Phân tích 8 câu đầu bài thơ Tây Tiến (Sơ đồ tư duy + 12 mẫu) | Văn mẫu 12

Phân tích 8 câu đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng bao gồm gợi ý cách viết kèm theo 12 bài văn mẫu cực hay. Phân tích Tây Tiến 8 câu đầu là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết giúp các em trong quá trình học và đặc biệt là kì thi THPT Quốc gia 2024 sắp tới.

Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Sơ đồ tư duy 8 câu đầu Tây Tiến
Dàn ý phân tích 8 câu đầu bài Tây Tiến
Dàn ý 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 1
a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm
Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ miền Bắc trưởng thành và nổi danh sau
Cách mạng tháng Tám.
Bài thơ Tây Tiến được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi
Quang Dũng đã chuyển về đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây
Tiến.
- Khái quát 8 câu thơ đầu: đoạn thơ dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây
Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ và thơ mộng.
b) Thân bài
* Nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc và đơn vị chiến đấu cũ (hai câu đầu)
- Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ, đoạn thơ.
- Nỗi nhớ ấy như dâng trào không thể kiểm soát được nên đã cất lên thành tiếng
gọi:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
+ Từ láychơi vơi”: gợi hình, gợi cảm => nỗi nhớ da diết, cháy bỏng như có hình,
khối gợi lên một không gian bao la, thời gian sâu thẳm.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
- Hình ảnh núi rừng trùng điệp, hoang sơ và con đường hành quân gian khổ của người
lính
+ Hình ảnh dốc, đèo, vực thẳm, rừng dày con đường hành quân chênh vênh dần
hiện ra
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
+ Những địa danh: Sài Khao, Mường Lát gợi lên không gian hoang sơ nơi xứ lạ
+ Cảm giác mệt mỏi của người lính như được xua đi bởi hình ảnh đầy thơ mộng trong
đêm của Mường Lát.
+ Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” : tạo ra nhiều t nghĩa khác nhau,
trong đó thể hiểu đây cách tả cảnh đoàn quân đốt đuốc đi trong đêm mịt hơi
sương trông như những bông hoa.
+ Thanh bằng: gợi cảm giác lâng lâng, chơi vơi, tài hoa lãng mạn. Khung cảnh núi
rừng hiểm trở.
* Con đường hành quân gian khổ của người lính:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thăm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Hai câu đầu: diễn tả độ cao ngất trời vào sự chênh vênh heo hút của núi đèo Tây
Bắc.
Từ láy tạo hình: "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút"… được sử dụng với
mật độ cao
Thủ pháp điệp từ, đối lập được khai thác triệt để
- Hai câu sau:
Câu thứ ba có sự ngắt nhịp ở giữa như bẻ đôi => diễn tả hai sườn núi vút lên,
đổ xuống gần như thẳng đứng
Câu thơ thứ tư toàn thanh bằng => tạo cảm giác lâng lâng, chơi vơi
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
=> Tây Bắc dữ dội, hoang được mở rộng ra theo chiều không gian: theo những địa
danh xứ lạ như Sài Khao, Mường Lát...
c) Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung nghệ thuật của 8 câu thơ đầu: Hình ảnh núi rừng
Tây Bắc hùng vĩ, đầy hiểm nguy nhưng cũng rất nên thơ. Hình ảnh đoàn quân trên
đường hành quân mang vẻ đẹp bi tráng.
- Gợi mở thêm vấn đề.
Dàn ý 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 2
1. Mở bài
- Tây Tiến được xem đứa con đầu lòng tráng kiện tài hoa của Quang Dũng
của cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam.
- Với khổ thơ đầu nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc vẻ đẹp vượt vượt lên khó
khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.
2. Thân bài
* Tác giả:
- Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa tài.
- Phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ: Phóng khoáng, hồn hậu, ng mạn tài
hoa.
* Tác phẩm:
- Tây Tiến sáng tác cuối năm 1948, Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng lại về
những ngày tháng ở binh đoàn Tây Tiến.
- Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
* Phân tích:
- Hai dòng thơ đầu: Nỗi nhớ bao trùm, mạch cảm hứng chủ đạo của bài thơ
“Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt
mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
“Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
→ Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ quên,
đồng thời cũng là nỗi trống trải lạc lõng trong lòng tác giả.
- Hai câu thơ tiếp:
“Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của
binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi
bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt,
trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.
Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập
bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
- Bốn câu thơ tiếp “Dốc…xa khơi”:
Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường
của người lính chiến khi hành quân.
“Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn
nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa
núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.
- Hai câu thơ “Anh bạn…quên đời”:
Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả
thân vì Tổ quốc.
Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho
đồng đội.
- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều…nếp xôi”
Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ
mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác
thú.
Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết,
nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn
chiến đấu.
3. Kết bài
- Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người tính, sự hy sinh cao cả,
nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
- Bằng ngòi bút hào hoa lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất
những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến
đã đi qua.
Phân tích Tây Tiến 8 câu đầu - Mẫu 1
Trong dòng chảy thi ca Việt Nam, thơ ca cách mạng một thời để lại được nhiều
dấu ấn với những thi phẩm đặc sắc như Lên Tây Bắc, Hoan chiến sĩ Điện Biên,
Việt Bắc (Tố Hữu), Đồng chí (Chính Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi),... Nhưng
bài thơ được coi "đứa con đầu lòng hào hoa tráng kiện của thơ ca kháng chiến
chống Pháp" chính Tây Tiến của Quang Dũng. Bài thơ không chỉ tái hiện lại những
tháng năm kháng chiến của đoàn quân Tây Tiến còn khắc họa được bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng lại vừa lãng mạn nên thơ. 8 câu thơ đầu tiên đã
gây ấn tượng mạnh mẽ với bạn đọc về hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, đơn vị mà Quang Dũng
chuyển công tác đến sau khi kết thúc quãng thời gian một năm gắn cùng sát cánh,
kề vai với đồng đội của quân đoàn Tây Tiến. Trong nỗi nhớ khôn nguôi về đồng đội
núi rừng Tây Bắc, nhà thơ đã không kìm được lòng mình, để tiếng nói của trái tim
cất lên thành trang thơ. 8 câu thơ đầu tiên như một thước phim sống động tái hiện lại
cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và hiểm trở khôn cùng.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Hình ảnh con sông hiện lên một hình ảnh gắn liền với địa bàn hoạt động của
đoàn quân Tây Tiến, chứng nhân của một thời dậy vang, máu lửa. Tiếng gọi "Tây
Tiến ơi" thân thương, da diết như tiếng gọi một người bạn hữu đã lâu ngày xa cách.
Điệp từ "nhớ" trong một câu toàn thanh bằng nhưng một nốt nhấn cao độ trong bản
nhạc trầm, nỗi nhớ dường như luôn thường trực trong lòng nhà thơ bỗng trào dâng,
lên tiếng. Hai câu thơ gieo vần "ơi" kết hợp với tính từ "chơi vơi" vang lên, khiến cho
lòng ta cũng bất chợt lâng lâng, lửng lơ song lại ắp đầy, tuy nhẹ mà lại lắng sâu. Có lẽ
chính bởi vậy, cho nhà thơ đã bỏ đi một chữ "nhớ" trong tiêu đề ban đầu của tác
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
phẩm ("Nhớ Tây Tiến") thì cảm xúc cũng vẫn không thôi dào dạt. Nỗi nhớ trào dâng
dường như thấm đẫm trong cảnh vật trên đường hành quân, trong những kỉ niệm của
một thời kháng chiến. Tất cả một vùng ức sống lại, nồng nàn thân thương, thiết
tha trọn vẹn tựa như một thước phim quay chậm, rồi từng nét cảnh núi rừng hiện
lên trong bao ngày gian khó, từng giây phút gian nan bên đồng đội anh em, từng dáng
hình của người sơn nữ dáng duyên, và cả hơi cơm đạm bạc mà ấm nồng tình quân dân
cá nước,... cứ thế mà hiện lên đong đầy.
Nối tiếp hai câu thơ khắc hoạ nỗi nhớ, khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc bắt đầu hiện
ra, trước hết những địa danh, những địa bàn hoạt động đội quân đã từng một
thời gắn bó.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
"Sài Khao", "Mường Lát" là tên của những bản núi mù sương, nghe tuy lạ lẫm, nhưng
lại những cái n đã đồng nh cùng người lính Tây Tiến suốt những tháng năm
kháng chiến. Hai câu thơ như gợi nhắc đến một nơi xa xôi ẩn nào đó cũng chính
sự ẩn ấy lại quyến cùng. "Sương lấp đoàn quân mỏi" chi tiết tả thực khắc
họa những khó khăn gian nan người lính Tây Tiến gặp phải trên con đường hành
quân. Thiên nhiên núi rừng miền cao ẩn chứa biết bao những thử thách gian nan là thế
nhưng vẫn đâu đây những nét đẹp thơ mộng. Nhà thơ sử dụng hai từ "đêm hơi"
chứ không phải "đêm sương", là một đêm mờ hơi sương, đêm của hơi núi rừng, hay
một đêm nhẹ như hơi thở. Hai chữ "đêm hơi" gợi nhiều hơn tả, như phác lên trong
tâm trí của người đọc những nét vẽ thật hồ, o diệu, dường như lại chẳng nhìn
thấy chỉ thể cảm nhận. Trong không gian ảo huyền nên thơ, hình ảnh "hoa về"
như điểm nhấn cho cảm hứng lãng mạn. "Hoa" những bông hoa trên tay trên vai
trên áo trên người lính trên đường hành quân, hoa lửa hoa đuốc sáng soi dẫn
đường trong đêm tối, hay phải chăng "hoa" lại chính người con gái người thôn nữ
miền sơn cước đi về trong miền nhớ, miền thương thẳm sâu trong tâm hồn người
chiến sĩ.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Nói đến Tây Bắc, ta không thể không nghĩ tới thiên nhiên hùng vĩ, phần hiểm trở.
Những núi cao, dốc thẳm luôn những trở ngại trên con đường hành quân của những
người lính trẻ.
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Điệp từ "dốc", "ngàn thước" kết hợp với các giàu tính gợi hình " khúc khuỷu", "thăm
thẳm", "heo hút" thủ pháp tương phản đối lập "lên - xuống", đối xứng giữa hai tiểu
vế đã khắc hoạ khung cảnh thiên nhiên trùng điệp, núi tiếp núi, đèo nối đèo, lên cao
chót vót rồi bỗng dưng lại dốc xuống tận cùng như muốn thử thách lòng gan dạ ý
chí kiên cường của người lính Tây Tiến. Trong giờ phút gian khó ấy, hình ảnh "súng
ngửi trời" hiện lên thật thi vị. Đây quả một cái nhìn hóm hỉnh, thú vị của người
chiến sĩ, như phá tan đi cái mệt nhọc của quãng đường hành quân đầy gian khó.
Trong i thơ "Đồng chí", Chính Hữu cũng đã từng ghi lại hình ảnh "đầu súng trăng
treo". Đây đều những hình ảnh tả thực, khi những người lính hành quân, họ luôn
vác súng trên vai, đầu súng hướngn, một góc độ nào đó, như thể súng đang chạm
tới trời, như đang treo mảnh trăng sáng của đêm rừng canh gác. Chính qua những hình
ảnh đó, mà ta như nhìn vào được tâm hồn của họ, họ cũng mang một trái tim trẻ trung,
cũng thơ mộng chứ không hề chai sạn giữa những gian nan thử thách nơi chiến trường
cam go, khốc liệt. dường như, khi đã vượt qua hết những chặng gian lao, người
lính như thở phào nhẹ nhõm, đứng nơi đỉnh cao, phóng tầm mắt ra xa
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Sau 3 câu thơ liên tiếp đặc tả cảnh thiên nhiên hùng hiểm trở, nhà thơ sử dụng một
câu thơ toàn vần bằng gợi lên khung cảnh thanh bình, thơ mộng. Thì ra, Tây Bắc
ngoài những đèo cao dốc thẳm cũng những góc lãng mạn, nên thơ đến thế,
lẽ, chỉ có ai đã từng gắn bó thân thuộc với nơi đây mới có thể khám phá nên mà thôi.
Bằng sự hiểu biết sâu sắc là ngòi bút hào hoa phóng khoáng, Quang Dũng đã khắc họa
hình ảnh thiên nhiên Tây Tiến thật hùng nhưng cũng rất đỗi nên thơ. Đoạn thơ đã
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng
nói chung, để Tây Tiến trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời
gian.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến đạt điểm cao - Mẫu 2
Hình ảnh người lính đề tài quen thuộc khơi nguồn cảm hứng cho các nhàn, nhà
thơ. Quang Dũng cũng một tác giả đóng góp quan trọng cho thơ văn của chủ đề
này qua bài thơ Tây Tiến. Bài thơ chứa đựng những giá trị, ý nghĩa sâu xa, đặc sắc,
đặc biệt là tám câu thơ đầu tiên.
Phải thế chăng bài thơ đã mở đầu bằng nỗi nhớ da diết như những con sóng trào
dâng trong lòng:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Đoạn thơ mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết, ngân dài, tha thiết: "Sông rồi
Tây Tiến ơi!". Tiếng gọi được khơi nguồn từ núi cao, vực sâu, dốc thẳm, sương dày và
ngân dài như thể tích tụ, dồn nén bấy lâu nay. Dường như Quang Dũng đang đứng
giữa không gian mênh mông, bát ngát, cất lên tiếng gọi. “Sông Mã” vừa hình ảnh
thiên nhiên miền Tây gắn liền với bao ngày tháng gian khổ của đoàn binh Tây Tiến,
vừa như chứng nhân lịch sử chứng kiến mọi vui buồn của cuộc đời chiến binh. Liệu
sự nhầm lẫn chăng khi cảm xúc của nhà thơ hướng về sông nhưng lại gọi
“Tây Tiến ơi”? lẽ đó chính sự đồng điệu hòa hợp giữa tâm hồn của những
người chiến sĩ, bởi họ đều chung một dòng cảm xúc, cùng chung một mục tiêu
chiến đấu, cùng một tưởng. Nhớ về Tây Tiến, chính nhớ về dòng sông oai
hùng.
Từ lời gọi tha thiết dành cho Tây Tiến, nỗi nhớ như ngày càng dâng trào, càng xa Tây
Tiến bao nhiêu, Quang Dũng lại càng nhớ Tây Tiến bấy nhiêu. Cụm từ “Xa rồi” chỉ
khoảng cách về không gian, đường lên Tây Bắc, lên với binh đoàn Tây Tiến Năm
nào "thăm thẳm một chia phôi" không biết bao giờ mới có thể trở lại. “Xa rồi” còn chỉ
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
về thời gian, sông Tây Tiến mãi mãi mùa xuân ấy, mùa xuân đã qua đi
không thể trở lại bao giờ. Tính từ “xa rồi” tạo ra một khoảng không gian xa xăm, vời
vợi, mênh mông vừa gợi một nỗi bâng khuâng, man mác, một nỗi hụt hẫng trong lòng.
Phải chăng, mỗi tên gọi thân thương ấy, “sông Mã”, “Tây Tiến” như đang đứng ở mỗi
đầu nỗi nhớ hướng về nhau, thao thức, khắc khoải nhau. Giữa khoảng không
gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không
biết đặt để vào đâu cho phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: nhớ chơi
vơi”. Nỗi nhớ ấy dành cho "rừng núi", một hình ảnh tả thực thiên nhiên miền Tây, một
vùng rừng núi hoang sơ, hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội nhưng cũng rất thi vị, nên thơ. Hình
ảnh rừng núi còn gắn liền với địa bàn hoạt động của những người lính Thành lần
đầu đến với vùng đất xa xôi này.
Quả thật, nỗi nhớ như len lỏi khắp mọi vần thơ. Nhưng, thơ ca sáng tạo. Bình
thường schết! Quang Dũng đã thật tài hoa khi lấy cái “chơi vơi" ấy để dành cho
nỗi nhớ Sông Mã, dành cho Tây Tiến.
Từ nỗi nhớ chơi vơi về những ngày tháng gian khổ đã qua, từ mênh mông núi rừng
Tây Bắc ấy, hình ảnh người lính đã hiện ra thật chân thực giữa khung cảnh thiên nhiên
núi rừng Tây Bắc vừa thi vị, lãng mạn, lại vừa dữ dội, hoành tráng khác thường:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn những mốc không gian địa in đậm kỷ
niệm của một thời chiến binh nay trở thành mốc thời gian lịch sử giúp người chiến
năm nao nhớ lại những kỷ niệm trong bao chặng đường hành quân vất vả. Với bút
pháp lãng mạn, kết hợp bút pháp hiện thực, Quang Dũng đã miêu tả vừa chân thực
vừa nên thơ con đường hành quân gian khổ người lính Tây Tiến trên những chặng
đường đầy gian khổ đó. Thời tiết miền Tây cùng dữ dội, khắc nghiệt. Hành quân
giữa rừng núi có hương hoa rừng và mờ mịt hơi sương, những người lính mỏi mệt như
bị chìm lấp đi trong sương khói.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Như loài hoa hướng dương sinh ra chỉ để hướng về mặt trời, như ánh nắng mặt trời
sinh ra chỉ để hướng về mặt đất. Thơ ca cũng thế. Thơ sinh ra chỉ để hướng con người
đến một cuộc sống tốt đẹp. Lưu Trọng đã từng nói thế này: "Một câu thơ hay
một câu thơ sức gợi". Làm ai quyến luyến những vần thơ khô khan không
cảm xúc? Phải vậy chăng những vần thơ của Quang Dũng lại càng đi sâu vào vẻ
đẹp lãng mạn, hào hung, hào hoa của người lính Tây Tiến:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Câu thơ đẹp như một tuyệt tác của thiên nhiên. Vừa lạ lẫm, vừa huyền ảo, vừa thơ
mộng cũng rất chi hồ, ảo diệu. Câu thơ này nhiều cách hiểu. Ta thể
hiểu người lính Tây Tiến hành quân trên chặng đường mờ mịt hơi sương mùi
thơm ngào ngạt của hương hoa rừng, đem đến cảm giác như đang đi trong "đêm hơi" .
Hay thể hiểu đó chính lời ngợi ca mỗi người lính Tây Tiến được như một
bông hoa tuyệt đẹp của núi rừng đang trở về tụ hội? Dù hiểu theo cách nào, người đọc
vẫn cảm nhận được những khó khăn, gian khổ mà người lính đã trải qua. Hiểu về hiện
thực khốc liệt của chiến tranh để thêm cảm phục, thêm yêu vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn,
mộng mơ của họ.
