



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 22014077 CHƯƠNG 1 Câu hỏi: 1.
Tiền đề tư tưởng lý luận dẫn đến hình thành quan điểm của HCM về cách mạng VN 2.
Hãy trình bày suy nghĩ của bản thân về việc kế thừa vận dụng những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc VN đối với sv Luật trong bối cảnh hiện nay. 3.
Hãy phân tích những giá trị văn hoá phương đông mà HCM đã tiếp nhận trên cơ sở đó
để đưa ra quan điểm về xây dựng con người VN (Nho giáo, Phật giáo). Trình bày suy
nghĩ của bản thân về vấn đề vận dụng những giá trị tốt đẹp của Nho giáo và chỉ ra
những mặt không đúng không tốt trong hệ tư tưởng nho giáo mà hcm cho rằng không nên học. 4.
Hãy suy nghĩ khi tiếp nhận giá trị văn hoá phương tây vận dụng vào điều kiện của VN,
HCM đã chủ trương ghi nhận vào HP quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc,... của con người VN như thế nào? 5.
Phân tích những quan điểm của các nhà tư tưởng người pháp, mỹ mà HCM đã có sự
nghiên cứu, vận dụng đưa ra tư tưởng về xây dựng nhà nước VN. (liên hệ với chương 4)
CHƯƠNG 1 => CHỦ YẾU 2 Ý: giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hoá
nhân loại là nền tảng tư tưởng dẫn đến các quan điểm của HCM về nhiều vấn đề (xây dựng
con người, đạo đức, văn hoá, xây dựng NN,...)
1.Tiền đề tư tưởng lý luận dẫn đến hình thành quan điểm của HCM về cách mạng VN
- Thứ nhất là Giá trị truyền thống dân tộc
+ Truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất.
+ Truyền thống đoàn kết, tinh thần tương thân, tương ái, lòng nhân nghĩa.
+ Ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
+ Thông minh, sáng tạo, quý trọng hiền tài
- Thứ hai là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết tương thân, tương ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lý.
+ Hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt
với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm.
+ Người Việt sống với nhau có tình có nghĩa, sống thủy chung, sống biết tôn kính những
người có công với dân, với nước, sống bao dung độ lượng. lOMoAR cPSD| 22014077
+ Nhân dân Việt Nam luôn đề cao nhân nghĩa, trọng hiền tài, chia sẻ những buồn vui sướng
khổ - Thứ ba: Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời; có niềm
tin vào chính nghĩa, tin vào sức mạnh của bản thân và dân tộc
- Thứ tư: Dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản
xuất và chiến đấu, đồng thời là dân tộc ham học hỏi, cầu tiến bộ và không ngừng mở rộng
cánh cửa tiếp nhận tinh hoa văn hoá nhân loại.
2.Hãy trình bày suy nghĩ của bản thân về việc kế thừa vận dụng những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc VN đối với sv Luật trong bối cảnh hiện nay. ● Biểu hiện sinh viên ngày nay
Được sống và học tập trong nhà trường cũng như xã hội luôn coi trọng truyền thống, nên
trong quá trình hình thành lối sống mới của mình, sinh viên Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
và kế thừa, phát huy được những giá trị của văn hóa truyền thống nói chung và giá trị tốt đẹp
trong lối sống dân tộc nói riêng. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Một là, về tư duy, sinh viên ngày nay có tư duy biện chứng ở một trình độ tương đối cao.
Đây vừa là kết quả của sự phát triển tâm lý lứa tuổi, vừa là kết quả của quá trình giáo dục đại
học, đồng thời cũng là hệ quả tác động của tư duy truyền thống. Một trong các nguyên nhân
là sự tiếp xúc giữa sinh viên với các quan hệ xã hội ngày càng trực tiếp hơn, mật thiết hơn đã
dần hình thành thói quen tư duy độc lập với những phán đoán ngày càng toàn diện hơn, khoa
học hơn, từ đó làm cho tư duy logic, tư duy trừu tượng cũng ngày càng phát triển, thế giới
quan, nhân sinh quan từng bước hình thành, tư tưởng và hành vi ngày càng có tính độc lập.
Ngày nay, sinh viên cũng có điều kiện phát triển hơn về mặt trí tuệ nên thông minh hơn, hiểu
biết nhiều hơn, năng động và nhạy cảm hơn. Cùng với sự kế thừa đặc điểm linh hoạt, uyển
chuyển, thiết thực của lối tư duy truyền thống đã giúp cho sinh viên dễ dàng chấp nhận cái
mới, cái văn minh trong quá trình hội nhập. Điều này là cần thiết và phù hợp với bối cảnh hiện nay.
Tuy nhiên, do còn trẻ, ít kinh nghiệm sống, lại chịu tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, của
kinh tế thị trường, nên tư tưởng sinh viên cũng dễ bị dao động, chưa nhất quán, không ít sinh
viên mất phương hướng. Một bộ phận sinh viên còn thụ động, chưa thích nghi với môi trường
thay đổi nhanh chóng, dẫn đến quả học tập còn thấp.
Hai là, trong ứng xử với tự nhiên.
Hầu hết sinh viên hiểu được rằng, để phát triển bền vững đòi hỏi con người phải có mối quan
hệ hài hòa với tự nhiên. Không chỉ dừng lại ở nhận thức, sinh viên ngày nay đang tích cực
hiện thực hóa nhận thức đó bằng các hoạt động, phong trào cụ thể để bảo vệ, cải thiện tự lOMoAR cPSD| 22014077
nhiên, bảo vệ môi trường sống của chính mình. Trong thời gian qua, sinh viên cùng đoàn
viên thanh niên cả nước đã rất tích cực và sôi nổi trong công tác bảo vệ môi trường, gây ấn
tượng và tạo được hiệu quả tuyên truyền tốt đẹp tới nhân dân và cộng đồng xung quanh bằng
nhiều hoạt động cụ thể, thiết thực như: dọn vệ sinh, thu gom rác thải đường làng, ngõ, xóm;
trồng, chăm sóc và bảo vệ cây xanh; trồng rừng đầu nguồn, rừng ngập mặn, rừng hoàn
nguyên; vận động nhân dân tại địa phương tham gia xây dựng các công trình nước sạch vệ
sinh môi trường; tổ chức tập huấn về bảo vệ môi trường kêu gọi bảo vệ động vật quý hiếm.
