Phá giá tiền tệ ? Phân tích v p giá tiền
tệ, ảnh ởng việc phá giá tiền tệ
1. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với tài khoản vãng lai
Mục tiêu của phá giá tiền tệ làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa
từ đó cải thiện n cân thanh toán vãng lai. Khi đồng nội tệ giảm giá sẽ
làm tăng tỷ giá danh nghĩa, kéo theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu
hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Khi tỷ giá tăng (phá giá),
giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu nh theo đồng nội tệ
tăng được gọi hiệu ứng giá cả. Khi tỷ giá giảm làm giá hàng xuất khẩu rẻ
hơn đã làm tăng khối lượng xuất khẩu trong khi hạn chế khối lượng nhập
khẩu. Hiện tượng này gọi hiệu ứng khối lượng.
Tuy nhiên, việc cán cân thương mại xấu đi hay được cải thiện tùy thuộc vào
hiệu ng giá cả hiệu ng số lượng i nào trội hơn.
- Trong ngắn hạn, khi tỷ giá ng trong lúc giá cả tiền lương trong nước
tương đối cứng nhắc sẽ làm giá hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở
nên đắt hơn: các hợp đồng xuất khẩu đã được kết với t giá cũ, các doanh
nghiệp trong nước chưa huy động đủ nguồn lực đ sẵn sàng tiến hành sản
xuất nhiều hơn trước nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như
nhu cầu trong nước tăng lên. Ngoài ra, trong ngắn hạn, cầu hàng nhập khẩu
không nhanh chóng giảm còn do m người tiêu dùng. Khi phá giá, giá
hàng nhập khẩu tăng lên, tuy nhiên, người tiêu dùng thể lo ngại về chất
lượng hàng nội chưa hàng thay thế xứng đáng hàng nhập làm cho cầu
hàng nhập khẩu chưa thể giảm ngay. Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong
ngắn hạn không tăng lên nhanh chóng số lượng hàng nhập cũng không
giảm mạnh. Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả thường tính trội hơn
hiệu ng số lượng làm cho cán cân thương mại xấu đi.
- Trong dài hạn, giá hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước
người tiêu dùng trong nước cũng đủ thời gian tiếp cận so sánh chất lượng
hàng trong nước với hàng nhập. Mặt khác, trong dài hạn, doanh nghiệp
thời gian tập hợp đủ các nguồn lực để ng khối lượng sản xuất. Lúc này sản
lượng bắt đầu co giãn, hiệu ứng số lượng tính trội hơn hiệu ứng giá cả
làm cán cân thương mại được cải thiện.
Một số nhân t ảnh hưởng đến thời gian tác động n cán n thương mại sau
khi phá giá bao gồm:
- Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu: Đối với các nền kinh tế
đang phát triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), một số hàng hóa các
nền kinh tế này không thể sản xuất được hay sản xuất được đi nữa thì
chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả thể cao hơn. vậy, mặc giá
nhập khẩu đắt hơn, người tiêu dùng cũng không thể lựa chọn hàng trong
nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu ứng giá cả.
- Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu: Đối với các nước đang phát
triển, yêu cầu về chuẩn hàng hóa tham gia thương mại quốc tế cao, cho nên
một sự phá giá tiền tệ làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm hơn. Điều
này làm cho hiệu ứng khối lượng ít tác động đến cán cân thương mại hơn
các nước đang phát triển. vậy, tác động cải thiện cán cân thương mại
của phá giá các nước phát triển thường mạnh hơn các nước đang phát
triển.
- Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước: Nếu tỷ
trọng này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng n khi
hàng nhập khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất
khẩu khi phá giá. Cho nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng
hàng xuất khẩu.
- Mức độ linh hoạt của tiền lương: Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số
giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, sẽ tăng theo chỉ số
giá. Điều này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước
giảm bớt lợi thế được t phá giá tiền tệ.
- Tâm người tiêu dùng thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước:
Nếu người tiêu dùng trong nước tâm sùng hàng ngoại, thì một sự đắt
lên của hàng nhập sự rẻ đi của hàng trong nước tác động đến hành vi
tiêu dùng của họ, họ sẽ tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc giá đắt hơn.
Tiếp theo, mức độ gia tăng số lượng hàng xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin
tưởng ưa chuộng hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước ngoài.
2. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với lạm phát
Do giá cả nhập khẩu tăng, nên giá cả nội địa cũng thường tăng lên sau khi
thực hiện p giá tiền tệ. Ảnh ởng này sẽ càng lớn nếu nhập khẩu chiếm
một tỉ trọng lớn trong tiêu dùng nội địa nếu nhà xuất khẩu đặt giá nội địa
cao bằng với giá xuất khẩu sang nước ngoài. Việc tăng giá hàng nội địa sẽ
làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giá cả lương. Nếu lương được điều chỉnh
theo mức độ lạm phát thì trong trường hợp này lương sẽ tăng. Như vậy, sẽ
dẫn tới hiện tượng lạm phát leo thang gây ảnh xấu đến tiết kiệm, đầu tư, phát
triển kinh tế, phân bổ thu nhập ng như ổn định chính trị. Ảnh hưởng của
phá giá tiền tệ gây nên lạm phát thể kiểm soát được bằng cách giảm tín
dụng kinh tế giảm thâm hụt ngân sách.
3. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với sản xuất
Trong ngắn hạn, việc tăng giá sẽ làm giảm tiền lương thực tế (trước khi
lương danh nghĩa được điều chỉnh), đồng thời giảm tài sản của người dân
đang được cất giữ dưới dạng đồng tiền nội địa, tài khoản ngân hàng trái
phiếu nội địa. Tài sản của người dân sẽ không bị ảnh hưởng nhiều nếu họ cất
giữ dưới phương thức tài sản nước ngoài. Giảm thu nhập thực tế sẽ hạn chế
người dân tiêu dùng dẫn tới giảm mức chi tiêu của quốc gia. Do vậy, thông
thường sẽ sự tái phân bổ thu nhập tài sản sau khi phá giá tiền tệ. Tuy
nhiên, nếu việc tái phân bổ này được thực hiện nhóm dân số mức tiêu
dùng thấp thì vẫn dẫn tới việc giảm chi tiêu của quốc gia. Việc giảm chi tiêu
thể cải thiện tài khoản vãng lai, nhưng đồng thời cũng làm giảm cầu đối
với hàng hóa nội địa, từ đó gây ra thất nghiệp trong một số ngành kinh tế. Qui
sản xuất sẽ tăng hoặc giảm phụ thuộc vào mức độ chi tiêu chính phủ
tốc đ ảnh hưởng của phá giá tiền t đến việc sản xuất hàng xuất khẩu
hàng thay thế hàng nhập khẩu.
4. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến ngân sách
Phá giá tiền tệ th những ảnh hưởng gián tiếp đến ngân sách, thể
cải thiện hay làm thâm hụt ngân sách. Điều này phụ thuộc vào tầm quan
trọng của các khoản thu chi chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ giá hối đoái.
- Xét về nguồn thu ngân sách bao gồm các khoản như thuế xuất nhập khẩu
viện trợ nước ngoài. Phá giá xu hướng làm tăng thuế thu đối với giao
dịch thương mại nước ngoài. Mức độ ảnh hưởng của chính sách này phụ
thuộc vào tương quan so nh giữa thuế thu từ xuất nhập khẩu tổng thuế
thu được, độ co giãn về thuế, độ co giãn theo giá của xuất nhập khẩu. Nếu
đất nước nhận được một lượng lớn viện trợ nước ngoài, t khoản thu này
cũng sẽ tăng theo t lệ của phá giá tiền tệ.
- Xét về nguồn chi ngân sách gồm những khoản trừ nguồn thu. Trước hết,
nếu đất nước đang một khoản nợ nước ngoài lớn, t việc phá giá tiền tệ
sẽ làm cho họ phải trả khoản lãi suất lớn. Thứ hai, khoản chi của chính phủ
cho mua xăng dầu, máy tính, thiết bị quân sự từ nước ngoài sẽ tăng lên.
5. Những điểm bổ sung phá giá tiền tệ
Khi xem xét nên giá tiền t hay không, c n hoạch định chính sách cần
cân nhắc cẩn trọng các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của phá giá tiền tệ:
- Xuất khẩu sản phẩm nhiều nguồn gốc nhập khẩu: Một số lĩnh vực sản
xuất tại một quốc gia, cần thiết phải nhập nguyên liệu thô hoặc sản phẩm
chế làm đầu vào cho sản xuất xuất khẩu. Trong trường hợp này, phá giá tiền
tệ làm tăng giá thành sản xuất hàng xuất khẩu, làm hạn chế hội giá
cả cạnh tranh hơn so với những hàng xuất khẩu đầu vào chỉ bao gồm
hàng hóa trong nước. Do đó phá giá tiền tệ đặc biệt thuận lợi cho các ngành
sản xuất nguyên liệu đầu vào các hàng hóa nội địa dụ khoáng sản
ng nghiệp.
- Chi phí sản phẩm thiết yếu: Các nước đang phát triển đặc biệt phụ thuộc
vào một số sản phẩm nhập khẩu, đầu tư, năng lượng sản phẩm y tế. Phá
giá tiền tệ làm giá thành c sản phẩm này tương đối đắt đỏ thể tác
động tiêu cực đến tăng trưởng đời sống nhân dân.
- Nợ nước ngoài: Một số nước nghèo luôn trong tình trạng vay nợ nước
ngoài nhiều. Việc phá giá danh nghĩa đồng tiền nội địa làm tăng nợ nước
ngoài tính bằng đồng nội địa. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cho ngân sách
nhà nước, do phải trả lãi, các khoản trả góp nước ngoài cao do đồng
ngoại tệ tăng giá. Trong những trường hợp này, cần thay đổi thuế chi tiêu
chính phủ. Các công ty nhân nợ nước ngoài cũng thể bị ảnh hưởng
lớn đặc biệt nếu sản phẩm của các công ty này hướng vào thị trường nội địa.
- Vấn đề cấu chính sách: Khi tác động của những chính sách như trợ
giá, kiểm soát giá hoặc hạn ngạch xuất khẩu, sẽ làm cản trở sự cân bằng các
nhân tố bên ngoài theo qui luật kinh tế. Những vấn đ này cần được xử
ngay nếu không phá giá tiền tệ sẽ không ý nghĩa.
Phá giá tiền tệ không chỉ tác động đến những vấn đề kinh tế còn nh
hưởng đến những vấn đề mang nh chính trị, hội. thế, để thực hiện
chính sách phá giá đồng nội tệ, các nước đều phải xem xét cân nhắc một
cách kỹ lưỡng các mặt lợi hại của biện pháp này dựa trên tất cả các khía
cạnh của nền kinh tế.
6. Phá giá tiền tệ trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay
6.1 Ảnh hưởng của phá giá đến cán cân vãng lai
Mục tiêu của phá giá để cải thiện cán cân vãng lai, nghĩa góp phần
vào làm giảm sự mất cân bằng giữa tiết kiệm vào đầu tư. Nhưng đối với Việt
Nam, liệu biện pháp phá giá cải thiện được cán cân thương mại hay không
khi hầu hết các mặt hàng sản xuất trong nước đều phụ thuộc vào nguyên vật
liệu nhập khẩu (90% tổng giá trị hàng nhập nhập nguyên vật liệu sản xuất),
ngay cả hàng xuất khẩu ng đến 70% giá trị hàng nhập. Bên cạnh đó,
năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu hàng hóa đủ tiêu chuẩn
xuất khẩu Việt Nam đều còn hạn chế.
Thâm hụt cán cân thương mại đã trở thành một hiện tượng thường nhật trong
cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam trong nhiều năm gần đây. Thực
trạng này bắt nguồn sâu xa từ chính sự mất cân đối trong cấu xuất nhập
khẩu.
- cấu xuất khẩu (Xem bảng 1)
Bảng 1Tỷ trọng một số mặt hàng xuất khẩu chiếm t trọng lớn trong xuất
khẩu giai đoạn 2005- T9/2010
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Thủy sản
8.42%
8.57%
7.66%
7.35%
7.08%
7.38%
Gạo
1.58%
1.23%
0.47%
3.67%
2.93%
4.26%
Dầu thô
21.01%
16.97%
18.83%
11.22%
7.79%
6.07%
Cao su
3.60%
2.83%
3.64%
2.45%
3.60%
3.98%
Gỗ sản phẩm g
5.05%
5.29%
4.89%
5.10%
5.78%
4.59%
Dệt, may
16.16%
13.43%
15.96%
16.73%
16.13%
17.21%
Giày p
10.77%
10.00%
8.30%
9.18%
8.63%
6.23%
Điện tử, máy tính
4.71%
5.43%
4.89%
4.49%
4.76%
5.08%
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn vào cấu xuất khẩu, danh mục hàng xuất khẩu còn chậm đa dạng hóa,
tỷ trọng kim ngạch 8 mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, tuy giảm từ
71,3% năm 2008 xuống 54,8% trong 9 tháng đầu năm 2010, nhưng phần lớn
do xuất khẩu dầu t giảm mạnh. Cùng lúc đó, một số mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam như gỗ sản phẩm gỗ, dệt may giày dép vẫn phụ
thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên giá trị gia tăng thấp.