Sau những cảm nhận đầy thơ mộng, lãng mạn về bức tranh thiên nhiên hồn người,
những câu thơ tiếp theo Quang Dũng đã vẽ ra khung cảnh thiên nhiên trong ức
tâm trạng như sự sóng đôi trái ngược với những vần thơ trên:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.”
Trong hai câu đầu, Quang Dũng sử dụng những từ láy (khúc khuỷu, thăm thẳm, heo
hút) giá trị gợi cảm, gợi hình cao. Các từ này lại được đặt liên tiếp nhau để đặc tả
sự gian nan trùng điệp dồn dập vây quanh người lính. “Dốc khúc khuỷu” gợi tả những
chặng đường nhiều núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, lúc hiện ra quanh co đèo dốc, lúc lại
chìm ẩn đi trong cái thăm thẳm, rợn ngợp, mênh mông. "Dốc thăm thẳm" cách viết
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
độc đáo của Quang Dũng, vừa gợi tả chiều cao, vừa gợi tả chiều sâu, như một con dốc
không giới hạn cuối cùng, đầy hoang sơ, hiểm trở. Nhưng chưa dừng lại đó, câu
thơ thứ hai miêu tả độ cao của những ngọn núi nơi đây:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
“Heo hút” diễn tả s hoang vu, vắng vẻ, hiu hắt, rợn ngợp. Câu thơ gợi ra hình ảnh
người lính Tây Tiến đứng trên đỉnh núi cao hoang vu, trơ trọi, xung quanh bốn bề gió
thổi vi vút. Nghệ thuật đảo ngữ với từ "heo hút" đứng đầu câu đã khắc họa sự hùng
vĩ, dữ dội của thiên nhiên miền Tây thế hiên ngang của những của những người
lính trẻ. Trong câu thơ này, Quang Dũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa qua ba chữ
"súng ngửi trời". Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi súng
chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình ảnh súng đang chạm
tới trời. Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoa, lãng mạn trong chất thơ của Quang
Dũng.
Trước thiên nhiên khắc nghiệt, người lính Tây Tiến không bị chìm đi lại nổi lên
đầy thách thức, lạc quan, yêu đời. lẽ, Quang Dũng nhà thơ đầu tiên trong văn
học dân tộc đưa chất lính tráng nhiên, vô tư đến thế.
Nhưng, những khó khăn chưa dừng lạiđó. Câu thơ tiếp như nhân lên gấp bội sự thử
thách, khốc liệt của thiên nhiên:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Ngàn thước ước từ chỉ số lượng không xác định. "Lên", "xuống" hai động từ đối
lập nhau về nghĩa. Dốc núi đột ngột lên cao rồi lại đột ngột gãy gập, đổ xuống một
cách bất ngờ đầy hiểm nguy tưởng như đỉnh núi bị đứt gãy giữa không trung. Đúng
chỉ "đọc câu thơ và nghe đã muốn mòn chân mỏi gối" (Trần Lê Văn).
Thế nhưng sau tất cả những gian khổ hiểm nguy, người lính vẫn tìm kiếm được sự
sống của con người khi dừng lại ngắm nhìn những nếp nhà Pha Luông một nét vẽ
nhẹ nhàng thả xuống êm đềm giữa những câu thơ gân guốc ở phía trên:
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
“Nhà ai”, một ngôi nhà không xác định, nhạt nhòa trong mưa nhưng gợi cảm giác thân
thương, gần gũi. “Mưa xa khơi” gợi liên tưởng đến một biển mưa mênh mông giữa
núi rừng Tây Bắc. Sau khi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, người chiến
Tây Tiến như đứng trên đỉnh cao nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa
trắng. Phải những phút giây như thế này, người chiến Tây Tiến mới thể vượt
qua được những thử thách mới đầy dữ dội của thiên nhiên với “thác gầm thét”, cọp
trêu người”...
Tám thơ mở đầu đã cho thấy vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng Tây Bắc chân dung
những người lính Tây Tiến đáng khâm phục. Tình yêu quê hương, đất nước hòa quyện
với tình đồng chí, đồng đội và tình yêu thiên nhiên, yêu con người tha thiết.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 3
Cùng viết về hình tượng người lính những mỗi nhà văn lại tìm cho mình 1 lối đi riêng,
1 cách khám phá riêng. Nếu ở "Đồng chí" của Chính Hữu đó là hình ảnh điển hình
tiêu biểu của người lính chống Pháp chân chất, mộc mạc thì đến Tây tiến của Quang
Dũng lại được miêu tả theo 1 cách thật riêng, vừa hào hùng, hào hoa và bi tráng. Điều
này được thể hiện rõ ở khổ thơ thứ 1 của bài.
Quang Dũng quê Đan Phượng, Tây (nay Nội), ông một nghệ đa tài,
vừa là nhạc sĩ, vừa là họa sĩ chính vì thế thơ ông rất giàu chất nhạc và chất họa. Quang
Dũng còn một người lính ưu tú, tham gia nhiều chiến trường khác nhau, nên những
vần thơ của ông về người lính rất chân thật sống động, với sức truyền cảm mạnh
mẽ, phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn
tài hoa. Binh đoàn Tây Tiến được thành lậpo đầu năm 1947, thành phần chủ yếu
những thanh niên thành, nhận nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên
giới Việt- Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Địa bàn hoạt động trải rộng
suốt từ vùng Sơn La, Hòa Bình, đến Sầm Nứa (Lào), rồi vòng về vùng phía tây Thanh
Hóa, phải hành quân nhiều lần, điều kiện chiến đấu cùng gian khổ. Tây Tiến sáng
tác cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng lại về những ngày tháng
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
binh đoàn Tây Tiến. Ban đầu tên Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến, một
nhan đề hàm súc, đọng, nhưng vẫn thể hiện rõ ràng cảm xúc chủ đạo của bài thơ là
nỗi nhớ. Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Nỗi nhớ về một Tây Bắc dữ dội, được thể hiện trong 8 câu thơ đầu.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Hai câu thơ đầu “Sông xa rồi Tây Tiến ơi!/”Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”, gợi
lên những nỗi nhớ, nỗi thương dâng trào về một thời đã qua, về một vùng đất đã xa.
Lời gọi “Tây Tiến ơi” rất tha thiết khắc khoải, Tây Tiến không chỉ một cái tên
dường như đã trở thành người thân thương ruột thịt. Quang Dũng gọi tên “sông
Mã” ngay từ những dòng thơ đầu, địa danh ấy cũng hiện thân tiêu biểu của vùng
rừng núi Tây Bắc. Trên quãng đường hành quân, dòng sông ấy không chỉ một địa
danh trên bản đồ địa đã trở thành người bạn, người tri kỷ, là chứng nhân lịch sử
đã chứng kiến biết bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính chiến trong suốt
cuộc trường chinh. Thế nên trong nỗi nhớ của Quang Dũng, trước hết nhớ về binh
đoàn Tây Tiến thân yêu, sau về Tây Bắc với dòng sông vương đầy kỷ niệm.
Không chỉ có như vậy, trong ấn tượng, trong nỗi nhớ của nhà thơ cònhình ảnh của
rừng núi, đó nỗi nhớ “chơi vơi” lạ lùng! Bởi với người lính xuất thân từ phố thị, thì
hình ảnh rừng núi Tây Bắc hết sức lạ lẫm, đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng
người lính chiến. Quang Dũng hai lần nhắc chữ “nhớ”, nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ đang
khắc khoải trong tâm hồn, đặc biệt “nhớ chơi vơi” lại một cách diễn tả nỗi nhớ rất
riêng của Quang Dũng. Đó cảm giác, trơ trọi, hụt hẫng, chông chênh trong một nỗi
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
hoài niệm xa xôi, bởi Tây Bắc đã xa lắm rồi, một Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn
quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng lắm oai hùng.
Nếu như 2 u thơ đầu nỗi nhớ bao trùm thì 12 câu thơ tiếp nỗi nhớ ấy đã được
nhà thơ khắc sâu qua nhiều kỷ niệm ấn tượng. Đầu tiên nỗi nhớ về Sài Khao,
Mường Lát trong, “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/Mường Lát hoa về trong đêm
hơi”. Hai địa danh đã gợi nhắc về những địan hoạt động của đoàn quân Tây Tiến,
từ đó kéo ra các không gian rộng lớn khác xuyên suốt cả bài thơ như Pha Luông,
Mường Hịch, Mai Châu,… Dường như nỗi nhớ của nhà thơ dàn trải dài khắp chiều
không gian, mỗi nơi nhà thơ từng bước chân đi qua thì tâm hồn nhà thơ đều cảm
thấy yêu thương gắn bó, trích lời Chế Lan Viên Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu
thương”. thể nói mỗi một địa danh biểu trưng cho núi rừng Tây Bắc đều đã trở
thành một kỷ niệm khắc sâu vào trong tâm khảm của nhà thơ không thể phai mờ, đó
cũng tình cảm thắm thiết sâu nặng, cũng trích lời Chế Lan Viên “Khi tachỉ nơi
đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” vốn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về
Mường Lát trong màn sương mờ mờ ảo của núi rừng Tây Bắc, gợi lên vẻ đẹp lãng
mạn của thiên nhiên núi rừng, đồng thời vẻ đẹp đông đảo, đoàn kết của người lính
chiến. Cảm giác “mỏi” hiện diện trong gân cốt người lính chiến, dường như vẫn còn
như mới trong tâm hồn Quang Dũng, điều ấy càng chứng tỏ nỗi nhớ sâu sắc của tác
giả, bởi kỷ niệm càng nhỏ bao nhiêu thì nỗi nhớ càng to lớn bấy nhiêu, nhớ kỹ đến
cả cái “mỏi” hành quân xa! “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hoa ở đây có thể hiểu
ngàn hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng lẽ chính xác
hơn, thì hoa ấy ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm tựa đóa hoa lửa trong
những đêm hành quân mịt mờ trở về Mường Lát. Hình ảnh ngọn đuốc hoa vừa gợi lên
nét lãng mạn, vừa hào hùng của một thời Tây Tiến…
Sau nỗi nhớ về Mường Lát về Sài Khao chính kỷ niệm về những ngày hành quân
chiến đấu đầy gian khổ, về vùng núi rừng Tây Bắc lắm hiểm trở, nguy nan.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Điệp từ “dốc” gợi lên cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết đỉnh dốc này lại tới đỉnh
dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự
hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên
vách núi bên vực thẳm, sự hun hút của cung đường. Cả câu thơ gợi mở một
không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng và người lính đang phải nỗ lực hết sức
mình để vượt qua những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp
với nghệ thuật tương phản “lên cao-xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót
của đỉnh dốc, vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Lời thơm nổi bật được tính
chất hùng vĩ, hiểm trở nổi bật của núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên trên những khó
khăn địa hình hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ. Nhưng dẫu thiên nhiên
hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên nghĩa dưới bước chân
của binh đoàn Tây Tiến, người lính đã hiện lên với tầm vóc một đối thủ xứng tầm
của thiên nhiên. Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng, nơi
dường như chưa từng bước chân người đến, chính người lính hành quân trên
những ngọn núi cao chót vót, nên những “cồn mây” mới như đang quanh quẩn, như
đùa giỡn dưới chân, ngỡ rằng người chiến binh đang bước đi trên mây chứ chẳng phải
núi rừng.
Xuyên suốt 8 câu thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người lính, sự hy sinh
cao cả, nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng.
Bằng ngòi bút hào hoa lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất
những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến
đã đi qua với giọng điệu phóng khoáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhịp thơ biến đổi,
tất cả đã tạo nên một âm hưởng riêng, một phong cách riêng của người lính Tây Tiến.
Phân tích 8 câu đầu bài Tây Tiến - Mẫu 4
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Nếu như hồn thơ của Huy Cận mở đầu bằng giọng điệu dân ca chứa chan tâm tình,
hồn thơ của Xuân Diệu khởi phát từ khát khao sống vội để không phí hoài tuổi xuân,
thì hồn thơ của Quang Dũng bắt nguồn từ nỗi nhớ chơi vơi” hiện hữu trong 8 câu
thơ đầu của bài thơ Tây Tiến.
Được viết vào năm 1948 khi Phù Lưu Chanh ( Tây), 8 câu thơ đầu của bài Tây
Tiến ghi ấn mãi trong lòng người đọc bởi đã tái hiện lại con đường hành quân giữa núi
rừng Tây Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ thơ mộng. Bên cạnh đó, bài thơ chính
tiêu biểu cho một phong cách sáng tác rất riêng của Quang Dũng - thế hệ nhà thơ
miền Bắc trưởng thành và nổi danh sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi “
Chỉ với hai câu thơ thôi, nhưng đã hoàn toàn lột tả được nỗi nhớ đơn vị cũ da diết của
nhà thơ Quang Dũng, bởi ông đã từng những kỉ niệm gắn sâu đậm với nơi đây.
Tây Tiến chính tên một đơn vị bộ đội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp được
thành lập năm 1947, đó Quang Dũng làm đại đội trưởng. Tới năm 1948, ông giấy
thuyên chuyển rời đại đội để sang đơn vị khác, thế nhưng tình yêu nỗi nhớ của
mình thì vẫn luôn lại với nơi đây. Bằng cách sử dụng câu cảm thán để mở đầu cùng
thủ pháp nghệ thuật nhân hoá gọi vật như gọi người, Quang Dũng đã khiến dòng sông
không đơn thuần một sự vật tri nữa, trở nên hồn, ức. đã biến
thành một chứng nhân lịch sử hiện hữu để ghi lại những kỉ niệm buồn vui của cuộc
đời những anh bộ đội cụ Hồ trên chiến trường hành quân gian khổ. Tây Tiến cũng
không chỉ cách gọi nữa, đã trở thành người bạn tri kỷ tâm giao để nhà thơ
giãi bày nỗi nhớ.
“ Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi “
Điệp từ nhớ được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ da diết ùa về trong tâm trí
Quang Dũng. Ta thấy xuất hiện đây tính từ chơi vơi “, kết hợp với dấu phẩy
xuất hiện giữa như một nhịp ngắt, gợi sự chia ly của nhà thơ với binh đoàn lại ùa về
trong tâm trí. Chơi vơi như gợi ra một nỗi nhớ hình khối, mở ra một không
gian sâu thẳm bao la:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi “
Hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng đang dần hiện ra dưới ngòi bút tài hoa
của nhà thơ Quang Dũng. Địa danh nổi tiếng như Sài Khao, Mường Lát đã được gợi
lên để lột tả sự hoang nơi xứ lạ. Núi rừng thì trùng điệp, sương giăng sương lấp”
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
như muốn cản bước đường hành quân của người chiến sĩ, khiến đoàn quân mỏi”.
Thế nhưng, tình yêu tổ quốc đã chắp sức mạnh cho những anh bộ đội cụ Hồ, giúp họ
vượt qua màn sương lạnh giăng mắt, tiến về chiến trường phía trước kia.
“ Mường Lát hoa về trong đêm hơi “
Đây là một câu thơ đẹp, lại có thể hiểu được theo nhiều nghĩa. Ta có thể trông thấy vẻ
đẹp của những đóa hoa nơi núi rừng Việt Bắc cuộn trào sức sống nở bất chấp tiết trời
giá lạnh sương giăng, như tinh thần bất diệt của người lính Tây Tiến; cũng như thể
trông thấy khung cảnh hành quân giữa đêm hơi”, đốt lên những ngọn đuốc trong
đêm mịt mù hơi sương trông giống như những bông hoa đỏ. Thanh bằng trong câu thơ
đã gợi cho ta thấy cái cảm giác vừa nhẹ nhàng của màn sương, nhưng lại chơi vơi của
rừng núi. Sự lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng xuất hiện xuyên suốt cả tác phẩm, khi
ông luôn nhìn thấy vẻ đẹp đằng sau những cung đường khó khăn:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Hai câu thơ đầu, đã diễn tả độ cao tới ngất trời nơi núi rừng Tây Bắc, cùng sự chênh
vênh heo hút của núi đèo. Một lần nữa, thủ pháp kết hợp một loạt các từ láy lại được
đưa vào sử dụng, khi ta thấy xuất hiện của các từ: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút”
theo thứ tự từ dưới lên trên, từ xa tới gần. Cung đường các chiến hành quân thực
gian truân vất vả, vừa dốc vừa cao, địa hình hiểm trở trong khi thời tiết cũng không hề
thuận lợi. Đã những lúc, tưởng chừng như họ đã lên cao gần chạm tới chân mây
súng ngửi trời “, bầu trời như chạm vào mũi súng. Khi ấy, giữa trời đất heo hút, họ
vẫn có anh em kề bên sát vai chiến đấu, vẫn có súng đeo trên vai làm người bạn tri kỷ.
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Một lần nữa, dấu phẩy lại xuất hiện để ngăn cách hai vế câu, như diễn tả sự chập
chùng lên xuống của núi đèo. Điệp từ ngàn thước diễn tả cảnh sườn núi cứ vút lên
rồi lại đổ xuống, lúc tưởng chừng như thằng đứng nhưng vẫn không thể cản được
bước chân hành quân. Đồng thời, thủ pháp đối lập cũng xuất hiện qua câu thơ ngàn
thước lên cao - ngàn thước xuống “, gợi cho người đọc s hiểm trở chập chùng của
rừng núi. Nếu như câu thơ trên sử dụng thanh trắc tạo sự gân guốc để miêu tả địa hình
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
hành quân, thì câu thơ sau chính bức tranh trữ tình đẹp như nơi rừng núi Tây
Bắc:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Cơn mưa rừng chợt ùa tới giá rét, ướt sự thấm mệt cho người lính. Thế nhưng,
dưới ngòi bút của hồn thơ Quang Dũng, lại trở nên lãng mạn trữ tình. Mưa xa
khơi một cụm từ đẹp, thể hiện sự tinh tế của nhà thơ trong cách vận dụng từ ngữ,
gợi ra một cái đó vừa kỳ bí, hoang lại mênh mang. Pha Luông một địa
danh tiếp tục được nhắc tới trong ức của tác giả. Đứng trên đỉnh núi cao, trông về
phía xa xa thấy có cơn mưa xa khơi bên đó, dặn lòng càng phải quyết tâm chiến
đấu hơn để bảo vệ tới tấc đất cuối cùng.
