





Preview text:
Phân tích 14 câu đầu “Tây Tiến”
Bàn về sức sống của văn chương nghệ thuật, trong bài thơ “Nghĩ lại về Pau-xtốp-xki” – nhà
thơ Bằng Việt từng viết: “Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong
đầu”. Có những tác phẩm ra đời để rồi chìm khuất giữa ồn ào náo nhiệt của phiên chợ văn chương,
nhưng cũng có những tác phẩm lại như “những dòng sông đỏ nặng phù sa”, như “bản trường ca rầm
rộ giữa bóng cây đại ngàn” để rồi in dấu ấn và chạm khắc trong tâm khảm ta những gì đẹp nhất để
“suốt đời đi vẫn nhớ”. Đó phải chăng là những tác phẩm đã “vượt qua mọi băng hoại” của thời gian
trở thành “bài ca đi cùng năm tháng” để lại trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ những dư vang không
thể nào quên. Một trong số bài ca đó phải kể đến “Tây Tiến” của người nghệ sĩ đa tài Quang Dũng.
Dấu ấn riêng biệt đã đem đến sức sống cho “Tây Tiến” là tượng đài những người chiến sĩ, những
người anh hùng đã hi sinh vì dân tộc được tạo dựng vừa mang vẻ đẹp của sự anh dũng , kiên cường,
vừa mang vẻ hào hoa, lãng mạn ẩn sâu trong từng con chữ, từng vần thơ của Tây Tiến. Nỗi nhớ da
diết về những chặng đường hành quân nơi núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ, hiểm trở, cùng với hành
trình chiến đấu gian khổ đã được Quang Dũng khắc họa qua những vần thơ bay bổng:
Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời !
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi
Nói về Quang Dũng, nhà thơ Vân Long từng nhận xét: “Nhà thơ Quang Dũng độc đáo một
cách hồn nhiên, ông cứ sống tự nhiên như chim trên trời, cá dưới nước mà thành độc đáo”. Quang
Dũng là một trong những nhà thơ nổi tiếng của văn đàn dân tộc Việt Nam thời kì kháng chiến chống
Pháp, ông mang trong mình hồn thơ trẻ trung, phóng khoáng, hồn hậu và tài hoa. Ông đã đưa vào
thơ của mình chất hiện thực của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy rẫy những gian khổ, nhọc nhằn.
Với ngòi bút lãng mạn, hòa cùng những vần thơ giàu chất nhạc, chất họa, Quang Dũng đã tái hiện
chặng đường hành quân nơi núi rừng Tây Bắc gắn liền với những gian truân, vất vả, nhưng bên cạnh
đó, người đọc còn thấy ngời lên vẻ đẹp hào hùng, hào hoa của những người chiến sĩ anh dũng.
“Tây Tiến” là một trong những sáng tác đã giúp Quang Dũng khẳng định dấu ấn của bản thân
nơi thi đàn dân tộc. Tác phẩm được sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, khi Quang Dũng đã rời
xa đơn vị cũ là Tây Tiến. Đến với thi phẩm, người đọc thấy được nỗi nhớ da diết của nhà thơ với
mảnh đất Tây Bắc năm xưa, với những người đồng đội, đồng bào dân tộc đã cùng nhau vào sinh ra
tử, với con đường hành quân nơi thiên nhiên núi rừng. Với hồn thơ đôn hậu, lãng mạn, phóng
khoáng và tài hoa, ông đã thành công trong việc khắc họa hình tượng nghệ thuật của người lính giữa
núi rừng Tây Bắc, vừa bi tráng vừa lãng mạn vô cùng.