- cấu nhập khẩu (Xem bảng 2)
Bảng 2
Tỷ trọng một số mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu giai
đoạn 2005- T9/2010
2005
2006
2007
2008
2009
9t đầu
2010
Xăng dầu
12.58%
11.30%
13.22%
8.33%
7.37%
6.35%
Chất dẻo
3.52%
4.38%
4.17%
3.19%
3.71%
4.84%
Vải
6.97%
7.00%
5.87%
6.11%
5.41%
6.01%
Nguyên PL dệt, may,
giày dép
6.67%
4.50%
3.33%
3.33%
2.58%
3.08%
Sắt thép
7.30%
6.93%
8.40%
9.07%
6.82%
6.88%
Điện tử, máy tính LK
4.85%
5.25%
4.76%
5.93%
5.96%
6.57%
Ô
2.73%
2.00%
3.22%
2.35%
5.54%
3.50%
Máy móc, thiết bị, DC,
PT khác
15.15%
16.25%
15.87%
22.22%
19.62%
15.38%
Hóa chất
2.27%
2.25%
2.38%
2.04%
2.08%
2.59%
Sản phẩm hoá chất
2.42%
2.25%
1.98%
2.13%
2.46%
2.52%
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tỷ trọng 10 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn không thay đổi nhiều từ năm
2005 (64,5%) đến nay (58%). Nhóm hàng liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng
lớn. cấu này cho thấy nhập khẩu của ta chủ yếu để phục vụ sản xuất
nên những biện pháp kiềm chế nhập khẩu hiện nay tập trung vào các nhóm
hàng hóa tiêu dùng đặc biệt như ô tô, xa xỉ phẩm… sẽ chỉ thể những
tác động nhỏ đến tình trạng nhập siêu hiện nay. Hơn thế nữa, tỷ lệ nhập khẩu
trong sản phẩm xuất khẩu của nước ta mức cao (theo một số tính toán
khoảng 70%) dẫn tới thực tế muốn tăng xuất khẩu thì nhất thiết phải tăng
nhập khẩu, m hạn chế khả năng gia tăng xuất khẩu nhanh hơn so với nhập
khẩu.
- Năng lực sản xuất ng hóa thay thế nhập khẩu
Việt Nam một nền kinh tế đang phát triển, đối với một nền kinh tế đang
phát triển, một số hàng hóa các nền kinh tế này không th sản xuất
được hay sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả
thể cao hơn. vậy, mặc giá nhập khẩu đắt hơn, người tiêu ng
cũng không chắc sẽ lựa chọn hàng trong nước. Như vậy, nếu thực hiện phá
giá, nền kinh tế Việt Nam với năng lực sản xuất hàng thay thế cho hàng nhập
khẩu còn hạn chế, thực sự hạn chế được nhập khẩu đ cải thiện cán cân
thương mại hay không?
- Năng lực sản xuất ng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu
Đa phần các doanh nghiệp Việt Nam vẫn sản xuất nhỏ lẻ năng suất
thấp. Chất lượng hàng hóa, kể cả những mặt hàng chiến lược gạo, phê,
hạt tiêu, thủy, hải sản chế biến những mặt hàng Việt Nam chiếm vị trí nhất
nhì trên thế giới thì chất lượng sản phẩm của chúng ta còn kém so với các
nước ng mặt hàng trong châu lục thế tỷ lệ hàng xuất khẩu của Việt
Nam vào Mỹ châu Âu còn nhỏ. Thêm vào đó, sở hạ tầng cho sản xuất
các mặt hàng xuất khẩu xuất khẩu lớn n rất manh mún chưa đủ sức
để thúc đẩy sản xuất đại trà. Nếu các doanh nghiệp trong nước không
năng lực sản xuất hàng xuất khẩu (cung cấp không đủ lượng, chất theo nhu
cầu của đối c) hoặc không tìm được thị trường xuất khẩu cho mình thì khi
Chính phủ thực hiện phá giá, những hội kinh doanh tốt Chính phủ
hướng tới thông qua phá giá sẽ bị bỏ lỡ, hoạt động xuất khẩu cán n
thương mại không chắc chắn thể được cải thiện.
6.2 Luồng vốn vào ra trong nền kinh tế
Dòng vốn vào một nguồn quan trọng, đắp lại thâm hụt thương mại cho
nước ta trong những m gần đây. Dòng chu chuyển vốn (qua các kênh FDI,
FII vay nợ) nhìn chung tăng qua các năm, đặc biệt tăng mạnh từ năm
2007 sang năm 2008 đạt mức cao kỷ lục vào năm 2008. (Xem biểu 1)
Như vậy, nếu thực hiện phá giá mạnh sẽ thể gây ra tâm lo ngại về các
bất ổn, yếu kém trong nền kinh tế Việt Nam cho c nhà đầu tư, thể khiến
họ đưa ra quyết định rút vốn. Hậu quả thể gây bất ổn định kinh tế.
6.3 Ảnh hưởng của phá giá đến lạm phát
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng CPI cho thấy nhìn chung, CPI từ năm 2001 đến
2008 ng khá mạnh, đặc biệt hai năm 2007 2008 (12,6% 19,89%).
Lạm phát tuy đã được kiềm chế mức thấp trong năm 2009 hiện đang
trong tầm kiểm soát, nhưng diễn biến của lạm phát trong 20 năm qua Việt
Nam, cho thấy tính ổn định nhìn chung không cao. Do đó, ổn định lạm phát
luôn luôn mục tiêu điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Khi thực hiện p giá, do giá cả nhập khẩu tăng nên giá cả nội địa cũng
thường tăng lên, gây áp lực n lạm phát. Điều này đã từng xảy ra Trung
Quốc, khi Trung Quốc phá giá CNY 50% năm 1994, Trung Quốc đã phải đối
mặt với lạm phát tăng cao, năm 1994 24,24%, tăng hơn 66,25% so với
mức lạm phát năm 1993. Xét trên khía cạnh này t trong điều kiện của Việt
Nam hiện nay, khi phá giá cải thiện cán cân thương mại hay không còn
chưa chắc chắn (như đã phân tích trên) thì lạm phát đã tăng. Trong khi đó,
Việt Nam với thực trạng kinh tế n hiện nay khó thể chấp nhận trước tình
trạng tái lạm phát trở lại.
