tố thường xuyên và quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi đến
thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
2. Đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi các mục tiêu
của cách mạng thời đại.
Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ nghĩa quốc
tế vô sản, đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế, thực hiện đoàn kết quốc tế
không chỉ vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn những mục tiêu chung của cách mạng
thế giới. Do đó phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, sô-vanh, bánh trướng, cơ hội.
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động chính trị là thời đại đã chấm dứt sự tồn tại và biệt
lập giữa các quốc gia, mở ra các quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng cho các dân tộc, làm cho
vận mệnh của mỗi dân tộc không thể tách rời vận mệnh chung của loài người. lOMoAR cPSD| 22014077
Ngay sau khi nắm được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi
để phá thế đơn độc của cách mạng Việt Nam, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Người cho rằng, Đảng phải lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh: Chủ nghĩa yêu nước
triệt để không thể nào tách rời với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. “Tinh thần yêu nước là
kiên quyết giữ gìn quyền độc lập, tự do và đất đai toàn vẹn của nước mình. Tinh thần quốc tế
là đoàn kết với các nước bạn và nhân dân các nước khác để giữ gìn hoà bình thế giới, chống
chính sách xâm lược và chính sách chiến tranh của đế quốc … giữ gìn hoà bình thế giới tức là
giữ gìn lợi ích của nước ta…Đó là lập trường quốc tế cách mạng”.
Theo Hồ Chí Minh, muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trog cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung,
các Đảng Cộng sản phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ hội,
chủ nghịa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sô-vanh, những khuynh hướng làm suy yếu sức mạnh đoàn
kết, thống nhất của các lực lượng cách mạng thế giới. Nói cách khác, các Đảng Cộng sản phải
tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc
tế vô sản cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong mấy thập kỷ qua là thắng lợi của tư tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Nhờ kết hợp giải phóng
dân tộc với giải phóng giai cấp, chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam đã được bổ sung
thêm nguồn lực mới, trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhờ giương cao ngọn cờ chủ
nghĩa xã hội, việt nam đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ quốc tế, huy động được sức mạnh
của các trào lưu cách mạng thời đại, làm sức mạnh dân tộc được nhân lên gấp bội, chiến thắng
được những kẻ thù có sức mạnh to lớn hơn mình về nhiều mặt. Vận dụng:
Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Hoà bình, hợp
tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh
chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp
và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế.
Ở trong nước, chúng ta đang tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân
chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động
đối ngoại; giữ vững môi trường hoà bình, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia; phấn
đấu để đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước, cần phải phát huy mạnh mẽ
hơn nữa vai trò tiên phong, xung kích, sáng tạo của sinh viên với tư cách là lực lượng xã hội
đông đảo, trẻ tuổi, giàu tiềm năng.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định sáu nhiệm vụ trọng tâm, trong đó: “Khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con
người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế” là một nội dung quan trọng.
Theo thống kê năm 2019, thanh niên Việt Nam từ 16 – 30 tuổi có khoảng 22,898 triệu người
chiếm khoảng 23,8% dân số cả nước7. Năm 2020, thanh niên Việt Nam từ 16 – 30 tuổi có
khoảng 22,609 triệu người chiếm khoảng 23,2% dân số cả nước 8. Mặc dù tỷ lệ thanh niên Việt lOMoAR cPSD| 22014077
Nam trong tổng số dân cả nước và trong lực lượng lao động xã hội từ năm 2010 có xu hướng
giảm nhẹ, nhưng thanh niên vẫn là lực lượng đông đảo, chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm
những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Muốn khơi dậy trong thanh
niên khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh
con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế cần quan
tâm thực hiện những giải pháp sau:
Một là, nâng cao kiến thức, hiểu biết sâu sắc về chủ trương, đường lối, mục tiêu lý tưởng cao
đẹp, bản chất tốt đẹp của Đảng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch; nâng cao sức đề kháng, khả năng chủ động đấu tranh phản bác
những quan điểm sai trái, thù địch trên internet. Từ đó, củng cố niềm tin của sinh viên vào sự
lãnh đạo của Đảng và tích cực, xung kích đi đầu thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, rèn luyện bản thân để trở thành lực lượng lao động chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
thời kỳ mới. Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa vẫn là xu thế lớn của thế giới, sẽ tạo ra thị trường
lao động toàn cầu, công dân toàn cầu. Mỗi sinh viên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng
cao trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật, tay nghề để thích ứng với thị trường lao
động trong nước và thị trường lao động quốc tế.
Ba là, thúc đẩy mạnh mẽ đổi mới, sáng tạo. Dân tộc Việt Nam có những phẩm chất đặc trưng
nổi bật, rất đáng quý là thông minh, cần cù, hiếu học và cũng rất tiềm năng về sáng tạo nhưng
sáng tạo lại chưa phải là phẩm chất đặc trưng nổi bật của con người Việt Nam. Sáng tạo là
phẩm chất chung, có trong mỗi người nhưng nó thể hiện tập trung nhất ở giai đoạn tuổi trẻ, là
đặc trưng của thanh niên. Vì vậy sinh viên cần ra sức đổi mới, sáng tạo trong học tập, nghiên
cứu và cả trong đời sống hằng ngày.