Các hoạt động đã góp phần nâng cao nhận thức của sinh viên, tiến tới hành động đi đầu trong
công tác vận động, tuyên truyền hưởng ứng các chiến dịch:
Ba là, trong ứng xử với các mối quan hệ xã hội
Sinh viên ngày nay đánh giá cao nhu cầu, giá trị bản thân. Họ mong muốn hướng tới một
cuộc sống thỏa mãn được nhu cầu cá nhân và khẳng định giá trị bản thân. Nhiều sinh viên
không nề hà làm mọi việc để học tập với mục đích sau này có cuộc sống tiện nghi, hiện đại.
Giá trị sinh viên hướng đến hầu hết là mưu cầu hạnh phúc, làm giàu trước hết cho bản thân,
sau đó là gia đình, cộng đồng và xã hội. Họ đánh giá cao những giá trị: hòa bình, tự do, học
vấn, nghề nghiệp, việc làm. Ngày nay, sinh viên có xu hướng chọn những ngành dễ kiếm
việc làm, những nghề nghiệp có thu nhập cao, có điều kiện thể hiện, phát triển năng lực bản thân.
Sinh viên ngày nay đã thể hiện sự “thông thoáng”, năng động, tích cực, chủ động trong giao
tiếp xã hội, đặc biệt sinh viên từ nông thôn, miền núi ra thành phố học tập đã hòa nhập nhanh
chóng trong quan hệ xã hội phức tạp ở đô thị. Quan hệ thầy trò ngày nay có sự chủ động, tích
cực, thiết thực. Quan hệ tình bạn, tình yêu đa dạng, phong phú, sinh động và thực tế hơn trước
đây. Họ được tự do thể hiện lối sống của mình trong những quan hệ phức tạp, đó là sự trải
nghiệm để trưởng thành. ● Mặt tích cực:
- Phần lớn sinh viên Việt Nam đang kế thừa, phát huy được các giá trị truyền thống của
dân tộc, biết ứng xử có văn hóa trong mọi quan hệ xã hội, như biết kính trên nhường
dưới, biết sống vì người khác, quan tâm đến những người xung quanh, đến cộng đồng, biết chia sẻ.
- Bắt nguồn từ nhận thức đúng đắn, hiểu biết phong tục tập quán, bản sắc văn hóa dân
tộc mình và các dân tộc khác cũng như hiểu được tính cách của người khác, từ đó có
cách ứng xử đúng đắn, tôn trọng lẫn nhau giữa người với người.
- Không ít sinh viên luôn nghiêm khắc với chính mình, luôn tự phê bình, rút ra những
ưu điểm để phát huy và khắc phục những hạn chế, thiếu sót; luôn tôn trọng người lOMoAR cPSD| 22014077
khác, như kính trọng thầy cô, yêu thương gia đình, thân thiện với bạn bè, thấy được
nghĩa vụ lớn lao đối với xã hội, có quan niệm đúng đắn về tình yêu để giải quyết hài
hòa quan hệ giữa tình yêu và sự nghiệp, từ đó luôn cố gắng, nỗ lực vượt qua mọi khó
khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, để có sự nghiệp vững vàng, tình yêu trong sáng.
● Mặt tiêu cực: sự hình thành và tồn tại lối tư duy thực dụng.
- Nhiều sinh viên chỉ chú ý đến những vấn đề trước mắt, không chú ý đến tương lai lâu
dài của bản thân cũng như gia đình, xã hội.
- Việc học tập của một bộ phận sinh viên không nhằm trang bị kiến thức tạo hành trang
cho tương lai, mà chủ yếu lấy được tấm bằng đại học để tìm việc làm có thu nhập cao.
Nhiều sinh viên tìm mọi cách, trong đó có những cách tiêu cực (như gian lận trong thi
cử,…) để có được điểm cao dẫn đến kết quả học tập không phải thực chất, mà chỉ mang tính hình thức.
- Và thực trạng thất nghiệp của sinh viên ra trường trong những năm gần đây đã phản
ánh tương đối đầy đủ hệ quả của lối tư duy thực dụng trong học tập của sinh viên.
- Một trong những đặc trưng của lối sống truyền thống là đề cao kinh nghiệm, không
chú trọng đến tư duy khoa học cũng có ảnh hưởng tiêu cực đến lối tư duy của sinh
viên hiện nay. Đây là một trong những nguyên nhân giải thích cho thực trạng thành
tích nghiên cứu khoa học còn yếu kém ở sinh viên hiện nay.
- Việc đề cao tính cộng đồng, tính tập thể trong lối sống truyền thống cũng dẫn đến sự
lệ thuộc vào cộng đồng, tập thể của cá nhân. Điều này dẫn đến tính tự chủ, độc lập của
sinh viên chưa cao và là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu tự tin của sinh
viên trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
3.Hãy phân tích những giá trị văn hoá phương đông mà HCM đã tiếp nhận trên cơ sở
đó để đưa ra quan điểm về xây dựng con người VN (Nho giáo, Phật giáo). Trình bày
suy nghĩ của bản thân về vấn đề vận dụng những giá trị tốt đẹp của Nho giáo và chỉ ra
những mặt không đúng không tốt trong hệ tư tưởng nho giáo mà hcm cho rằng không nên học
A. Những giá trị văn hoá phương Đông mà HCM đã tiếp nhận để đưa ra quan
điểm về xây dựng con người VN Nho giáo:
Triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, mong muốn một xã hội bình trị
(một xã hội không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng), tư tưởng trọng dân, đề cao văn hóa, lễ
giáo, đã tạo nên truyền thống hiếu học, tu thân dưỡng tính… Phật giáo:
HCM tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc: lOMoAR cPSD| 22014077
- tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân;
- nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện
- tinh thần bình đẳng, dân chủ chống phân biệt đẳng cấp
- đề cao lao động, chống lười biếng
- chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó với dân, với nước, tích cực tham
gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc
B.Trình bày suy nghĩ của bản thân về vấn đề vận dụng những giá trị tốt đẹp của Nho
giáo và chỉ ra những mặt không tốt trong hệ tư tưởng Nho giáo mà HCM cho rằng
không nên học - Những giá trị tích cực:
+ Thứ nhất, về quan niệm giáo dục, Nho giáo đã chủ trương “hữu giáo vô loại”. Có thể nói
đây là chủ trương bình dân hóa trong giáo dục. Quan điểm đó đã vượt qua đẳng cấp, danh
phận trong xã hội để góp phần đưa sự nghiệp giáo dục con người đến với mọi tầng lớp, giai
cấp trong xã hội. Cũng từ quan điểm này, Nho giáo đã phá vỡ đặc quyền của tầng lớp quan
lại, quý tộc, làm cho giáo dục mang tính chất phổ cập bình dân.