Một điểm khác hết sức quan trọng hiện nay Chính phủ đang kêu gọi hạ lãi
suất. Trong khi đó, thông thường, nếu NHNN p giá nội tệ, để thể kiềm
chế lạm phát, biện pháp thường được sử dụng theo thuyết thắt chặt tiền
tệ, nghĩa phải tăng lãi suất. Như vậy, việc phá giá nội tệ sẽ thể trở thành
mâu thuẫn với chủ trương giảm lãi suất của Chính phủ.
6.4 Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam nền kinh tế đô la hóa, trong suốt thời kỳ cải cách, mức độ đôla
hóa tính theo tiêu chí của IMF giảm dần, song so với các nước trên thế
giới Việt Nam vẫn nước bị đôla hóa. Tâm lý đầu găm giữ ngoại tệ rất
phổ biến trong nền kinh tế. Nhận biết được điều này, Chính phủ đặc biệt
NHNN Việt Nam đã đang hết sức nỗ lực để hạn chế tình trạng đô la hóa.
Nếu p giá VND vào lúc này không biện pháp đi cùng để ngăn chặn
tâm kỳ vọng vốn đang tồn tại khá mạnh trên thị trường tiền tệ Việt Nam, khi
hệ quả của âm về lạm phát năm 2008 vẫn n, sẽ khiến người n
doanh nghiệp tích cực dự trữ ngoại tệ, làm cho cung ngoại tệ không những
không được cải thiện còn đẩy cầu ngoại tệ lên cao; ảnh hưởng không tốt
tới n lực hạn chế đô la hóa của các nhà điều hành. Thậm chí, trong trường
hợp các giải pháp không tạo được lòng tin, thì mục đích ngăn chặn những bất
ổn trong nền kinh tế trong việc phá giá VND không những không giải quyết
được, thể còn đẩy nền kinh tế tới chỗ bất ổn hơn.
6.5 Ảnh hưởng của phá giá đến ngân sách
Phá giá tiền tệ thể cải thiện hoặc làm thâm hụt ngân sách còn phụ thuộc
rất nhiều vào việc các nguồn thu, chi ngân sách chịu ảnh hướng trực tiếp
bởi tỷ giá hay không.
- Xem xét cấu thu ngân sách của Việt Nam thì tỷ lệ thu ngân sách từ dầu
thô xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng gần 40% trong tổng
nguồn thu của ngân sách, hơn nữa, nguồn viện trợ cũng khá lớn. vậy, phá
giá sẽ tăng đáng kể nguồn thu của Chính phủ nếu tính bằng VND. Tuy nhiên,
phá giá làm ảnh hưởng đến hoạt động doanh nghiệp, làm kinh tế suy giảm thì
sẽ ảnh hưởng đáng kể đến nguồn thu của Chính phủ.
- Xét về cấu chi, thì khoản chi lớn nhất chịu tác động lớn của tỷ giá
các khoản vay để đắp thâm hụt ngân sách bằng ngoại tệ.
- Xem xét vấn đề nợ nước ngoài (Xem bảng 3)
Bảng 3
Tổng số nợ nước ngoài so với GDP (%)
2005
2006
2007
2008
2009
31.2
31.4
32.5
29.8
39.0
Nguồn: B Tài chính
Xem xét tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam, nợ nước ngoài của quốc gia
so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc gia nợ nước ngoài vừa phải, nếu
xét theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới. Hiện nay, nợ nước ngoài của
Chính phủ Việt Nam tập trung chủ yếu o các loại tiền JPY, USD, EUR, SDR.
Cụ thể, lớn nhất các khoản vay bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; SDR chiếm
27,39%; vay theo đồng USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm
10,68%; còn lại c đồng tiền khác chiếm 3,37% tổng nợ nước ngoài
Chính phủ. Mặc cấu đồng tiền vay trong tổng nợ nước ngoài Chính
phủ cũng khá đa dạng, được cho thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp
lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ nhưng không thể phủ nhận
thực tế những dao động của tỷ giá sẽ ảnh ởng nhất định đến giá trị của
các khoản nợ khi quy đổi ra nội tệ.
=> Tóm lại, để thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ, p giá phải được
xem xét cân nhắc một cách kỹ lưỡng các mặt lợi hại dựa trên tất cả các
khía cạnh của nền kinh tế; phải đảm bảo nền kinh tế đã đủ các điều kiện
để thể phát huy tốt mặt tích cực hạn chế được những mặt tiêu cực của
việc p giá. Thêm vào đó, mức đ phá giá bao nhiêu cũng phải được cân
nhắc cẩn thận, dựa trên tình hình cụ thể.
Nếu quyết định phá giá, cũng phải phá giá lộ trình. Để tránh việc p
giá sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao từ đó dẫn đến bất ổn định mô, đi kèm
với phá giá cần phải một sự phối hợp chặt ch giữa các chính sách kinh tế
trong đó quan trọng nhất sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ thắt
chặt chính sách i khóa với hiệu quả đầu cao. Thêm nữa, l cần
một quỹ dự trữ ngoại hối đủ mạnh để can thiệp trong thời gian đầu sau khi
tiến hành phá giá.
Tài liệu tham khảo:
- Bản tin số 5 về nợ nước ngoài của Việt Nam, 2010, Bộ Tài chính
- Tổng cụ Thống kê, www.gso.gov.vn
- Trang Web của NHNN
- Báo cáo thường niên NHNN 1999 2009
- The impact of devaluation.
SOURCE: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG S 21/2010 - TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG
Trường Cao đẳng Nguyễn Tất Thành

Preview text:

Phá giá tiền tệ là gì ? Phân tích về phá giá tiền
tệ, ảnh hưởng việc phá giá tiền tệ
1. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với tài khoản vãng lai
Mục tiêu của phá giá tiền tệ là làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa
và từ đó cải thiện cán cân thanh toán vãng lai. Khi đồng nội tệ giảm giá sẽ
làm tăng tỷ giá danh nghĩa, kéo theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu
và hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Khi tỷ giá tăng (phá giá),
giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu tính theo đồng nội tệ
tăng được gọi là hiệu ứng giá cả. Khi tỷ giá giảm làm giá hàng xuất khẩu rẻ
hơn đã làm tăng khối lượng xuất khẩu trong khi hạn chế khối lượng nhập
khẩu. Hiện tượng này gọi là hiệu ứng khối lượng.