Nhà thơ Tô Hoài quan niệm rằng: “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. Mỗi chữ
phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của mình tìm được do phong cách
riêng của mình mà có”. Trên hành trình khám phá vẻ đẹp của văn chương, của nghệ thuật, Quang
Dũng đã mang đến cho thi đàn dân tộc một phong cách thơ ca độc đáo, nổi bật giữa những nhà thơ
cùng thời. Với tấm lòng thiết tha, dạt dào cảm xúc, Quang Dũng đã thổi hồn vào những vần thơ của
Tây Tiến nỗi nhớ da diết về những chặng đường hành quân, những hành trình chiến đấu gian khổ,
nhớ về một thời Tây Tiến hào hùng đã qua. Lời thơ cất lên với âm điệu trầm buồn, gợi về khung
cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, về con đường hành quân hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng, trữ tình:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Nỗi nhớ ấy được gợi lên bằng tiếng gọi “Tây Tiến ơi”. Tiếng gọi ấy sao mà tha thiết thế, nó
như vọng vào không gian của con sông Mã, quay ngược lại với những kỉ niệm về một thời đã qua –
một thời bom đạn chiến tranh đã để lại nỗi ám ảnh cho những con người đã trực tiếp tham gia chiến
đấu. Đó là con sông lưu giữ những kỉ niệm của người chiến sĩ Tây Tiến, là dòng sông ân tình, chất
chứa biết bao kỉ niệm, đắng cay ngọt bùi, là dòng sông đã gắn liền với con đường hành quân năm
xưa. Khi nhớ về đơn vị cũ, hình ảnh con sông Mã xuất hiện và trở đi trở lại trong tâm tưởng của nhà
thơ với tất cả những nhớ nhung da diết, những gắn bó yêu thương. Hai chữ “xa rồi” đã đưa tứ thơ
của người thi sĩ trở về với quá khứ của sông Mã và Tây Tiến, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại.
Cách hiệp vần ở những chữ cuối mỗi câu khiến lời thơ càng vang xa, ngân mãi trong đêm: “ơi”,
“vơi”, “hơi”. Từ “nhớ” được điệp lại hai lần trong câu thơ thứ hai đã khiến cho không chỉ cả câu
thơ, mà còn là cả bài thơ bao trùm bởi nỗi nhớ thương da diết, tạo thành một mạch nguồn cảm xúc,
một dòng chảy xuyên suốt cả thi phẩm. Âm “ơi” bắt vần cùng với “chơi vơi” đã vẽ ra trạng thái cụ
thể của nỗi nhớ - “nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ chênh vênh, không có điểm tựa, là trạng thái chênh chao
của cảm xúc con người. Phải chăng do thế giới tâm hồn người thi sĩ đang đi giữa ranh giới của hiện
tại và quá khứ, những kỉ niệm của quá khứ như ùa về thực tại, hiện hiện trong thực tại. Đó là nỗi
nhớ về những kỉ niệm đã qua, đã không còn nữa, nhưng vẫn cứ trường tồn mãi trong tâm trí người
thi sĩ, không thể phai nhòa.
Những kỉ niệm hành quân gợi về trong người chiến sĩ Tây Tiến dấu ấn khó phai về một thời
anh dũng, hào hùng in sâu trong tâm trí nhà thơ. Quang Dũng đã dùng lời thơ của mình vẽ nên
khung cảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc đầy rẫy những nguy hiểm, những thử thách luôn trực chờ
người lính Tây Tiến, cùng với con đường hành quân gian nan những cũng thật thơ mộng. Địa bàn
hoạt động của đoàn quân trải rộng từ Mai Châu, Hòa Bình, qua Lào rồi vòng về mảnh đất Thanh
Hóa. Những bước chân hành quân của người chiến sĩ Tây Tiến nối bước nhau từ Sài Khao, Mường
Lát đến Mường Hịch, Pha Luông, … Đối với Quang Dũng, đó là nơi lưu giữ kỉ niệm, là những
mảnh đất thân thương, gắn bó, chất chứa bao cảm xúc, khiến lòng người mỗi lần nhắc đến đều
không khỏi xôn xao. Mảnh đất Sài Khao sương giăng kín lối, từ đỉnh trời xuống tận đáy vực sâu
thẳm, ngột ngạt đến nghẹt thở, dường như có thể vùi lấp những người chiến sĩ Tây Tiến trên mỗi
bước đường hành quân. Từ “mỏi” đặt ở cuối câu thơ vừa hiện thực hóa trạng thái của những người
chiến sĩ Tây Tiến – những người học sinh, sinh viên, những trí thức Hà Thành xếp nghiên bút, cất
bước ra đi sẵn sang hi sinh cho Tổ quốc. Những thanh ngang xen lẫn với các thanh trắc ở chữ “lấp”
và “mỏi” khiến cho giọng thơ vì thế không bị chìm xuống mà trở nên mạnh mẽ. Chính giọng điệu ấy
đã đem đến cảm nhận về khí thế hành quân của người chiến sĩ Tây Tiến: dù thiên nhiên khắc nghiệt,
dù mỏi mệt bủa vây, những người chiến sĩ ấy vẫn tiếp tục cất bước. Chính khí thế hừng hực ấy đã
tạo nên dấu ấn hào hùng, vẻ đẹp bi tráng trong câu thơ. Cùng với sự nhảy cảm trong tâm hồn, những
chàng trai đất Hà Thành tìm trong gian truân vất vả vẻ lãng mạn của “hoa về”. Câu thơ đã mở ra
không gian thơ mộng của núi rừng Tây Bắc về đêm. Sự hòa quyện về hương thơi và hơi sương đã
mang đến ấn tượng độc đáo: trong hương hoa có hơi sương, trong sương thấy hương hoa. Sự đan cài,
hòa quyện của tính chất bi tráng và lãng mạn đã làm nên vẻ đẹp hào hùng, hào hoa trong hình tượng
người chiến sĩ Tây Tiến.