+ Thứ hai, về mục đích giáo dục, Nho giáo đã nhận thấy vai trò quan trọng và quyết định của
giáo dục trong sự phát triển chung của xã hội. Vì thế, mục đích của giáo dục theo quan điểm
của Nho giáo là rất đúng đắn, thiết thực.
+ Thứ ba, về nội dung giáo dục, chủ yếu là giáo dục đạo làm người. Nho giáo hướng đến dạy
đạo trị nước cho con người với mục đích quan trọng là đào tạo ra những con người có đức,
có tài để bổ sung vào đội ngũ quan lại. Chính điều đó đã làm cho mỗi người học có tinh thần
trách nhiệm, có ý chí phấn đấu, luôn coi trọng tinh thần, danh dự, đạo đức, khí tiết.
+ Thứ tư, về phương pháp giáo dục, chứa đựng nhiều điểm tích cực và tiến bộ. Các nhà Nho
đã đưa ra những phương pháp rất cụ thể như dạy từ xa đến gần, từ dễ đến khó, tùy theo từng
đối tượng mà áp dụng những phương pháp dạy học khác nhau, kết hợp giữa học tập và suy
nghĩ, học và hành, phát huy ý thức và tính sáng tạo của người học, kết hợp giữa thầy và trò
trong giáo dục… - Những hạn chế, nhược điểm:
+ Thứ nhất, về quan niệm giáo dục, mặc dù coi giáo dục là bình đẳng với tất cả mọi người
nhưng trong giáo dục lại phân biệt từng loại người khác nhau.
+ Thứ hai, về mục đích giáo dục, Nho giáo luôn đánh giá thấp khả năng nhận thức của tầng
lớp dưới so với bậc quan lại và quý tộc.
+ Thứ ba, về nội dung giáo dục, mặc dù đề cao việc giáo dục đạo đức trong hoàn cảnh xã hội
lúc bấy giờ là rất quan trọng và cần thiết nhưng nội dung giáo dục đó chưa đủ, mang tính lý
tưởng nhiều hơn hiện thực. lOMoAR cPSD| 22014077
+ Thứ tư, về phương pháp giáo dục, hạn chế rõ nét nhất là mặc dù đề ra chủ trương cần áp
dụng phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học nhưng các nhà
Nho lại bó hẹp sự sáng tạo trong khuôn khổ sẵn. Điều đó đã khiến cho những phương pháp
giáo dục của Nho giáo dù rất tiến bộ nhưng không thật sự triệt để.
Ảnh hưởng tích cực của Nho giáo thể hiện ở những điểm sau:
Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và bảo vệ chủ quyền dân
tộc. Công lao của Nho giáo là góp phần đào tạo tầng lớp nho sĩ Việt nam, trong đó có nhiều
nhân tài kiệt xuất như Lê Quý Đôn, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ngô Thì Nhậm…
Những thể chế chính trị, lễ nghi đạo đức Nho giáo đã du nhập vào Việt nam. Chịu ảnh
hưởng của Nho giáo, dòng văn minh dân gian làng xã được phổ biến và phát triển, thể hiện ở
các cuộc đua, vui chơi, hoa văn trang trí đền chùa… Các tư tưởng đấng trượng phu, quân tử,
quan hệ tam cương, tam tòng tứ đức, thủ tục ma chay, cưới xin, các quy định về tôn ti trật
tự,… ảnh hưởng rất đậm nét ở Việt nam, nhất là bắt đầu từ đời nhà Lê, khi Nho giáo bắt đầu
thống trị và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến.
Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo Nhân – Nghĩa
– Lễ – Trí – Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước. Nhiều ý nghĩa giá trị của những chuẩn mực đạo đức
Nho giáo đã được quần chúng nhân dân sử dụng trong nền đạo đức của mình. Ví dụ như: (Tiểu
Luận: Nho giáo và ảnh hưởng của nho giáo ở Việt Nam)
“Tiên học lễ, hậu học văn” là khẩu hiệu trong các trường học Việt nam từ xưa đến nay.
Bác Hồ cũng từng sử dụng những thuật ngữ đạo đức của Nho giáo và đã đưa vào đó những
nội dung mới như: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, trung, hiếu, …”
+ Tư tưởng “Trăm năm trồng người” và “Hữu giáo vô loại” (nghĩa là dạy học cho mọi
người không phân biệt đẳng cấp) của Khổng Tử đã được
Đảng Cộng sản Việt nam vận dụng trong công cuộc xây dựng đất nước.
Ảnh hưởng chính của Nho giáo là thiết lập được kỷ cương và trật tự xã hội. Nho giáo
với các tư tưởng chính trị – đạo đức như “Chính danh”, “Nhân trị”, “Nhân chính” luôn luôn
là bài học quý giá và được vận dụng trong suốt lịch sử Việt nam.
Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” đã viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, và
“Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân để thay cường bạo”. lOMoAR cPSD| 22014077
Đảng ta thực hiện đường lối lấy dân làm gốc với khẩu hiệu: “Dân giàu, nước mạnh”
và “Chúng ta không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”. (Tiểu Luận: Nho giáo và ảnh hưởng
của nho giáo ở Việt Nam)
Bác Hồ khi kế thừa các tư tưởng triết học Nho giáo đã tinh lọc, loại bỏ những tư tưởng
không phù hợp với thời đại và hoàn cảnh của Việt nam lúc bấy giờ. Chẳng hạn Khổng Tử
cho rằng: “Thứ dân bất nghị” tức là dân thường không có quyền bàn việc nước, còn Bác Hồ
đề cao dân chủ. Khổng Tử coi thường vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội thì Bác Hồ
chủ trương nam nữ bình quyền.
Giá trị tốt đẹp:
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái, khoan
dung, độ lượng với nhau.
Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và hành vi ứng
xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép.
Xét theo phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy
trì trật tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa.
Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm;
trong gia đình phải có gia pháp thì mới có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp
sống trên kính dưới nhường.
Tư tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của
mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt
là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền). Theo Nho giáo, đạo
đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì vậy, Khổng
Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người dưới.
Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo đã tạo
nên một lớp người sống có đạo đức. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương
sáng ngời về đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của
Nho giáo, người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm
hóa lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua quan.
Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ trong bộ
máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục. Nho giáo coi
những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà vua có tội. Nho giáo lOMoAR cPSD| 22014077
đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ giáo. Muốn thực hiện được
đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị, bình”.
Một số tác động tiêu cực, cụ thể là:
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc và các mối
quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm pháp luật. Coi trọng đạo
đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm.
Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân
thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa
người thân, anh em họ hàng vào cơ quan mình đang quản lý.
Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi hỏi của công việc mà
dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ.
Trong công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa phương.
Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà trong thực
tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách và luật pháp để trục
lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải
quyết các công việc chung.
Một trong những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết đoán
theo kiểu độc đoán, chuyên quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo thủ là
cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp trẻ, trọng
nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của không ít người.
Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng nhân
dân sẽ không phát huy được khả năng sáng tạo, chủ động được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang rất cần những con người năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên nhiều người
đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú cháu”, “anh em” khiến cho
người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú
dẫn đến những quyết định thiếu khách quan, không công bằng.
Khổng Tử coi thường vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội thì Bác Hồ chủ
trương nam nữ bình quyền. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo
không tin vào khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ lOMoAR cPSD| 22014077
là người thừa hành mà không được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại cho việc đấu tranh
vì quyền bình đẳng giới.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng nhắc đã tạo nên
những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. Những tàn dư tư tưởng
trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay. => KẾT LUẬN
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã có ảnh hưởng
đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt vừa có tính tích cực, vừa có những
hạn chế nhất định. Để xây dựng đạo đức mới cho con người Việt Nam hiện nay chúng ta cần
kế thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tư
tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài.
4.Hãy suy nghĩ khi tiếp nhận giá trị văn hoá phương tây vận dụng vào điều kiện của
VN, HCM đã chủ trương ghi nhận vào HP quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu
cầu hạnh phúc,... của con người VN như thế nào?
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm
1789 được ra đời từ sau cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ
và cuộc đại cách mạng tư sản Pháp. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ thời kỳ Khai
sáng, hai bản Tuyên ngôn là những lời khẳng định đầy sức thuyết phục về quyền con người,
quyền dân tộc, về nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ
phong kiến chuyên chế hướng con người vươn tới các giá trị dân chủ, giá trị nhân văn cao cả
về tự do, bình đẳng, bác ái.
Xét về mặt lý luận cũng như thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho nền
lập hiến Việt Nam nói chung và cho việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người, quyền công
dân bằng Hiến pháp nói riêng.
Xét về phương diện lịch sử, nếu quyền con người, quyền công dân ở các nước tư bản ra đời
gắn liền với cuộc cách mạng tư sản xóa bỏ chế độ thần dân phong kiến, thì ở nước ta quyền
làm người, quyền công dân gắn liền với cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc, xoá bỏ chế
độ thực dân lẫn xã hội thần dân.
=> Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, Hiến pháp đã trang trọng ghi nhận quyền con người,
quyền công dân- một trong những nội dung cơ bản nhất của Hiến pháp. lOMoAR cPSD| 22014077 -
Một là, quyền công dân gắn liền với quyền con người, với việc xác lập chủ quyền dân
tộc, chủ quyền quốc gia là khởi điểm để nhân dân Việt Nam trở thành người chủ của đất nước
và mưu cầu hạnh phúc. Do đó, có thể nói rằng, quyền con người và quyền công dân ở Việt
Nam ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hiến pháp 1946. -
Hai là, quyền con người, quyền công dân thể hiện một cách nhất quán trong Hiến
pháp là ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam.Hiến pháp đầu tiên
1946, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính quyền của ai, phục vụ ai xuyên suốt toàn bộ nội dung.
Khẳng định nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xác định bản chất Nhà
nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. -
Ba là, các quyền con người và quyền công dân thể hiện trong các bản hiến pháp của
Việt Nam rất rộng rãi và có tính tiên tiến. Điều đó thể hiện ở chỗ, ngay từ Hiến pháp 1946,
các quyền tự do, bình đẳng, dân chủ được trang trọng ghi nhận cùng với cơ chế đảm bảo thực
hiện các quyền đó. Đất nước ngày càng được củng cố và phát triển, các quyền con người và
quyền công dân cũng ngày càng được mở rộng và phát triển cả về số lượng và chất lượng;
thể hiện nấc thang cao hơn về thể chế và cơ chế đảm bảo thực hiện. Khác với bản chất chính
trị - giai cấp trong xã hội tư bản, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, các quy định pháp lý về sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước không nhằm hạn chế các quyền tự do mà nhằm
phát triển hoàn thiện hơn các quyền tự do của con người. Điều đó thể hiện tính chất tiên tiến
của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam. Bình đẳng về chính trị là
nội dung cốt lõi xuyên suốt các bản hiến pháp. Trong đó, đặc biệt coi trọng quyền bình đẳng
trong bầu cử, ứng cử, tham gia xây dựng chính quyền các cấp giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc đa số.
5.Phân tích những quan điểm của các nhà tư tưởng người pháp, mỹ mà HCM đã có sự
nghiên cứu, vận dụng đưa ra tư tưởng về xây dựng nhà nước VN.
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
năm 1789 được ra đời từ sau cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc
Mỹ và cuộc đại cách mạng tư sản Pháp. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ thời kỳ
Khai sáng, hai bản Tuyên ngôn là những lời khẳng định đầy sức thuyết phục về quyền con
người, quyền dân tộc, về nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” trong cuộc đấu tranh chống lại
chế độ phong kiến chuyên chế hướng con người vươn tới các giá trị dân chủ, giá trị nhân văn
cao cả về tự do, bình đẳng, bác ái. Các bản Tuyên ngôn khẳng định những quyền con người lOMoAR cPSD| 22014077
cơ bản nhất đó là quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng, quyền tư hữu tài sản. Đó là
“quyền tự nhiên, không thể chuyển nhượng và bất khả xâm phạm của mỗi con người”(1).