Tuy nhiên, việc cán cân thương mại xấu đi hay được cải thiện tùy thuộc vào
hiệu ứng giá cả và hiệu ứng số lượng cái nào trội hơn.
- Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng trong lúc giá cả và tiền lương trong nước
tương đối cứng nhắc sẽ làm giá hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở
nên đắt hơn: các hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các doanh
nghiệp trong nước chưa huy động đủ nguồn lực để sẵn sàng tiến hành sản
xuất nhiều hơn trước nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như
nhu cầu trong nước tăng lên. Ngoài ra, trong ngắn hạn, cầu hàng nhập khẩu
không nhanh chóng giảm còn do tâm lý người tiêu dùng. Khi phá giá, giá
hàng nhập khẩu tăng lên, tuy nhiên, người tiêu dùng có thể lo ngại về chất
lượng hàng nội chưa có hàng thay thế xứng đáng hàng nhập làm cho cầu
hàng nhập khẩu chưa thể giảm ngay. Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong
ngắn hạn không tăng lên nhanh chóng và số lượng hàng nhập cũng không
giảm mạnh. Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả thường có tính trội hơn
hiệu ứng số lượng làm cho cán cân thương mại xấu đi.
- Trong dài hạn, giá hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và
người tiêu dùng trong nước cũng đủ thời gian tiếp cận và so sánh chất lượng
hàng trong nước với hàng nhập. Mặt khác, trong dài hạn, doanh nghiệp có
thời gian tập hợp đủ các nguồn lực để tăng khối lượng sản xuất. Lúc này sản
lượng bắt đầu co giãn, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả
làm cán cân thương mại được cải thiện.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại sau khi phá giá bao gồm:
- Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu: Đối với các nền kinh tế
đang phát triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), có một số hàng hóa các
nền kinh tế này không thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì
chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá
nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng cũng không thể lựa chọn hàng trong
nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu ứng giá cả.
- Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu: Đối với các nước đang phát
triển, yêu cầu về chuẩn hàng hóa tham gia thương mại quốc tế cao, cho nên
một sự phá giá tiền tệ làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm hơn. Điều
này làm cho hiệu ứng khối lượng ít có tác động đến cán cân thương mại hơn
ở các nước đang phát triển. Vì vậy, tác động cải thiện cán cân thương mại
của phá giá ở các nước phát triển thường mạnh hơn ở các nước đang phát triển.
- Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước: Nếu tỷ
trọng này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi
hàng nhập khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất
khẩu khi phá giá. Cho nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu.
- Mức độ linh hoạt của tiền lương: Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số
giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số
giá. Điều này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước
giảm bớt lợi thế có được từ phá giá tiền tệ.
- Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước:
Nếu người tiêu dùng trong nước có tâm lý sùng hàng ngoại, thì một sự đắt
lên của hàng nhập và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi
tiêu dùng của họ, họ sẽ tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn.
Tiếp theo, mức độ gia tăng số lượng hàng xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin
tưởng và ưa chuộng hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước ngoài.
2. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với lạm phát
Do giá cả nhập khẩu tăng, nên giá cả nội địa cũng thường tăng lên sau khi
thực hiện phá giá tiền tệ. Ảnh hưởng này sẽ càng lớn nếu nhập khẩu chiếm
một tỉ trọng lớn trong tiêu dùng nội địa và nếu nhà xuất khẩu đặt giá nội địa
cao bằng với giá xuất khẩu sang nước ngoài. Việc tăng giá hàng nội địa sẽ
làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giá cả – lương. Nếu lương được điều chỉnh
theo mức độ lạm phát thì trong trường hợp này lương sẽ tăng. Như vậy, sẽ
dẫn tới hiện tượng lạm phát leo thang gây ảnh xấu đến tiết kiệm, đầu tư, phát
triển kinh tế, phân bổ thu nhập cũng như ổn định chính trị. Ảnh hưởng của
phá giá tiền tệ gây nên lạm phát có thể kiểm soát được bằng cách giảm tín
dụng kinh tế và giảm thâm hụt ngân sách.
3. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với sản xuất
Trong ngắn hạn, việc tăng giá sẽ làm giảm tiền lương thực tế (trước khi
lương danh nghĩa được điều chỉnh), đồng thời giảm tài sản của người dân
đang được cất giữ dưới dạng đồng tiền nội địa, tài khoản ngân hàng và trái
phiếu nội địa. Tài sản của người dân sẽ không bị ảnh hưởng nhiều nếu họ cất
giữ dưới phương thức tài sản nước ngoài. Giảm thu nhập thực tế sẽ hạn chế
người dân tiêu dùng dẫn tới giảm mức chi tiêu của quốc gia. Do vậy, thông
thường sẽ có sự tái phân bổ thu nhập và tài sản sau khi phá giá tiền tệ. Tuy
nhiên, nếu việc tái phân bổ này được thực hiện ở nhóm dân số có mức tiêu
dùng thấp thì vẫn dẫn tới việc giảm chi tiêu của quốc gia. Việc giảm chi tiêu
có thể cải thiện tài khoản vãng lai, nhưng đồng thời cũng làm giảm cầu đối
với hàng hóa nội địa, từ đó gây ra thất nghiệp trong một số ngành kinh tế. Qui
mô sản xuất sẽ tăng hoặc giảm phụ thuộc vào mức độ chi tiêu chính phủ và
tốc độ ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến việc sản xuất hàng xuất khẩu và
hàng thay thế hàng nhập khẩu.
4. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến ngân sách
Phá giá tiền tệ có thể có những ảnh hưởng gián tiếp đến ngân sách, có thể
cải thiện hay làm thâm hụt ngân sách. Điều này phụ thuộc vào tầm quan
trọng của các khoản thu và chi chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ giá hối đoái.