Ta có thể thấy, bằng việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật kết hợp với một loạt từ láy
gợi tả liệt kê tên các địa danh, Quang Dũng đã thành công vẽ lên trước mắt ta cảnh
núi rừng Tây Bắc thật đẹp hùng thông qua nỗi nhớ của người chiến sĩ. Cảnh vật
tuy có hùng vĩ, hiểm trở nhưng vẫn đầy chất thơ, cũng giống như những người lính cụ
Hồ bi tráng nhưng không hề bi lụy. khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn sẵn sàng
chiến đấutổ quốc, dũng cảm vượt qua khó khăn. Tây Tiến chính là một kiệt tác của
thời đại, khi tiêu biểu cho hồn thơ của Quang Dũng. Đưa chủ đạo xuyên suốt bài
thơ nỗi nhớ, ngòi bút của Quang Dũng vừa chất nhạc lại giàu đậm chất thơ.
Người lính tri thức tiểu sản hiện lên hào hoa, phong nhã nhưng cũng không kém sự
bất khuất kiên cường. Kí ức sẽ còn mãi trong lòng mỗi độc giả khi họ ngâm nga 8 câu
thơ trên. Đó về vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc hùng thơ mộng, vẻ đẹp của đoàn
quân Tây Tiến bi tráng hào hùng, là vẻ đẹp của nỗi nhớ khôn nguôi.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 5
Phân tích tám câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc
hùng vĩ, dữ dội, đồng thời đó cũng thử thách hiểm nguy trên chặng đường hành
quân của binh đoàn Tây Tiến.
Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhở về rừng núi, nhớ chơi vơi
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén nổi.
Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, ràng là: “sông Mã”, “Tây Tiến”, “rừng núi”.
Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ “nhớ”. “Nhớ chơi
vơi” là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám
ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng của
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
núi đèo rộng lớn. Cách hiệp vần “ơi” làm câu thơ như ngân vang, phù hợp với biên độ
của cảm xúc.
Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ
ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.
Hai câu thơ tiếp: gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn. Những từ chỉ địa danh Sài
Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến.
Sương vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn
đang mỏi mệt, rệu chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy miêu
tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những người lính
ấy, mệt mỏi tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời. Hình ảnh “hoa
về trong đêm hơi” hình ảnh đẹp giàu sức gợi. Đó thể những ánh đuốc sáng
lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng thể hình ảnh đoàn quân từ
rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương, đó cũng thể
hình nh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Đoàn quân ấy
hành quân trong một “đêm hơi” đầy huyền ảo, hồ, bảng lảng khói sương chốn
rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo
hút”, kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc
khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong tâm
tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm
của núi cao, vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh “súng ngửi trời” một nhân
hoá táo bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm
tưởng như mũi súng thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy đượct tinh nghịch khoẻ
khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả, mệt nhọc của
các anh lính Tây Tiến. Phép đối “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” càng nhấn
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây.
Ba câu thơ giàu chất hội hoạ, dựng lên bức tranh hoang vu, dốc đèo đứt nối, hùng
trên con đường hành quân của chiến Tây Tiến. Câu thơ thứ toàn bộ bảy thanh
bằng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, vần mở “ơi” đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ
nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính. Họ đứng trên những
đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt,
thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ
dội hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc
mệt nhưng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.
Tám câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa tâm hồn lãng mạn phóng
khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu nhạc
điệu, gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, chiều sâu về cảnh hành
quân của đoàn quân Tây Tiến trên i nền thiên nhiên rừng núi hùng thơ mộng
miền Tây. Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ
Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến – một thời mãi
mãi để nhớ và tự hào.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 6
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Là người lính trẻ
hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống chiến đấu nơi núi rừng
gian khổ nhưng chất thivẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng. Tám câu thơ đầu tiên
tiếng lòng bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong ức của nhà
thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”
Câu thơ đầu như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái timm hồn người
thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm
hứng chủ đạo của bài thơ nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ
pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần
con sông đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một chứng nhân lịch sử trong
suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui - buồn, được - mất. “Tây Tiến” ko
chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội đã trở thành một người bạn tri âm tri kỉ” để
nhà thơ giãi bày tâm sự:
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ thứ hai với điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt,
cồn cào đang ùa vàom trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” kết hợp với từ “nhớ” đã
khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ nỗi nhớ đó như cơn thác
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
tràn vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, ảo. Hai câu đầu với
cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt
trong tâm hồn nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Quang Dũng đã liệt hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông… Đó địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua
dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, nói
đến vùng đất địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. những đêm dài hành quân
người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn mặt
nhau.Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi tổ
quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn.
Quang Dũng đã rất i tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ hơn sự
khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về
“sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành kí ức khó phai
trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. những lúc
người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo n đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã
khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” ko dùng từ “chót vót” bởi nói chót vót” người
ta còn thể cảm nhận thấy được bề sâu của nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai
thể hình dung được sâu thế nào. Bằng những từ y gợi hình ảnh rất cao như
“khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được
cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi
đưa hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời” để cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên
hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng
hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã
nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra một không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới
lên thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp
trữ tình nơi núi rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến.
Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã
thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. gợi lên
điều đó rất bí, hoang giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như
làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng mở ra bức tranh thiên nhiên nơi núi
rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến nỗi nhớ về núi rừng Tây
Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, đã trở thành ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó nỗi nhớ mãnh liệt
của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Bài thơ “Tây Tiến” dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành
kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi
nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất
họa đậm chất thơ. Bài thơ một khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế,
Xuân Diệu thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ “Tây Tiến” như đang ngậm âm
nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn
của một người lính Tây Tiến nên tạo nên một điều đó rất riêng đẹp. Mang
chất lính nên Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
“Tây Tiến” 1 bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn ,i hoa, lãng mạn của người
lính trí thức tiểu sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào
nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước danh. Bài thơ
xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu
sản hào hoa, phong nhã.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 7
khi nói về Quang Dũng, người ta thường nhớ đến một người nghệ sĩ đa tài. Ông vừa là
nhà văn, vừa nhà thơ, ông không chỉ biết vẽ tranh còn thạo về nhạc lý, thể tự
soạn ra những bản nhạc làm say lòng người. Chính hội tụ những tài hoa đó
hồn thơ Quang Dũng luôn rất tinh tế, quyến rũ, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng
sâu sắc. Với sự sáng tạo độc đáo hình nh ngôn từ đọng, hàm súc, một gợi
trăm suy, tác phẩm gắn liền với tên tuổi Quang Dũng “Tây Tiến” thực sự sức hút
rất lớn đối với độc giả khi đưa chúng ta trở về thời chiến trên con đường hành quân
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
đầy hiểm nguy khốc liệt dưới bầu trời thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, hùng
nhưng cũng mang vẻ đẹp thơ mộng trữ tình chỉ riêng nơi này có.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Thời kỳ chuẩn bị cho chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947, một phân hiệu bộ đội
thành lập đầu năm 1947 đã ra đời cùng với nhiệm vụ cao cả phối hợp với bộ đội
Lào đánh tiêu hao sinh lực địch vùng Thượng Lào bảo vệ biên giới Lào Việt,
mang tên gọi Tây Tiến. Bài thơ nỗi nhớ hoài niệm của nhà thơ về thời xưa khi
còn hoạt động trong đơn vị, nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc -i in dấu chân những
chàng lính trẻ tuổi hào hùng được khắc họa thành bức tranh đẹp nhất qua từng lời
thơ trau chuốt, sáng tạo. Sau khi nghe thấy nỗi nhớ “chơi vơi” hòa chung với tiếng hát
của sông Mã, của miền rừng núi Tây Bắc được thể hiện qua hai dòng đầu tác phẩm,
chúng ta đã theo hai dòng thơ ấy trở về quá khứ, mở ra trước mắt con đường hành
quân hoang sơ, dữ dội khắc nghiệt. Nhưng với niềm lạc quan luôn đồng hành cùng
người lính suốt những đêm trường lệ của dân tộc, đôi mắt họ nhìn thấy con đường
phía trước một đôi mắt rất “thơ”, họ cảm nhận thiên nhiên Tây Bắc luôn hàm chứa
vẻ đẹp hùng vĩ, trữ tình mang theo chút mộng ẩn sau lớp vỏ dữ dội vốn có.
Mở đầu là câu thơ với cách ngắt nhịp 4/3 khá quen thuộc của thể thơ Thất Ngôn:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
Vị trí ngắt nhịp của câu thơ rơi vào từ “dốc” giữa câu, tạo thành hai vế, đầu mỗi vế
điệp từ dốc”. Từ ý thơ ta cảm nhận được con đường hành quân một chuỗi
những gập ghềnh nhấp nhô, các con dốc lên cao rồi lại xuống thấp nối tiếp nhau, đèo
tiếp đèo, dốc rồi lại dốc, cứ như thế mà trải dài đến vô cùng. Một điểm ấn tượng ở câu
thơ mở đầu này là việc đến năm thanh trắc trên bảy chữ: dốc khúc khuỷu dốc
thẳm. Các thanh trắc tạo cho người đọc đang hòa mình vào tác phẩm cảm giác trúc
trắc, khó khăn, mệt mỏi khi phải liên tục leo lên cao hạ xuống thấp. Con đường
hành quân từ đó được điểm thêm phần hiểm trở, chướng ngại vật cản đường
người lính. Không chỉ thể hiện cảm xúc cho ý thơ, năm thanh trắc trên còn tạo ra nhạc
tính cho tác phẩm, vốn là nét đặc trưng tinh tế không kém phần thú vị trong thơ Quang
Dũng.
Các từ láy tạo hình trong câu thơ góp phần miêu tả t n địa hình hiểm trở,
quanh co của con dốc Tây Bắc: “Khúc khuỷu” gợi cảm giác gấp khúc, gồ ghề khó đi
lại, “thăm thẳm” gợi hình ảnh vừa sâu, vừa cao, vừa xa đến chân trời. Hai cụm từ
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
hai vế của câu thơ tạo nên hai không gian đối lập: Một bên đường lên núi cao vời
vợi với những vách đá dựng đứng, một bên đường xuống sâu hun hút như vực
thẳm.
Dòng thơ thứ hai mang lại cho người đọc cảm giác nhẹ nhàng, bay bổng, lãng mạn,
thêm một chút cô đơn trước sự vắng vẻ, hẻo lánh nơi miền núi:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Tính từ “heo hút” gợi sự xa vắng, hoang vu, một nơi loãng không khí và biệt lập, cách
xa cuộc sống con người. Đi cùng với cụm từ nhân hóa “súng ngửi trời” khi
mũi súng vừa vặn chạm đến ranh giới của bầu trời rộng lớn rồi “ngửi” thử, ý thơ
vừa gợi độ cao rợn ngợp vừa pha chút đó hóm hỉnh, hài hước, tinh nghịch ẩn trong
cốt cácho hoa của anh lính trẻ. thể nói ngôn từ tinh hoa của tác phẩm thơ ca.
Bởi vì thơ là để tạo ra giai điệu du dương thẩm thấu sâu lắng trong tâm hồn con người,
lẽ đó nên nhà thơ cần phải chăm chút cho vườn hoa ngôn ngữ trong thơ trở nên đa
sắc màu kết thành những ngôn từ quý giá nhất, tạo nên lời hay ý đẹp. Với quan
niệm ấy, chữ “ngửi” trong “súng ngửi trời” xứng đáng nhãn tự của dòng thơ này.
Ngôn từ tinh tế ấy cũng đã hiện cái tầm của người lính sánh ngang với tầm cao của
núi đèo, của vũ trụ. Bóng dáng các anh trở nên lồng lộng, uy nghi chiếm lĩnh đất trời.
Câu thơ thứ ba sử dụng điệp ngữ “ngàn thước” như một ước lệ nghệ thuật để khắc họa
vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh kỳ thú của núi rừng Tây Bắc:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Sự kết hợp hai động từ lên xuống” tạo cảm giác con đường hành quân như bị bẻ
đôi ra, một nửa phóng thẳng lên trời xanh cao, nửa còn lại phi xuống vực thẳm sâu
không thấy đáy. Nhìn xuống hay nhìn lên đều thấy xa vời, chật hẹp, căng thẳng và rợn
ngợp.
Ba câu thơ trên vẽ nên cái dữ dội thì câu thơ cuối cùng lại được dệt từ những thanh
bằng như để xoa dịu tâm hồn cằn cỗi và mệt nhọc ở người lính:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ không hề một thanh trắc nào chỉ những thanh bằng liên tiếp nhau
tạo nên sự êm ái nhẹ nhàng. Lúc này đây mọi mỏi mệt âu lo của người chiếndường
như tan biến, thay vào đó cảm giác nhẹ nhõm nhưng đầy nỗi bâng khuâng, mênh
mang, thả hồn vào những ngôi nhà thấp thoáng trong làn mưa cùng với nỗi nhớ nhà,
nhớ quê hương da diết.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Đây một đoạn thơ giàu tính nhạc. Vận dụng tài hoa về âm nhạc của mình, Quang
Dũng đã “phổ nhạc” cho đoạn thơ qua việc kết hợp nhịp nhàng giữa các thanh bằng
trắc, làm cho độ cao của núi, độ sâu của vực thẳm, độ dốc của đèo, sự gập ghềnh
chông chênh của con đường hành quân trở nên sống động và cứ nối tiếp nhau tăng cấp
lên mãi. Câu thơ như ngả nghiêng cùng núi đèo, chỗ nghe trúc trắc mỏi mệt, có khi
trầm xuống dịu dàng như bức họa ngày mưa ở Pha Luông: “Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi”. Thơ Quang Dũng thế phù hợp hoàn toàn với quan niệm về nhạc tính
tác giả Trần Thiện Khanh đưa ra: “Thi nhân phổ nhạc cho thơ, tiếng thơ vang ngân
trong không gian, tạo thành các “bước sóng” gõ cửa tâm hồn độc giả.”
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 8
“Tôi làm thơ này rất nhanh, làm xong, đọc trước đại hội được mọi người hoan nghênh
nhiệt liệt. Hồi đó, tấm lòng cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy, tôi chả chút
luận về thơ cả”, đó chia sẻ của Quang Dũng về bài thơ “Tây Tiến”. lẽ chính
sự chân thành chân thực nhà thơ gửi vào từng hình ảnh, câu từ trong tác phẩm đã
chinh phục người đọc, đem đến cho họ nhiều suy nghĩ, cảm xúc sâu sắc. Tám câu thơ
đầu của bài thơ mang khá nhiều ý nghĩa, thể hiện cảm xúc tài năng nghệ thuật của
nhà thơ.
Quang Dũng một nhà thơ hiện đại Việt Nam mang nét đẹp hồn hậu cùng ngòi bút
tài hoa. Một người bạn của Quang Dũng, nhà thơ Trần Văn từng chia sẻ rằng:
“Quang Dũng là người sống nội tâm, nhẹ nhõm, vừa ảo vừa thực như chính những câu
thơ phiêu diêu của ông: “Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt/ như lau sậy linh
hồn”. lẽ chính bởi nét đẹp tâm hồn đó, nhiều người coi Quang Dũng như một
đào, phong trong trường thơ kháng chiến, rằng ông ít quan tâm đến cách tân,
hình thức, không chủ trương sa vào sự cầu kỳ, ngôn từ trong thơ lại đầy sức trẻ,
tươi mới, tạo dựng được sự quyến rũ lạ thường để từ đó khẳng định vị thế, tên tuổi của
ông trong làng thơ hiện đại nước nhà. Một bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng có thể kể
đến đó chính “Tây Tiến” được sáng tác năm 1948, khi nhà thơ phải rời xa đơn vị
của mình để chuyển sang một đơn vị khác tại Phù Lưu Chanh. Tám câu thơ đầu của
tác phẩm đã gieo nhiều cảm xúc, nỗi niềm trong lòng người đọc.
Hai câu thơ mở đầu tác phẩm đã bộc lộ một nỗi nhớ thiết tha, dâng trào khiến nhân vật
trữ tình phải thốt lên thành lời:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” gợi bao niềm thân thương đi cùng với tâm trạng nhớ chơi
vơi” đã khắc họa chân thực, nét nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian, thời
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
gian. Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã phác họa ra trước mắt người đọc một bức
tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, hoang nhưng cũng đầy dữ dội, hiểm
trở để từ đó bức chân dung người lính càng thêm nổi bật:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Nhà thơ Quang Dũng đã đưa ra n một loạt các địa danh như “Sài Khao”, “Mường
Lát”, “Pha Luông” vừa giúp tăng tính chân thực, thuyết phục cho bài thơ, vừa góp
phần gợi nên một sự hẻo lánh, xa xôi, hoang vắng. Tác giả đã linh hoạt sử dụng một
loạt các từ láy đậm chất tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” để qua đó
đem đến cho người đọc cái nhìn chân thực, sống động hơn về bức tranh núi rừng nơi
đây. Những từ láy ấy khi kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ: “Dốc lên…dốc lên…” gợi
ra một địa hình hiểm trở với núi cao, đèo dốc chênh vênh, gợi ra hình ảnh những con
đường đèo, đường rừng nơi người lính Tây Tiến hành quân qua đầy gập ghềnh, gian
khó và thử thách ý chí, sự kiên trì, bền dạ của đoàn quân.
Một hình ảnh thơ vô cùng đẹp và giàu ý nghĩa nhà thơ tạo dựng trong đoạn thơ này đó
chính hình nh: “súng ngửi trời”. Trên cái nền hiện thực đầy gian khổ, thử thách ý
chí người lính ấy, nhà thơ đã đem đến cho người đọc một hình dung vô cùng trẻ trung,
hóm hỉnh đậm chất Quang Dũng. Cách nói “súng ngửi trời” của nhà thơ không chỉ
thể hiện sự cao rộng mênh mang của đất trời Tây Bắc, còn khắc họa hình nh
người lính Tây Tiến với tư thế chủ động, hiên ngang tâm thế sẵn sàng đối diện khó
khăn, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Nhịp thơ ngắt đôi trong câu thơ: “Ngàn
thước lên cao, ngàn thước xuống” tiếp tục gợi tả sự nguy hiểm tột cùng của thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc. Tuy thiên nhiên nhiều khi dữ dội, khắc nghiệt vậy nhưng
trong tâm hồn lạc quan, tươi trẻ của những người lính, họ không cảm thấy những điều
đó quá nặng nề, trái lại, nhiều lúc lại rất nên thơ. Đó hình ảnh “Mường Lát hoa
về trong đêm hơi” hay “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong cách nhìn, cách nghĩ,
cách cảm của người lính, cảnh vật thiên nhiên đất trời ấy lại đượm một vẻ rất đỗi
nên thơ, làm say đắm lòng người.