Trong bản Tuyên ngôn độc lập nước Mỹ, tác giả Thomas Jefferson khẳng định các nước
thuộc địa phải có quyền là quốc gia tự do và độc lập và từ việc xóa bỏ quyền thống trị của
thực dân Anh, cuộc đấu tranh vì nền độc lập của các bang thuộc địa ở Bắc Mỹ cũng nhằm tới
tranh đấu cho các quyền tự nhiên của riêng mỗi con người. Với những giá trị to lớn như vậy
hai bản Tuyên ngôn đánh mốc dấu son trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và giải
phóng con người. Đó là bản Tuyên ngôn mang đậm giá trị nhân văn, nhân bản, là nền tảng
để xây dựng các bản Hiến pháp dân chủ tiến bộ của nước Pháp, nước Mỹ sau đó.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nêu rõ:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng
về quyền lợi”(2). Trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Việt Nam, từ những dòng đầu
tiên, Hồ Chí Minh đã trích dẫn những câu nổi tiếng nhất trong hai bản Tuyên ngôn lịch sử đó
với thái độ rất trân trọng: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc…”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ những giá
trị nhân văn cao cả, mang tính phổ quát toàn nhân loại làm cơ sở, mục tiêu cho cuộc đấu tranh
của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Người khẳng định cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam
cũng là nhằm thực hiện những quyền chính đáng, thiêng liêng không ai có thể xâm phạm, là
sự tiếp nối của lá cờ giải phóng dân tộc, giải phóng con người mà các cuộc cách mạng Pháp,
cách mạng Mỹ đã giương cao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa và mở rộng, phát triển vượt bậc những giá trị của các
bản Tuyên ngôn trước đó trong thời đại mới. Trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, nguyên bản câu
“tất cả mọi người” là “tất cả đàn ông” (All men). Nguyên bản của câu đó là đặt trong bối cảnh
nước Mỹ những năm cuối thế kỉ XVIII khi chế độ nô lệ còn tồn tại, sự phân biệt và kỳ thị
chủng tộc rất nặng nề, những người đàn ông có quyền mà Tuyên ngôn đề cập đến chỉ là những
người đàn ông da trắng. Như vậy, các quyền cơ bản của con người, quyền vốn có ấy lại không
dành cho tất cả mọi người, mà chỉ dành cho đàn ông da trắng. Còn với Hồ Chí Minh, Người
khẳng định một cách rõ ràng, quyền là dành cho “tất cả mọi người”, không phân biệt địa vị,
thành phần, tôn giáo, giới tính, sắc tộc. Đó là sự mở rộng tuyệt đối, đem lại những giá trị to
lớn và phù hợp với sự phát triển tiến bộ của nhân loại.
Cũng từ việc khẳng định đạo lý và chính nghĩa của nhân loại, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ
mặt giả dối, bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp. Trong Tuyên ngôn độc lập, Người lOMoAR cPSD| 22014077
đã khái quát một cách sâu sắc tội ác của thực dân Pháp trong gần 100 năm cai trị ở đất nước
ta trên tất cả các mặt, đặc biệt là việc chà đạp, tước đoạt quyền các quyền tự nhiên của con
người, của dân tộc. Và từ đó, Người khẳng định: trong thời đại mới, không chỉ chế độ phong
kiến chuyên chế mà chủ nghĩa thực dân với bản chất tàn bạo của nó cần được xóa bỏ, để bảo
vệ quyền và nhân phẩm của con người. Khi còn chủ nghĩa thực dân, còn tình trạng dân tộc
này áp bức, nô dịch dân tộc khác thì chắc chắn quyền con người ở các dân tộc thuộc địa, phụ
thuộc bị chà đạp, không được ghi nhận và thực hiện.
Một điểm đáng chú ý nữa là từ quyền của con người, Hồ Chí Minh đã suy rộng ra quyền dân
tộc “các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền
sung sướng và quyền tự do”(3). Từ quyền con người, Người suy rộng ra quyền dân tộc cũng
là quyền tự nhiên, thiêng liêng “là lẽ phải không ai chối cãi được”(4). Nếu như trong bản
Tuyên ngôn của nước Mỹ đã đề cập đến cả quyền con người, quyền dân tộc, thì đến bản
Tuyên ngôn của Việt Nam đã gắn kết hai phạm trù pháp lý cơ bản này trong mối liên hệ biện
chứng, chặt chẽ với nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con
người và ngược lại thực hiện quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý
nghĩa thật sự của độc lập dân tộc. Quyền con người cao nhất chính là được sống trong đất
nước tự do, là công dân của một nước độc lập.
Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh đã mở rộng nội hàm khái niệm quyền dân tộc cả chiều rộng và
chiều sâu, mà các bản Tuyên ngôn trước chưa đề cập đến. Xuất phát từ hoàn cảnh nước Việt
Nam thuộc địa vừa mới giành độc lập và bối cảnh lịch sử quốc tế bấy giờ, Hồ Chí Minh khẳng
định: quyền dân tộc không chỉ là quyền dân tộc tự quyết, mà còn là quyền bình đẳng, quyền
tự do, quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Độc lập dân tộc đã gắn bó mật thiết với các
nguyên tắc dân tộc bình đẳng và tự quyết, với quyền sống và quyền hạnh phúc của mỗi dân
tộc. Hơn nữa, quyền độc lập, bình đẳng ở đây phải được xác lập trong mối quan hệ với tất cả
các nước trên thế giới, không phân biệt lớn nhỏ, mạnh yếu hay khác nhau về thể chế chính
trị. Vì thế, Tuyên ngôn độc lập không còn chỉ dành riêng cho dân tộc Việt Nam mà đó còn là
sự cổ vũ, lời khẳng định thiêng liêng của tất cả các dân tộc trên thế giới, đặc biệt là các dân
tộc nhỏ yếu đang chịu sự cai trị của chủ nghĩa thực dân.
Từ quyền con người suy rộng ra quyền dân tộc, Tuyên ngôn độc lập đã góp phần tạo lập và
khẳng định một nền pháp lý và công lý mới của văn minh nhân loại, hướng tới công bằng,
bình đẳng, xóa bỏ ách áp bức, bóc lột, bất công trên bình diện quốc gia và quốc tế. Công lý
ấy về sau không chỉ trở thành nguyên tắc lập hiến của Việt Nam, của nhiều quốc gia khác mà lOMoAR cPSD| 22014077
trở thành điều khoản pháp lý quốc tế khi nó đã được ghi vào Liên hợp quốc với các công ước
quốc tế liên quan đến chủ quyền quốc gia, về quyền độc lập dân tộc và quyền tự quyết.