Bốn là, sinh viên cần thúc đẩy tính tích cực xã hội của thanh niên. Sinh viên phải rèn luyện các
kỹ năng xã hội, tham gia xây dựng đời sống văn hóa; tham gia giữ gìn phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc, văn thể mỹ, phát triển thể lực; phát huy tính tích cực xã hội của thanh niên; sống
trung thực trách nhiệm, xây dựng gia đình hạnh phúc; tham gia giám sát phản biện xã hội.
Thanh niên phải tích cực tham gia xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, tích cực tham gia
phòng, chống ô nhiễm môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu. Nâng cao nhận thức cho thanh,
thiếu niên về vai trò của kỹ năng xã hội.
Năm là, sinh viên cần nâng cao năng lực hội nhập quốc tế. Thanh niên sinh viên cần chủ động
tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế; tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; tham gia vào
công tác ngoại giao Nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế; chủ
động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu, như: giữ gìn hòa bình, đẩy
lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
toàn cầu, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch bệnh hiểm nghèo… Thực tiễn:
Để đáp ứng với thời kỳ mới, thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc
tế, cần tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ
Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, xây
dựng và nhân rộng được nhiều cá nhân, tập thể thanh niên tiên tiến, là những người có đạo đức
để làm gương, truyền đi cảm hứng cho thanh niên phấn đấu, luôn vươn lên khẳng định mình,
không ngừng sáng tạo cùng tạo dựng tương lai, thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng xã hội
chủ nghĩa. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư lOMoAR cPSD| 22014077
Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách
mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 – 2030.
Kiểm tra giữa học phần 2021:
1. Phân tích tiền đề lí luận trực tiếp hình thành tư tưởng Hồ Chi Minh.
*Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc:
Qua lịch sử dựng nước giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc đã hình thành nên những truyền
thống quý báu như yêu nước, đoàn kết, nhân ái, bao dung, tinh thần vượt khó. Đây là những cơ
sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong các truyền thống ấy, yêu nước chính là truyền thống quý báu nhất, là động lực tinh thần
mạnh mẽ giúp dân tộc ta chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai địch hoạ, đó cũng là xuất phát
điểm, là nền tảng tư tưởng, động lực thúc đẩy Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước.
Người cũng chú ý kế thừa, phát triển chủ nghĩa yêu nước để bảo vệ chủ quyền quốc gia và sự
trọn vẹn lãnh thổ với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tư do”.
Hồ Chí Minh cũng đã chú ý kế thừa và phát triển một trong những nội dung cơ bản trong chủ
nghĩa yêu nước và truyền thống tốt đẹp của dân tộc là yêu nước gắn liền với thương dân, đoàn
kết, nhân ái và hoà hiếu với các nước láng giềng.
Với Hồ Chí Minh yêu nước luôn gắn với lòng tự hào dân tộc nhưng không ngừng tiếp thu
những tinh hoa văn hoá nhân loại để làm giàu văn hoá dân tộc, chú ý khơi dậy các truyền thống
dân tộc trong việc hoạch định đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam.
*Tinh hoa văn hoá nhân loại:
- Tinh hoa văn hoá Phương Đông với 3 học thuyết lớn Nho, Phật, Đạo
+ Đối với Nho giáo, Hồ Chí Minh cho rằng ưu điểm lớn nhất là tu dưỡng đạo đức cá nhân: Hồ
Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng đức trị trong việc quản lý xã hội, kế thừa và phát
triển quan niệm về xây dựng một xã hội bình trị, công bằng để đi đến thế giới đại đồng, không
có chiến tranh; kế thừa, phát triển tinh thần trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu thân,
dưỡng tính, rèn luyện đạo đức cho con người, trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
+ Đối với Phật giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tinh thần vị tha, yêu thương con
người, khuyến thiện, chống ác, đề cao bình đẳng, gắn bó với dân tộc; Ngừoi cũng kế thừa, phát
triển tư tưởng nhân bản, lối sống đạo đức, đề cao lao động của Đạo Phật trong việc xây dựng mới, con người mới.
+ Đối với Đạo giáo: Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng sống hoà đồng, gắn bó với
thiên nhiên, thuận theo tự nhiên; Người cũng kế thừa, phát triển tinh thần không ham danh lợi,
khuyên cán bộ, đảng viên ít lòng ham muốn vật chất, thực hành cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư.