- Xét về nguồn thu ngân sách bao gồm các khoản như thuế xuất nhập khẩu
và viện trợ nước ngoài. Phá giá có xu hướng làm tăng thuế thu đối với giao
dịch thương mại nước ngoài. Mức độ ảnh hưởng của chính sách này phụ
thuộc vào tương quan so sánh giữa thuế thu từ xuất nhập khẩu và tổng thuế
thu được, độ co giãn về thuế, độ co giãn theo giá của xuất nhập khẩu. Nếu
đất nước nhận được một lượng lớn viện trợ nước ngoài, thì khoản thu này
cũng sẽ tăng theo tỉ lệ của phá giá tiền tệ.
- Xét về nguồn chi ngân sách gồm những khoản bù trừ nguồn thu. Trước hết,
nếu đất nước đang có một khoản nợ nước ngoài lớn, thì việc phá giá tiền tệ
sẽ làm cho họ phải trả khoản lãi suất lớn. Thứ hai, khoản chi của chính phủ
cho mua xăng dầu, máy tính, thiết bị quân sự từ nước ngoài sẽ tăng lên.
5. Những điểm bổ sung phá giá tiền tệ
Khi xem xét có nên giá tiền tệ hay không, các nhà hoạch định chính sách cần
cân nhắc cẩn trọng các yếu tố có ảnh hưởng đến hiệu quả của phá giá tiền tệ:
- Xuất khẩu sản phẩm có nhiều nguồn gốc nhập khẩu: Một số lĩnh vực sản
xuất tại một quốc gia, cần thiết phải nhập nguyên liệu thô hoặc sản phẩm sơ
chế làm đầu vào cho sản xuất xuất khẩu. Trong trường hợp này, phá giá tiền
tệ làm tăng giá thành sản xuất hàng xuất khẩu, và làm hạn chế cơ hội có giá
cả cạnh tranh hơn so với những hàng xuất khẩu mà đầu vào chỉ bao gồm
hàng hóa trong nước. Do đó phá giá tiền tệ đặc biệt thuận lợi cho các ngành
sản xuất mà nguyên liệu đầu vào là các hàng hóa nội địa – ví dụ khoáng sản và nông nghiệp.
- Chi phí sản phẩm thiết yếu: Các nước đang phát triển đặc biệt phụ thuộc
vào một số sản phẩm nhập khẩu, đầu tư, năng lượng và sản phẩm y tế. Phá
giá tiền tệ làm giá thành các sản phẩm này tương đối đắt đỏ và có thể có tác
động tiêu cực đến tăng trưởng và đời sống nhân dân.
- Nợ nước ngoài: Một số nước nghèo luôn ở trong tình trạng vay nợ nước
ngoài nhiều. Việc phá giá danh nghĩa đồng tiền nội địa làm tăng nợ nước
ngoài tính bằng đồng nội địa. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cho ngân sách
nhà nước, do phải trả lãi, và các khoản trả góp nước ngoài cao do đồng
ngoại tệ tăng giá. Trong những trường hợp này, cần thay đổi thuế và chi tiêu
chính phủ. Các công ty tư nhân có nợ nước ngoài cũng có thể bị ảnh hưởng
lớn đặc biệt nếu sản phẩm của các công ty này hướng vào thị trường nội địa.
- Vấn đề cơ cấu chính sách: Khi có tác động của những chính sách như trợ
giá, kiểm soát giá hoặc hạn ngạch xuất khẩu, sẽ làm cản trở sự cân bằng các
nhân tố bên ngoài theo qui luật kinh tế. Những vấn đề này cần được xử lý
ngay nếu không phá giá tiền tệ sẽ không có ý nghĩa.
Phá giá tiền tệ không chỉ tác động đến những vấn đề kinh tế mà còn ảnh
hưởng đến những vấn đề mang tính chính trị, xã hội. Vì thế, để thực hiện
chính sách phá giá đồng nội tệ, các nước đều phải xem xét và cân nhắc một
cách kỹ lưỡng các mặt lợi và hại của biện pháp này dựa trên tất cả các khía cạnh của nền kinh tế.
6. Phá giá tiền tệ trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay
6.1 Ảnh hưởng của phá giá đến cán cân vãng lai

Mục tiêu của phá giá là để cải thiện cán cân vãng lai, có nghĩa là góp phần
vào làm giảm sự mất cân bằng giữa tiết kiệm vào đầu tư. Nhưng đối với Việt
Nam, liệu biện pháp phá giá có cải thiện được cán cân thương mại hay không
khi hầu hết các mặt hàng sản xuất trong nước đều phụ thuộc vào nguyên vật
liệu nhập khẩu (90% tổng giá trị hàng nhập là nhập nguyên vật liệu sản xuất),
ngay cả hàng xuất khẩu cũng đến 70% là giá trị hàng nhập. Bên cạnh đó,
năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu và hàng hóa đủ tiêu chuẩn
xuất khẩu ở Việt Nam đều còn hạn chế.
Thâm hụt cán cân thương mại đã trở thành một hiện tượng thường nhật trong
cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam trong nhiều năm gần đây. Thực
trạng này bắt nguồn sâu xa từ chính sự mất cân đối trong cơ cấu xuất nhập khẩu.
- Cơ cấu xuất khẩu (Xem bảng 1)
Bảng 1Tỷ trọng một số mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong xuất
khẩu giai đoạn 2005- T9/2010
2005
2006 2007 2008 2009 2010 Thủy sản
8.42% 8.57% 7.66% 7.35% 7.08% 7.38% Gạo
1.58% 1.23% 0.47% 3.67% 2.93% 4.26% Dầu thô
21.01% 16.97% 18.83% 11.22% 7.79% 6.07% Cao su
3.60% 2.83% 3.64% 2.45% 3.60% 3.98%
Gỗ và sản phẩm gỗ 5.05% 5.29% 4.89% 5.10% 5.78% 4.59% Dệt, may
16.16% 13.43% 15.96% 16.73% 16.13% 17.21% Giày dép
10.77% 10.00% 8.30% 9.18% 8.63% 6.23%
Điện tử, máy tính 4.71% 5.43% 4.89% 4.49% 4.76% 5.08%
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu, danh mục hàng xuất khẩu còn chậm đa dạng hóa,
tỷ trọng kim ngạch 8 mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, tuy giảm từ
71,3% năm 2008 xuống 54,8% trong 9 tháng đầu năm 2010, nhưng phần lớn
là do xuất khẩu dầu thô giảm mạnh. Cùng lúc đó, một số mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam như gỗ và sản phẩm gỗ, dệt may và giày dép vẫn phụ
thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên giá trị gia tăng thấp.