Từng câu thơ, hình ảnh đến nhịp điệu hay giọng thơ trong tám câu đầu bài thơ “Tây
Tiến” đã góp phần tạo nên sự đặc sắc cho giá trị nội dung tư tưởng cũng như hình thức
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
nghệ thuật của cả bài thơ, không chỉ đem đến cho người đọc cái nhìn chân thực về bức
tranh thiên nhiên núi rừng nhiều gian khổ trên đường hành quân mà còn phác họa đậm
nét chân dung tâm hồn người lính Tây Tiến, đồng thời thể hiện sự trân trọng, nỗi nhớ
thương nhà thơ dành cho đồng đội của mình.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 9
Quang Dũng một trong những nhà thơ chiến tiêu biểu của thời kỳ kháng chiến
chống Pháp. Ông đặc biệt thành công khi viết về đề tài người lính trí thức tiểu sản
hào hoa, phong nhã. Một trong những bài thơ nổi tiếng viết về người lính bài thơ
Tây Tiến.
Cảm hứng chủ đạo trong suốt bài thơ cảm hứng về nỗi nhớ. Đó nỗi nhớ khó phai
của đời người lính Tây Tiến được khắc hoạ thành công ở tám câu đầu của bài thơ
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Tây Tiến 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ,
ko ai không thể ko nhớ đến Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác cuối m 1948 khi nhà
thơ đóng quân Phù Lưu Chanh - 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị ông đã
viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ Nhớ Tây Tiến nhưng về sau đổi lại thành
Tây Tiến nhà thơ cho rằng chỉ với 2 từ Tây Tiến cũng đủ đã gợin nỗi nhớ cảm
hứng chủ đạo chứ ko cần đến từ "nhớ"
1 người lính trẻ o hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống chiến
đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà
thơ. 1 thời gắn sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông
ko khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi"
Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim m hồn người thi
sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng
chủ đạo của bài thơ nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp
nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. "Sông Mã" ko đơn thuần 1 con
sông đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch s trong suốt cuộc
đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất. "Tây Tiến" ko chỉ để gọi tên
1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn " tri âm tri kỷ" để nhà thơ giãi bày tâm
sự
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Câu thơ thứ 2 với điệp từ "nhớ" được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn
cào đang ùao tâm trí Quang Dũng. tính từ "chơi vơi" kết hợp với từ "nhớ" đã khắc
sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn
vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, ảo. 2 câu đầu với cách
dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong
tâm hồn nhà thơ
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Quang Dũng đã liệt hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông... Đó địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua
dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, nói
đến vùng đất địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. những đêm dài hành quân
người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn mặt nhau.
"Đoàn quân mỏi" nhưng tinh thần ko "mỏi". Bởi ý chí quyết tâm ra đi tổ quốc đã
làm cho những trí thức thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang
Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh "sương" vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc nghiệt
của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về "sương", Chế
Lan Viên cũng đã viết trong "Tiếng hát con tàu":
"Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn"
lẽ thiên nhiên rất gắn với người lính Tây Bắc nên đã trở thành 1 ức khó
phai trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. những
lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng
đã khéo léo sử dụng từ "thăm thẳm" ko dùng từ chót vót" bởi nói "chót vót" người
ta còn thể cảm nhận thấy được bề sâu của nhưng "thăm thẳm" thì khó ai
thể hình dung được sâu thế nào. Bằng những từ y gợi hình ảnh rất cao như
"khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được
cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi
đưa hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ " súng ngửi trời" để cho ta thấy n cạnh thiên nhiên
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng
hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã
nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở
"Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Điệp từ "ngàn thước" đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật
hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình
nơi núi rừng:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến.
Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã
thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ "mưa xa khơi". gợi lên 1
cái đó rất kỳ bí, hoang giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như
làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi
rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến nỗi nhớ về núi rừng Tây
Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, đã trở thành 1 ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó 1 nỗi nhớnh
liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Bài thơ "Tây Tiến" dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành
1 kiệt c của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó cảm hứng về
nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất
họa đậm chất thơ. Bài thơ 1 khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế,
Xuân Diện thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ "Tây Tiến" như đang ngậm âm
nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn
của 1 người lính Tây Tiến nên 1 cái rất riêng đẹp. Mang chất lính nên
Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
"Tây Tiến" 1 bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn, tài hoa, lãng mạn của người
lính trí thức tiểu sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào
nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước danh. Bài thơ
xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu
sản hào hoa, phong nhã.
8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 10
Được mệnh danh “nhà thơ của xứ Đoài mây trắng” - Quang Dũng đã trở thành một
biểu tượng của hồn thơ vừa lãng mạn nhưng cũng đậm chất lính của làng thơ Việt
Nam. Ông bước vào chiến trận như bước chân phiêu lãng giang hồ, say hồ hởi
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
đến lạ. Chính cái tâm thế lãng mạn ấy, với hiện thực cách mạng khắc nghiệt đã giúp
hồn thơ Quang Dũng bay cao, Tây Tiến chính đỉnh cao. Tám câu thơ đầu của
bài thơ đã khắc họa cho chúng ta thấy vẻ đẹp thiên nhiên của vùng đất phía Bắc, tuy
hoang dã, hiểm trở nhưng cũng đầy chất đẹp thơ mộng và giản dị đến xiêu lòng.
Quân đoàn Tây Tiến một quân đoàn thật trong lịch sử. Vào những ngày đầu
kháng chiến nổ ra, họ nhận được nhiệm vụ cùng nhau tuyên truyền, thăm địa
hình của vùng cũng như liên lạc phối hợp chiến đấu cùng với bộ đội Lào. Bài thơ
“Tây Tiến” chính những kỉ niệm, những mong nhớ của tác giả Quang Dũng khi
được sống và chiến đấu cùng với những người đồng đội tại quân đoàn Tây Tiến. Chắc
cũng vì vậy, mà ngay từ hai câu thơ đầu tiên, ông đã thể hiện tình cảm nhớ thương của
mình:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Giọng thơ tha thiết, như đang bật ra những tích tụ bấy lâu nay trong lòng. “Tây Tiến
ơi!”, tiếng gọi thật thân thương làm sao. Như đang tâm tình, đang bộc lộ ra những tình
cảm, những suy nghĩ cho khắp núi rừng Tây Bắc cùng nghe vậy. “Sông Mã” vừa
hình ảnh thiên nhiên miền Tây gắn liền với bao ngày tháng gian khổ của đoàn binh
Tây Tiến, cũng lại vừa nhân chứng đã chứng kiến toàn bộ những buồn vui, những
khó khăn vất vả của cuộc đời người lính. Nhắc về Sông Mã” cũng như đang nhắc
về “Tây Tiến” đầy yêu thương ngược lại. Hai hình ảnh tưởng như không điểm
chung lại giao thoa nhau, gắn liền với nhau thật hài hòa, thật gắn kết biết bao.
Nhưng buồn thay, những cảnh vật, những kỉ niệm thân thương kia giờ đây lại “xa
rồi”. “xa” đây không chỉ để chỉ về khoảng cách địa lí, xa đây còn như chỉ về
quá khứ về thời gian đã qua trước đây. Tính từ “xa rồi” tạo ra một khoảng không gian
xa m, vời vợi, mênh mông vừa gợi một nỗi ng khuâng, man mác, một nỗi hụt
hẫng trong lòng. lẽ, cũng bởi vậy nỗi nhớ dường như bị hẫng lại, lửng trong
lòng. Nhớ về quá khứ, nhớ về thiên nhiên rừng núi hoang vu đã khiến cho Quang
Dũng dường như “chơi vơi” trong chính nỗi nhớ của mình.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Từ nỗi nhớ “chơi vơi”, giờ đây nỗi nhớ đã được hiện thực hóa khi nhớ về những địa
danh thực tế cũng như những hoạt động của con người, cthể đây người lính
Tây Tiến. Hai câu thơ thật thơ đã đưa chúng ta tới mảnh đất miền Tây thật thơ mộng,
trữ tình. “sương lấp” “hoa về” đã đưa hồn người như được thả mình vào trong
không gian mơ hồ, kì ảo của núi rừng. Ru hồn người ngủ say giữa những mệt mỏi của
cuộc hành quân gian khổ. Cảm tưởng như người lính đang trong thế giới thật,
đang chứng kiến những vẻ đẹp không thật trong cuộc sống. Sau những khó khăn,
nhọc nhằn, giờ đây như những giây phút hiếm hoi họ được thả mình theo vẻ đẹp của
thiên nhiên.
Thế nhưng, những nguy hiểm của vùng “rừng thiêng nước độc” không thể phủ
nhận. Những câu thơ phía sau như đối lâp lại hoàn toàn với vẻ thơ mộng, trữ tình của
hai câu thơ trên:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.”
Những từ láy dường như đã thể hiện cho chúng ta thấy sự nguy hiểm, khó khăn của
cung đường hành quân. “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” cảm tưởng như chỉ cần một
suất nhỏ thôi cũng thể khiến người lính mất mạng. “Dốc khúc khuỷu” đã miêu tả
những chặng đường nhiều núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, lúc hiện ra quanh co đèo dốc,
lúc lại chìm ẩn đi trong cái thăm thẳm, mênh mông. "Dốc thăm thẳm" là cách viết độc
đáo của Quang Dũng, vừa gợi tả chiều cao, vừa gợi tả chiều sâu, như một con dốc
không có điểm đáy, đầy hoang sơ và hiểm trở.
“Súng ngửi trời” chính sự ngạo nghễ, tinh nghịch tác giả Quang Dũng đưa vào
thơ của mình. Chi tiết này khiến chúng ta nhớ đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo”
trong bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu. lẽ rằng đó chính mối liên hệ
giữa con người với thiên nhiên. Trong những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời,
những giây phút căng thẳng nhất, thiên nhiên vẫn bên bầu bạn với chúng ta. Tạo ra
vẻ đẹp cho tâm hồn con người, cho con người được thư giãn, thoát mình ra khỏi
những giây phút căng thẳng của cuộc chiến.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Nhưng, những khó khăn chưa dừng lạiđó. Câu thơ tiếp như nhân lên gấp bội sự thử
thách, khốc liệt của thiên nhiên:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Ngàn thước là ước từ chỉ số lượng không xác định. Dốc núi đột ngột lên cao rồi lại đột
ngột gãy gập, đổ xuống một cách bất ngờ đầy hiểm nguy tưởng như đỉnh núi bị đứt
gãy giữa không trung. rồi mưa như trắng xóa trời, khiến cảnh vật bị xóa nhòa trên
nền mưa ấy.Š
Tám câu thơ đầu dường như đã thể hiện được nỗi nhớ da diết của tác giả Quang Dũng
với thiên nhiên miền Tây cũng như với quân đoàn Tây Tiến gắn liền với kỉ niệm của
mình. Tây Tiến không chỉ nỗi nhớ đơn thuần, đó đã trở thành một phần tinh thần,
tâm hồn của những người lính đã chiến đấu và bảo vệ cho vùng đất này.
8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 11
Tám câu thơ đầu đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, đồng thời
đó cũng là thử thách hiểm nguy trên chặng đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ thương không chỉ còn những rung động trong tâm tưởng đã ngân vang
nhẹ nhàng, tha thiết, trải rộng ra không gian, thời gian. Hình ảnh đầu tiên gợi về trong
tâm trí nhà thơ hình ảnh sông Mã- dòng sông rộng dài, hùng gắn liền với Tây
Tiến. Nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ cũng lúc nỗi nhớ về đồng đội- những
người kề vai sát cánh năm xưa trỗi dậy. Sâu thăm trong 3 tiếng “Tây Tiến ơi” còn
tiếng gọi một người bạn, một người thân, một người tri kỷ, gọi về cả một sự gắn
quân dân thắm thiết. Nhưng giờ đây, cả sông Tây Tiến đều đã “xa rồi”, đó
hiện thực mất mát phải đối mặt. Nhưng cũng vì xa rồi nên mới hoài niệm, mới da diết,
nhớ thương đến thế. Đối với Quang Dũng, mỗi tên gọi một phần ức nơi cất
giấu quãng tâm hồn mình, là địa chỉ tìm về của nỗi nhớ. Nỗi “nhớ chơi vơi”- một sáng
tạo ngôn từ độc đáo của riêng Quang Dũng. Với nhà thơ, nhớ Tây Tiến không dữ dội,
cuộn lòng cứ mênh mang, tha thiết, ám nh âm. Nhưng giờ đây tất cả chỉ kỉ
niệm “Sông xa rồi”- đó sự ý thức của nhân vật trữ tình về hiện thực phũ
phàng, khắc nghiệt, Nhưng càng xa càng nhớ, nỗi nhớ cứ đong đầy, đọng lại bao
ba. Nỗi nhớ mỗi lúc một hiện rõ qua nỗi nhớ của nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Đoạn thơ hiện lên một loạt những địa danh. Sài Khao, Pha Luông hay Mường Hịch
đều những cái tên lạ lẫm mới mẻ với những chàng trai thành. Vậy nhưng bước
vào cuộc kháng chiến,không một chút e ngại, không một chút sợ sệt, họ vẫn ngày
ngày hành quân trên những cung đường xa lạ ấy, dưới màn sương giăng trắng trời,
lạnh lẽo cản trở tầm nhìn. Quang Dũng tái hiện cung đường Tây Bắc qua hệ thống từ
láy đặc sắc “heo hút, khúc khuỷu, thăm thẳm”. Mọi nguy hại, hiểm trở đều hiện lên
sắc nét qua từng câu, từng chữ. Đó là cái gập ghềnh, trắc trở của dốc thẳng, là cái chót
vót của đèo cao sự hun hút của những vực sâu tận. Tất cả đã góp phần hiện lên
cái hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng tràn đầy hiểm nguy của thiên nhiên Tây Bắc. Nhưng
những khó khăn ấy không khiến họ chùn bước. đoạn thơ, ta vẫn bắt gặp chút phảng
phất của một tâm hồn ng mạn, hào hoa. Trong những đêm hành quân gian khổ, họ
vẫn nghĩ về hoa, về những mái nhà, từ đó thấy được tâm hồn trẻ trung, lạc quan,
không đầu hàng trước khó khăn của những người lính.
8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 12
Quang Dũng một nghệ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành
công nhất thơ. Ông nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kháng chiến
chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa,
được mệnh danh nhà thơ của "Xứ Đoài mây trắng" với những tác phẩm nổi tiếng
như: " Mây đầu ô", "Thơ văn Quang Dũng"...Trong đó tiêu biểu là bài thơ "Tây Tiến".
Bài thơ không chỉ nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến còn khắc
họa nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến khung cảnh thiên
nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
...
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến một đơn vị quân đội
được thành lập đầu năm 1947, nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến Tây Tiến phần đông
thanh niên, học sinh, trí thức Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ
nhưng họ sống rất lạc quan chiến đấu rất dũng cảm. Quang Dũng đại đội trưởng
đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh,
Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ "Tây
Tiến".
Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chứa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy
nhớ nhung và tiếc nuối:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"
Dòng sông Mã như điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha
thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rấti tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp
vần "ơi" mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm
xúc hồ, khó định hình, cứ lâng ng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm xúc
rất chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như tràn đầy cả
không gian " Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi". Câu thơ bảy từ thì hai từ "nhớ".
Điệp từ "nhớ" như đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên nhan đề
ban đầu củai thơ tác giả đặt " Nhớ Tây Tiến". Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại
trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết,
niềm thương da diết nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội của mình, tất cả
trở thành kỉ niệm không thể nào quên.
Không phải khi đến với "Tây Tiến" người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay
trong thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than"
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi"
trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài
niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể
nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian thời gian ấy Quang Dũng đã
đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm
thơ mộng. Đó những địa danh đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, "Sài Khao",
"Mường Lát", "Pha Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những địa danh khi đi vào
thơ Quang Dũng không còn mang màu sắc trung tính, hồn trên bản đồ nữa
gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Không chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả
đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ "mỏi" như tái hiện hình nh đoàn quân mệt rời
tuy vậy họ vẫn đi trong " sương lấp" thật hùng tráng lệ. Đâu chỉ thế, Mường
Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói "hoa nở" "hoa về"
không nói sương "đêm hơi" như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào
hoa của những người lính Hà Thành.
| 1/35

Preview text:

Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Sơ đồ tư duy 8 câu đầu Tây Tiến
Dàn ý phân tích 8 câu đầu bài Tây Tiến
Dàn ý 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 1 a) Mở bài
- Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm
● Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ miền Bắc trưởng thành và nổi danh sau Cách mạng tháng Tám.
● Bài thơ Tây Tiến được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi
Quang Dũng đã chuyển về đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến.
- Khái quát 8 câu thơ đầu: đoạn thơ dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây
Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ và thơ mộng. b) Thân bài
* Nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc và đơn vị chiến đấu cũ (hai câu đầu)
- Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ, đoạn thơ.
- Nỗi nhớ ấy như dâng trào không gì có thể kiểm soát được nên đã cất lên thành tiếng gọi:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
+ Từ láy “chơi vơi”: gợi hình, gợi cảm => nỗi nhớ da diết, cháy bỏng như có hình, có
khối gợi lên một không gian bao la, thời gian sâu thẳm.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
- Hình ảnh núi rừng trùng điệp, hoang sơ và con đường hành quân gian khổ của người lính
+ Hình ảnh dốc, đèo, vực thẳm, rừng dày và con đường hành quân chênh vênh dần hiện ra
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
+ Những địa danh: Sài Khao, Mường Lát gợi lên không gian hoang sơ nơi xứ lạ
+ Cảm giác mệt mỏi của người lính như được xua đi bởi hình ảnh đầy thơ mộng trong đêm của Mường Lát.
+ Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” : tạo ra nhiều nét nghĩa khác nhau,
trong đó có thể hiểu đây là cách tả cảnh đoàn quân đốt đuốc đi trong đêm mịt mù hơi
sương trông như những bông hoa.
+ Thanh bằng: gợi cảm giác lâng lâng, chơi vơi, tài hoa và lãng mạn. Khung cảnh núi rừng hiểm trở.