Bên cạnh 3 học thuyết lớn, Hồ Chí Minh còn tiếp thu, kế thừa và phát huy tinh thần Pháp trị
của Pháp gia, tư tưởng quân sự của Tôn tử, Gandi (Ấn Độ), chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung
Sơn … để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
- Tinh hoa văn hoá phương Tây: Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát triển những quan điểm về nhân
quyền và dân quyền trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776) và Tuyên ngôn Nhân
quyền và dân quyền của cách mạng Pháp (1789), từ đó nâng lên thành quyền dân tộc; Người lOMoAR cPSD| 22014077
tiếp thu tư tưởng nhân văn, dân chủ, tinh thần pháp quyền của các nhà khai sáng Pháp như
Vônte, Rútxô, Môngtexkiơ…
Trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về kho tàng tri thức cổ, kim, Đông Tây của nhân loại đã giúp Hồ
Chí Minh có đủ điều kiện tiếp thu và hiểu biết đầy đủ về chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn học
thuyết này làm nền tảng tư tưởng cho mình. - Chủ nghĩa Mác-Lênin:
Hồ Chí Minh khẳng định ngày nay học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa cách
mạng nhất, khoa học nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây chính là thế giới quan, phương pháp
luận trong nhận thức và hoạt động cách mạng của Người, là cơ sở lý luận quan trọng, quyết
định bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp người vượt hẳn lên phía
trước so với các nhà yêu nước đương thời.
Trên cơ sở lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã kế
thừa, đổi mới, phát triển những giá trị tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, kết
hợp với thực tiễn cách mạng để hình thành nên hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về cách mạng Việt Nam.
Nhờ vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết được
cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh còn bổ sung, phát triển, làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác-Lênin ở một loạt các
vấn đề: cách mạng giải phóng dân tộc; xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước chưa trải qua
thời kỳ tư bản chủ nghĩa; xây dựng Đảng; Nhà nước; đạo đức; văn hoá; con người…
Cơ sở lý luận giữ vai trò quyết định, là tiền đề lý luận trực tiếp, quyết định bản chất cách mạng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chủ nghĩa Mác-Lênin với bản chất cách mạng và khoa học đã giúp Hồ Chí Minh chuyển
biến từ chủ nghĩa yêu nước không có khuynh hướng rõ rệt thành người cộng sản, yêu nước gắn
chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thấy vai trò của quần
chúng nhân dân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, liên minh công-nông-trí thức và vai
trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người, bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
2. Phân tích và chứng minh luận điểm: “Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ
động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc” là một
trong những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh.
Do chưa đánh giá hết tiềm lực và khả năng to lớn của cách mạng thuộc địa, coi cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Trong đại hội VI Quốc tế cộng sản
năm 1928 có đoạn viết rằng : chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các nước
thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tân tiến.
Quán triệt tư tưởng của V.I.Lenin, Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ khắng khít, tác động qua
lại lẫn nhau giữa cách mạng thuộc địa, và cách mạng vô sản ở chính quốc – mối quan hệ bình
đẳng, không lệ thuộc, phụ thuộc vào nhau. Tại Đại hội V của Quốc tế cộng sản năm 1924,
Người nói: “Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản
ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa”. lOMoAR cPSD| 22014077
Trong tác phẩm Bản án chế độ Thực dân Pháp viết năm 1925 Người cũng cho rằng: “Chủ nghĩa
tư bản là một con đĩa có hai vòi, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một vòi bám
vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu giết chết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi.
Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản,
con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra”.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: cách mạng thuộc địa không những phụ thuộc vào cách mạng vô
sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân
dân Châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân
lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người
anh em mình ờ phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh dựa trên cơ sở sau:
- Thuộc địa có vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt đối với chủ nghĩa đế quốc, nhưng lại là
khâu yếu nhất trong hệ thống các nước đế quốc. Cho nên, cách mạng ở thuộc địa sẽ có khả
năng nổ ra và giành thắng lợi.
- Tinh thần đấu tranh cách mạng hết sức quyết liệt của các dân tộc thuộc địa, mà theo Người
nó sẽ bùng lên mạnh mẽ, hình thành một “lực lượng khổng lồ” khi được tập hợp, hướng
dẫn và giác ngộ cách mạng.
- Căn cứ vào luận điểm của C.Mác về khả năng tự giải phóng của giai cấp công nhân Người
viết: “Hỡi anh em ở các thuộc địa … Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận
dụng công thức của C.Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng của anh em.”
- Với thực tiễn thắng lợi năm 1945 ở Việt Nam cũng như phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới đã thành công vào những năm 60, càng chứng minh luận điểm trên của Hồ Chí
Minh là độc đáo, sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn. lOMoAR cPSD| 22014077
Đề 2 – Câu 1: Phân tích và vận dụng quan điểm sau đây của Hồ Chí Minh: “Muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. (Hồ Chí Minh,
Toàn tập, t.13, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011, tr.66)
Thực tiễn, bao giờ và ở đâu cũng vậy, muốn xây dựng một xã hội đương đại cũng cần có
những con người tiêu biểu đại diện cho lực lượng phát triển của xã hội đó, mà lịch sử
thường gọi là “thời đại” và “con người của thời đại”. Đối với chủ nghĩa xã hội (CNXH),
theo học thuyết Mác-Lênin, là xã hội tốt đẹp, nằm ở nấc thang phát triển cao hơn chủ nghĩa
tư bản (CNTB). Vì thế, giai cấp vô sản muốn thực hiện được sứ mệnh của mình, phải xây
dựng được đội ngũ tiên phong của giai cấp, đáp ứng với mục tiêu phát triển của xã hội tốt đẹp đó.