Hai bản Tuyên ngôn nước Pháp, nước Mỹ đề cập đến quyền con người, quyền dân tộc là
quyền thiêng liêng, là một tất yếu của tạo hóa. Nhưng là người dân của một nước thuộc địa,
Hồ Chí Minh thấu hiểu sâu sắc rằng quyền thiêng liêng, vốn có ấy không phải tự nhiên mà
có được, mà phải đổ máu, hy sinh, phải đấu tranh với quyết tâm “ thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(5). Đứng trước những thử thách
khắc nghiệt của lịch sử, một dân tộc không biết đấu tranh cho độc lập, tự do thì cũng không
xứng đáng được hưởng nền độc lập, tự do. Bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên
nước Việt Nam độc lập… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay,
một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó
phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(6). Dân tộc đó còn có quyết tâm sắt đá “đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!”(7).
Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập thực sự là một mốc son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam,
cũng như trong cuộc đấu giải phóng của các dân thuộc địa. Nếu hai bản Tuyên ngôn của Pháp
và Mỹ đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc đấu tranh chống chế độ phong kiến, trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng con người; thì Tuyên ngôn độc lập báo hiệu một thời đại mới,
thời đại giải phóng các dân tộc khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân trên quy mô toàn thế
giới; thời đại của các dân tộc bị áp bức, bóc lột giành lại quyền sống, quyền độc lập, tự do. CHƯƠNG 2 Câu hỏi: 1.
Phân tích những quan điểm cơ bản của HCM về vấn đề độc lập dân tộc. (quan điểm đó gồm quan điểm nào)
Độc lập tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc => quan điểm xuất phát từ cơ sở nào?
Độc lập dân tộc phải gắn với cuộc sống ấm no hạnh phúc của nhân dân => Phân tích nội hàm
nhân dân (thế nào là tự do, thế nào là ấm no, thế nào là hạnh phúc)
Thế nào là độc phải là thực sự hoàn toàn và triệt để 2.
Vận dụng quan điểm của HCM, trình bày suy nghĩ của bản thân về vấn đề xử lý mqh
giữa các dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
1.Phân tích những quan điểm cơ bản của HCM về vấn đề độc lập dân tộc
A. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc lOMoAR cPSD| 22014077
Lịch sử dân tộc VN gắn với truyền thống yêu nước, đấu tranh chống giặc ngoại xâm
Đầu thế kỷ XX, VN là một quốc gia mất độc lập. Khi đất nước bị xâm lược, độc lập tự do là
khát vọng của dân tộc. Đó là lẽ sống, nguồn cổ vũ to lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên
thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Vì vậy, khi chưa có
độc lập thì phải quyết tâm đấu tranh để giành độc lập dân tộc
Độc lập tự do là khát vọng lớn nhất của HCM và nhân dân Việt Nam
+ Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là
tất cả những điều tôi hiểu”.
Năm 1945, tình hình chiến tranh thế giới thứ 2 chuyển biến mau le, có lợi cho cách mạng,
trong nước nhân dân ta sống trong nỗi thống khổ, lầm than, vấn đề giành được độc lập được
đặt ra cấp bách hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, HCM đã nêu lên quyết tâm phải đứng
lên đấu tranh, giành bằng được độc lập dân tộc: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập!” (8/1945)
Khi đã dành được độc lập, tư do, phải kiên quyết giữ vững nền độc lập, tự do ấy
+ Thể hiện trong bản “Tuyên ngôn độc lập năm” 1945
CMT8 năm 1945 thành công, trong bản TNĐL, HCM thay mặt chính phủ lâm thời nước VN
dân chủ cộng hoà, trinh trọng tuyên bố với thế giới, toàn thể quốc dân đồng bào rằng nước
VN đã thành một nước tự do và độc lập; toàn thể dân VN quyết giữ vững quyền tự do độc lập ấy.
+ Trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” 1946
Ý chí và quyết tâm còn được thể hiện trong 2 cuộc kháng chiến chống pháp và Mỹ. Khi thực
dân Pháp xâm lược lần 2, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 1946, người ra quyết tâm
bằng được nền độc lập dân tộc- giá trị thiêng liêng mà nhân dân VN mới giành được
B. Độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, ấm no và hạnh phúc của nhân dân
- Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người
đánh giácao học thuyết “tam dân" của Tôn Trung Sơn: dân tộc độc lập,dân quyền tự do, dân
sinh hạnh phúc. - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước nhà được độc lập,
HồChí Minh tiếp tục khẳng định độc lập phải gắn với tự do. Dân chúng chỉ cảm nhận được
những giá trị thực sự của độc lập, tự do khi họ được ăn no, mặc ấm, được học hành để phát
triển, có hiểu biết để thực hành dân chủ, quyềnvà nghĩa vụ của người công dân.
C. Độc lập dân tộc phải là nền độc lập thật sự, hoàn toàn và triệt để
- Người nhấn mạnh: Độc lập mà người dân không có quyền tự quyết về ngoại giao, không có
quânđội riêng, không có tài chính riêng…, độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì. lOMoAR cPSD| 22014077
- Vì vậy, ngày 6.3.1946 Người thay mặt Chính phủ ký với Pháp Hiệp định sơ bộ.
- Đây là thắng lợi bước đầu của một sách lược ngoại giao hết sứckhôn khéo, mềm dẻo, linh
hoạtnhưng có nguyên tắc, một phương pháp biết thắngtừng bước của Hồ Chí Minh và là
một minh chứng cho tính đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh.
D. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
- 1946 trong bức Thư gửi đồng bào nam bộ HCM khẳng định: “ Đồng bào Nam bộ là dân Việt Nam,
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”
- Tháng 2.1958 Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”.
- Trong Di Chúc Bác viết: “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định hoàn toàn
thắnglợi. Đế quốc Mỹ nhất định cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng
bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”. Đến cuối đời Người vẫn đặt niềm tin tuyệt
đối vào sự thắng lợi của cách mạng, sự thống nhất nước nhà.
- Thực hiện tư tưởng trên của Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã tiến hành giải phóng miền
Nam,thống nhất đất nước năm 1975 và độc lập dân tộc từ đó gắn liền với toàn vẹn lãnh thổ.
=> KẾT LUẬN: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn với thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ là
tư tưởng xuyên suốt trong nhận thức và cuộc đời hoạt động cách mạng của HCM.