* Con đường hành quân gian khổ của người lính:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thăm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Hai câu đầu: diễn tả độ cao ngất trời vào sự chênh vênh heo hút của núi đèo Tây Bắc.
● Từ láy tạo hình: "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút"… được sử dụng với mật độ cao
● Thủ pháp điệp từ, đối lập được khai thác triệt để - Hai câu sau:
● Câu thứ ba có sự ngắt nhịp ở giữa như bẻ đôi => diễn tả hai sườn núi vút lên,
đổ xuống gần như thẳng đứng
● Câu thơ thứ tư toàn thanh bằng => tạo cảm giác lâng lâng, chơi vơi
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
=> Tây Bắc dữ dội, hoang sơ được mở rộng ra theo chiều không gian: theo những địa
danh xứ lạ như Sài Khao, Mường Lát... c) Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của 8 câu thơ đầu: Hình ảnh núi rừng
Tây Bắc hùng vĩ, đầy hiểm nguy nhưng cũng rất nên thơ. Hình ảnh đoàn quân trên
đường hành quân mang vẻ đẹp bi tráng.
- Gợi mở thêm vấn đề.
Dàn ý 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 2 1. Mở bài
- Tây Tiến được xem là đứa con đầu lòng tráng kiện và tài hoa của Quang Dũng và
của cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam.
- Với khổ thơ đầu là nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó
khăn gian khổ của người lính Tây Tiến. 2. Thân bài * Tác giả:
- Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa tài.
- Phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. * Tác phẩm:
- Tây Tiến sáng tác cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng lại về
những ngày tháng ở binh đoàn Tây Tiến.
- Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. * Phân tích:
- Hai dòng thơ đầu: Nỗi nhớ bao trùm, mạch cảm hứng chủ đạo của bài thơ
● “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt
mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
● “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
→ Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ quên,
đồng thời cũng là nỗi trống trải lạc lõng trong lòng tác giả. - Hai câu thơ tiếp:
● “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của
binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
● Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng lớn, mỗi một nơi
bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt,
trở thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.
● Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập
bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.
- Bốn câu thơ tiếp “Dốc…xa khơi”:
● Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường
của người lính chiến khi hành quân.
● “Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn lãng mạn, hồn
nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.
● “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa
núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.
- Hai câu thơ “Anh bạn…quên đời”:
● Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
● Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.
- Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều…nếp xôi”
● Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, dùng động từ
mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.
● Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết,
nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu. 3. Kết bài
- Suốt 14 dòng thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người tính, sự hy sinh cao cả,
nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
- Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất
những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến đã đi qua.
Phân tích Tây Tiến 8 câu đầu - Mẫu 1
Trong dòng chảy thi ca Việt Nam, thơ ca cách mạng là một thời kì để lại được nhiều
dấu ấn với những thi phẩm đặc sắc như Lên Tây Bắc, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên,
Việt Bắc (Tố Hữu), Đồng chí (Chính Hữu), Đất nước (Nguyễn Đình Thi),... Nhưng
bài thơ được coi là "đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện của thơ ca kháng chiến
chống Pháp" chính là Tây Tiến của Quang Dũng. Bài thơ không chỉ tái hiện lại những
tháng năm kháng chiến của đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa được bức tranh
thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ mà lại vừa lãng mạn nên thơ. 8 câu thơ đầu tiên đã
gây ấn tượng mạnh mẽ với bạn đọc về hình ảnh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, đơn vị mà Quang Dũng
chuyển công tác đến sau khi kết thúc quãng thời gian một năm gắn bó cùng sát cánh,
kề vai với đồng đội của quân đoàn Tây Tiến. Trong nỗi nhớ khôn nguôi về đồng đội
và núi rừng Tây Bắc, nhà thơ đã không kìm được lòng mình, để tiếng nói của trái tim
cất lên thành trang thơ. 8 câu thơ đầu tiên như một thước phim sống động tái hiện lại
cảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và hiểm trở khôn cùng.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Hình ảnh con sông Mã hiện lên là một hình ảnh gắn liền với địa bàn hoạt động của
đoàn quân Tây Tiến, là chứng nhân của một thời dậy vang, máu lửa. Tiếng gọi "Tây
Tiến ơi" thân thương, da diết như tiếng gọi một người bạn hữu đã lâu ngày xa cách.
Điệp từ "nhớ" trong một câu toàn thanh bằng nhưng một nốt nhấn cao độ trong bản
nhạc trầm, nỗi nhớ dường như luôn thường trực trong lòng nhà thơ bỗng trào dâng,
lên tiếng. Hai câu thơ gieo vần "ơi" kết hợp với tính từ "chơi vơi" vang lên, khiến cho
lòng ta cũng bất chợt lâng lâng, lửng lơ song lại ắp đầy, tuy nhẹ mà lại lắng sâu. Có lẽ
chính bởi vậy, cho dù nhà thơ đã bỏ đi một chữ "nhớ" trong tiêu đề ban đầu của tác
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
phẩm ("Nhớ Tây Tiến") thì cảm xúc cũng vẫn không thôi dào dạt. Nỗi nhớ trào dâng
dường như thấm đẫm trong cảnh vật trên đường hành quân, trong những kỉ niệm của
một thời kháng chiến. Tất cả một vùng ký ức sống lại, nồng nàn và thân thương, thiết
tha và trọn vẹn tựa như một thước phim quay chậm, rồi từng nét cảnh núi rừng hiện
lên trong bao ngày gian khó, từng giây phút gian nan bên đồng đội anh em, từng dáng
hình của người sơn nữ dáng duyên, và cả hơi cơm đạm bạc mà ấm nồng tình quân dân
cá nước,... cứ thế mà hiện lên đong đầy.
Nối tiếp hai câu thơ khắc hoạ nỗi nhớ, khung cảnh thiên nhiên Tây Bắc bắt đầu hiện
ra, trước hết là những địa danh, những địa bàn hoạt động mà đội quân đã từng một thời gắn bó.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
"Sài Khao", "Mường Lát" là tên của những bản núi mù sương, nghe tuy lạ lẫm, nhưng
lại là những cái tên đã đồng hành cùng người lính Tây Tiến suốt những tháng năm
kháng chiến. Hai câu thơ như gợi nhắc đến một nơi xa xôi bí ẩn nào đó và cũng chính
sự bí ẩn ấy lại quyến rũ vô cùng. "Sương lấp đoàn quân mỏi" là chi tiết tả thực khắc
họa những khó khăn gian nan mà người lính Tây Tiến gặp phải trên con đường hành
quân. Thiên nhiên núi rừng miền cao ẩn chứa biết bao những thử thách gian nan là thế
nhưng vẫn có ở đâu đây những nét đẹp thơ mộng. Nhà thơ sử dụng hai từ "đêm hơi"
chứ không phải "đêm sương", là một đêm mờ hơi sương, đêm của hơi núi rừng, hay là
một đêm nhẹ như hơi thở. Hai chữ "đêm hơi" gợi nhiều hơn tả, nó như phác lên trong
tâm trí của người đọc những nét vẽ thật mơ hồ, ảo diệu, dường như lại chẳng nhìn
thấy mà chỉ có thể cảm nhận. Trong không gian ảo huyền nên thơ, hình ảnh "hoa về"
như điểm nhấn cho cảm hứng lãng mạn. "Hoa" là những bông hoa trên tay trên vai
trên áo trên mũ người lính trên đường hành quân, là hoa lửa hoa đuốc sáng soi dẫn
đường trong đêm tối, hay phải chăng "hoa" lại chính là người con gái người thôn nữ
miền sơn cước đi về trong miền nhớ, miền thương thẳm sâu trong tâm hồn người chiến sĩ.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Nói đến Tây Bắc, ta không thể không nghĩ tới thiên nhiên hùng vĩ, có phần hiểm trở.
Những núi cao, dốc thẳm luôn là những trở ngại trên con đường hành quân của những người lính trẻ.
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Điệp từ "dốc", "ngàn thước" kết hợp với các giàu tính gợi hình " khúc khuỷu", "thăm
thẳm", "heo hút" và thủ pháp tương phản đối lập "lên - xuống", đối xứng giữa hai tiểu
vế đã khắc hoạ khung cảnh thiên nhiên trùng điệp, núi tiếp núi, đèo nối đèo, lên cao
chót vót rồi bỗng dưng lại dốc xuống tận cùng như muốn thử thách lòng gan dạ và ý
chí kiên cường của người lính Tây Tiến. Trong giờ phút gian khó ấy, hình ảnh "súng
ngửi trời" hiện lên thật thi vị. Đây quả là một cái nhìn hóm hỉnh, thú vị của người
chiến sĩ, nó như phá tan đi cái mệt nhọc của quãng đường hành quân đầy gian khó.
Trong bài thơ "Đồng chí", Chính Hữu cũng đã từng ghi lại hình ảnh "đầu súng trăng
treo". Đây đều là những hình ảnh tả thực, khi những người lính hành quân, họ luôn
vác súng trên vai, đầu súng hướng lên, ở một góc độ nào đó, như thể súng đang chạm
tới trời, như đang treo mảnh trăng sáng của đêm rừng canh gác. Chính qua những hình
ảnh đó, mà ta như nhìn vào được tâm hồn của họ, họ cũng mang một trái tim trẻ trung,
cũng thơ mộng chứ không hề chai sạn giữa những gian nan thử thách nơi chiến trường
cam go, khốc liệt. Và dường như, khi đã vượt qua hết những chặng gian lao, người
lính như thở phào nhẹ nhõm, đứng nơi đỉnh cao, phóng tầm mắt ra xa
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Sau 3 câu thơ liên tiếp đặc tả cảnh thiên nhiên hùng vĩ hiểm trở, nhà thơ sử dụng một
câu thơ toàn vần bằng gợi lên khung cảnh thanh bình, thơ mộng. Thì ra, Tây Bắc
ngoài những đèo cao dốc thẳm cũng có những góc lãng mạn, nên thơ đến thế, mà có
lẽ, chỉ có ai đã từng gắn bó thân thuộc với nơi đây mới có thể khám phá nên mà thôi.
Bằng sự hiểu biết sâu sắc là ngòi bút hào hoa phóng khoáng, Quang Dũng đã khắc họa
hình ảnh thiên nhiên Tây Tiến thật hùng vĩ nhưng cũng rất đỗi nên thơ. Đoạn thơ đã
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
góp một phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm nói riêng và văn thơ cách mạng
nói chung, để Tây Tiến trở thành một bông hoa mãi tươi xanh trong dòng chảy của thời gian.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến đạt điểm cao - Mẫu 2
Hình ảnh người lính là đề tài quen thuộc khơi nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà
thơ. Quang Dũng cũng là một tác giả có đóng góp quan trọng cho thơ văn của chủ đề
này qua bài thơ Tây Tiến. Bài thơ chứa đựng những giá trị, ý nghĩa sâu xa, đặc sắc,
đặc biệt là tám câu thơ đầu tiên.
Phải thế chăng mà bài thơ đã mở đầu bằng nỗi nhớ da diết như những con sóng trào dâng trong lòng:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Đoạn thơ mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết, ngân dài, tha thiết: "Sông Mã xã rồi
Tây Tiến ơi!". Tiếng gọi được khơi nguồn từ núi cao, vực sâu, dốc thẳm, sương dày và
ngân dài như thể tích tụ, dồn nén bấy lâu nay. Dường như Quang Dũng đang đứng
giữa không gian mênh mông, bát ngát, cất lên tiếng gọi. “Sông Mã” vừa là hình ảnh
thiên nhiên miền Tây gắn liền với bao ngày tháng gian khổ của đoàn binh Tây Tiến,
vừa như chứng nhân lịch sử chứng kiến mọi vui buồn của cuộc đời chiến binh. Liệu
có sự nhầm lẫn gì chăng khi cảm xúc của nhà thơ hướng về sông Mã nhưng lại gọi
“Tây Tiến ơi”? Có lẽ đó chính là sự đồng điệu và hòa hợp giữa tâm hồn của những
người chiến sĩ, bởi họ đều có chung một dòng cảm xúc, cùng chung một mục tiêu
chiến đấu, cùng một lý tưởng. Nhớ về Tây Tiến, chính là nhớ về dòng sông Mã oai hùng.
Từ lời gọi tha thiết dành cho Tây Tiến, nỗi nhớ như ngày càng dâng trào, càng xa Tây
Tiến bao nhiêu, Quang Dũng lại càng nhớ Tây Tiến bấy nhiêu. Cụm từ “Xa rồi” chỉ
khoảng cách về không gian, vì đường lên Tây Bắc, lên với binh đoàn Tây Tiến Năm
nào "thăm thẳm một chia phôi" không biết bao giờ mới có thể trở lại. “Xa rồi” còn chỉ
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
về thời gian, vì sông Mã và Tây Tiến mãi mãi là mùa xuân ấy, mùa xuân đã qua đi
không thể trở lại bao giờ. Tính từ “xa rồi” tạo ra một khoảng không gian xa xăm, vời
vợi, mênh mông vừa gợi một nỗi bâng khuâng, man mác, một nỗi hụt hẫng trong lòng.
Phải chăng, mỗi tên gọi thân thương ấy, “sông Mã”, “Tây Tiến” như đang đứng ở mỗi
đầu nỗi nhớ mà hướng về nhau, thao thức, khắc khoải vì nhau. Giữa khoảng không
gian nhớ thương quá rộng lớn, mênh mang, da diết, cồn cào, tâm trí của nhà thơ không
biết đặt để vào đâu cho phải, thế nên mới tạo ra một cách dùng từ thật lạ: “nhớ chơi
vơi”. Nỗi nhớ ấy dành cho "rừng núi", một hình ảnh tả thực thiên nhiên miền Tây, một
vùng rừng núi hoang sơ, hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội nhưng cũng rất thi vị, nên thơ. Hình
ảnh rừng núi còn gắn liền với địa bàn hoạt động của những người lính Hà Thành lần
đầu đến với vùng đất xa xôi này.
Quả thật, nỗi nhớ như len lỏi khắp mọi vần thơ. Nhưng, thơ ca là sáng tạo. Bình
thường sẽ chết! Và Quang Dũng đã thật tài hoa khi lấy cái “chơi vơi" ấy để dành cho
nỗi nhớ Sông Mã, dành cho Tây Tiến.
Từ nỗi nhớ chơi vơi về những ngày tháng gian khổ đã qua, từ mênh mông núi rừng
Tây Bắc ấy, hình ảnh người lính đã hiện ra thật chân thực giữa khung cảnh thiên nhiên
núi rừng Tây Bắc vừa thi vị, lãng mạn, lại vừa dữ dội, hoành tráng khác thường:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Hai địa danh Sài Khao, Mường Lát vốn dĩ là những mốc không gian địa lý in đậm kỷ
niệm của một thời chiến binh nay trở thành mốc thời gian lịch sử giúp người chiến sĩ
năm nao nhớ lại những kỷ niệm trong bao chặng đường hành quân vất vả. Với bút
pháp lãng mạn, kết hợp bút pháp hiện thực, Quang Dũng đã miêu tả vừa chân thực
vừa nên thơ con đường hành quân gian khổ và người lính Tây Tiến trên những chặng
đường đầy gian khổ đó. Thời tiết ở miền Tây vô cùng dữ dội, khắc nghiệt. Hành quân
giữa rừng núi có hương hoa rừng và mờ mịt hơi sương, những người lính mỏi mệt như
bị chìm lấp đi trong sương khói.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Như loài hoa hướng dương sinh ra chỉ để hướng về mặt trời, như ánh nắng mặt trời
sinh ra chỉ để hướng về mặt đất. Thơ ca cũng thế. Thơ sinh ra chỉ để hướng con người
đến một cuộc sống tốt đẹp. Lưu Trọng Lư đã từng nói thế này: "Một câu thơ hay là
một câu thơ có sức gợi". Làm gì có ai quyến luyến những vần thơ khô khan không
cảm xúc? Phải vậy chăng mà những vần thơ của Quang Dũng lại càng đi sâu vào vẻ
đẹp lãng mạn, hào hung, hào hoa của người lính Tây Tiến:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Câu thơ đẹp như một tuyệt tác của thiên nhiên. Vừa lạ lẫm, vừa huyền ảo, vừa thơ
mộng và cũng rất chi là mơ hồ, ảo diệu. Câu thơ này có nhiều cách hiểu. Ta có thể
hiểu là người lính Tây Tiến hành quân trên chặng đường mờ mịt hơi sương và mùi
thơm ngào ngạt của hương hoa rừng, đem đến cảm giác như đang đi trong "đêm hơi" .
Hay có thể hiểu đó chính là lời ngợi ca mỗi người lính Tây Tiến được ví như một
bông hoa tuyệt đẹp của núi rừng đang trở về tụ hội? Dù hiểu theo cách nào, người đọc
vẫn cảm nhận được những khó khăn, gian khổ mà người lính đã trải qua. Hiểu về hiện
thực khốc liệt của chiến tranh để thêm cảm phục, thêm yêu vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, mộng mơ của họ.
Sau những cảm nhận đầy thơ mộng, lãng mạn về bức tranh thiên nhiên và hồn người,
những câu thơ tiếp theo Quang Dũng đã vẽ ra khung cảnh thiên nhiên trong ký ức và
tâm trạng như sự sóng đôi trái ngược với những vần thơ trên:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.”
Trong hai câu đầu, Quang Dũng sử dụng những từ láy (khúc khuỷu, thăm thẳm, heo
hút) có giá trị gợi cảm, gợi hình cao. Các từ này lại được đặt liên tiếp nhau để đặc tả
sự gian nan trùng điệp dồn dập vây quanh người lính. “Dốc khúc khuỷu” gợi tả những
chặng đường nhiều núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, lúc hiện ra quanh co đèo dốc, lúc lại
chìm ẩn đi trong cái thăm thẳm, rợn ngợp, mênh mông. "Dốc thăm thẳm" là cách viết
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
độc đáo của Quang Dũng, vừa gợi tả chiều cao, vừa gợi tả chiều sâu, như một con dốc
không có giới hạn cuối cùng, đầy hoang sơ, hiểm trở. Nhưng chưa dừng lại ở đó, câu
thơ thứ hai miêu tả độ cao của những ngọn núi nơi đây:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
“Heo hút” diễn tả sự hoang vu, vắng vẻ, hiu hắt, rợn ngợp. Câu thơ gợi ra hình ảnh
người lính Tây Tiến đứng trên đỉnh núi cao hoang vu, trơ trọi, xung quanh bốn bề gió
thổi vi vút. Nghệ thuật đảo ngữ với từ "heo hút" đứng đầu câu đã khắc họa rõ sự hùng
vĩ, dữ dội của thiên nhiên miền Tây tư thế hiên ngang của những của những người
lính trẻ. Trong câu thơ này, Quang Dũng đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa qua ba chữ
"súng ngửi trời". Cảm giác của người đọc liên tưởng tới khung cảnh đầu mũi súng
chạm vào mây, người lính tinh nghịch dí dỏm liên tưởng tới hình ảnh súng đang chạm
tới trời. Chi tiết này càng thể hiện sự hào hoa, lãng mạn trong chất thơ của Quang Dũng.
