







Preview text:
Phân tích 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều
ở lầu Ngưng Bích hay nhất 1. Bài tham khảo số 1
Nguyễn Du sống trong một thời đại đầy biến động. Lịch sử Việt Nam giai
đoạn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX vô cùng thối nát, mục ruỗng. Đời sống
nhân dân vì vậy mà vô cùng khổ cực và khổ nhất đó chính là những người
phụ nữ chân yếu tay mềm. Kiệt tác Truyện Kiều đã phản ánh được hiện thực
nghiệt ngã đó, lên tiếng tố cáo những bất công của xã hội và bênh vực người
phụ nữ. Đọc đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, người đọc cảm nhận được
tâm trạng cô đơn buồn tủi và tấm lòng thủy chung hiếu thảo của Thúy Kiều.
Điều này được thể hiện rõ trong tám câu thơ giữa trong đoạn trích.
Nỗi nhớ thương của Kiều được tác giả nói đến với hai nỗi nhớ chủ yếu : nhớ
người yêu và nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ già. Lúc này là sai khi gia đình
Kiều gặp cơn nguy biến. Do thằng bán tơ vu oan, cha và em Kiều bị bắt giam.
Để chuộc cha, Kiều quyết định bán mình. Tưởng gặp được nhà tử tế, ai dè bị
bắt vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự tử. Tú Bà - chủ quán lầu xanh vờ
hứa hẹn gả chồng cho nàng, đem nàng ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, sau
đó mụ sẽ nghĩ cách để bắt nàng phải tiếp khách làng chơi.
Trong haofn cảnh này, nàng đã nhớ tới người yêu và cha mẹ. Nguyễn Du đã
khéo léo để nàng Kiều nhớ Kim Trọng trước, cha mẹ sau. Bởi trước hết nó
phù hợp với quy luật tâm lí của tuổi trẻ. Hơn nữa, trong cơn gia biến, Kiều đã
hi sinh chữ tình vì chữ hiếu. Nàng đã bán mình chuộc cha, làm tròn đạo hiếu.
Với cha mẹ, nàng đã đền đáp được công ơn sinh thành và dưỡng dục cao
như núi, dài như bể của cha mẹ. Vì vậy nàng không còn gì phải ăn năn, day
dứt. Thế nhưng, còn với chàng Kim, nàng đã không làm tròn được lời thề
đính ước giữa chàng và nàng"
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Động từ tưởng thể hiện được nỗi nhớ buổi thề nguyền đính ước giữa chàng
và nàng. thúy Kiều tưởng tượng Kim Trọng đang nhớ về mình trong vô vọng.
Kiều nhớ về đêm trăng tình tự của Kim - Kiều với lời thể thủy chung, son sắt.
Nàng hình dung cảnh Kim Trọng đang ngày đêm thương nhớ mình, khắc
khoải chờ tin nàng. Bao nhiêu nhớ thương, bao nhiêu đau đớn kết lại trong
câu thơ. Có người nói rằng ở đây còn có cả nỗi tủi hổ của Kiều khi "tấm son"
đã bị cuộc đời làm cho nhơ nhuốc không sao gột rửa được. Vẫn biết Kiều là
người luôn có ý thức về bản thân, về nhân cách, về phẩm giá của mình. Cho
nên, khi được Mã Giám Sinh xem mặt, nàng mới có cải cảm giác ' troog
gương mặt dày". Nhưng trong câu thơ này, hiểu như thế e là chưa đúng, bởi
từ "gột rửa" mà Nguyễn Du dùng. Thường thì nghĩa của từ này là kì cọ, làm
cho sạch những vết bẩn dây vào, nhưng ở đây nhà thơ đã không dùng từ này
với nghĩa đó. Dưới hình thức của một câu hỏi, ông để cho Kiều tự khẳng định
sự thủy chung của mình, tấm lòng son - tình cảm thủy chung son sắt với
chàng Kim làm sao có thể gột rửa được đây. Chính là "gột rửa" đã khẳng
định một cách chắn chắn, đinh ninh về tình cảm thủy chung của Kiều dành
cho Kim Trọng. Hơn nữa, tới giờ phút Kiều bị đưa ra lầu Ngưng Bích, nàng
chưa làm gì phải tủi hổ với chàng Kim. Khi bị đưa ra lầu xanh, nàng đã quyết
lấy cái chết để bảo toàn danh tiết. Kiều đã rất đau đớn, xót xa khi nghĩ về Kim
Trọng, nhưng chắc nàng không có gì phải hổ thẹn với lòng mình lúc này.
Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ, nàng đã làm trọn đạo hiếu, nhưng không
vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém phần day dứt:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Khi viết về nỗi nhớ cha mẹ của Kiều, Nguyễn Du dùng từ xót. Từ này thể hiện
nỗi nhớ thương quặn lòng của một đứa con hiếu thảo. Nguyễn Du sử dụng
thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố Sân Lai, gốc tử để nói lên nỗi xót xa
của nàng khi cha mẹ đã già mà không được chăm sóc chu đáo. Còn gì xót xa
hơn khi nghĩ đến cha mẹ đã già mà vẫn phải nhớ thương, ngày đêm lo lắng
cho mình, vẫn tựa cửa chờ ngóng tin con. Là người con chí hiếu, Kiều đã
quyết "bán mình chuộc cha", nhưng giờ đây nơi nghìn trùng xa cách, nàng
vẫn không nguôi được nỗi nhớ thương, xót xa cho cha mẹ già. Ai sẽ thay mẹ
chăm sóc cha mẹ luôn là câu hỏi xoay sâu tăm can nàng.
Đoạn thơ đã miêu tả được tấm chân tình, vẻ đẹp cao cả của nhân vật Thúy
Kiều. Nói đến Kiều, người ta thường nói đến cái tài, cái sắc, nhưng chính cái
tình của Kiều đối với gia đình, đối với người yêu, đối với tất thảy mọi người
trong cuộc đời này mới là điều làm nên nhân cách cao đẹp của Kiều.
2. Bài tham khảo số 2
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của
ông gắn liền với tác phẩm "Truyện Kiều" - kiệt tác số một của văn học trung
đại Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc "Thúy Kiều" còn rất thành công
về nghệ thuật. Tiêu biểu là đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" và điển hình là
tám câu thơ giữa đã khắc họa một cách xúc động về nỗi nhớ người yêu, nhớ
bố mẹ của Thúy Kiều, qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của chính nhân vật.
Sau khi biết mình đã bị lừa vào chốn lầu xanh Kiều uất ức định tự vẫn. Tú bà
vì sợ mất vốn lẫn lời nên đã hứa đợi Kiều bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế
rồi mụ đưa Kiều ra lầu Ngưng bích, thực chất là giam lỏng nàng.
Thân gái một mình nơi đất khách quê người Kiều sống ở lầu Ngưng Bích với
tâm trạng cô đơn buồn tủi, trước mắt nàng chỉ là một không gian mênh mông
với non xa trăng gần, với những cồn cát bay mịt mù, còn thời gian thì tuần
hoàn khép kín không gian và thời gian ấy như giam hãm con người, khiến
nàng cảm thấy cô đơn buồn tủi đau đớn, tan nát cõi lòng.
Đầu tiên, Kiều nhớ đến Kim Trọng
Tưởng người dưới nguyệt chén đòng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chữ tưởng ở đây có nghĩa là hồi tưởng, nhớ lại. Nhớ về Kim Trọng là nhớ về
người yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ về lời thề đôi lứa. "chén đồng" là chén
rượu thề nguyện, đồng lòng, đồng dạ mà Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng vằng vặc:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh linh hai miệng một lời song song
Vầng trăng kia vẫn còn, chén rượu thề nguyện chưa ráo mà nay tình duyên
đã chia cắt đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.
Nhớ về Kim Trọng đau đớn hình dung là cảnh ở Liêu Dương xa xôi cách trở,
Kim Trọng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn hướng về
Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng bao nhiêu thì Kiều càng
thương cho số phận mình bấy nhiêu: Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Thương thân mình bơ vơ trên trời, góc bể, càng nuối tiếc cho mối tình đầu.
Câu thơ "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" có thể hiểu tấm son của Kiều đã
bị hoen ố, nàng không còn là một thiếu nữ phòng khuê, nhưng có thể hiểu
"tấm son" là tấm lòng thủy chung son sắc của nàng dành cho Kim Trọng
chẳng bao giờ nguôi ngoai. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn Kiều đã tạm để tấm
lòng mình lắng xuống và nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng
chung thủy của một người.
Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại càng chồng chất nỗi nhớ
thương cha mẹ, nên nhớ tới Kim Trọng nàng "tưởng" thì nhớ tới cha mẹ nàng "xót"
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Kiều xót xa khi bố mẹ đã già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con,
nàng còn xót xa bởi mình không tự tay chăm sóc được cha mẹ và hiện thời ai
là người chăm nom. Thành ngữ "Quạt nồng ấp lạnh" và điển cố "sân lai" "gốc
tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
Nhớ về cha mẹ còn tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, mà sự
đổi thay khiến nàng lo lắng nhất là "Có khi gốc tử đã vừa người ôm" nghĩa là
cha mẹ mỗi ngày thêm một già yếu nàng thì chẳng thể nào chăm sóc. Cụm từ
"cách mấy nắng mưa" vừa nói được thời gian xa cách qua bao mùa mưa
nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người
và cảnh vật, lần nào nhớ về cha mẹ Kiều cũng "nhớ ơn chín chữ cao sâu" và
luôn ân hận day dứt vì đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ.
Nỗi nhớ của nàng được gửi gắm vào chiều dài thời gian, chiều sâu không
gian bởi vậy mà càng thêm sâu xa. Đến đây ta hiểu tại sao trong nỗi nhớ
thương Kiều lại nhớ Kim Trọng trước, cha mẹ sau, phải chăng trong hai chữ
tình - chữ hiếu nàng đã tạm yên với chữ hiểu bởi khi bán mình chuộc cha,
Kiều đã phần nào đền đáp được công ơn sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ.
Còn với Kim Trọng trước khi về Liêu Dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng vào Kiều biết bao nhiêu.
Giữ vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây với trời.
Vậy là giờ đây, tấm thân Kiều đã bị hoen ố, nàng đã phụ bạc chàng Kim vì
thế nàng luôn ân hận, day dứt như một kẻ phụ tình. Nỗi đau ấy cứ xé tâm can
nàng khiến nàng luôn nhớ đến Kim Trọng, nhớ người yêu trước nhớ cha mẹ
sau, điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lý của Kiều. Đồng thời thể
hiện sự tinh thế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Du. Điều đáng chú
ý là dù trong hoàn cảnh cô đơn ở lầu Ngưng Bích là người đnág thương nhất
nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình thủy
chung, là người con rất mực hiếu thảo, thật đáng trân trọng biết bao.
Tóm lại, bằng việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những từ ngữ hình
ảnh tinh tế. Qua đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nói chung và tám câu thơ
trên nói riêng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công và thật xúc động nỗi nhớ
người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều. Qua đây cho thấy, Kiều không chỉ là
một cô gái tài sắc vẹn toàn mà còn là người thủy chung hiếu nghĩa. Đồng thời
đoạn thơ cho ta thấy được tấm lòng ngợi ca trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của
con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa.
3. Bài tham khảo số 3
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ. Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai,
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của
ông gắn liền với tác phẩm Truyện Kiều - kiệt tác số một của văn học trung đại
Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc "Thúy Kiều" còn rất thành công về
nghệ thuật. Với nghệ thuật tả người qua bút pháp ước lệ tương đương, tả
cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả và hợi thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân
vật cũng rất xuất sắc. Tiêu biểu là đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" và điển
hình là tám câu thơ trên đã khắc họa một cách xúc động về nỗi nhớ người
yêu, nhớ bố mẹ của Thúy Kiều, qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của chính nhân vật.
Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vì
sợ mất vốn lẫn lời nên đã hứa đợi Kiều bình phhujc sẽ gả nàng vào nơi tử tế
rồi mụ đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng. Thân gái
một mình nơi đất khách quê người, Kiều sống ở lầu Ngưng Bích với tâm
trạng cô đơn buồn tủi. Trước mắt nàng chỉ là một không gian mênh mông với
non xa trăng gần, với những cồn cát bụi bay mù mịt, còn thời gian thì tuần
hoàn khép kín không gian và thời gian ấy như giam hãm con người, khiến
nàng cảm thấy cô đơn buồn tủi, tan nát cõi lòng.
Đầu tiên, Kiều nhớ đến Kim Trọng.
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chữ tưởng ở đây có nghĩa là hồi tưởng, nhớ lại. Nhớ về Kim Trọng là nhớ về
người yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ về lời thề đôi lứa. "Chén đồng" là chén
rượu thề nguyền, đồng lòng, đồng dạ mà Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng vằng vặc.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh linh hai miệng một lời song song
Vầng trăng kia vẫn còn, chén rượu thề nguyền chưa ráo mà nay tình duyên
đã chia cắt đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.
Nhớ về Kim Trọng đau đớn hình dung là cảnh ở Liêu Dương xa xôi, cách trở,
Kim Trọng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn hướng về
Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng bao nhiêu thì Kiều càng
thương cho số phận mình bấy nhiêu Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Thương thân mình bơ vơ trên trời, góc bể, càng nuối tiếc cho mối tình đầu.
Câu thơ "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai" có thể hiểu tấm son của Kiều đã
bị hoen ố, nàng không còn là một thiếu nữ phòng khuê, nhưng cũng có thể
hiểu "tấm son" là tấm lòng chung thủy son sắc của nàng dành cho Kim Trọng
chẳng bao giờ nguôi ngoai. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn Kiều đã tạm để tấm
lòng mình lắng xuống và nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng
chung thủy của một người.
Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại càng chồng chất nỗi nhớ
thương cha mẹ, nên nhớ tới Kim Trọng nàng "tưởng" thì nhớ tới cha mẹ nàng "xót"
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Kiều xót xa khi bố mẹ đã già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con,
nàng còn xót xa bởi mình không tự tay chăm sóc được cha mẹ và hiện giờ ai
là người chăm nom. Thành ngữ "Quạt nồng ấp lạnh" và điển cố "Sân Lai"
"Gốc Tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều.
Nhớ về cha mẹ còn tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, mà sự
đổi thay khiến nàng lo lắng nhất là "Có khi gốc tử đã vừa người ôm" nghĩa là
cha mẹ mỗi ngày thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể nào chăm sóc.
Cụm từ "cách mấy nắng mưa" vừa nói được thời gian xa cách qua bao mùa
nắng mưa vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con
người và cảnh vật, lần nào nhớ về cha mẹ Kiều cũng "nhớ ơn chín chữ cao
sâu" và luôn ân hận day dứt vì đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha
mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi gắm vào chiều dài thời gian, chiều sâu
không gian bởi vậy mà càng thêm sâu xa. Đến đây ta hiểu tại sao trong nỗi
nhớ thương Kiều lại nhớ Kim Trọng trước, cha mẹ sau, phải chăng trong hai
chữ tình - hiếu nàng đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha
Kiều đã phần nào đền đáp được công ơn sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ.
Còn với Kim Trọng trước khi về Liêu Dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng vào Kiều bao nhiêu.
Giữ vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây với trời
Vậy là giờ đây, tấm thân Kiều đã bị hoen ố, nàng đã phụ bạc chàng Kim, vì
thế nàng luôn ân hận, day dứt như một kẻ phụ tình. Nỗi đau ấy xé tâm can
nàng khiến nàng luôn nhớ đến Kim Trọng, nhớ người yêu trước nhớ cha mẹ
sau, điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lý của Kiều. Đồng thời thể
hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Kiều. Điều đáng lưu ý là dù
trong hoàn cảnh cô đơn ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất
nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình thủy
chung, là người con rất mực hiếu thảo, thật đáng trân trọng biết bao.
Tóm lại, bằng việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những từ ngữ hình
ảnh tinh tế. Qua đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nói chung và tám câu thơ
trên nói riêng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công và thật xúc động nỗi nhớ
người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều. Qua đây cho thấy, Kiều không chỉ là
một cô gái tài sắc vẹn toàn mà còn là người thủy chung hiếu nghĩa. Đồng thời
đoạn thơ cho ta thấy được tấm lòng ngợi ca trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của
con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa.
4. Cảm nhận về 8 câu thơ giữa Kiều ở lầu Ngưng Bích
Trong bài thơ "Kiều ở lầu Ngưng Bích", tám câu thơ giữa đã thể hiện tâm
trạng nhớ nhung Kim Trọng và gia đình cùng hoàn cảnh tội nghiệp đáng
thương của Kiều ở nơi đất khách quê người. Hai câu thơ "Tưởng người dưới
nguyệt chén đồng/Tin sương luống những rày trông mai chờ" tái hiện kỷ niệm
đôi lứa từng được cùng Kim Trọng uống rượu dưới ánh trăng vằng vặc. Đó là
nỗi nhớ tình đầu đậm sâu của mình. Nhớ về chàng Kim, Kiều nhớ về chén
rượu thề nguyền đính ước, minh chứng tình yêu đẹp đẽ của họ dưới ánh
trăng. Dù cho Kiều đã trao duyên cho em mình nhưng có lẽ nàng Kiều vẫn
chưa thể quên đi tình yêu của mình. Nàng còn lo sợ cho chàng Kim chờ
mong tin tức của mình trong vô ích. Càng thương nhớ chàng Kim bao nhiêu
thì hai câu thơ tiếp theo thể hiện sự xót thương của Kiều cho chính số phận,
cuộc đời mình "Bên trời góc bể bơ vơ/Tấm son gột rửa bao giờ cho phai".
Kiều không chỉ thương cho số phận ba chìm bảy nổi bơ vơ tội cùng của mình
mà còn thương cho sự trong trắng, trinh bạch của đời mình đã bị phá hủy,
không thể gột sạch được. Hình ảnh "tấm son" là hình ảnh ẩn dụ của tấm lòng
trinh bạch của Kiều, nay đã chẳng thể trở về sự trong trắng nguyên vẹn, ấm
êm ngày xưa. Cuối cùng, 4 câu thơ còn lại đó chính là nỗi nhớ thương của
Kiều dành cho bố mẹ mình
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Hình ảnh "người tựa cửa" đó là hình ảnh của bố mẹ mà Kiều đang tưởng
tượng đang đứng trông chờ nàng về. Hình ảnh "quạt nồng, ấp lạnh" và câu
hỏi tu từ cho thấy nỗi lo lắng, bận tâm của Kiều về việc ai sẽ chăm sóc cho bố
mẹ thay nàng. Nhớ về bố mẹ, ta thấy được nỗi đau đớn, xót xa của nàng
Kiều khi giờ đây, bố mẹ chẳng có ai để ủ ấm chăn vào mùa đông và quạt mát
cho bố mẹ vào mùa hè nữa. Hai câu thơ "Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có
khi gốc tử đã vừa người ôm" có sử dụng điển tích "Sân Lai, gốc tử" cho thấy
tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ nơi quê nhà. Hình ảnh "cách mấy
nắng mưa" cho thấy sự cách biệt cha mẹ ở cả không gian và thời gian của
Kiều. Oử nơi đất khách quê người, nàng không chỉ lo lắng cho cha mẹ mà
còn cảm thấy đau đớn tột cùng, xót xa cho chính mình. Tóm lại, tám câu thơ
giữa bài đã cho thấy tâm trạng đau đớn, xót xa đến tột cùng của nàng Kiều ở
nơi đất khách quê người.
Document Outline
- Phân tích 8 câu thơ giữa trong đoạn trích Kiều ở l
- 1. Bài tham khảo số 1
- 2. Bài tham khảo số 2
- 3. Bài tham khảo số 3
- 4. Cảm nhận về 8 câu thơ giữa Kiều ở lầu Ngưng Bíc