Nhà thơ Sóng Hồng từng quan niệm: “Thơ là thơ, nhưng đồng thời là họa, là nhạc, là chạm
khắc theo một cách riêng”. Với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, những vần thơ của Quang Dũng không
chỉ chứa chan cảm xúc tha thiết dạt dào, mà ở đó còn là nhạc, là họa, là nhạc họa dao duyên. Ngòi
bút của nhà thơ đã mở ra khung cảnh núi non Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ, đồng thời khắc họa vẻ đẹp
hào hùng, ý chí bản lĩnh, kiên cường, hòa trong vẻ đẹp hào hoa của tâm hồn lãng mạn nơi những
người thanh niên đất Hà Thành:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sự hùng võ, hiểm trở của thiên nhiên Tây Bắc gắn liền với những chặng đường hành quân
gian khổ khắc nghiệt. Điệp từ “dốc” được điệp lại hai lần trong mỗi vế thơ, cùng với nhịp thơ 4/3 bẻ
gãy câu thơ làm đôi, khiến cho trọng tâm của cả câu thơ một lần nữa rơi vào từ “dốc”, khiến đèo cao
lại tiếp đèo cao, dốc tiếp dốc. Từ láy “khúc khuỷu” song hành cùng với “thăm thẳm” đã tạo nên một
không gian núi cao điệp điệp trùng trùng, núi cao nối theo đèo dốc, vực thẳm, tất cả đã khiến cho
chặng đường hành quân của người chiến sĩ gian nan nối tiếp gian nan. “Heo hút” vừa là từ láy gợi
về những hoang sơ, vắng lặng, lạnh lẽo, vừa gợi về không gian kéo dài đến vô cùng vô tận. Hình
ảnh thơ độc đáo “súng ngửi trời” vừa thực, vừa là hình ảnh lãng mạn, gợi về những người chiến sĩ
trên đỉnh đèo, đỉnh núi khi đã vượt qua muôn trùng gian khổ, khi đã chiến thắng dốc núi hiểm trở
của miền Tây Bắc, đồng thời càng thêm khắc họa vẻ đẹp tầm vóc lớn lao của những người chiến sĩ
Tây Tiến sánh ngang với thiên nhiên đất trời, vừa hào hùng, vừa lãng mạn bay bổng. Đó không chỉ
là tầm vóc của những người chiến sĩ trong thơ của Quang Dũng, mà còn là tầm vóc của thời đại của
những con người can trường:
“Đèo cao thì mặc đèo cao
Trèo lên đỉnh núi ta cao hơn đèo” Ca dao kháng chiến
Câu thơ có sự phối thanh độc đáo. Điệp ngữ "ngàn thước" là một ước lệ nghệ thuật có tính
định lượng, khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh, kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng
của điệp ngữ "ngàn thước" và tính chất tương phản của các động từ "lên – xuống" trong hai vế câu
đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả độ cao
của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống hun hút,
hiểm trở. Trong cả câu thơ đặc biệt giàu tính tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây Bắc được miêu
tả hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng đều khắc họa được đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng
vĩ, kì thú. Thiên nhiên dốc núi Tây Bắc là những điệp trùng, hiểm trở thử thách bước chân của
những người chiến sĩ Tây Tiến. Cùng với sự hiện hữu của trùng điệp, gian nguy là ý chí kiên cường.
là bản lĩnh sắt đá, là những bước chân hành quân mạnh mẽ, hào sảng của người chiến sĩ. Dẫu chỉ là
những chàng trai trí thức Hà Thành mười tám đôi mươi, lớn lên tại chốn phồn hoa nhưng những
người chiến sĩ ấy luôn mang trong mình khí thế, ý chí quyết tâm cùng bản lĩnh kiên cường, họ xông
pha, đương đầu với những gian nan, thử thách, dẫu phải “trèo non lội suối” nơi thâm u cùng cốc, họ
vẫn một lòng bước tiếp trên con đường hành quân đã chọn. Đó là vẻ đẹp hào hùng, anh dũng luôn
hiện hữu trong mỗi người thanh niên Hà Thành.