- Cơ cấu nhập khẩu (Xem bảng 2) Bảng 2
Tỷ trọng một số mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu giai đoạn 2005- T9/2010 9t đầu 2005
2006 2007 2008 2009 2010 Xăng dầu
12.58% 11.30% 13.22% 8.33% 7.37% 6.35% Chất dẻo 3.52% 4.38% 4.17% 3.19% 3.71% 4.84% Vải 6.97% 7.00% 5.87% 6.11% 5.41% 6.01%
Nguyên PL dệt, may, 6.67% 4.50% 3.33% 3.33% 2.58% 3.08% giày dép Sắt thép 7.30% 6.93% 8.40% 9.07% 6.82% 6.88%
Điện tử, máy tính và LK 4.85% 5.25% 4.76% 5.93% 5.96% 6.57% Ô tô 2.73% 2.00% 3.22% 2.35% 5.54% 3.50%
Máy móc, thiết bị, DC, 15.15% 16.25% 15.87% 22.22% 19.62% 15.38% PT khác Hóa chất 2.27% 2.25% 2.38% 2.04% 2.08% 2.59% Sản phẩm hoá chất 2.42% 2.25% 1.98% 2.13% 2.46% 2.52%
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tỷ trọng 10 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn không thay đổi nhiều từ năm
2005 (64,5%) đến nay (58%). Nhóm hàng tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng
lớn. Cơ cấu này cho thấy nhập khẩu của ta chủ yếu là để phục vụ sản xuất
nên những biện pháp kiềm chế nhập khẩu hiện nay tập trung vào các nhóm
hàng hóa tiêu dùng đặc biệt như ô tô, xa xỉ phẩm… sẽ chỉ có thể có những
tác động nhỏ đến tình trạng nhập siêu hiện nay. Hơn thế nữa, tỷ lệ nhập khẩu
trong sản phẩm xuất khẩu của nước ta ở mức cao (theo một số tính toán là
khoảng 70%) dẫn tới thực tế là muốn tăng xuất khẩu thì nhất thiết phải tăng
nhập khẩu, làm hạn chế khả năng gia tăng xuất khẩu nhanh hơn so với nhập khẩu.
- Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu
Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, mà đối với một nền kinh tế đang
phát triển, có một số hàng hóa mà các nền kinh tế này không thể sản xuất
được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng hoặc giá cả
có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng
cũng không chắc sẽ lựa chọn hàng trong nước. Như vậy, nếu thực hiện phá
giá, nền kinh tế Việt Nam với năng lực sản xuất hàng thay thế cho hàng nhập
khẩu còn hạn chế, có thực sự hạn chế được nhập khẩu để cải thiện cán cân thương mại hay không?
- Năng lực sản xuất hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu
Đa phần các doanh nghiệp Việt Nam vẫn là sản xuất nhỏ lẻ và có năng suất
thấp. Chất lượng hàng hóa, kể cả những mặt hàng chiến lược là gạo, cà phê,
hạt tiêu, thủy, hải sản chế biến là những mặt hàng Việt Nam chiếm vị trí nhất
nhì trên thế giới thì chất lượng sản phẩm của chúng ta còn kém so với các
nước có cùng mặt hàng trong châu lục vì thế tỷ lệ hàng xuất khẩu của Việt
Nam vào Mỹ và châu Âu còn nhỏ. Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng cho sản xuất
các mặt hàng xuất khẩu và xuất khẩu lớn còn rất manh mún và chưa đủ sức
để thúc đẩy sản xuất đại trà. Nếu các doanh nghiệp trong nước không có
năng lực sản xuất hàng xuất khẩu (cung cấp không đủ lượng, chất theo nhu
cầu của đối tác) hoặc không tìm được thị trường xuất khẩu cho mình thì khi
Chính phủ thực hiện phá giá, những cơ hội kinh doanh tốt mà Chính phủ
hướng tới thông qua phá giá sẽ bị bỏ lỡ, hoạt động xuất khẩu và cán cân
thương mại không chắc chắn có thể được cải thiện.
6.2 Luồng vốn vào – ra trong nền kinh tế
Dòng vốn vào là một nguồn quan trọng, bù đắp lại thâm hụt thương mại cho
nước ta trong những năm gần đây. Dòng chu chuyển vốn (qua các kênh FDI,
FII và vay nợ) nhìn chung tăng qua các năm, đặc biệt tăng mạnh từ năm
2007 sang năm 2008 – đạt mức cao kỷ lục vào năm 2008. (Xem biểu 1)
Như vậy, nếu thực hiện phá giá mạnh sẽ có thể gây ra tâm lý lo ngại về các
bất ổn, yếu kém trong nền kinh tế Việt Nam cho các nhà đầu tư, có thể khiến
họ đưa ra quyết định rút vốn. Hậu quả là có thể gây bất ổn định kinh tế.
6.3 Ảnh hưởng của phá giá đến lạm phát
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng CPI cho thấy nhìn chung, CPI từ năm 2001 đến
2008 tăng khá mạnh, đặc biệt là hai năm 2007 và 2008 (12,6% và 19,89%).
Lạm phát tuy đã được kiềm chế ở mức thấp trong năm 2009 và hiện đang
trong tầm kiểm soát, nhưng diễn biến của lạm phát trong 20 năm qua ở Việt
Nam, cho thấy tính ổn định nhìn chung là không cao. Do đó, ổn định lạm phát
luôn luôn là mục tiêu điều hành của Ngân hàng Nhà nước (NHNN).
Khi thực hiện phá giá, do giá cả nhập khẩu tăng nên giá cả nội địa cũng
thường tăng lên, gây áp lực lên lạm phát. Điều này đã từng xảy ra ở Trung
Quốc, khi Trung Quốc phá giá CNY 50% năm 1994, Trung Quốc đã phải đối
mặt với lạm phát tăng cao, năm 1994 là 24,24%, tăng hơn 66,25% so với
mức lạm phát năm 1993. Xét trên khía cạnh này thì trong điều kiện của Việt
Nam hiện nay, khi mà phá giá có cải thiện cán cân thương mại hay không còn
chưa chắc chắn (như đã phân tích ở trên) thì lạm phát đã tăng. Trong khi đó,
Việt Nam với thực trạng kinh tế như hiện nay khó có thể chấp nhận trước tình
trạng tái lạm phát trở lại.