Theo V.I Lênin, giai cấp vô sản dù đã nắm được chính quyền, nhưng nếu không làm cho
xã hội mới có trình độ phát triển cao hơn CNTB, thì giai cấp vô sản vẫn chưa xây dựng
xong CNXH, thậm chí, “công cuộc xây dựng CNXH chỉ còn là một mớ sắc lệnh”(2). Trên
thực tế, nếu xét đến cùng thì giải phóng xã hội vẫn phải được quyết định bởi năng suất lao
động và tinh thần dân chủ. Đó là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất quyết định thắng lợi của
chế độ xã hội mới. Lênin từng chỉ ra: “CNTB chỉ có thể bị đánh bại hẳn, và sẽ bị đánh bại
hẳn vì CNXH tạo ra nền dân chủ mới gấp triệu lần dân chủ tư sản và năng suất lao động
mới cao hơn nhiều”(3).
Trên nền tảng lý luận Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Cách mạng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất, chưa từng có trong lịch sử
nước nhà. Nhưng, “nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: CNXH không ngừng nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”, để “ai cũng được
làm việc, được ăn no mặc ấm, được học hành, người già yếu được giúp đỡ, các cháu bé thì
được chăm sóc”(4). Người cũng chỉ rõ: “Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, chúng ta nhất
định có những khó khăn. Biến đổi một xã hội cũ thành một xã hội mới, không phải là một
chuyện dễ”(5). Điều lớn lao nhất của cách mạng XHCN là phải xây dựng được nền tảng, vật
chất của CNXH. Mà muốn xây dựng được nền tảng, vật chất cho CNXH, điều quan trọng
nhất lại phải có những con người XHCN theo cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì ý
nghĩa đó, trong quá trình lãnh đạo cách mạng gắn với CNXH, Hồ Chí Minh và Đảng ta
luôn quan tâm đến chủ thể xây dựng CNXH.
Theo Hồ Chí Minh, chủ thể xây dựng CNXH là “những con người mới XHCN”. Đó là
những con người “có tư tưởng và tác phong XHCN”, “có ý thức làm chủ Nhà nước”, “thấm
nhuần sâu sắc tinh thần tập thể XHCN và tư tưởng mình vì mọi người, mọi người vì mình”,
“chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà”, “biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại,
không ngồi chờ, đùn đẩy công việc”; đồng thời, phải biết “thắng được chủ nghĩa cá nhân,
lợi mình hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác”, bởi nó là “kẻ địch
nguy hiểm của CNXH”(6). Người còn chỉ rõ: CNXH là “do nhân dân tự xây dựng lấy”,
“muốn xây dựng CNXH thì không có cách nào khác là phải dốc lực lượng của mọi người
ra để sản xuất... Muốn phát triển sức sản xuất thì trước hết phải nâng cao năng xuất lao
động và muốn nâng cao năng suất lao động thì phải tổ chức lao động cho tốt”(7). Đây chính
là một trong những tư tưởng đặc sắc, quan trọng nhất trong hệ thống tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh.
Các giá trị cốt lõi về lý luận, văn hóa, tinh thần ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ
nguyên giá trị cho đến ngày nay, soi rọi vào mọi chủ trương, hành động trong công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước ta. lOMoAR cPSD| 22014077
Lịch sử hiện nay đã có nhiều biến đổi, xu hướng toàn cầu hóa kinh tế và mạng lưới hóa
thông tin đang ngày càng phát triển, lan tỏa đến từng lĩnh vực trên khắp thế giới, tác động
mạnh mẽ đến quan điểm nhân sinh, quan điểm giá trị của con người. Điều đó làm cho loài
người có thể cần phải trải qua một quá trình gian khổ để “định hướng lại triết học và văn
hóa”. Sự định hướng ấy, tất yếu sẽ ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực tư tưởng, chính trị, xã hội
và tác động trực tiếp đến việc xây dựng các giá trị con người, trong đó có con người XHCN. *Vận dụng: - Thực trạng:
Xét tới hiện nay thì công cuộc đào tạo thế hệ trẻ - những con người mới xã hội chủ nghĩa ở
đất nước ta đã có thành quả đáng khích lệ. Tuy chưa có điều kiện để đảm bảo giáo dục miễn
phí cho tất cả các cấp học nhưng Việt Nam tập trung hoàn thành xóa nạn mù chữ, phổ cập
giáo dục và có tới 95% người lớn biết đọc, biết viết(7). Số sinh viên học cao đẳng, đại học
và sau đại học tăng lên hằng năm với chất lượng ngày càng được cải thiện. Cơ sở vật chất
của các cơ sở đào tạo ngày càng được mở rộng, nâng cấp và cải thiện. Các chương trình
hợp tác quốc tế mở ra tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên dễ dàng tiếp cận được với tri
thức nước ngoài. Đội ngũ giảng viên được đào tạo bài bản ở trong và ngoài nước, nắm chắc
chuyên môn, có những phương pháp đào tạo khoa học đã cải thiện đáng kể chất lượng sinh
viên Việt Nam, rất nhiều sinh viên Việt Nam đi du học và tỏa sáng rực rỡ trên đất bạn. Về
mặt thể chất thì sức vóc người Việt có sự cải thiện đáng kể. Chúng ta dần có nhiều những
thành tích cao trên đầu trường thể thao quốc tế. Điều đó cho thấy rằng công cuộc giáo dục
con người đã được Đảng và nhà nước ta rất quan tâm và chú trọng. Tuy nhiên, bên cạnh đó
chúng ta cũng còn có nhiều điểm cần cải thiện, đặc biệt vấn đề phân hóa, chênh lệch trình
độ giữa các vùng miền trên Tổ quốc bởi với hơn 60% dân số sống nước ta ở nông thôn(8).