Mảnh đất Tây Bắc được nhà thơ quan sát ở nhiều góc độ khác nhau: ngước mắt nhìn lên là
núi cao lung trời, đưa mắt nhìn xuống là vực sâu hun hút, phóng xa tầm mắt trong làn sương ta thấy
những nếp nhà sàn ấm áp nơi mảnh đất Pha Luông bồng bềnh trong mưa. Câu thơ được viết hoàn
toàn bằng thanh bằng “phù bình thanh”, khiến câu thơ bỗng trở nên nhẹ nhàng, bay bổng. Câu thơ
đã gợi nên một thế giới lãng mạn, đan cài cùng những hiểm trở của núi rừng Tây Bắc khiến không
gian lãng mạn càng trở nên quý giá vô cùng với những người chiến sĩ. Giữa mưa rừng buốt lạnh,
giữa núi rừng mênh mông, ở những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Mường Hịch, Pha Luông,
bức tranh thơ càng thêm đẹp bởi những nét vẽ nhòa mờ, mềm mại, nhưng còn đẹp hơn bởi cảm giác
thân thương, ấm cúng mà những bản làng trong hơi sương gợi về. Dẫu chỉ là “nhà ai” nhưng cũng
đủ để xoa dịu tâm hồn của những người chiến sĩ Tây Tiến. Dù phải đối mặt với muôn trùng gian
nan, hiểm trở nơi núi rừng Tây Bắc, tâm hồn những người chiến sĩ vẫn luôn chứa chan cảm xúc, tinh
thần lạc quan. Đó cũng chính là vẻ đẹp hòa hoa ẩn sâu trong tâm hồn lãng mạn của những người chiến sĩ Hà Thành.
Nhắc đến hai chữ “chiến tranh” là nhắc đến những mất mát, đau thương, những đớn đau đến
tột cùng, khắc sâu trong tâm trí những con người đã trải qua một thời bom đạn. “Tây Tiến” là một
nốt nhạc với đủ buồn vui trong bản đàn ca về chủ đề Cách mạng nên những đau thương là điều
không thể tránh khỏi. Trong khúc nhạc ấy, ta thấy hiện lên hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến hi sinh
giữa bao gian khổ, thiếu thốn:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Hai chữ “anh bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. Đó là tiếng gọi đầy thân thương,
gắn bó mà Quang Dũng dành tặng cho người đồng chí, đồng đội của mình. Từ láy "dãi dầu" đã thể
hiện toàn bộ những vất vả, nhọc nhằn của những người chiến sĩ khi hành quân qua miền Tây Bắc,
khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, vượt qua những nắng mưa, sương gió. Hai
câu thơ tựa như một bức kí họa đầy ấn tượng về hành trình gian nan, kéo dài triền miên, tựa như
không có điểm đầu hay kết thúc. Cách nói giảm nói tránh “không bước nữa”, “gục”, “bỏ quên đời”
vừa có tính tạo hình vừa mang tính biểu đạt cao. Hai câu thơ giống như một thước phim quay chậm
ghi lại từng hành trình, từng bước chân của người chiến sĩ trên con đường hành quân. Trên hành
trình ấy là những dãi dầu sương gió, là “không bước nữa” đến gục xuống và “bỏ quên đời”. Cách
nói giảm, nói tránh vốn dĩ đã làm giảm bớt sự buồn đau của sự việc, thế nhưng vẫn giữ được đúng
tinh thần thép của những người lính. Khi họ dứt áo ra đi là đã gạt tình riêng sang một lối nhỏ, toàn
tâm toàn ý cho tình yêu đất nước. Câu thơ của Quang Dũng đã diễn tả đúng chất của câu “quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh”. Như vậy, hiện thực thê lương đâu còn nữa, nay chỉ còn khí thế hào hùng
trong bức tranh đầy bi tráng mà tác giả vẽ lên.
Thiên nhiên Tây Bắc luôn chứa đựng những mối nguy hiểm rình rập, những khung cảnh thiên
nhiên hoang sơ nhưng cũng rất đỗi hùng vĩ. Khoảnh khắc ngày tàn khi mà đêm đen dần thế chỗ cho
ánh sáng cũng báo hiệu cho sự hiểm độc của nơi thâm u cùng cốc:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
"Thác gầm thét" và "cọp trêu người" là hai hình ảnh nhân hóa thể hiện sự dữ dội, hoang sơ
đầy bí hiểm của núi rừng nơi địa đầu Tổ quốc . Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn được sử
dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng "thác", "thét"
mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng "Hịch", "cọp" cũng mang thanh trắc nhưng
lại thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh của tiếng thác
nước man dại ở vòm cao thăm thẳm; những dấu nặng liên tiếp trong câu thơ dưới lại như một phỏng
tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi ra cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng.