Trước thiên nhiên khắc nghiệt, người lính Tây Tiến không bị chìm đi mà lại nổi lên
đầy thách thức, lạc quan, yêu đời. Có lẽ, Quang Dũng là nhà thơ đầu tiên trong văn
học dân tộc đưa chất lính tráng nhiên, vô tư đến thế.
Nhưng, những khó khăn chưa dừng lại ở đó. Câu thơ tiếp như nhân lên gấp bội sự thử
thách, khốc liệt của thiên nhiên:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Ngàn thước là ước từ chỉ số lượng không xác định. "Lên", "xuống" là hai động từ đối
lập nhau về nghĩa. Dốc núi đột ngột lên cao rồi lại đột ngột gãy gập, đổ xuống một
cách bất ngờ đầy hiểm nguy tưởng như đỉnh núi bị đứt gãy giữa không trung. Đúng là
chỉ "đọc câu thơ và nghe đã muốn mòn chân mỏi gối" (Trần Lê Văn).
Thế nhưng sau tất cả những gian khổ hiểm nguy, người lính vẫn tìm kiếm được sự
sống của con người khi dừng lại ngắm nhìn những nếp nhà Pha Luông – một nét vẽ
nhẹ nhàng thả xuống êm đềm giữa những câu thơ gân guốc ở phía trên:
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
“Nhà ai”, một ngôi nhà không xác định, nhạt nhòa trong mưa nhưng gợi cảm giác thân
thương, gần gũi. “Mưa xa khơi” gợi liên tưởng đến một biển mưa mênh mông giữa
núi rừng Tây Bắc. Sau khi “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, người chiến sĩ
Tây Tiến như đứng trên đỉnh cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa
trắng. Phải có những phút giây như thế này, người chiến sĩ Tây Tiến mới có thể vượt
qua được những thử thách mới đầy dữ dội của thiên nhiên với “thác gầm thét”, “ cọp trêu người”...
Tám thơ mở đầu đã cho thấy vẻ đẹp thiên nhiên núi rừng Tây Bắc và chân dung
những người lính Tây Tiến đáng khâm phục. Tình yêu quê hương, đất nước hòa quyện
với tình đồng chí, đồng đội và tình yêu thiên nhiên, yêu con người tha thiết.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 3
Cùng viết về hình tượng người lính những mỗi nhà văn lại tìm cho mình 1 lối đi riêng,
1 cách khám phá riêng. Nếu ở "Đồng chí" của Chính Hữu đó là hình ảnh điển hình
tiêu biểu của người lính chống Pháp chân chất, mộc mạc thì đến Tây tiến của Quang
Dũng lại được miêu tả theo 1 cách thật riêng, vừa hào hùng, hào hoa và bi tráng. Điều
này được thể hiện rõ ở khổ thơ thứ 1 của bài.
Quang Dũng quê ở Đan Phượng, Hà Tây (nay là Hà Nội), ông là một nghệ sĩ đa tài,
vừa là nhạc sĩ, vừa là họa sĩ chính vì thế thơ ông rất giàu chất nhạc và chất họa. Quang
Dũng còn là một người lính ưu tú, tham gia nhiều chiến trường khác nhau, nên những
vần thơ của ông về người lính rất chân thật và sống động, với sức truyền cảm mạnh
mẽ, phong cách thơ ông gói gọn trong mấy từ: Phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và
tài hoa. Binh đoàn Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947, thành phần chủ yếu là
những thanh niên Hà thành, nhận nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên
giới Việt- Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp. Địa bàn hoạt động trải rộng
suốt từ vùng Sơn La, Hòa Bình, đến Sầm Nứa (Lào), rồi vòng về vùng phía tây Thanh
Hóa, phải hành quân nhiều lần, điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ. Tây Tiến sáng
tác cuối năm 1948, ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng hồi tưởng lại về những ngày tháng
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
ở binh đoàn Tây Tiến. Ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến, một
nhan đề hàm súc, cô đọng, nhưng vẫn thể hiện rõ ràng cảm xúc chủ đạo của bài thơ là
nỗi nhớ. Cảm hứng bao trùm bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Nỗi nhớ về một Tây Bắc dữ dội, được thể hiện trong 8 câu thơ đầu.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Hai câu thơ đầu “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!/”Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”, gợi
lên những nỗi nhớ, nỗi thương dâng trào về một thời đã qua, về một vùng đất đã xa.
Lời gọi “Tây Tiến ơi” rất tha thiết khắc khoải, Tây Tiến không chỉ là một cái tên mà
dường như nó đã trở thành người thân thương ruột thịt. Quang Dũng gọi tên “sông
Mã” ngay từ những dòng thơ đầu, địa danh ấy cũng là hiện thân tiêu biểu của vùng
rừng núi Tây Bắc. Trên quãng đường hành quân, dòng sông ấy không chỉ là một địa
danh trên bản đồ địa lý mà đã trở thành người bạn, người tri kỷ, là chứng nhân lịch sử
đã chứng kiến biết bao đau thương, gian khó, vui buồn của người lính chiến trong suốt
cuộc trường chinh. Thế nên trong nỗi nhớ của Quang Dũng, trước hết là nhớ về binh
đoàn Tây Tiến thân yêu, sau là về Tây Bắc với dòng sông Mã vương đầy kỷ niệm.
Không chỉ có như vậy, trong ấn tượng, trong nỗi nhớ của nhà thơ còn có hình ảnh của
rừng núi, đó là nỗi nhớ “chơi vơi” lạ lùng! Bởi với người lính xuất thân từ phố thị, thì
hình ảnh rừng núi Tây Bắc hết sức lạ lẫm, đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng
người lính chiến. Quang Dũng hai lần nhắc chữ “nhớ”, nhằm nhấn mạnh nỗi nhớ đang
khắc khoải trong tâm hồn, đặc biệt “nhớ chơi vơi” lại là một cách diễn tả nỗi nhớ rất
riêng của Quang Dũng. Đó là cảm giác, trơ trọi, hụt hẫng, chông chênh trong một nỗi
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
hoài niệm xa xôi, bởi Tây Bắc đã xa lắm rồi, một Tây Bắc đầy sương mù, mây vờn
quanh núi chơi vơi, hoang vắng, nhưng lắm oai hùng.
Nếu như 2 câu thơ đầu là nỗi nhớ bao trùm thì ở 12 câu thơ tiếp nỗi nhớ ấy đã được
nhà thơ khắc sâu qua nhiều kỷ niệm ấn tượng. Đầu tiên là nỗi nhớ về Sài Khao,
Mường Lát trong, “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/Mường Lát hoa về trong đêm
hơi”. Hai địa danh đã gợi nhắc về những địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến,
từ đó kéo ra các không gian rộng lớn khác xuyên suốt cả bài thơ như Pha Luông,
Mường Hịch, Mai Châu,… Dường như nỗi nhớ của nhà thơ dàn trải dài khắp chiều
không gian, mỗi nơi mà nhà thơ từng bước chân đi qua thì tâm hồn nhà thơ đều cảm
thấy yêu thương gắn bó, trích lời Chế Lan Viên “Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu
thương”. Có thể nói mỗi một địa danh biểu trưng cho núi rừng Tây Bắc đều đã trở
thành một kỷ niệm khắc sâu vào trong tâm khảm của nhà thơ không thể phai mờ, đó
cũng là tình cảm thắm thiết sâu nặng, cũng trích lời Chế Lan Viên “Khi ta ở chỉ là nơi
đất ở/Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” vốn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến trở về
Mường Lát trong màn sương mờ mờ ảo của núi rừng Tây Bắc, gợi lên vẻ đẹp lãng
mạn của thiên nhiên núi rừng, đồng thời là vẻ đẹp đông đảo, đoàn kết của người lính
chiến. Cảm giác “mỏi” hiện diện trong gân cốt người lính chiến, dường như vẫn còn
như mới trong tâm hồn Quang Dũng, điều ấy càng chứng tỏ nỗi nhớ sâu sắc của tác
giả, bởi kỷ niệm càng nhỏ bao nhiêu thì nỗi nhớ là càng to lớn bấy nhiêu, nhớ kỹ đến
cả cái “mỏi” hành quân xa! “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”, hoa ở đây có thể hiểu
là ngàn hoa của núi rừng, hiện thân cho vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng có lẽ chính xác
hơn, thì hoa ấy là ánh sáng của ngọn đuốc bập bùng trong đêm tựa đóa hoa lửa trong
những đêm hành quân mịt mờ trở về Mường Lát. Hình ảnh ngọn đuốc hoa vừa gợi lên
nét lãng mạn, vừa hào hùng của một thời Tây Tiến…
Sau nỗi nhớ về Mường Lát về Sài Khao chính là kỷ niệm về những ngày hành quân
chiến đấu đầy gian khổ, về vùng núi rừng Tây Bắc lắm hiểm trở, nguy nan.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Điệp từ “dốc” gợi lên cảnh những đỉnh dốc nối tiếp nhau, hết đỉnh dốc này lại tới đỉnh
dốc khác, chẳng biết bao giờ mới hết. Từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” gợi lên sự
hiểm trở, quanh co, lắt léo gập ghềnh, thêm vào đó là sự chênh vênh của núi rừng, bên
là vách núi bên là vực thẳm, sự hun hút của cung đường. Cả câu thơ gợi mở một
không gian hành quân vừa cao lại vừa sâu rộng và người lính đang phải nỗ lực hết sức
mình để vượt qua những chặng đường đầy nguy khó. Điệp ngữ “Ngàn thước” kết hợp
với nghệ thuật tương phản “lên cao-xuống”, cũng tiếp tục vừa gợi ra độ cao chót vót
của đỉnh dốc, vừa gợi ra độ sâu thăm thẳm của đáy dốc. Lời thơ làm nổi bật được tính
chất hùng vĩ, hiểm trở nổi bật của núi rừng Tây Bắc và nỗ lực vượt lên trên những khó
khăn địa hình hành quân của người lính chiến lúc bấy giờ. Nhưng dẫu thiên nhiên có
hùng vĩ, trùng điệp, khúc khuỷu đến mấy thì cũng trở nên vô nghĩa dưới bước chân
của binh đoàn Tây Tiến, người lính đã hiện lên với tầm vóc là một đối thủ xứng tầm
của thiên nhiên. Từ láy “heo hút” thể hiện sự hoang vắng, lạnh lẽo của núi rừng, nơi
dường như chưa từng có bước chân người đến, chính vì người lính hành quân trên
những ngọn núi cao chót vót, nên những “cồn mây” mới như đang quanh quẩn, như
đùa giỡn dưới chân, ngỡ rằng người chiến binh đang bước đi trên mây chứ chẳng phải núi rừng.
Xuyên suốt 8 câu thơ đầu xoay xung quanh nỗi nhớ khôn nguôi về thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc, về vẻ đẹp vượt lên trên khó khăn gian khổ của người lính, sự hy sinh
cao cả, nét lãng mạn trong tâm hồn người lính trẻ giữa những gian khổ chất chồng.
Bằng ngòi bút hào hoa và lãng mạn Quang Dũng đã diễn tả một cách chân thực nhất
những nỗi nhớ khắc khoải trong tâm hồn của người lính chiến về một thời kháng chiến
đã đi qua với giọng điệu phóng khoáng, hình ảnh thơ giàu sức gợi, nhịp thơ biến đổi,
tất cả đã tạo nên một âm hưởng riêng, một phong cách riêng của người lính Tây Tiến.
Phân tích 8 câu đầu bài Tây Tiến - Mẫu 4
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Nếu như hồn thơ của Huy Cận mở đầu bằng giọng điệu dân ca chứa chan tâm tình,
hồn thơ của Xuân Diệu khởi phát từ khát khao sống vội để không phí hoài tuổi xuân,
thì hồn thơ của Quang Dũng bắt nguồn từ “ nỗi nhớ chơi vơi” hiện hữu trong 8 câu
thơ đầu của bài thơ Tây Tiến.
Được viết vào năm 1948 khi ở Phù Lưu Chanh ( Hà Tây), 8 câu thơ đầu của bài Tây
Tiến ghi ấn mãi trong lòng người đọc bởi đã tái hiện lại con đường hành quân giữa núi
rừng Tây Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ và thơ mộng. Bên cạnh đó, bài thơ chính
là tiêu biểu cho một phong cách sáng tác rất riêng của Quang Dũng - thế hệ nhà thơ
miền Bắc trưởng thành và nổi danh sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi “
Chỉ với hai câu thơ thôi, nhưng đã hoàn toàn lột tả được nỗi nhớ đơn vị cũ da diết của
nhà thơ Quang Dũng, bởi ông đã từng có những kỉ niệm gắn bó sâu đậm với nơi đây.
Tây Tiến chính là tên một đơn vị bộ đội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp được
thành lập năm 1947, đó Quang Dũng làm đại đội trưởng. Tới năm 1948, ông có giấy
thuyên chuyển rời đại đội để sang đơn vị khác, thế nhưng tình yêu và nỗi nhớ của
mình thì vẫn luôn ở lại với nơi đây. Bằng cách sử dụng câu cảm thán để mở đầu cùng
thủ pháp nghệ thuật nhân hoá gọi vật như gọi người, Quang Dũng đã khiến dòng sông
Mã không đơn thuần là một sự vật vô tri nữa, mà trở nên có hồn, có kí ức. Nó đã biến
thành một chứng nhân lịch sử hiện hữu để ghi lại những kỉ niệm buồn vui của cuộc
đời những anh bộ đội cụ Hồ trên chiến trường hành quân gian khổ. “ Tây Tiến “ cũng
không chỉ là cách gọi nữa, mà nó đã trở thành người bạn tri kỷ tâm giao để nhà thơ giãi bày nỗi nhớ.
“ Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi “
Điệp từ “ nhớ “ được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ da diết ùa về trong tâm trí
Quang Dũng. Ta thấy xuất hiện ở đây có tính từ “ chơi vơi “, kết hợp với dấu phẩy
xuất hiện ở giữa như một nhịp ngắt, gợi sự chia ly của nhà thơ với binh đoàn lại ùa về
trong tâm trí. “ Chơi vơi “ như gợi ra một nỗi nhớ có hình có khối, mở ra một không gian sâu thẳm bao la:
“ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi “
Hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng đang dần hiện ra dưới ngòi bút tài hoa
của nhà thơ Quang Dũng. Địa danh nổi tiếng như Sài Khao, Mường Lát đã được gợi
lên để lột tả sự hoang sơ nơi xứ lạ. Núi rừng thì trùng điệp, sương giăng “ sương lấp”
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
như muốn cản bước đường hành quân của người chiến sĩ, khiến “ đoàn quân mỏi”.
Thế nhưng, tình yêu tổ quốc đã chắp sức mạnh cho những anh bộ đội cụ Hồ, giúp họ
vượt qua màn sương lạnh giăng mắt, tiến về chiến trường phía trước kia.
“ Mường Lát hoa về trong đêm hơi “
Đây là một câu thơ đẹp, lại có thể hiểu được theo nhiều nghĩa. Ta có thể trông thấy vẻ
đẹp của những đóa hoa nơi núi rừng Việt Bắc cuộn trào sức sống nở bất chấp tiết trời
giá lạnh sương giăng, như tinh thần bất diệt của người lính Tây Tiến; cũng như có thể
trông thấy khung cảnh hành quân giữa “ đêm hơi”, đốt lên những ngọn đuốc trong
đêm mịt mù hơi sương trông giống như những bông hoa đỏ. Thanh bằng trong câu thơ
đã gợi cho ta thấy cái cảm giác vừa nhẹ nhàng của màn sương, nhưng lại chơi vơi của
rừng núi. Sự lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng xuất hiện xuyên suốt cả tác phẩm, khi
ông luôn nhìn thấy vẻ đẹp đằng sau những cung đường khó khăn:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Hai câu thơ đầu, đã diễn tả độ cao tới ngất trời nơi núi rừng Tây Bắc, cùng sự chênh
vênh heo hút của núi đèo. Một lần nữa, thủ pháp kết hợp một loạt các từ láy lại được
đưa vào sử dụng, khi ta thấy xuất hiện của các từ: “ khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút”
theo thứ tự từ dưới lên trên, từ xa tới gần. Cung đường các chiến sĩ hành quân thực
gian truân vất vả, vừa dốc vừa cao, địa hình hiểm trở trong khi thời tiết cũng không hề
thuận lợi. Đã có những lúc, tưởng chừng như họ đã lên cao gần chạm tới chân mây “
súng ngửi trời “, bầu trời như chạm vào mũi súng. Khi ấy, giữa trời đất heo hút, họ
vẫn có anh em kề bên sát vai chiến đấu, vẫn có súng đeo trên vai làm người bạn tri kỷ.
"Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Một lần nữa, dấu phẩy lại xuất hiện để ngăn cách hai vế câu, như diễn tả sự chập
chùng lên xuống của núi đèo. Điệp từ “ ngàn thước “ diễn tả cảnh sườn núi cứ vút lên
rồi lại đổ xuống, có lúc tưởng chừng như thằng đứng nhưng vẫn không thể cản được
bước chân hành quân. Đồng thời, thủ pháp đối lập cũng xuất hiện qua câu thơ “ ngàn
thước lên cao - ngàn thước xuống “, gợi cho người đọc sự hiểm trở chập chùng của
rừng núi. Nếu như câu thơ trên sử dụng thanh trắc tạo sự gân guốc để miêu tả địa hình
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
hành quân, thì câu thơ sau chính là bức tranh trữ tình đẹp như mơ nơi rừng núi Tây Bắc:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi “
Cơn mưa rừng chợt ùa tới là giá rét, ướt và sự thấm mệt cho người lính. Thế nhưng,
dưới ngòi bút của hồn thơ Quang Dũng, nó lại trở nên lãng mạn trữ tình. “ Mưa xa
khơi “ là một cụm từ đẹp, thể hiện sự tinh tế của nhà thơ trong cách vận dụng từ ngữ,
gợi ra một cái gì đó vừa kỳ bí, hoang sơ mà lại mênh mang. Pha Luông là một địa
danh tiếp tục được nhắc tới trong kí ức của tác giả. Đứng trên đỉnh núi cao, trông về
phía xa xa thấy có cơn mưa “ xa khơi “ ở bên đó, dặn lòng càng phải quyết tâm chiến
đấu hơn để bảo vệ tới tấc đất cuối cùng.