Tóm lại, nhìn chung tất cả những gì chúng ta đã, đang có là cơ sở tiền đề tốt, vững chắc để
có thể đáp ứng được công cuộc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. -Giải pháp:
Như đã phân tích ở trên, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa phải dựa trên nền tảng
là đào tạo ra một lớp thế hệ trẻ kế cận được trang bị một cách toàn diện. Đây cũng mục tiêu
giáo dục con người không chỉ ở Việt Nam mà còn là ở tất cả các nước trên toàn thế giới.
Việc phát triển con người một cách toàn diện thực chất là xây dựng con người mới có đủ
năng lực làm chủ bản thân và xã hội. Tư tưởng coi trọng nhân tố con người này của Đảng
ta đã được cụ thể hóa trong các văn kiện, có thể ví dụ như:
- Nghị quyết 33 (Số 33-NQ/TW) về Định hướng xây dựng và phát triển văn hóa, con người
đã xác định rõ mục tiêu là “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn
diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”.
- Vấn đề “phát triển con người toàn diện” trong các văn kiện của Đại hội XII được Đảng ta
xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020,đó
là xây dựng “con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”.
- Trong văn kiện của Đại hội XIII của Đảng, khi đề cập đến quan điểm về văn hóa, Đảng
ta luôn nhấn mạnh việc phát huy vai trò con người, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa,
sức mạnh con người Việt Nam.
Những nghiên cứu mang tính ứng dụng nên được đầu tư mạnh mẽ. Mô hình nghiên cứu 5
nhà bao gồm : nhà trường - nhà khoa học - nhà đầu tư - nhà kinh doanh - nhà nước sẽ góp
phần đẩy mạnh sự phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo ở đất nước ta. Mô lOMoAR cPSD| 22014077
hình liên kết này đã được trình bày và giới thiệu ở Diễn đàn Trí thức trẻ Việt Nam toàn cầu
lần thứ 3 năm 2020 do Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tổ chức.
Bài toán nguồn lực cũng là bài toán hóc búa bởi lực lượng trí thức trẻ - những con người
mới xã hội chủ nghĩa sẽ là nhân tố quan trọng trong việc vận dụng và thực hiện các hoạt
động đưa Việt Nam vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa. Phát triển nguồn lực chất
lượng và lâu dài là điều kiện cần thiết bởi nội lực có mạnh thì đất nước mới phát triển mạnh.
Các quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Israel,… trở nên giàu có nhờ họ đã xây dựng được
lực lượng thế hệ trẻ chất lượng.
Ngoài nguồn nhân lực trong nước thì những người Việt Nam ở nước ngoài (lực lượng kiều
bào) cũng là nguồn lực không thể bỏ qua. Người Việt Nam sống ở nước ngoài luôn hướng
về Tổ quốc, rất nhiều nhà khoa học, học giả, nhà kinh doanh,… người Việt trên thế giới
luôn sẵn sàng góp công sức, ý kiến của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Họ cũng
truyền cho thế hệ người Việt sau khi sinh ra ở nước ngoài tinh thần hướng về nguồn cội
cha ông. Vì vậy, đất nước ta phát triển được sẽ có phần không nhỏ từ khối đại đoàn kết dân
tộc và lực lượng này cũng sẽ góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra ngoài thế giới.
Cuối cùng là nên tạo cơ hội để các bạn trẻ có chuyên môn, có năng lực được cống hiến, dấn
thân, đảm nhận công việc và có môi trường để phát triển toàn diện. Việc này sẽ giải quyết
đồng thời hai vấn đề: kế thừa và phát huy. Thế hệ trẻ Việt Nam sẽ kế thừa những thành
quả, lĩnh hội những kinh nghiệm, bài học quý báu do thế hệ trước truyền lại. Cùng với đó,
những năng lực của bản thân, tri thức cũng như đạo đức đã được trau dồi, những người trẻ
sẽ phát huy được những tiềm năng của bản thân và sẵn sàng đảm nhiệm vai trò làm chủ đất
nước, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, dân tộc Việt Nam quyết tâm hiện thực
hóa khát vọng xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
*Tiểu kết: mục tiêu chúng ta phấn đấu là xây dựng được một thế hệ thanh niên Việt Nam
sống có tri thức, có đạo đức phẩm chất tốt đẹp, lối sống văn minh, lành mạnh, vóc dáng
đẹp và có nét đẹp về tâm hồn, sống nhân văn. Đó cũng là động lực để chúng ta hiện thực
hóa mục tiêu này bởi vì tương lai của đất nước chính là tương lai của mỗi con người chúng
ta, và công việc này cần sự chung tay, đoan kết của tất cả mọi người chứ không phải riêng
mình ai. Vì vậy, có thể nói rằng việc xây dựng một đội ngũ con người mới xã hội chủ nghĩa
vừa hồng, vừa chuyên là mục tiêu, cũng là động lực trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam
Câu 2: Phân tích sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong quan điểm về quy luật ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam. *Khái niệm sáng tạo:
Sáng tạo là sự say mê, tìm t i để tạo ra những giá trị mới về vật chất, tinh thần hoặc
tìm ra cái mới, cách giải quyết mới mà không bị g bó phụ thuộc vào cái đã có.