"Chiều chiều" và "đêm đêm" là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian tuần hoàn, miên viễn, vĩnh hằng.
Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị núi rừng Tây Bắc không phải một chiều, một
đêm mà là "chiều chiều – đêm đêm" – sự ngự trị muôn đời. Nhưng cũng chính điều này lại càng
khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những
vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người, những vùng đất tưởng như chỉ là vương quốc riêng
của heo hút mây trời, của rừng thiêng nước độc; vùng đất ấy nay đã in dấu chân của những người
chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong đoàn quân Tây Tiến.
Sau chặng đường hành quân gian khổ, người chiến sĩ dừng chân và quây quần trong niềm vui
ấm áp, niềm hạnh phúc nơi bản làng. Hai chữ “nhớ ôi” vang lên chứa chan cảm xúc, là nỗi nhớ in
thành hình, gợi thành nét, thốt lên thành tiếng. Đó là nỗi nhớ về một thời đã qua nhưng không hề
phai nhòa, mờ nhạt đi trong tâm trí người chiến sĩ. Những gian khổ, khó khan vốn dĩ khó có thể
quên được, những kỉ niệm ngọt ngào lại càng hằn sâu trong kí ức. Từ “em” là cách gọi đầy thân mật,
kết hợp với từ “mùa” gợi đến sự ăm ắp, đầy tràn, gợi mùa vui thu hoạch, đồng thời gợi cả nghĩa tình
quân dân. Nhớ mùi thơm “nếp xôi” là nhớ hương vị đặc trưng của núi rừng Tây Bắc, của tình quân
dân thắm thiết, gắn bó. Chính nồi cơm lên khói nghi ngút ấy đã gắn kết nghĩa tình thủy chung giữa
những đồng bào dân tộc Tây Bắc với những người chiến sĩ, bộ đội kháng chiến. Đó là tình cảm sâu
đậm và khó phai trong tâm trí người lính Tây Tiến. Tình cảm thiêng liêng ấy đã trường tồn trong
suốt những năm tháng kháng chiến, trở đi trở lại trong những sáng tác đương thời:
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương
Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên
“Tây Tiến” được xem là một thi phẩm xuất sắc, gần như đạt đến sự toàn bích về nghệ thuật.
Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn, đậm chất bi tráng, nhiều sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ,
giọng điệu. Hình ảnh thơ sáng tạo mang sắc thái thẩm mĩ phong phú. Ngôn ngữ thơ đa sắc thái,
phong cách, có những kết hợp từ độc đáo. Bao trùm bài thơ là giọng điệu khi tha thiết bồi hồi, khi
hồn nhiên vui tươi, khi bâng khuâng man mác, khi trang trọng, khi trầm lắng… Cả bài thơ là nỗi
nhớ da diết của nhà thơ đối với đơn vị Tây Tiến: nhớ những chặng đường hành quân với bao gian
khổ, thiếu thốn, hi sinh mất mát mà vẫn có nhiều kỉ niệm đẹp, thú vị, ấm áp; nhớ những đồng đội
Tây Tiến anh hùng… Qua đó, tác giả đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến hào
hùng, hào hoa và vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng của thiên nhiên miền Tây tổ quốc. Cũng từ đó mà toát
lên chất lãng mạn bi tráng và vẻ đẹp độc đáo của hình tượng người lính cách mạng trong thơ Quang Dũng
“Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng Hồng). Quả đúng như vậy, Tây
Tiến đã mang đến cho người đọc “con người và thời đại” của một thời chống Pháp oanh liệt hào
hùng. Qua đó ta thấy được tinh thần Tây Tiến bất tử, một thời đại bất tử. Nhà thơ Quang Dũng đã
tạc vào tháng năm lịch sử một tượng đài bi tráng, thiêng liêng về những con người “chẳng tiếc đời
xanh” đã hiến dâng thanh xuân của mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Xin được mượn mấy lời
thơ của Giang Nam thay cho lời kết:
“Tây Tiến biên cương mờ lửa khói
Quân đi lớp lớp động cây rừng
Và bài thơ ấy, con người ấy
Vẫn sống muôn đời với núi sông”