Ta có thể thấy, bằng việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật kết hợp với một loạt từ láy
gợi tả và liệt kê tên các địa danh, Quang Dũng đã thành công vẽ lên trước mắt ta cảnh
núi rừng Tây Bắc thật đẹp và hùng vĩ thông qua nỗi nhớ của người chiến sĩ. Cảnh vật
tuy có hùng vĩ, hiểm trở nhưng vẫn đầy chất thơ, cũng giống như những người lính cụ
Hồ bi tráng nhưng không hề bi lụy. Dù có khó khăn gian khổ, nhưng họ vẫn sẵn sàng
chiến đấu vì tổ quốc, dũng cảm vượt qua khó khăn. Tây Tiến chính là một kiệt tác của
thời đại, khi là tiêu biểu cho hồn thơ của Quang Dũng. Đưa chủ đạo xuyên suốt bài
thơ là nỗi nhớ, ngòi bút của Quang Dũng vừa có chất nhạc lại giàu đậm chất thơ.
Người lính tri thức tiểu tư sản hiện lên hào hoa, phong nhã nhưng cũng không kém sự
bất khuất kiên cường. Kí ức sẽ còn mãi trong lòng mỗi độc giả khi họ ngâm nga 8 câu
thơ trên. Đó là về vẻ đẹp của núi rừng Tây Bắc hùng vĩ thơ mộng, là vẻ đẹp của đoàn
quân Tây Tiến bi tráng hào hùng, là vẻ đẹp của nỗi nhớ khôn nguôi.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 5
Phân tích tám câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc
hùng vĩ, dữ dội, đồng thời đó cũng là thử thách hiểm nguy trên chặng đường hành
quân của binh đoàn Tây Tiến.
Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng:
Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhở về rừng núi, nhớ chơi vơi
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc, cồn cào không kìm nén nổi.
Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể, rõ ràng là: “sông Mã”, “Tây Tiến”, “rừng núi”.
Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ “nhớ”. “Nhớ chơi
vơi” là nỗi nhớ chập chờn hư thực, vừa tha thiết, thường trực, vừa mênh mang, đầy ám
ảnh, vừa mở ra không gian của tiềm thức, vừa như gợi ra không gian trập trùng của
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
núi đèo rộng lớn. Cách hiệp vần “ơi” làm câu thơ như ngân vang, phù hợp với biên độ của cảm xúc.
Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi. Nỗi nhớ
ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau.
Hai câu thơ tiếp: gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Hai câu thơ vừa tả thực, vừa sử dụng bút pháp lãng mạn. Những từ chỉ địa danh Sài
Khao, Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn, đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến.
Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân, nuốt chửng cả đoàn binh vốn
đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian khổ. Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu
tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến. Nhưng những người lính
ấy, dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung, hào hoa, lạc quan, yêu đời. Hình ảnh “hoa
về trong đêm hơi” là hình ảnh đẹp giàu sức gợi. Đó có thể là những ánh đuốc sáng
lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng, cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ
rừng đi ra, trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương, mà đó cũng có thể
là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng. Đoàn quân ấy
hành quân trong một “đêm hơi” đầy huyền ảo, mơ hồ, bảng lảng khói sương chốn
rừng suối. Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây:
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo
hút”, kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ, mật độ thanh trắc dày đặc
khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả, nhọc nhằn. Những phép tu từ đó mở ra trong tâm
tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh, hiểm trở, ẩn chứa bao bất trắc, nguy hiểm
của núi cao, vực sâu nơi núi rừng miền Tây. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một nhân
hoá táo bạo, đặc tả sự chót vót của dốc núi. Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc, cảm
tưởng như mũi súng có thể chạm mây. Từ đó, ta cũng thấy được nét tinh nghịch khoẻ
khoắn, vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả, mệt nhọc của
các anh lính Tây Tiến. Phép đối “ngàn thước lên cao – ngàn thước xuống” càng nhấn
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
mạnh độ gập ghềnh, hình sông thế núi trập trùng, hiểm trở của thiên nhiên miền Tây.
Ba câu thơ giàu chất hội hoạ, dựng lên bức tranh hoang vu, dốc đèo đứt nối, hùng vĩ
trên con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh
bằng “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”, vần mở “ơi” đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ
nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính. Họ đứng trên những
đỉnh núi, thưởng thức chút bình yên, vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng, phóng tầm mắt,
thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi. Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ
dội hoang vu, sự êm đềm của núi rừng, vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc
mệt nhưng đầy trẻ trung, yêu đời của các chàng trai Tây Tiến.
Tám câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng
khoáng của nhà thơ Quang Dũng. Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình, giàu nhạc
điệu, gây ấn tượng táo bạo, dựng lên bức tranh sinh động, có chiều sâu về cảnh hành
quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng
miền Tây. Qua đó, ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ
Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến – một thời mãi
mãi để nhớ và tự hào.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 6
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Là người lính trẻ
hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng
gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng. Tám câu thơ đầu tiên là
tiếng lòng bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”
Câu thơ đầu như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người
thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm
hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ
pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” ko đơn thuần là
con sông mà nó đã trở thành một hình ảnh hiện hữu, một chứng nhân lịch sử trong
suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui - buồn, được - mất. “Tây Tiến” ko
chỉ để gọi tên một đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn ” tri âm tri kỉ” để
nhà thơ giãi bày tâm sự:
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ thứ hai với điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt,
cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” kết hợp với từ “nhớ” đã
khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như cơn thác lũ
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
tràn vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Hai câu đầu với
cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông… Đó là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và
dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói
đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân
người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt
nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ
quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn.
Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để khắc hoạ hơn sự
khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về
“sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”
Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành kí ức khó phai
trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. Có những lúc
người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã
khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót” bởi nói “chót vót” người
ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai
có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như
“khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được
cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi
đưa hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “súng ngửi trời” để cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên
hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng
hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã
nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra một không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới
lên thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến.
Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã
thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên
điều gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như
làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra bức tranh thiên nhiên nơi núi
rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây
Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, nó đã trở thành kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là nỗi nhớ mãnh liệt
của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Bài thơ “Tây Tiến” dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành
kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi
nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất
họa và đậm chất thơ. Bài thơ là một khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế,
Xuân Diệu thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ “Tây Tiến” như đang ngậm âm
nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn
và của một người lính Tây Tiến nên nó tạo nên một điều gì đó rất riêng và đẹp. Mang
chất lính nên Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
“Tây Tiến” là 1 bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn , tài hoa, lãng mạn của người
lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào
nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ
xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 7
khi nói về Quang Dũng, người ta thường nhớ đến một người nghệ sĩ đa tài. Ông vừa là
nhà văn, vừa là nhà thơ, ông không chỉ biết vẽ tranh mà còn thạo về nhạc lý, có thể tự
soạn ra những bản nhạc làm say mê lòng người. Chính vì hội tụ những tài hoa đó mà
hồn thơ Quang Dũng luôn rất tinh tế, quyến rũ, để lại cho người đọc nhiều ấn tượng
sâu sắc. Với sự sáng tạo độc đáo hình ảnh và ngôn từ cô đọng, hàm súc, một gợi mà
trăm suy, tác phẩm gắn liền với tên tuổi Quang Dũng “Tây Tiến” thực sự có sức hút
rất lớn đối với độc giả khi đưa chúng ta trở về thời chiến trên con đường hành quân
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
đầy hiểm nguy và khốc liệt dưới bầu trời thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ
nhưng cũng mang vẻ đẹp thơ mộng trữ tình chỉ riêng nơi này có.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Thời kỳ chuẩn bị cho chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947, một phân hiệu bộ đội
thành lập đầu năm 1947 đã ra đời cùng với nhiệm vụ cao cả là phối hợp với bộ đội
Lào đánh tiêu hao sinh lực địch vùng Thượng Lào và bảo vệ biên giới Lào – Việt,
mang tên gọi Tây Tiến. Bài thơ là nỗi nhớ hoài niệm của nhà thơ về thời xưa cũ khi
còn hoạt động trong đơn vị, nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc - nơi in dấu chân những
chàng lính trẻ tuổi mà hào hùng được khắc họa thành bức tranh đẹp nhất qua từng lời
thơ trau chuốt, sáng tạo. Sau khi nghe thấy nỗi nhớ “chơi vơi” hòa chung với tiếng hát
của sông Mã, của miền rừng núi Tây Bắc được thể hiện qua hai dòng đầu tác phẩm,
chúng ta đã theo hai dòng thơ ấy trở về quá khứ, mở ra trước mắt là con đường hành
quân hoang sơ, dữ dội và khắc nghiệt. Nhưng với niềm lạc quan luôn đồng hành cùng
người lính suốt những đêm trường nô lệ của dân tộc, đôi mắt họ nhìn thấy con đường
phía trước là một đôi mắt rất “thơ”, họ cảm nhận thiên nhiên Tây Bắc luôn hàm chứa
vẻ đẹp hùng vĩ, trữ tình mang theo chút mộng mơ ẩn sau lớp vỏ dữ dội mà nó vốn có.
Mở đầu là câu thơ với cách ngắt nhịp 4/3 khá quen thuộc của thể thơ Thất Ngôn:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”
Vị trí ngắt nhịp của câu thơ rơi vào từ “dốc” ở giữa câu, tạo thành hai vế, đầu mỗi vế
là điệp từ “dốc”. Từ ý thơ ta cảm nhận được con đường hành quân là là một chuỗi
những gập ghềnh nhấp nhô, các con dốc lên cao rồi lại xuống thấp nối tiếp nhau, đèo
tiếp đèo, dốc rồi lại dốc, cứ như thế mà trải dài đến vô cùng. Một điểm ấn tượng ở câu
thơ mở đầu này là việc có đến năm thanh trắc trên bảy chữ: dốc – khúc – khuỷu – dốc
– thẳm. Các thanh trắc tạo cho người đọc đang hòa mình vào tác phẩm cảm giác trúc
trắc, khó khăn, mệt mỏi khi phải liên tục leo lên cao và hạ xuống thấp. Con đường
hành quân từ đó được tô điểm thêm phần hiểm trở, là chướng ngại vật cản đường
người lính. Không chỉ thể hiện cảm xúc cho ý thơ, năm thanh trắc trên còn tạo ra nhạc
tính cho tác phẩm, vốn là nét đặc trưng tinh tế không kém phần thú vị trong thơ Quang Dũng.
Các từ láy tạo hình trong câu thơ góp phần miêu tả rõ nét hơn địa hình hiểm trở,
quanh co của con dốc Tây Bắc: “Khúc khuỷu” gợi cảm giác gấp khúc, gồ ghề khó đi
lại, “thăm thẳm” gợi hình ảnh vừa sâu, vừa cao, vừa xa đến chân trời. Hai cụm từ ở
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
hai vế của câu thơ tạo nên hai không gian đối lập: Một bên là đường lên núi cao vời
vợi với những vách đá dựng đứng, một bên là đường xuống sâu hun hút như vực thẳm.
Dòng thơ thứ hai mang lại cho người đọc cảm giác nhẹ nhàng, bay bổng, lãng mạn,
thêm một chút cô đơn trước sự vắng vẻ, hẻo lánh nơi miền núi:
“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Tính từ “heo hút” gợi sự xa vắng, hoang vu, một nơi loãng không khí và biệt lập, cách
xa cuộc sống con người. Đi cùng với nó là cụm từ nhân hóa “súng ngửi trời” – khi
mũi súng vừa vặn chạm đến ranh giới của bầu trời rộng lớn và rồi “ngửi” thử, ý thơ
vừa gợi độ cao rợn ngợp vừa pha chút gì đó hóm hỉnh, hài hước, tinh nghịch ẩn trong
cốt cách hào hoa của anh lính trẻ. Có thể nói ngôn từ là tinh hoa của tác phẩm thơ ca.
Bởi vì thơ là để tạo ra giai điệu du dương thẩm thấu sâu lắng trong tâm hồn con người,
vì lẽ đó nên nhà thơ cần phải chăm chút cho vườn hoa ngôn ngữ trong thơ trở nên đa
sắc màu và kết thành những ngôn từ quý giá nhất, tạo nên lời hay ý đẹp. Với quan
niệm ấy, chữ “ngửi” trong “súng ngửi trời” xứng đáng là nhãn tự của dòng thơ này.
Ngôn từ tinh tế ấy cũng đã hiện rõ cái tầm của người lính sánh ngang với tầm cao của
núi đèo, của vũ trụ. Bóng dáng các anh trở nên lồng lộng, uy nghi chiếm lĩnh đất trời.
Câu thơ thứ ba sử dụng điệp ngữ “ngàn thước” như một ước lệ nghệ thuật để khắc họa
vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh kỳ thú của núi rừng Tây Bắc:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
Sự kết hợp hai động từ “lên – xuống” tạo cảm giác con đường hành quân như bị bẻ
đôi ra, một nửa phóng thẳng lên trời xanh cao, nửa còn lại phi xuống vực thẳm sâu
không thấy đáy. Nhìn xuống hay nhìn lên đều thấy xa vời, chật hẹp, căng thẳng và rợn ngợp.
Ba câu thơ trên vẽ nên cái dữ dội thì câu thơ cuối cùng lại được dệt từ những thanh
bằng như để xoa dịu tâm hồn cằn cỗi và mệt nhọc ở người lính:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ không hề có một thanh trắc nào mà chỉ có những thanh bằng liên tiếp nhau
tạo nên sự êm ái nhẹ nhàng. Lúc này đây mọi mỏi mệt âu lo của người chiến sĩ dường
như tan biến, thay vào đó là cảm giác nhẹ nhõm nhưng đầy nỗi bâng khuâng, mênh
mang, thả hồn vào những ngôi nhà thấp thoáng trong làn mưa cùng với nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Đây là một đoạn thơ giàu tính nhạc. Vận dụng tài hoa về âm nhạc của mình, Quang
Dũng đã “phổ nhạc” cho đoạn thơ qua việc kết hợp nhịp nhàng giữa các thanh bằng
trắc, làm cho độ cao của núi, độ sâu của vực thẳm, độ dốc của đèo, sự gập ghềnh
chông chênh của con đường hành quân trở nên sống động và cứ nối tiếp nhau tăng cấp
lên mãi. Câu thơ như ngả nghiêng cùng núi đèo, có chỗ nghe trúc trắc mỏi mệt, có khi
trầm xuống dịu dàng như bức họa ngày mưa ở Pha Luông: “Nhà ai Pha Luông mưa xa
khơi”. Thơ Quang Dũng vì thế mà phù hợp hoàn toàn với quan niệm về nhạc tính mà
tác giả Trần Thiện Khanh đưa ra: “Thi nhân phổ nhạc cho thơ, tiếng thơ vang ngân
trong không gian, tạo thành các “bước sóng” gõ cửa tâm hồn độc giả.”
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 8
“Tôi làm thơ này rất nhanh, làm xong, đọc trước đại hội được mọi người hoan nghênh
nhiệt liệt. Hồi đó, tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy, tôi chả chút lí
luận gì về thơ cả”, đó là chia sẻ của Quang Dũng về bài thơ “Tây Tiến”. Có lẽ chính
sự chân thành và chân thực nhà thơ gửi vào từng hình ảnh, câu từ trong tác phẩm đã
chinh phục người đọc, đem đến cho họ nhiều suy nghĩ, cảm xúc sâu sắc. Tám câu thơ
đầu của bài thơ mang khá nhiều ý nghĩa, thể hiện cảm xúc và tài năng nghệ thuật của nhà thơ.
Quang Dũng là một nhà thơ hiện đại Việt Nam mang nét đẹp hồn hậu cùng ngòi bút
tài hoa. Một người bạn của Quang Dũng, nhà thơ Trần Lê Văn từng chia sẻ rằng:
“Quang Dũng là người sống nội tâm, nhẹ nhõm, vừa ảo vừa thực như chính những câu
thơ phiêu diêu của ông: “Cơn gió bóng mây qua đỉnh Việt/ Mà như lau sậy có linh
hồn”. Có lẽ chính bởi nét đẹp tâm hồn đó, mà nhiều người coi Quang Dũng như một
cô đào, cô phong trong trường thơ kháng chiến, rằng ông ít quan tâm đến cách tân,
hình thức, không chủ trương sa vào sự cầu kỳ, mà ngôn từ trong thơ lại đầy sức trẻ,
tươi mới, tạo dựng được sự quyến rũ lạ thường để từ đó khẳng định vị thế, tên tuổi của
ông trong làng thơ hiện đại nước nhà. Một bài thơ tiêu biểu của Quang Dũng có thể kể
đến đó chính là “Tây Tiến” được sáng tác năm 1948, khi nhà thơ phải rời xa đơn vị
của mình để chuyển sang một đơn vị khác tại Phù Lưu Chanh. Tám câu thơ đầu của
tác phẩm đã gieo nhiều cảm xúc, nỗi niềm trong lòng người đọc.
Hai câu thơ mở đầu tác phẩm đã bộc lộ một nỗi nhớ thiết tha, dâng trào khiến nhân vật
trữ tình phải thốt lên thành lời:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” gợi bao niềm thân thương đi cùng với tâm trạng “nhớ chơi
vơi” đã khắc họa chân thực, rõ nét nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian, thời
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
gian. Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã phác họa ra trước mắt người đọc một bức
tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng đầy dữ dội, hiểm
trở để từ đó bức chân dung người lính càng thêm nổi bật:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Nhà thơ Quang Dũng đã đưa ra tên một loạt các địa danh như “Sài Khao”, “Mường
Lát”, “Pha Luông” vừa giúp tăng tính chân thực, thuyết phục cho bài thơ, vừa góp
phần gợi nên một sự hẻo lánh, xa xôi, hoang vắng. Tác giả đã linh hoạt sử dụng một
loạt các từ láy đậm chất tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” để qua đó
đem đến cho người đọc cái nhìn chân thực, sống động hơn về bức tranh núi rừng nơi
đây. Những từ láy ấy khi kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ: “Dốc lên…dốc lên…” gợi
ra một địa hình hiểm trở với núi cao, đèo dốc chênh vênh, gợi ra hình ảnh những con
đường đèo, đường rừng nơi người lính Tây Tiến hành quân qua đầy gập ghềnh, gian
khó và thử thách ý chí, sự kiên trì, bền dạ của đoàn quân.
Một hình ảnh thơ vô cùng đẹp và giàu ý nghĩa nhà thơ tạo dựng trong đoạn thơ này đó
chính là hình ảnh: “súng ngửi trời”. Trên cái nền hiện thực đầy gian khổ, thử thách ý
chí người lính ấy, nhà thơ đã đem đến cho người đọc một hình dung vô cùng trẻ trung,
hóm hỉnh và đậm chất Quang Dũng. Cách nói “súng ngửi trời” của nhà thơ không chỉ
thể hiện sự cao rộng mênh mang của đất trời Tây Bắc, mà còn khắc họa hình ảnh
người lính Tây Tiến với tư thế chủ động, hiên ngang và tâm thế sẵn sàng đối diện khó
khăn, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Nhịp thơ ngắt đôi trong câu thơ: “Ngàn
thước lên cao, ngàn thước xuống” tiếp tục gợi tả sự nguy hiểm tột cùng của thiên
nhiên núi rừng Tây Bắc. Tuy thiên nhiên nhiều khi dữ dội, khắc nghiệt vậy nhưng
trong tâm hồn lạc quan, tươi trẻ của những người lính, họ không cảm thấy những điều
đó quá nặng nề, mà trái lại, nhiều lúc lại rất nên thơ. Đó là hình ảnh “Mường Lát hoa
về trong đêm hơi” hay “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Trong cách nhìn, cách nghĩ,
cách cảm của người lính, cảnh vật thiên nhiên đất trời ấy lại đượm một vẻ gì rất đỗi
nên thơ, làm say đắm lòng người.
Từng câu thơ, hình ảnh đến nhịp điệu hay giọng thơ trong tám câu đầu bài thơ “Tây
Tiến” đã góp phần tạo nên sự đặc sắc cho giá trị nội dung tư tưởng cũng như hình thức
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
nghệ thuật của cả bài thơ, không chỉ đem đến cho người đọc cái nhìn chân thực về bức
tranh thiên nhiên núi rừng nhiều gian khổ trên đường hành quân mà còn phác họa đậm
nét chân dung tâm hồn người lính Tây Tiến, đồng thời thể hiện sự trân trọng, nỗi nhớ
thương nhà thơ dành cho đồng đội của mình.
Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 9
Quang Dũng là một trong những nhà thơ chiến sĩ tiêu biểu của thời kỳ kháng chiến
chống Pháp. Ông đặc biệt thành công khi viết về đề tài người lính trí thức tiểu tư sản
hào hoa, phong nhã. Một trong những bài thơ nổi tiếng viết về người lính là bài thơ Tây Tiến.
Cảm hứng chủ đạo trong suốt bài thơ là cảm hứng về nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ khó phai
của đời người lính Tây Tiến được khắc hoạ thành công ở tám câu đầu của bài thơ
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Tây Tiến là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ,
ko ai không thể ko nhớ đến Tây Tiến. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà
thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh - 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã
viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là Nhớ Tây Tiến nhưng về sau đổi lại thành
Tây Tiến vì nhà thơ cho rằng chỉ với 2 từ Tây Tiến cũng đủ đã gợi lên nỗi nhớ là cảm
hứng chủ đạo chứ ko cần đến từ "nhớ"
Là 1 người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến
đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà
thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông
ko khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi"
Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi
sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng
chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp
nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. "Sông Mã" ko đơn thuần là 1 con
sông mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc
đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui buồn, được mất. "Tây Tiến" ko chỉ để gọi tên
1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn " tri âm tri kỷ" để nhà thơ giãi bày tâm sự
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Câu thơ thứ 2 với điệp từ "nhớ" được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn
cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. tính từ "chơi vơi" kết hợp với từ "nhớ" đã khắc
sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn
vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. 2 câu đầu với cách
dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời"
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha
Luông... Đó là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và
dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói
đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân
người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau.
"Đoàn quân mỏi" nhưng tinh thần ko "mỏi". Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã
làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang
Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh "sương" vào đây để khắc hoạ hơn sự khắc nghiệt
của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về "sương", Chế
Lan Viên cũng đã viết trong "Tiếng hát con tàu":
"Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn"
Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành 1 kí ức khó
phai trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. Có những
lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng
đã khéo léo sử dụng từ "thăm thẳm" mà ko dùng từ chót vót" bởi nói "chót vót" người
ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng "thăm thẳm" thì khó có ai
có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như
"khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được
cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi
đưa hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ " súng ngửi trời" để cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng
hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã
nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở
"Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Điệp từ "ngàn thước" đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật
hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến.
Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã
thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ "mưa xa khơi". Nó gợi lên 1
cái gì đó rất kỳ bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như
làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi
rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây
Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng
Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh
liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Bài thơ "Tây Tiến" dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành
1 kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về
nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất
họa và đậm chất thơ. Bài thơ là 1 khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế,
Xuân Diện thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ "Tây Tiến" như đang ngậm âm
nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn
và của 1 người lính Tây Tiến nên nó có 1 cái rất riêng và đẹp. Mang chất lính nên
Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế.
"Tây Tiến" là 1 bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn, tài hoa, lãng mạn của người
lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào
nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ
xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã.
8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 10
Được mệnh danh là “nhà thơ của xứ Đoài mây trắng” - Quang Dũng đã trở thành một
biểu tượng của hồn thơ vừa lãng mạn nhưng cũng đậm chất lính của làng thơ Việt
Nam. Ông bước vào chiến trận mà như bước chân phiêu lãng giang hồ, say mê hồ hởi
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
đến lạ. Chính cái tâm thế lãng mạn ấy, với hiện thực cách mạng khắc nghiệt đã giúp
hồn thơ Quang Dũng bay cao, mà Tây Tiến chính là đỉnh cao. Tám câu thơ đầu của
bài thơ đã khắc họa cho chúng ta thấy vẻ đẹp thiên nhiên của vùng đất phía Bắc, tuy
hoang dã, hiểm trở nhưng cũng đầy chất đẹp thơ mộng và giản dị đến xiêu lòng.
Quân đoàn Tây Tiến là một quân đoàn có thật trong lịch sử. Vào những ngày đầu
kháng chiến nổ ra, họ nhận được nhiệm vụ là cùng nhau tuyên truyền, thăm dò địa
hình của vùng cũng như liên lạc và phối hợp chiến đấu cùng với bộ đội Lào. Bài thơ
“Tây Tiến” chính là những kỉ niệm, những mong nhớ của tác giả Quang Dũng khi
được sống và chiến đấu cùng với những người đồng đội tại quân đoàn Tây Tiến. Chắc
cũng vì vậy, mà ngay từ hai câu thơ đầu tiên, ông đã thể hiện tình cảm nhớ thương của mình:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”
Giọng thơ tha thiết, như đang bật ra những tích tụ bấy lâu nay trong lòng. “Tây Tiến
ơi!”, tiếng gọi thật thân thương làm sao. Như đang tâm tình, đang bộc lộ ra những tình
cảm, những suy nghĩ cho khắp núi rừng Tây Bắc cùng nghe vậy. “Sông Mã” vừa là
hình ảnh thiên nhiên miền Tây gắn liền với bao ngày tháng gian khổ của đoàn binh
Tây Tiến, cũng lại vừa là nhân chứng đã chứng kiến toàn bộ những buồn vui, những
khó khăn vất vả của cuộc đời người lính. Nhắc về “Sông Mã” cũng như là đang nhắc
về “Tây Tiến” đầy yêu thương và ngược lại. Hai hình ảnh tưởng như không có điểm
chung mà lại giao thoa nhau, gắn liền với nhau thật hài hòa, thật gắn kết biết bao.
Nhưng mà buồn thay, những cảnh vật, những kỉ niệm thân thương kia giờ đây lại “xa
rồi”. “xa” ở đây không chỉ để chỉ về khoảng cách địa lí, mà xa ở đây còn như chỉ về
quá khứ về thời gian đã qua trước đây. Tính từ “xa rồi” tạo ra một khoảng không gian
xa xăm, vời vợi, mênh mông vừa gợi một nỗi bâng khuâng, man mác, một nỗi hụt
hẫng trong lòng. Có lẽ, cũng bởi vậy mà nỗi nhớ dường như bị hẫng lại, lửng lơ trong
lòng. Nhớ về quá khứ, nhớ về thiên nhiên rừng núi hoang vu đã khiến cho Quang
Dũng dường như “chơi vơi” trong chính nỗi nhớ của mình.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Từ nỗi nhớ “chơi vơi”, giờ đây nỗi nhớ đã được hiện thực hóa khi nhớ về những địa
danh thực tế cũng như những hoạt động của con người, mà cụ thể ở đây là người lính
Tây Tiến. Hai câu thơ thật thơ đã đưa chúng ta tới mảnh đất miền Tây thật thơ mộng,
trữ tình. “sương lấp” và “hoa về” đã đưa hồn người như được thả mình vào trong
không gian mơ hồ, kì ảo của núi rừng. Ru hồn người ngủ say giữa những mệt mỏi của
cuộc hành quân gian khổ. Cảm tưởng như người lính đang mơ trong thế giới thật,
đang chứng kiến những vẻ đẹp không có thật trong cuộc sống. Sau những khó khăn,
nhọc nhằn, giờ đây như những giây phút hiếm hoi họ được thả mình theo vẻ đẹp của thiên nhiên.
Thế nhưng, những nguy hiểm của vùng “rừng thiêng nước độc” là không thể phủ
nhận. Những câu thơ phía sau như đối lâp lại hoàn toàn với vẻ thơ mộng, trữ tình của hai câu thơ trên:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.”
Những từ láy dường như đã thể hiện cho chúng ta thấy sự nguy hiểm, khó khăn của
cung đường hành quân. “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” cảm tưởng như chỉ cần một sơ
suất nhỏ thôi cũng có thể khiến người lính mất mạng. “Dốc khúc khuỷu” đã miêu tả
những chặng đường nhiều núi đèo hiểm trở, gập ghềnh, lúc hiện ra quanh co đèo dốc,
lúc lại chìm ẩn đi trong cái thăm thẳm, mênh mông. "Dốc thăm thẳm" là cách viết độc
đáo của Quang Dũng, vừa gợi tả chiều cao, vừa gợi tả chiều sâu, như một con dốc
không có điểm đáy, đầy hoang sơ và hiểm trở.
“Súng ngửi trời” chính là sự ngạo nghễ, tinh nghịch mà tác giả Quang Dũng đưa vào
thơ của mình. Chi tiết này khiến chúng ta nhớ đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo”
trong bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu. Có lẽ rằng đó chính là mối liên hệ
giữa con người với thiên nhiên. Trong những thời khắc khó khăn nhất của cuộc đời,
những giây phút căng thẳng nhất, thiên nhiên vẫn ở bên bầu bạn với chúng ta. Tạo ra
vẻ đẹp cho tâm hồn con người, cho con người được thư giãn, thoát mình ra khỏi
những giây phút căng thẳng của cuộc chiến.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Nhưng, những khó khăn chưa dừng lại ở đó. Câu thơ tiếp như nhân lên gấp bội sự thử
thách, khốc liệt của thiên nhiên:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Ngàn thước là ước từ chỉ số lượng không xác định. Dốc núi đột ngột lên cao rồi lại đột
ngột gãy gập, đổ xuống một cách bất ngờ đầy hiểm nguy tưởng như đỉnh núi bị đứt
gãy giữa không trung. Và rồi mưa như trắng xóa trời, khiến cảnh vật bị xóa nhòa trên nền mưa ấy.
Tám câu thơ đầu dường như đã thể hiện được nỗi nhớ da diết của tác giả Quang Dũng
với thiên nhiên miền Tây cũng như với quân đoàn Tây Tiến gắn liền với kỉ niệm của
mình. Tây Tiến không chỉ là nỗi nhớ đơn thuần, đó đã trở thành một phần tinh thần,
tâm hồn của những người lính đã chiến đấu và bảo vệ cho vùng đất này.
8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 11
Tám câu thơ đầu đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội, đồng thời
đó cũng là thử thách hiểm nguy trên chặng đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nỗi nhớ thương không chỉ còn là những rung động trong tâm tưởng mà đã ngân vang
nhẹ nhàng, tha thiết, trải rộng ra không gian, thời gian. Hình ảnh đầu tiên gợi về trong
tâm trí nhà thơ là hình ảnh sông Mã- dòng sông rộng dài, hùng vĩ gắn liền với Tây
Tiến. Nhớ về thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ cũng là lúc nỗi nhớ về đồng đội- những
người kề vai sát cánh năm xưa trỗi dậy. Sâu thăm trong 3 tiếng “Tây Tiến ơi” còn là
tiếng gọi một người bạn, một người thân, một người tri kỷ, gọi về cả một sự gắn bó
quân dân thắm thiết. Nhưng giờ đây, cả sông Mã và Tây Tiến đều đã “xa rồi”, đó là
hiện thực mất mát phải đối mặt. Nhưng cũng vì xa rồi nên mới hoài niệm, mới da diết,
nhớ thương đến thế. Đối với Quang Dũng, mỗi tên gọi là một phần kí ức – nơi cất
giấu quãng tâm hồn mình, là địa chỉ tìm về của nỗi nhớ. Nỗi “nhớ chơi vơi”- một sáng
tạo ngôn từ độc đáo của riêng Quang Dũng. Với nhà thơ, nhớ Tây Tiến không dữ dội,
cuộn lòng mà cứ mênh mang, tha thiết, ám ảnh dư âm. Nhưng giờ đây tất cả chỉ là kỉ
niệm vì “Sông Mã xa rồi”- đó là sự ý thức của nhân vật trữ tình về hiện thực phũ
phàng, khắc nghiệt, Nhưng càng xa càng nhớ, nỗi nhớ cứ đong đầy, đọng lại bao dư
ba. Nỗi nhớ mỗi lúc một hiện rõ qua nỗi nhớ của nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Đoạn thơ hiện lên một loạt những địa danh. Sài Khao, Pha Luông hay Mường Hịch
đều là những cái tên lạ lẫm mới mẻ với những chàng trai Hà thành. Vậy nhưng bước
vào cuộc kháng chiến,không một chút e ngại, không một chút sợ sệt, họ vẫn ngày
ngày hành quân trên những cung đường xa lạ ấy, dưới màn sương giăng trắng trời,
lạnh lẽo cản trở tầm nhìn. Quang Dũng tái hiện cung đường Tây Bắc qua hệ thống từ
láy đặc sắc “heo hút, khúc khuỷu, thăm thẳm”. Mọi nguy hại, hiểm trở đều hiện lên
sắc nét qua từng câu, từng chữ. Đó là cái gập ghềnh, trắc trở của dốc thẳng, là cái chót
vót của đèo cao và sự hun hút của những vực sâu vô tận. Tất cả đã góp phần hiện lên
cái hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng tràn đầy hiểm nguy của thiên nhiên Tây Bắc. Nhưng
những khó khăn ấy không khiến họ chùn bước. Ở đoạn thơ, ta vẫn bắt gặp chút phảng
phất của một tâm hồn lãng mạn, hào hoa. Trong những đêm hành quân gian khổ, họ
vẫn nghĩ về hoa, về những mái nhà, từ đó thấy được tâm hồn trẻ trung, lạc quan,
không đầu hàng trước khó khăn của những người lính.
8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 12
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc nhưng thành
công nhất là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến
chống thực dân Pháp với một hồn thơ lãng mạn, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa,
được mệnh danh là nhà thơ của "Xứ Đoài mây trắng" với những tác phẩm nổi tiếng
như: " Mây đầu ô", "Thơ văn Quang Dũng"...Trong đó tiêu biểu là bài thơ "Tây Tiến".
Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc
họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên
nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi ...
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Bài thơ "Tây Tiến" ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một đơn vị quân đội
được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Việt -Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là
thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ
nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Quang Dũng là đại đội trưởng
ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh,
Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là "Tây Tiến".
Mở đầu bài thơ bằng những dòng thơ chan chứa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"
Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha
thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng từ láy "chơi vơi" kết hợp với hiệp
vần "ơi" mở ra một không gian vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm
xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm xúc
rất chân thực của một người đồng đội đã rời xa đơn vị để rồi nỗi nhớ như tràn đầy cả
không gian " Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi". Câu thơ có bảy từ thì có hai từ "nhớ".
Điệp từ "nhớ" như tô đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề
ban đầu của bài thơ tác giả đặt là " Nhớ Tây Tiến". Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại
trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết,
niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình, tất cả
trở thành kỉ niệm không thể nào quên.
Không phải khi đến với "Tây Tiến" người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay ở
trong thơ ca Việt Nam khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than"
Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ sáng tạo hơn cả với nỗi nhớ "chơi vơi" là
trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài
niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người đọc không thể
nào quên. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian và thời gian ấy Quang Dũng đã
đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm
thơ mộng. Đó là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, "Sài Khao",
"Mường Lát", "Pha Luông", "Mường Hịch", "Mai Châu". Những địa danh khi đi vào
thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà
gợi lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.
Văn mẫu 12: Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến
Không chỉ vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày "lấp" cả
đoàn quân, Quang Dũng dùng chữ "mỏi" như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời
tuy vậy họ vẫn đi trong " sương lấp" thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường
Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói "hoa nở" mà "hoa về"
không nói sương mà là "đêm hơi" như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào
hoa của những người lính Hà Thành.
Document Outline

  • Sơ đồ tư duy 8 câu đầu Tây Tiến
  • Dàn ý phân tích 8 câu đầu bài Tây Tiến
    • Dàn ý 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 1
    • Dàn ý 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 2
  • Phân tích Tây Tiến 8 câu đầu - Mẫu 1
  • Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến đạt điểm cao - Mẫu 2
  • Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 3
  • Phân tích 8 câu đầu bài Tây Tiến - Mẫu 4
  • Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 5
  • Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 6
  • Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 7
  • Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 8
  • Phân tích 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 9
  • 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 10
  • 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 11
  • 8 câu đầu Tây Tiến - Mẫu 12