Sáng tạo là phẩm chất cần thiết của người lao động trong xã hội hiện đại. Nó giúp con người
có thể vượt qua những ràng buộc của hoàn cảnh, rút ngắn thời gian để đạt được mục đích
đã đề ra một cách nhanh chóng, tốt đẹp; nhờ có năng động mà con người làm nên những kì
tích vẻ vang, mang lại niềm vinh dự cho bản thân, gia đình và đất nước.
*Quan điểm cuả Mác-Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng Sản:
Học thuyết Mác-Lênin cho rằng sự ra đời của đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp
của chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. lOMoAR cPSD| 22014077
Vận dụng sáng tạo quy luật này ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn
lạc hậu như Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đây chính là sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh trong quá trình vận động thành lập
Đảng. Người trung thành với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật ra đời của
Đảng, đồng thời có bổ sung, sáng tạo vào quy luật ấy với điều kiện cụ thể của Việt Nam,
đó là phong trào yêu nước. Hồ Chí Minh đã phân tích rất kỹ tính chất xã hội, cơ cấu giai
cấp của xã hội Việt Nam để chỉ ra quy luật này.
*Phân tích yếu tố mới, phong trào yêu nước đối với sự thành lập Đảng.
Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước Nga và châu Âu, khi bàn về sự ra đời của Đảng
Cộng sản, Lênin cho rằng: Bản thân phong trào công nhân có phát triển mạnh mẽ đến đâu
đi chăng nữa, nhưng không có chủ nghĩa Mác soi sáng thì giai cấp công nhân cũng không
thể nào phát triển lên được trình độ tự giác, không thể ý thức được sứ mệnh lịch sử của
mình; đồng thời chủ nghĩa Mác không thể mang trong mình bản chất cách mạng và khoa
học nếu nó không đi vào phong trào công nhân, phong trào công nhân trở thành “cái cốt
vật chất” cho chủ nghĩa Mác, làm cho chủ nghĩa Mác luôn có sức sống mạnh mẽ.
Đến Hồ Chí Minh, trên cơ sở thừa nhận và đánh giá cao hai yếu tố chủ nghĩa Mác -
Lênin, phong trào công nhân, Người còn đề cập thêm yếu tố thứ ba khi nói về quy luật
hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam - đó là phong trào yêu nước.
Từ nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dù sao thì cũng
không thể cấm bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh đã
đóng góp quan trọng vào sự phát triển lý luận và thực tiễn quy luật ra đời của Đảng Cộng
sản ở một nước nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến. Việc đưa
phong trào yêu nước Việt Nam làm yếu tố thứ ba trong quy luật ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam là sự sáng tạo lớn trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái chung và cái đặc thù.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao phong trào yêu nước. Phong trào yêu nước ở Việt Nam có từ
rất sớm và kết tinh thành chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã trở thành
giá trị đạo đức tốt đẹp nhất trong cộng đồng dân tộc, là giá trị tinh thần trường tồn trong
lịch sử của dân tộc. Phong trào yêu nước đã trở thành dòng văn hóa chủ lưu của cộng đồng
người Việt Nam, yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, phong trào yêu
nước có trước phong trào công nhân. Khi giai cấp công nhân ra đời và có phong trào đấu
tranh thì phong trào yêu nước không bài xích, không đối lập mà kết hợp ngay với phong trào công nhân.
Sự nổi bật của quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với các phong trào cách mạng của
giai cấp công nhân Việt Nam và phong trào yêu nước là đã làm chuyển hóa những người
yêu nước thành người cộng sản. Trong quá trình kết hợp đó, Hồ Chí Minh đã phát hiện sự
thống nhất biện chứng giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, đã đặt vị trí quan trọng của
vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở
thành Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, đồng thời cũng là Đảng của cả
dân tộc Việt Nam - một Đảng mang bản chất giai cấp công nhân, nhưng có tính chất quần
chúng rộng rãi, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. lOMoAR cPSD| 22014077 Đề 5
Câu 1: Nhà nước pháp quyền là gì? Hãy trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp
quyền và liên hệ chủ trương củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện
nay của Đảng Cộng sản Việt Nam.