Một điểm khác hết sức quan trọng là hiện nay Chính phủ đang kêu gọi hạ lãi
suất. Trong khi đó, thông thường, nếu NHNN phá giá nội tệ, để có thể kiềm
chế lạm phát, biện pháp thường được sử dụng theo lý thuyết là thắt chặt tiền
tệ, nghĩa là phải tăng lãi suất. Như vậy, việc phá giá nội tệ sẽ có thể trở thành
mâu thuẫn với chủ trương giảm lãi suất của Chính phủ.
6.4 Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế Việt Nam
Việt Nam là nền kinh tế đô la hóa, trong suốt thời kỳ cải cách, mức độ đôla
hóa tính theo tiêu chí của IMF có giảm dần, song so với các nước trên thế
giới Việt Nam vẫn là nước bị đôla hóa. Tâm lý đầu cơ và găm giữ ngoại tệ rất
phổ biến trong nền kinh tế. Nhận biết được điều này, Chính phủ và đặc biệt là
NHNN Việt Nam đã và đang hết sức nỗ lực để hạn chế tình trạng đô la hóa.
Nếu phá giá VND vào lúc này mà không có biện pháp đi cùng để ngăn chặn
tâm lý kỳ vọng vốn đang tồn tại khá mạnh trên thị trường tiền tệ Việt Nam, khi
hệ quả của dư âm về lạm phát năm 2008 vẫn còn, sẽ khiến người dân và
doanh nghiệp tích cực dự trữ ngoại tệ, làm cho cung ngoại tệ không những
không được cải thiện mà còn đẩy cầu ngoại tệ lên cao; ảnh hưởng không tốt
tới nỗ lực hạn chế đô la hóa của các nhà điều hành. Thậm chí, trong trường
hợp các giải pháp không tạo được lòng tin, thì mục đích ngăn chặn những bất
ổn trong nền kinh tế trong việc phá giá VND không những không giải quyết
được, mà có thể còn đẩy nền kinh tế tới chỗ bất ổn hơn.
6.5 Ảnh hưởng của phá giá đến ngân sách
Phá giá tiền tệ có thể cải thiện hoặc làm thâm hụt ngân sách còn phụ thuộc
rất nhiều vào việc các nguồn thu, chi ngân sách có chịu ảnh hướng trực tiếp bởi tỷ giá hay không.
- Xem xét cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam thì tỷ lệ thu ngân sách từ dầu
thô và xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng gần 40% trong tổng
nguồn thu của ngân sách, hơn nữa, nguồn viện trợ cũng khá lớn. Vì vậy, phá
giá sẽ tăng đáng kể nguồn thu của Chính phủ nếu tính bằng VND. Tuy nhiên,
phá giá làm ảnh hưởng đến hoạt động doanh nghiệp, làm kinh tế suy giảm thì
sẽ ảnh hưởng đáng kể đến nguồn thu của Chính phủ.
- Xét về cơ cấu chi, thì khoản chi lớn nhất mà chịu tác động lớn của tỷ giá là
các khoản vay để bù đắp thâm hụt ngân sách bằng ngoại tệ.
- Xem xét vấn đề nợ nước ngoài (Xem bảng 3) Bảng 3
Tổng số dư nợ nước ngoài so với GDP (%) 2005 2006 2007 2008 2009 31.2 31.4 32.5 29.8 39.0 Nguồn: Bộ Tài chính
Xem xét tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam, nợ nước ngoài của quốc gia
so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc gia có nợ nước ngoài vừa phải, nếu
xét theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới. Hiện nay, nợ nước ngoài của
Chính phủ Việt Nam tập trung chủ yếu vào các loại tiền JPY, USD, EUR, SDR.
Cụ thể, lớn nhất là các khoản vay bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; SDR chiếm
27,39%; vay theo đồng USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm
10,68%; còn lại là các đồng tiền khác chiếm 3,37% tổng dư nợ nước ngoài
Chính phủ. Mặc dù cơ cấu đồng tiền vay trong tổng dư nợ nước ngoài Chính
phủ cũng khá đa dạng, được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp
lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ nhưng không thể phủ nhận
thực tế những dao động của tỷ giá sẽ có ảnh hưởng nhất định đến giá trị của
các khoản nợ khi quy đổi ra nội tệ.
=> Tóm lại, để thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ, phá giá phải được
xem xét và cân nhắc một cách kỹ lưỡng các mặt lợi và hại dựa trên tất cả các
khía cạnh của nền kinh tế; phải đảm bảo nền kinh tế đã có đủ các điều kiện
để có thể phát huy tốt mặt tích cực và hạn chế được những mặt tiêu cực của
việc phá giá. Thêm vào đó, mức độ phá giá là bao nhiêu cũng phải được cân
nhắc cẩn thận, dựa trên tình hình cụ thể.
Nếu có quyết định phá giá, cũng phải phá giá có lộ trình. Để tránh việc phá
giá sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao và từ đó dẫn đến bất ổn định vĩ mô, đi kèm
với phá giá cần phải có một sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách kinh tế
vĩ mô mà trong đó quan trọng nhất là sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ thắt
chặt và chính sách tài khóa với hiệu quả đầu tư cao. Thêm nữa, có lẽ cần có
một quỹ dự trữ ngoại hối đủ mạnh để can thiệp trong thời gian đầu sau khi tiến hành phá giá. Tài liệu tham khảo:
- Bản tin số 5 về nợ nước ngoài của Việt Nam, 2010, Bộ Tài chính
- Tổng cụ Thống kê, www.gso.gov.vn - Trang Web của NHNN
- Báo cáo thường niên NHNN 1999 – 2009

- The impact of devaluation.
SOURCE: TẠP CHÍ NGÂN HÀNG SỐ 21/2010 - TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG
– Trường Cao đẳng Nguyễn Tất Thành

Document Outline

  • Phá giá tiền tệ là gì ? Phân tích về phá giá tiền
    • 1. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với tài khoản
    • 2. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với lạm phát
    • 3. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với sản xuất
    • 4. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến ngân sách
    • 5. Những điểm bổ sung phá giá tiền tệ
    • 6. Phá giá tiền tệ trong điều kiện kinh tế Việt Na
      • 6.1 Ảnh hưởng của phá giá đến cán cân vãng lai
      • 6.2 Luồng vốn vào – ra trong nền kinh tế
      • 6.3 Ảnh hưởng của phá giá đến lạm phát
      • 6.4 Tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế Việt Na
      • 6.5 Ảnh hưởng của phá giá đến ngân sách