2.Vận dụng quan điểm của HCM, trình bày suy nghĩ của bản thân về vấn đề xử lý mqh
giữa các dân tộc trong bối cảnh hiện nay. CHƯƠNG 3 Câu hỏi:
1. Phân tích quan điểm của HCM về đặc trưng CNXH ở VN (ctr, kinh tế, văn hoá, đạo đức, xã hội)
2. Phân tích quan điểm của HCM về mục tiêu của CNXH ở VN
3. Phân tích thuận lợi và khó khăn của VN khi theo lên con đường CNXH (hiểu đặc điểm của
VN sau khi giành độc lập) (chính trị kinh tế văn hoá giáo dục)
1. Phân tích quan điểm của HCM về đặc trưng CNXH ở VN (ctr, kinh tế, văn hoá, đạo đức, xã hội)
Về kinh tế: chế độ sở hữu công cộng và phân phối theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có phúc lợi XH. Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Về chính trị: chế độ chính trị do nhân dân làm chủ lOMoAR cPSD| 22014077
Về văn hoá, đạo đức và các quan hệ XH: xã hội chủ nghĩa có trình độ phát triển cao về văn
hoá và đạo đức, đảm bảo công bằng, hợp lý trong các quan hệ XH.
không còn hiện tượng người bóc lột người
con người được tôn trọng, đối xử công bằng, bình đẳng, đoàn kết, gắn bó với nhau… KẾT LUẬN:
là sự kế thừa CN mác-lênin
Vận dụng sáng tạo trong điều kiện cụ thể của VN
2. Phân tích quan điểm của HCM về mục tiêu của CNXH ở VN
❖ Mục tiêu chung: độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, giải phóng con
người một cách toàn diện.
❖ Mục tiêu cụ thể:
Về chế độ chính trị: xây dựng chế độ dân chủ:
- Quyền hành và lực lượng đều ở nhân dân
- Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân.
Về kinh tế: phải xây dựng được nền KT phát triển cao gắn bó mật thiết với mục tiêu về chính trị
- Phát triển công - nông nghiệp hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến
- Cải thiện đời sống vật chất của nhân dân, dần xoá bỏ bóc lột TBCN
- xây dựng nền KT nhiều thành phần, ưu tiên kinh tế quốc doanh
Về văn hoá: Phải xây dựng được nền văn hoá mang tính dân tộc, khoa học, đại chúng và tiếp
thu tinh hoa của nhân loại.
- Phát triển văn hoá giáo dục, năng cao dân trí
- Phát triển văn hoá nghệ thuật
- Giữ gìn, phát triển những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu văn hoá của nhân
loại- Tính chất của nền văn hoá mới:
Về quan hệ XH: phải đảm bảo dân chủ, công bằng, văn minh.
- tôn trọng và bảo vệ quyền con người
- mọi người có quyền sống, làm việc, ứng cử, bầu cử, học tập, tự do tín ngưỡng, ngôn luận, báochí…
- mọi công dân bình đẳng trước pháp luật.
3. Phân tích thuận lợi và khó khăn của VN khi theo lên con đường CNXH (hiểu đặc
điểm của VN sau khi giành độc lập) ● Thuận lợi: lOMoAR cPSD| 22014077
Thực tiễn phát triển của đất nước và xu hướng vận động của thế giới tạo cơ hội chi Việt Nam
phân tích, tổng kết, hình dung và học hỏi được nhiều kinh nghiệm hơn về mô hình và con
đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn này đòi hỏi cần phải đổi mới, cải cách, xây dựng
mô hình Xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn của đất nước. –
Trong điều kiện toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã
thúc đẩy cácquốc gia mở cửa và hội nhập. Đây cũng là một cơ hội tốt để Việt Nam có thể
hợp tác để cùng giao lưu và tìm kiếm nguồn vốn, công nghệ và quản lý. Quá trình giao lưu,
hội nhập tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí, sự hiểu biết lẫn nhau, đồng thời, tạo điều
kiện cho việc tiếp thu các thành tựu và kinh nghiệm phát triển của các nước đi trước, có trình
độ phát triển cao, để phát triển rút ngắn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. –
Hàng loạt các vấn đề toàn cầu xảy ra ngày càng nghiêm trọng, đơn cử như việc biến
đổi khí hậu, ônhiễm môi trường, … đòi hỏi phải có sự chung sức của cộng đồng quốc tế cùng
nhau giải quyết, chứ không phải chỉ một nước, thậm chí một nhóm nước có thể giải quyết
được. Điều này, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc mở rộng cơ hội tập hợp lực lượng tiến bộ. –
Quá trình phát triển của Việt Nam, đặc biệt công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta
khởi xướng vàlãnh đạo trong hơn 30 năm qua đã thu được những kết quả đáng kể. Điều này,
một mặt củng cố và khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa ở nước ta; mặt khác, đó còn là các điều kiện, cơ sở cho việc
tiếp tục vững bước trên con đường đã chọn. ● Khó khăn
Đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội khi các nước đi trước đã và đang gặp nhiều khó
khăn nhất định trong việc tạo lập cơ sở vật chất của xã hội mới, khi mà bản thân điều kiện
vật chất nội tại trong nó còn nhiều hạn chế và nghèo nàn. Ngoài ra, còn có sự chống phá của
các thế lực trong và ngoài nước. –
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế phát
triển mạnhmẽ cũng đặt ra nhiều nguy cơ về việc suy thoái đạo đức, lối sống, nhất là lối sống
thực dụng, thiếu tính nhân văn cũng đang và từng ngày từng giờ tác động đến cán bộ, đảng
viên và nhất là tầng lớp trẻ. Thực tế đó là một thách thức to lớn cho Đảng và Nhà nước ta
trong quá trình xây dựng Đảng, đào tạo nền tảng chính trị xã hội vững chắc trong từng lớp Đảng viên. –
Mặc dù quan điểm chính trị độc lập, chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ luôn được sự
thống nhất và đồng ý của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay lại
đặt ra nhiều thắc thức với Việt Nam hơn trong vấn đề này. Đòi hỏi Việt Nam phải thật khôn lOMoAR cPSD| 22014077
khéo và tế nhị nếu không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển mô hình Xã hội chủ nghĩa của đất nước. CHƯƠNG 4 Câu hỏi:
1. Phân tích quan điểm của HCM về đảng cộng sản trong sạch và vững mạnh
2. Phân tích những nguyên tắc cơ bản trong hđ của đảng (1 - lấy CN mác lênin làm nền tảng tư
tưởng và việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền CN Mác Lênin phải trên tinh thần ntn?)