*Nhà nước pháp quyền là:
Nhà nước pháp quyền theo quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại là Nhà nước
bảo đảm tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh
ý chí chung, lợi ích chung của nhân dân; thực hiện và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của nhân
dân; chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình và yêu cầu công dân thực
hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; có hình thức tổ chức quyền lực Nhà nước thích
hợp bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân dân, tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp; ngăn chặn được sự tùy tiện, lạm quyền từ phía Nhà nước, xử lý nghiêm minh
các hành vi vi phạm pháp luật, kể cả vi phạm pháp luật của các cơ quan và công chức nhà nước.
Như vậy, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước gắn với một giai cấp mà là
hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm tổ chức hoạt động của nhà nước tuân theo quy
định của pháp luật, thực hiện được quản lý xã hội theo pháp luật, bảo đảm chủ quyền và quyền
tự do, dân chủ của nhân dân.
*Tư tưởng HCM về Nhà nước pháp quyền:
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật
kiểu mới và vận dụng phù hợp với thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
ở nước ta, trên quan điểm này có thể khái quát nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà
nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, quản lý xã hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích
và hạnh phúc của nhân dân, do Đảng tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đồng thời
chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân dân.
- Nhà nước hợp pháp, hợp hiến:
Khi trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3/9/1945), Hồ Chí Minh đề
nghị: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng
hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Có một Nhà nước như vậy mới có
cơ sở pháp lý để làm việc với quân đồng minh, mới có mối quan hệ quốc tế bình đẳng với các
nước khác, mới thiết lập được một cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng thông lệ của một Nhà
nước pháp quyền hiện đại.
Ngày 2/3/1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã họp phiên đầu tiên, lập
ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà nước, Hồ Chí Minh được bầu làm
chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên, Chính phủ chính thức là chính phủ hợp hiến ra đời. Đây
là Chính phủ có đầy đủ giá trị pháp lý để giải quyết những vấn đề đối nội và đối ngoiaj.
- Nhà nước thượng tôn pháp luật
Thực hiện công tác lập pháp, xây dựng hệ thống pháp luật dân chủ và hiện đại.
Chú trọng đưa pháp luật vào trong cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành và có cơ
chế giám sát việc thi hành pháp luật. Cần phải “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Hồ Chí Minh cho rằng pháp luật
là công cụ quyền lực của nhân dân nên phải làm cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng lOMoAR cPSD| 22014077
quyền dân chủ của mình, muồn thề phải nâng cao trình độ hiểu biết và năng lực sử dụng pháp
luật của người dân, nâng cao trình độ dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, giáo
dục ý thức tuân thủ và tôn tròn pháp luật. Công tác giáo dục pháp luật cho mọi người đặc biệt
là thế hệ trẻ vô cùng quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật. Người tuyên bố: “Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng
với những người viết cải tà quy chính, nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ
đã bán nước buôn dân”. Muốn thế pháp luật phải đúng và đủ, tuyên truyền giáo dục cho nhân
dân, người thực thi pháp luật phải thực sự công tâm, nghiêm minh, không lẫn lộn giữa công và tội.
Khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc của Nhà nước, giám sát quá trình Nhà
nước thực thi pháp luật, đồng thời không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương
mẫu trong việc tuân thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp. - Pháp quyền nhân nghĩa:
“Pháp quyền nhân nghĩa” có nghĩa là Nhà nước phải tôn trọng, đảm bảo thực hiện đầy đủ các
quyền con người, chăm lo đến lợi ích của mọi người.
Người đề cập đến các quyền tự nhiên của con người, trong đó quyền cao nhất là quyền sống,
đồng thời cũng đề cập đến cả các quyền chính trị - dân sự, quyền kinh tế, văn hoá, xã hôij của
con người. Người chú trọng quyền của công dân nói chung, đồng thời cũng chú trọng đến quyền
của những nhóm người cụ thể như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số …
Trong Nhà nước pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện, bảo vệ cái
đúng, cái tốt, lấy mục đích giáo dục, cảm hoá, thức tỉnh con người làm căn bản.
Ngay cả đối với những kẻ phản bội Tổ quốc, Hồ Chí Minh tuyên bố rõ: “Chính phủ Việt Nam
sẽ ngay tha thứ hay trừng trị họ theo luật pháp tuỳ theo thái độ của họ hiện nay và về sau.
Nhưng sẽ không có ai bị tàn sát”.
*Chủ trương của Nhà nước:
- Nhà nước hợp pháp, hợp hiến:
Xây dựng và hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp được coi là một yêu cầu, một nội dung trong
nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà các Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII và XIII đã đề ra.
Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994),
Đảng ta chính thức chủ trương xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Chủ trương đó được khẳng định nhất quán trong các văn kiện Đại hội VIII, IX, X của Đảng.
Đến Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta chính thức khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): “Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo”(31) là một trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang nỗ lực xây dựng.
Kế thừa các bản Hiến pháp trước đó, nhất là bản Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh
trực tiếp chỉ đạo khởi thảo, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện được ý Đảng, lòng dân, tinh thần
dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới. lOMoAR cPSD| 22014077
- Nhà nước thượng tôn pháp luật:
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương tăng
cường pháp chế XHCN, đi liền với quản lý xã hội bằng pháp luật và mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền. Một trong những phương hướng cơ bản nhằm tiếp tục cải cách bộ máy nhà
nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam mà Đại hội VIII đề ra là:
"Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng
pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức"[12]. Có thể nói, việc gắn yêu cầu
tăng cường pháp chế XHCN với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã thể
hiện quyết tâm mạnh mẽ của Đảng ta trong việc đề cao pháp luật trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân".
Đồng thời, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Với các quy định
này, yêu cầu thượng tôn Hiến pháp và pháp luật theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được
Đảng và Nhà nước ta phát triển đầy đủ và hoàn thiện hơn. Nhà nước phải bảo đảm các nguyên
tắc pháp quyền: Đó là một Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; thừa nhận, tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, bảo đảm tỉnh tối cao của Hiến pháp; tổ chức quyền lực nhà nước theo cơ chế quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; và do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế,
chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân;
đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần
“thượng tôn pháp luật”, gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương và thực hành dân chủ xã hội
chủ nghĩa của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã
hội các cấp, của cán bộ, đảng viên”(6). - Pháp quyền nhân nghĩa:
Quyền con người trở thành một thuật ngữ được thừa nhận chính thức trong văn kiện của Đảng
ta trong thời kỳ đổi mới và được ghi nhận trang trọng trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp
năm 2013 và trong các đạo luật. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm
1992 đã giành một điều quy định về quyền con người với nội dung khẳng định: “Ở nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và
xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”
(Điều 50). Quyền con người, quyền công dân trở thành tên của một chương và xuyên suốt nội
dung của cả một chương được đặt sau chương đầu tiên (Chương II) của Hiến pháp năm 2013.
Có thể xem đây là một bước tiến mới về tư duy lý luận, thể hiện sự kế thừa một cách sâu sắc
những giá trị tiến bộ của nhân loại và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hiến pháp năm 2013 là một bước đổi mới căn bản nhận thức lý luận về quyền con người, quyền
công dân, là cơ sở hiến định để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đề cao nhân
tố con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. lOMoAR cPSD| 22014077
Thứ nhất, Hiến pháp năm 1992 thừa nhận thuật ngữ quyền con người, không đồng nhất quyền
con người với quyền công dân, nhưng chưa phân biệt được quyền con người với quyền cơ bản
của công dân trong các quy định của Hiến pháp. Khắc phục thiếu sót đó, Hiến pháp năm 2013
không những bổ sung tên chương mà còn có sự phân biệt sự khác nhau giữa “quyền con người”
và “quyền công dân”
Thứ hai, trách nhiệm của Nhà nước trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân được đề cao và thể hiện xuyên suốt trong bản Hiến pháp. Ngoài
việc quy định thành nguyên tắc: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”(Khoản 1, Điều 14)
Thứ ba, lần đầu tiên giới hạn của các quyền được quy định thành nguyên tắc trong Hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013, theo tinh thần của các công ước quốc tế đã quy định thành nguyên tắc ở
Điều 14, khắc phục sự tùy tiện trong việc hạn chế quyền: “Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Theo đó, từ
nay không ai được tùy tiện cắt xén, hạn chế các quyền, ngoại trừ các trường hợp cần thiết nói trên do luật định.
Thứ tư, một số quyền mới được bổ sung thể hiện bước tiến mới trong việc mở rộng và phát
triển quyền, phản ánh kết quả của quá trình đổi mới gần 35 năm qua ở nước ta. Đó là các quyền:
“Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành” (Điều 43), “Quyền hưởng thụ
và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa”
(Điều 41); “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội” (Điều 34)
Đề 5 – Câu 2: Nhận thức và vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây
dựng đạo đức cách mạng trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân?
*Khái niệm đạo đức cách mạng:
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là nguồn nuôi dưỡng, phát triển con người, là gốc, là nền tảng, là
sức mạnh, là tiêu chuẩn hàng đầu của người cách mạng. Thiếu đạo đức thì không thể thành
người. Bắt nguồn từ chức năng điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của con người, đạo đức cách
mạng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của con người.
*Nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng:
- Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức:
Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bật nhất trong xây dựng nền đạo đức mới, đồng
thời nó còn là ranh giới phân biệt giữa đạo đức cách mạng và đạo đức của các chế độ trước.
Nói nhưng không làm là đặc trưng đạo đức của giai cấp bóc lột. Lời nói phải đi đôi với việc
làm và thực hành đạo làm gương là đoạ đức của người cách mạng nói chung, nằm trong vốn
văn hoá phương Đông nói riêng. Người viết: “nói chung thì các dân tộc phương Đông đều giàu
tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên
truyền”. Người nhấn mạnh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng
sản” mà ta được họ yêu mến… Quần chúng chỉ quý mến những người có tư các đạo đức. Muốn