3. Phân tích quan điểm của HCM về công tác cán bộ Đảng.**
4. Suy nghĩ về mặt tốt và hạn chế của đảng viên (đọc nghị quyết của đảng - NQ HNTW 4, 5 về
công tác xây dựng đảng)
1. Phân tích quan điểm của HCM về đảng cộng sản trong sạch và vững mạnh A.
Đảng là đạo đức, là văn minh
● Đạo đức của đảng thể hiện:
1) Mục đích hoạt động của đảng: làm cho dân tộc được độc lập, nhân dân có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc thực sự, đoàn kết hữu nghị với các dân tộc khác trên thế giới.
2) Cương lĩnh, đường lối, chủ trương và mọi hoạt động thực tiễn của đảng đều phải nhằm
mục đích đó. Đảng phải luôn trung thành với lợi ích của toàn dân tộc; sự ra đời và phát
triển của đảng đều nhằm mục đích làm cho đất nước hùng cường và đi lên CNXH, đem
lại quyền lợi cho nhân dân
3) Đội ngũ đảng viên phải luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện,
suốt đời phấn đầu cho lợi ích dân, của nước. ● Đảng văn minh:
1) Là đảng đại diện cho lương tâm, trí tuệ và danh dự của dân tộc
2) Đảng ra đời là một tất yếu, phù hợp với quy luật phát triển văn minh tiến bộ của dân tộc và nhân loại
3) Đảng luôn trong sạch, vững mạnh
4) Trong giai đoạn cầm quyền, đảng hoạt động theo quy định của hiến pháp và pháp luật.
5) Đảng viên của đảng phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong công tác và cuộc sống hằng ngày lOMoAR cPSD| 22014077
6) Đảng có quan hệ quốc tế trong sáng, hoạt động không những vì lợi ích của dân tộc mà
còn vì độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia khác; vì hòa
bình, hữu nghị và hợp tác phát triển của các dân tộc trên thế giới.
2. Phân tích những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của đảng
A. Nguyên tắc tập trung dân chủ
- Là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, bao trùm quá trình tồn tại và phát triển của tổ chức Đảng
- Tập trung trên nền tảng dân chủ: Tập thể lãnh đạo vì => Tập thể lãnh đạo, nhiều người thì
thấy hết mọi việc, hiểu hết mọi mặt của vấn đề, có nhiều kiến thức, tránh tệ bao biện, quan
liêu, độc đoán, chủ quan.
- Tập thể lãnh đạo là dân chủ: Cá nhân phụ trách vì => Sau khi bàn bạc kỹ lưỡng thì phải giao
cho một người phụ trách để tránh bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ dễ hỏng việc. Cá nhân phụ
trách sẽ tránh được thói dựa dẫm, ỷ lại.
- Hai điều cần tránh trong hoạt động của đảng:
Thứ nhất: độc đoán, chuyên quyền
Thứ hai: dựa dẫm tập thể, không quyết đoán
B. Nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Đây là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật phát triển đảng
+ Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình.
+ Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình.
+ Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm
của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm.
+ Thái độ, phương pháp Tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, thẳng thắn, chân thành,
trung thực, phải có tình yêu thương lẫn nhau.
C. Kỷ luật nghiêm minh, tự giác
+ Kỷ luật đối với mọi đảng viên không phân biệt.
+ Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi hỏi tất cả mọi tổ chức đảng, tất cả mọi đảng viên
đều phải bình đẳng trước điều lệ Đảng, trước pháp luật của Nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng.
D. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn
- Là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong xây dựng đảng
- Mục đích là để đảng luôn lớn mạnh về số lượng và chất lượng
E. Đoàn kết thống nhất trong đảng
- Là điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
- Đoàn kết trên cơ sở CN Mác-lênin và cương lĩnh, nghị quyết, chủ trương, đường lối của đảng lOMoAR cPSD| 22014077
F. Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân
- Đảng là một bộ phận của dân tộc
- Quan hệ giữa ĐCS và giai cấp công nhân, nhân dân VN là quan hệ máu thịt
G. Đoàn kết quốc tế
- Đảng phải chú trọng giữ vững và tăng cường tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng- Cách
mạng VN là một bộ phận của cách mạng thế giới
Quan điểm của HCM về công tác cán bộ Đảng
Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ. Người nhận
thức rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Cán bộ là cái dây chuyền của
bộ máy, là mất khâu trung gian nối liền giữa đảng, nhà nước với nhân dân. Muốn việc thành
công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém. Người cán bộ phải có đủ Đức và tài, phẩm chất
và năng lực, trong đó, Đức, Phẩm chất là gốc.
Hồ Chí Minh cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của đảng. Nội dung của nó bao hàm
các mắt khâu liên hoàn, có quan hệ chặt chẽ với nhau: tuyển chọn cán bộ; đào tạo; huấn luyện,
bồi dưỡng cán bộ; đánh giá đúng cán bộ; tuyển dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ, thực hiện các
chính sách đối với cán bộ. Về công tác cán bộ
- HCM đặc biệt coi trọng công tác cán bộ vì cán bộ là gốc của mọi
công việc - Yêu cầu trong công tác cán bộ: Phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ
Phải chú trọng huấn luyện cán bộ một cách thiết thực, có hiệu quả
Sắp xếp sử dụng đúng cán bộ
Phải kết hợp cán bộ cấp trên đến và cán bộ địa phương
Phải chống bệnh cục bộ địa phương
Phải phòng, chống các tiêu cực trong công tác cán bộ
Phải thường xuyên kiểm tra, giúp đỡ
cán bộ Cán bộ đảng viên: Phải có ĐỨC - TÀI
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên **
- Phải tuyệt đối trung thành với Đảng
- Phải là những người nghiêm chỉnh thực hiện cương lĩnh, đường lối,quan điểm, chủ trương,
Nghịquyết của Đảng và các nguyên tắc xây dựng Đảng.
- Phải luôn luôn tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng.
- Phải luôn luôn học tập, nâng cao trình độ mọi mặt.
- Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
- Phải luôn luôn chịu trách nhiệm, năng động, sáng tạo.- Phải là những người luôn luôn phòng vàchống các tiêu cực
4. Suy nghĩ về mặt tốt và hạn chế của đảng viên ● Mặt tốt: