Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm | Văn mẫu lớp 12
TOP 26 mẫu phân tích 9 câu đầu của bài thơ Đất nước siêu hay dưới đây sẽ là người bạn đồng hành hỗ trợ cho các em trau dồi vốn kiến thức của mình và hoàn thiện bài khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Dàn ý Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước Dàn ý mẫu 1 I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu đoạn trích II. Thân bài:
a. Luận điểm 1: Đất nước có từ bao giờ?
- Câu thơ đầu tiên chính là câu trả lời cho câu hỏi ấy:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Đất Nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó vỡi mỗi con người, ở trong mỗi
con người từ khi phôi thai. Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”
- Tác giả cảm nhận đất nước bằng chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống đời
thường của mỗi con người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” à gợi những bài học về
đạo lí làm người qua các câu chuyện cổ tích thấm đượm nghĩa tình.
b. Luận điểm 2: Quá trình hình thành đất nước?
- Bắt đầu với phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà thân thuộc, gợi câu chuyện
về sự tích trầu cau, nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung.
- Hình ảnh “cây tre” còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng
năng, chịu thương, chịu khó. “Lớn lên” nghĩa là nói quá trình trưởng thành của Đất
Nước, nói lớn lên trong chiến tranh nghĩa là nói truyền thống chống giặc kiên cường, bền bỉ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Tập quán bới tóc sau đầu để chú tâm làm việc, gợi câu ca dao bình trị dạt dào thương
nhớ. Nhắc nhở về tình cảm vợ cồng sắc son, sâu nặng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.
- Tái hiện nền văn hóa nước ta chỉ bằng một câu thơ đơn sơ nhưng đầy dụng ý:“Hạt
gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê, cùng cách ngắt
nhịp liên tục thể hiện truyền thống lao động cần cù, cách ăn cách ở trong sinh hoạt.
- Nguyễn Khoa Điềm thâu tóm tất cả bằng một tư tưởng duy nhất: “Đất Nước có từ
ngày đó…”. Dấu “…” cuối câu chính là biện pháp tu từ im lặng, lời dẫu hết nhưng ý
vẫn còn, vẫn nung nấu và sục sôi.
=>Đất nước được hình thành gắn liền với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán cảu
người Việt Nam, gắn liền với đời sóng gia đình. Những gì làm nên Đất Nước cũng đã
kết tinh thành linh ồn dân tộc. Đất Nước vì thế hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính lại gần gũi thiết tha. III. Kết bài: - Khái quát vấn đề Dàn ý mẫu 2 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm, đoạn thơ Đất nước và 9 câu thơ đầu. 2. Thân bài
"Khi ta lớn lên, đã có rồi": Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong
chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước.
"Ngày xửa ngày xưa, mẹ thường hay kể": những câu chuyện cổ tích, những bài học
đạo lí làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng → góp phần tạo nên Đất nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
"Miếng trầu": phong tục ăn trầu của dân gian gắn với ta nhiều đời nay và gợi nhớ sự tích Trầu cau.
"Biết trồng tre mà đánh giặc": gợi nhớ truyền thống chống giặc ngoại xâm và truyền
thuyết đầy tự hào của người Việt và truyền thuyết về người anh hùng Thánh Gióng.
"Tóc mẹ bới sau đầu": những phong tục lâu đời của người Việt, người phụ nữ để tóc dài và bới lên.
"Cha mẹ, gừng cay muối mặn": gắn với câu ca dao của dân tộc, nói về tình cảm thủy chung của người Việt.
"Cái kèo, cái cột, hạt gạo, xay, giã, giần, sàng": những vật quen thuộc trong đời sống
hằng ngày của người Việt Nam gắn với lao động sản xuất và nền văn minh lúa nước.
→ Đất Nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi
người: câu chuyện cổ tích của mẹ, miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở....
"Đất Nước có từ ngày đó": Đất Nước có từ khi dân mình biết yêu thương, sống tình
nghĩa, từ ngày dân tộc có nền văn hóa riêng, từ khi dân mình biết dựng nước và giữ
nước, từ trong cuộc sống hằng ngày của con người.
→ Sự cảm nhận về chiều sâu của lịch sử của Đất Nước thể hiện ngay trong đời sống
hằng ngày của nhân dân. Đất Nước được hình thành từ những gì nhỏ bé, gần gũi trong
cuộc sống của mỗi con người, từ bề dày của truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. 3. Kết bài
Tổng kết về nội dung, nghệ thuật và nêu cảm nhận về đoạn trích. Dàn ý mẫu 3 A. Mở bài:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, trường ca Mặt đường khát vọng và chương Đất nước.
- Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ với
phong cách thơ mang đậm chất trữ tình chính luận.
- “Đất Nước” được trích từ chương V, trường ca Mặt đường khát vọng, sáng tác trong
thời kỳ chiến trường Miền Nam vô cùng ác liệt. “Đất Nước” ra đời với mục đích khơi
gợi tình yêu nước thẳm sâu, kêu gọi giới trẻ miền Nam hòa mình vào cuộc chiến của dân tộc. B. Thân bài:
- Luận điểm 1: Đất nước có từ bao giờ?
+ Câu thơ đầu tiên chính là câu trả lời cho câu hỏi ấy: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có
rồi” Đất Nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, gắn bó với mỗi con người, ở trong
mỗi con người từ khi phôi thai. Thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”
+ Tác giả cảm nhận đất nước bằng chiều sâu văn hóa - lịch sử và cuộc sống đời
thường của mỗi con người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” à gợi những bài học về
đạo lý làm người qua các câu chuyện cổ tích thấm đượm nghĩa tình. - Luận điểm 2:
Quá trình hình thành đất nước?
+ Bắt đầu với phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà thân thuộc, gợi câu chuyện
về sự tích trầu cau, nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung.
+ Hình ảnh “cây tre” còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng
năng, chịu thương, chịu khó. “Lớn lên” nghĩa là nói quá trình trưởng thành của Đất
Nước, nói lớn lên trong chiến tranh nghĩa là nói truyền thống chống giặc kiên cường, bền bỉ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
+ Tập quán bới tóc sau đầu để chú tâm làm việc, gợi câu ca dao bình trị dạt dào
thương nhớ. Nhắc nhở về tình cảm vợ chồng sắc son, sâu nặng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.
+ Tái hiện nền văn hóa nước ta chỉ bằng một câu thơ đơn sơ nhưng đầy dụng ý: “Hạt
gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê, cùng cách ngắt
nhịp liên tục thể hiện truyền thống lao động cần cù, cách ăn cách ở trong sinh hoạt.
+ Nguyễn Khoa Điềm thâu tóm tất cả bằng một tư tưởng duy nhất: “Đất Nước có từ
ngày đó…”. Dấu “…” cuối câu chính là biện pháp tu từ im lặng, lời dẫu hết nhưng ý
vẫn còn, vẫn nung nấu và sục sôi.
=> Đất nước được hình thành gắn liền với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của
người Việt Nam, gắn liền với đời sống gia đình. Những gì làm nên Đất Nước cũng đã
kết tinh thành linh hồn dân tộc. Đất Nước vì thế hiện lên vừa thiêng liêng, tôn kính lại gần gũi thiết tha. C. Kết bài:
Giọng thơ trữ tình chính luận, khi căng, khi chùng, khi tha thiết, khi lại cuồn cuộn nỗi
niềm, đã thể hiện được tinh thần chủ đạo của bài thơ thông qua các chất liệu văn hóa,
văn học dân gian: “Đất Nước của nhân dân”. Vì vậy, đoạn thơ không chỉ trữ tình mà đầy sức chiến đấu.
Sơ đồ tư duy 9 câu đầu Đất nước
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích Đất nước 9 câu đầu - Mẫu 1
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
“Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều”
Quê Hương, Đất Nước , hai tiếng giản đơn thân thuộc mà luôn chạm vào đáy sâu tâm
hồn con người mỗi khi nhắc đến. Mỗi vần thơ ngợi ca đất nước – quê hương đều
khiến trái tim ta ngân lên những giai điệu tự hào, phấn chấn. Đó là một đất nước mang
« hình tia chớp » trong thơ Trần Mạnh Hảo, một Đất nước bền gang bất khuất « rũ
bùn đứng dậy sáng lòa » trong thơ Nguyễn Đình Thi, một đất nước « Sống vững chãi
bốn ngàn năm sừng sững - Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa » trong cái nhìn của
Huy Cận. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ
đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân
ca hay một tiếng thơ cổ điển... Mà trên hết, đó là một tình yêu chân thật, nồng nàn và
một ý thức tự tôn dân tộc, gắn sứ mệnh của mình với vận mệnh của non sông. Cùng
viết về đề tài này, ở đoạn thơ “Đất Nước” (trích trong chương V trường ca “Mặt
đường khát vọng”), Nguyễn Khoa Điềm đã chọn một lối đi riêng đem đến cho người
đọc những trải nghiệm mới mẻ, độc đáo trong cách lí giải về đất nước. Điều đó thể
hiện rõ nét qua đoạn thơ sau :
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi …
Đất Nước có từ ngày đó…”
Tác phẩm được trích từ Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết năm 1971 tại chiến
khu Trị - Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang ở giai đoạn cam
go, ác liệt nhất. Với giọng thơ thủ thỉ tâm tình vừa nồng nàn tha thiết vừa suy tư sâu
lắng, thi sĩ đã lí giải về Đất Nước thật giản dị, mộc mạc, gần gũi mà thú vị, đầy bất
ngờ. Từng dòng thơ như thức tỉnh ý thức trách nhiệm của thế hệ trẻ về tinh thần yêu
nước, sẵn sàng đứng dậy đấu tranh để bảo vệ tổ quốc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Nếu hai tiếng « quê hương » gợi trong ta những xúc cảm dịu dàng, gợi về miền nhớ
miền thương với sự gần gũi quê mùa như những câu thơ đậm chất đồng nội của nhà
thơ Đỗ Trung Quân : Quê hương là chùm khế ngọt, Quê hương là vàng hoa bí/ Là
hồng tím giậu mồng tơi/ Là đỏ đôi bờ dâm bụt… thì hai từ Đất Nước lại gợi ra cái
thâm nghiêm, kì vĩ, cái hoành tráng , kiêu hùng trong lòng người. Nhưng thật lạ kì khi
ta bắt gặp những vần thơ trong « Đất Nước » của Nguyễn Khoa Điềm, cái cảm giác
gần gũi thân thuộc của mùi rơm rạ, của sắc áo nông dân, của bờ tre giếng nước quê
hương cứ ăm ắp đầy lên, mơn man và dịu ngọt biết mấy.
Bằng giọng thơ thủ thỉ trò chuyện trong vai trò của lớp người anh đi trước, Nguyễn
Khoa Điềm đã khéo léo « giác ngộ » cho người em về ý thức trách nhiệm với Đất
Nước. Từng lời giải thích nhẹ nhàng tự nhiên như lời ăn tiếng nói thường ngày mà gợi
nhiều suy tư sâu lắng. Hẳn người em sẽ không cảm thấy nặng nề khó hiểu :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Có lẽ em chưa hiểu rằng đất nước có từ bao giờ, hoặc cũng có thể câu hỏi đó là điểm
xuất phát mà Nguyễn Khoa Điềm chọn để bắt đầu cho một câu chuyện dài về Đất
Nước. Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì : Đất nước là một giá trị lâu
bền, vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền
nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn
Khoa Điềm – Tác giả và Tác phẩm). Cách nói ấy đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về
sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và
Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Hiểu Đất Nước phải đi từ
cội nguồn của bốn nghìn năm trước. Nhưng khác với tư duy thông thường, câu trả lời
của nhà thơ không phải là một mốc thời gian cụ thể nào mà đưa em vào không gian cổ
xưa huyền thoại, để rồi tự em sẽ cảm nhận được cả chiều dài lịch sử và bề dày của văn hóa quê hương :
“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Các mốc thời gian hình thành nên Đất Nước như thời điểm ra đời, bắt đầu xây dựng
và lớn lên, tất cả đều được nhà thơ hình ảnh hóa, cổ tích hóa bởi những thứ thật gần
gũi, thân thương. Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để giải thích sự ra đời của
Đất Nước bằng một cách diễn đạt thật lạ. “Đất Nước có trong những cái ngày xửa
ngày xưa mẹ thường hay kể”. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời kể “Ngày
xửa ngày xưa” của bà của mẹ… Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời; Đất Nước có
từ trước khi những câu chuyện cổ ra đời và hiện hữu ngay trong những câu chuyện cổ
tích mà em đã thuộc nằm lòng. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở
ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn nhân hậu, bao dung của
con người nước Việt. Thật đáng trân trọng biết bao !
Đất Nước cũng có những ngày đầu phát triển bình dị và tự nhiên như « miếng trầu bây
giờ bà ăn »- một miếng trầu nhỏ bé đơn sơ thôi nhưng gọi về cả nền văn hóa bốn
nghìn năm của lịch sử dân tộc. Miếng trầu là hiện thân của lịch sử, hiện thân của
những giá trị văn hóa đẹp đẽ còn tồn tại đến ngày nay. Đó là minh chứng cho tục ăn
trầu từ nghìn đời “ miếng trầu là đầu câu chuyện” “Miếng trầu nên dâu nhà người”, là
minh chứng cho tấm lòng thủy chung son sắt, trọng tình trọng nghĩa của hai anh em
họ Cao và nàng Lưu thị trong “ Sự tích trầu cau”. Quả thật, chỉ một hình ảnh giản dị là
thế mà sức gợi vô cùng!
Cách dùng từ giản đơn “Đất Nước lớn lên” khiến ta có cảm giác Đất Nước như một cơ
thể sống, được nuôi dưỡng bằng nền văn hóa phong phú đẹp đẽ, nhưng cũng trải qua
bao thử thách : ‘Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo/ Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn
chập chờn’ (Nguyễn Việt Chiến). Và Đất Nước ấy vẫn lớn lên theo kinh nghiệm «
trồng tre mà đánh giặc, chủ động, cảnh giác trước quân thù. Cách nói gợi liên tưởng
sâu sắc đến chiều dài lịch sử giữ nước của dân tộc, nhắc người em nhớ đến truyền
thống đánh giặc của quê hương với hình ảnh vị Phù Đổng Thiên vương nhổ tre làm vũ
khí quét sạch bóng quân thù. Rồi Tre mọc bạt ngàn trên khắp quê hương như thành
như lũy vây chắn bước chân giặc ngoại xâm. Nó như là sự đồng hiện những phẩm
chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu
chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Hình ảnh thân
thương mà thể hiện ý chí bền gan, bất khuất ấy đã trường tồn cùng Đất Nước từ thủa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
sơ khai đã chạm đến trái tim của người em, làm sống dậy một lòng yêu nước và tự hào
về truyền thống văn hóa, truyền thống đánh giặc của quê hương.
Ai đó đã từng nói “Quê hương là nơi chân ta có thể rời đi nhưng tim ta vẫn mãi ở đó”.
Thật vậy, bởi đó là mảnh đất êm dịu dung dưỡng tâm hồn ta, nhắc ta nhớ về nguồn cội,
giống nòi. Ở đó có mẹ cha ta, có những kỉ niệm tuổi thơ ta ngọt ngào, sâu lắng :
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên”
Còn gì thân thiết hơn, cảm xúc hơn hình ảnh người mẹ trong tim ta. Nét đẹp bình dị
chân quê, không phấn son điểm trang, không trau chuốt lụa là, mà chỉ đơn giản trong
chiếc áo bà ba đã ngả màu, ống quần luôn xắn lên cao, còn mái tóc lúc nào cũng búi
lên gọn gàng sau đầu khi làm việc... hình ảnh đó dẫu đơn sơ nhưng lại trở thành biểu
tượng văn hóa Việt, nét đẹp Việt, khiến lòng ta ngập tràn thương mến.
Nét đằm thắm dịu dàng cùng tấm lòng thủy chung son sắt trong nghĩa vợ tình chồng
đã làm nên vẻ đẹp rất riêng của người phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo
léo tôn lên vẻ đẹp ấy chỉ với vài nét chấm phá, chọn lọc tinh tường bằng một giọng
thơ vừa khẳng định đinh ninh, vừa tự hào sâu sắc. Câu thơ cũng đưa ta về miền văn
hóa Kinh Bắc xưa với những câu ca đậm tình đậm nghĩa như thế :
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ
nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời.
Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy
luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy.
Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho
người đọc nhớ đến tục dựng nhà của người Việt xưa. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo
cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ.
Cái kèo, cái cột bởi thế cũng trở thành quen thuộc, gắn bó với mỗi thành viên trong
gia đình, thậm chí, nó còn trở thành những cái tên mộc mạc, giản đơn đi suốt cuộc đời một con người.
Không chỉ đằm thắm thủy chung trong tình cảm gia đình, người dân ta cũng còn mang
những vẻ đẹp tuyệt vời trong lao động, tăng gia sản xuất :
“Hạt gạo cũng phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng…”
Câu thơ sử dụng hàng loạt các động từ chỉ hoạt động lao động làm ra hạt lúa của
người nông dân « xay, giã, dần, sàng », kết hợp với thành ngữ « một nắng hai sương »
đã làm nổi bật sự sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày đầu của nền văn
minh lúa nước, khi nông nghiệp còn lạc hậu, nghèo nàn. “Cày đồng đang buổi ban
trưa/Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày/ Ai ơi bưng bát cơm đầy/ Dẻo thơm một
hạt đắng cay muôn phần”.
“Đất Nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao” đã hiện hữu trong thơ Nguyễn Khoa
Điềm thật giản dị, dễ hiểu. Khép lại dòng cảm hứng lí giải Đất Nước có từ bao giờ là
một câu khẳng định thật tự nhiên :
“Đất Nước có từ ngày đó…”.
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày bắt đầu của
những truyền thống, phong tục tập quán, ngày bắt đầu của nền văn hiến, ngày bắt đầu
của những truyền thống, đạo lí mang bản sắc quê hương….Câu thơ ngắn gọn, kết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
đọng dòng cảm xúc đang tuôn chảy theo chiều dài lịch sử, găm vào lòng người đọc biết bao suy tưởng !
Trong 9 câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng một cách linh hoạt, độc đáo chất liệu dân gian:
ca dao dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích… không chỉ tạo cảm giác gần gũi quen
thuộc mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Từ “Đất Nước” được viết hoa và
lặp lại 5 lần thể hiện sự thành kính, nâng niu, trân trọng của nhà thơ. Với câu từ giản
dị, đời thường, không có một từ pha tạp, vay mượn, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên
những vần thơ tự do dạt dào cảm xúc, kết hợp với chất giọng thủ thỉ tâm tình như một
điệu ru dễ đi vào lòng người. Nhưng chuyển tải mạch cảm xúc ấy là một lối lập luận
chặt chẽ: tổng - phân - hợp. Chính sự kết hợp hài hoà giữa chính luận và trữ tình, giữa
trí tuệ và cảm xúc bay bổng đã làm nên nét riêng trong phong cách thơ Nguyễn Khoa
Điềm giữa rừng thơ Đất Nước.
Tóm lại, qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng chừng như đã
ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân Việt, qua chiều sâu văn hóa, sinh hoạt Nguyễn
Khoa Điềm đã có một phát hiện mới mẻ, độc đáo, một cảm nhận vô cùng sâu sắc: Đất
Nước hiện lên trong thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt, trong cuộc sống sinh
hoạt từ bao đời. Đất Nước hiện lên gắn liền với những phong tục tập quán với lối sống,
nếp nghĩ, qua kho tàng văn học dân gian, qua bản sắc văn hoá... Đó là một Đất Nước
không trừu tượng mà cụ thể, chứa đựng mơ ước, khát vọng, quan niệm về vẻ đẹp
phẩm chất của tâm hồn dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiện lên thật sống động, lung
linh: trong cuộc sống, trong lao động và trong chiến đấu.. Đọc đoạn thơ nói riêng và
bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm
vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê
hương Tổ quốc mình.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước học sinh giỏi - Mẫu 2
Đất nước là một trong những đề tài muôn thuở gắn với sự thành công của nhiều cây
bút trong các thời kỳ, nhất là thời kì kháng chiến. Ta không sao quên được hình ảnh
đất nước hóa thân vào trong “mảnh hồn quê Kinh Bắc”, đất nước đã bị dày xéo dưới
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
chân của bọn giặc ngoại xâm trong khung cảnh thơ của Hoàng Cầm hay hình ảnh một
đất nước nhỏ bé, với đau thương mà anh hùng, bất khuất “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
trong thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, lại
có khám phá mới về đất nước của ca dao, thần thoại khi đoạn trích Đất nước nằm
trong chương năm của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Với hình tượng trung tâm
là đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cho độc giả thấy được nhiều những tư
tưởng mới mẻ của mình trong hành trình lí giải về cội nguồn mà đất nước mà đặc biệt
là trong chín câu thơ đầu bài:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nới lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, hình tượng đất nước luôn có
một vị trí đặc biệt, là hình tượng cao quý, với ẹp đẽ nhất trong thơ văn. Macxen Prust:
“Một cuộc thám hiểm không phải là ở chỗ cần một vùng đất mới mà ở chỗ cần một
đôi mắt mới”. Bởi thế mà cũng với mỗi một điểm nhìn khác nhau thì đất nước lại có
một vẻ đẹp, hình dáng khác, hiện lên đất nước hiện lên với muôn hình vạn trạng trong
con mắt nhà thơ. Nếu như các nhà thơ cùng thời chọn điểm nhìn cùng cảm hứng về
đất nước từ lịch sử đã thông qua các triều đại như:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
Hay những hình ảnh vô cùng mỹ lệ, đẹp đẽ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca
Thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn cho bản thân mình một điểm nhìn vô cùng mới mẻ,
bình dị, thân quen mà qua đó đất nước cũng đã hiện lên không kém phần tươi đẹp.
Với cấu trúc tổng phân hợp mang đậm phong cách chính luận, tác giả Nguyễn Khoa
Điềm đã thể hiện những suy tư cùng với những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và
trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương và tổ quốc.
Mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đưa ta vào câu chuyện về sự hình thành
của Đất nước mà cũng đã theo đó Đất nước có từ những gì quen thuộc, gần gũi nhất.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Câu thơ được mở đầu tự nhiên như một lời kể, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để hình
dung ra sự tồn tại của chính Đất nước trong nhận thức với chính tình cảm con người.
Theo đó, “Đất Nước đã có từ rất lâu, từ khi mà “ta” cất lên tiếng khóc chào đời, lớn
lên thì đất nước đã có và tồn tại cùng với chính “ta”. “Ta” ở đây phải chăng là anh, là
chị, là những con người còn sống hay đã chết, là ta của quá khứ hay của tương lai, là
cái chung của người dân tộc. Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” vang lên đầy tự hào, khi
nó giống như một lời khẳng định về nhiều sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn
năm lịch sử đã dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã được Nguyễn Trãi đã nhắc đến:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đến hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể sự hình thành của Đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Truy tìm về nơi cội nguồn của đất nước, khó có ai có thể xác định rõ ràng, minh bạch
về sự khởi thuỷ của những hình tượng này. Với Nguyễn Khoa Điềm thì Đất nước
cũng được hình thành từ những nét sống giản dị nhất của người mẹ và chính người bà.
Sau trạng từ chỉ thời gian”ngày xửa ngày xưa”, khiến người đọc đã hình dung ra biết
bao kỉ niệm về tuổi thơ cùng với những nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh
Gióng… Từ những câu chuyện đó với hình ảnh Đất nước hiện lên thật đẹp đẽ, thơ
mộng. Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho mỗi người đọc về truyền thống tốt đẹp
của dân tộc khi hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với nét đẹp của những người phụ nữ
Việt xưa. Từ nét đẹp đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải về sự “bắt đầu” của Đất
nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” với biểu tượng cho tấm lòng thành của con
cháu gửi đến khi những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu tượng của phẩm của sự
chất thuỷ chung trong cốt cách con người Việt Nam xưa và nay và bên cạnh đó, hình
ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử của tình yêu”miếng trầu nên dâu nhà
người”. Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành với khi của đất nước qua quá trình đấu tranh
khiến dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì
những nhà thơ nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có dáng, có hồn, vẻ
đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật. Hình ảnh “trồng tre mà đánh giặc” với sự gợi
cho ta về truyền thuyết một cậu bé mới ba tuổi đã biết cất tiếng khi nói trách nhiệm
với quê hương, cho chính tổ quốc đó là Thánh Gióng, một biểu tượng cho cốt cách
con người Việt, kiên cường, đúng nên mạnh mẽ trong đấu tranh chống lại cái ác. Hình
tượng đó đã được nhà thơ Tố Hữu đưa vào thơ của mình:
Ta thuở xưa như thần Phù Đổng
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.
Hình ảnh cây tre đại diện cho cốt cách ngay thẳng không chịu bất khuất của con người Việt Nam:
Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi.
Nguyễn Khoa Điềm cũng đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với
nhau. Đó là sự đồng hiện trong cốt cách, một phẩm chất của con người Việt Nam như
thật thà, chất phát, đôn hậu thuỷ chung, khi yêu hoà bình nhưng lại vô cùng kiên
cường trong chiến đấu.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những truyền thống,
vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của chính con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Có phải chăng hình tượng của người mẹ và người phụ nữ với búi tóc sau đầu đã làm
sáng tỏ sự kín đáo, rất nhẹ nhàng mà chân chất trong cách ăn mặc của con người Việt
Nam. Nét đẹp của những người phụ nữ ấy khiến ta liên tưởng đến câu thơ:
Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh
Vẻ đẹp của con người Việt còn ở khi chính phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách của
mình. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng sự vô cùng độc đáo, nhẹ
nhàng mà thấm đẫm với câu thơ. Gừng thì tất nhiên phải cay, cả muối tất nhiên phải
mặn, đó là nguyên lý của chính tạo hoá cũng như tình cảm của những người vợ chồng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
luôn đong đầy và với sự không lay chuyển. Nó gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người
với người là:“Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.” con người ở với
nhau càng lâu thì sẽ càng tình cảm càng đong đầy. Ý câu thơ được lấy ra từ chính câu ca dao:
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
“Cái kèo, cái cột thành tên” gợi lên cho ta nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt xưa.
Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình đoàn tụ, mang đến những sự ấm áp, hạnh
phúc.. Có lẽ bởi vậy mà tục đặt tên cho con là “kèo”, là “cột” ra đời, khi vừa giản dị
lại gần gũi và cũng tránh được sự dòm ngó của ma quỷ theo quan niệm xưa.
Không những vậy, khi con người Việt Nam còn mang trong mình phẩm chất cần cù,
chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ những sự chịu thương chịu khó của
ông cha ta trong lao động. Các động từ “xay”, “giã” và “dần”, “sàng” là các công đoạn
làm ra hạt gạo, qua đó tác giả Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc người đọc cần phải biết
trân trọng những hạt cơm ta đã ăn hằng ngày vì đó là vào mồ hôi công sức của những người nông dân:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Câu thơ cuối cùng chính là một lời khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về cội nguồn của Đất nước:
Đất Nước có từ ngày đó…
“Ngày đó” là cái ngày mà ta có truyền thống, đã có văn hoá. Vậy nên, muốn yêu nước
thì trước hết ta phải yêu văn hoá, với truyền thống của dân tộc mình. Thật đáng trân
quý, nâng niu biết bao lời thơ dung dị, sự nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ với sự trên là nhờ vào việc vận dụng đặc sắc, khéo léo các
thi liệu dân gian, cùng những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
hoa chữ Đất nước để thể hiện sự thành kính, thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một đoạn
thơ đậm chất với nền văn hoá người Việt và sự thành kính đối với đất nước. Ngôn ngữ
mộc mạc, giản dị, cả những lời thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lý.
Đoạn trích trên cũng đã thể hiện được những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt
của tác giả về quê hương và đất nước. Qua đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên
trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc cùng Pautopxki từng nói: “Niềm vui của
nhà thơ chân chính là những niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải
chăng tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến
đất nước, để rồi khi Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc
đoạn trích Đất nước ta được khám phá chính một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó
bản thân ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của
chúng ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất
nước, và góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.
Phân tích 9 câu đầu của bài thơ Đất nước - Mẫu 3
Cảm hứng về đất nước, về với tầm vóc đáng tự hào của nó là một cảm hứng vốn quen
thuộc của thơ ca hiện đại giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975. Bất cứ ai cũng nhận ra
rằng từ sau khi Cách mạng tháng Tám, dân tộc, với tổ quốc đã thực sự lớn mạnh của
Thánh Gióng. Đó chính là những hiện thực, là tiền đề thẩm mỹ cất cánh dành cho
những dòng cảm xúc đáng trân trọng về vóc dáng của chính con người Việt Nam, với
đất nước Việt Nam. Là một nhà thơ trẻ, khi trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu
nước, cũng nặng tình với non sông, người trí thức Nguyễn Khoa Điềm cũng đã góp
riêng một tiếng nói của mình để khẳng định lên sự lớn dậy ấy. Với 9 câu thơ ở phần
mở đầu bài thơ “Đất nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về cả đất nước.
Điểm rất mới của tác giả Nguyễn Khoa Điềm là đề cập đến một đề tài rất khái quát,
nếu không muốn nói là trừu tượng, đề tài đất nước, với nhưng những hình ảnh thơ,
chất liệu cụ để dựng nên tầm vóc đó lại rất cụ thể và gần gũi. Để nói lên sự hiện hữu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
của đất nước này ở nhiều chiều sâu của thời gian, khi chiều rộng của không gian,
trong đoạn mở đầu, nơi ông đã tập trung sử dụng rất nhiều hình ảnh hết sức cụ thể,
gần gũi và đầy thân thương nhưng lại có sức liên tưởng mãnh liệt và tính chất khái
quát cao. Đặc biệt, ông nối kết để tạo nên mạch thơ đã nói về sự hiện hữu của đất
nước bằng điệp từ có. Điệp từ này đã nối kết với những hình ảnh tưởng chẳng liên
quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khi khẳng định sự hiện hữu vừa
có tính truyền thống vừa đầy những ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng
không thể hòa lẫn. Ta hãy nghe nhà thơ bộc lộ với nhiều suy nghĩ của mình.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Đọc đoạn thơ, ta thấy không thế không chú ý đến những hình ảnh thơ đầy sức tưởng
tượng của những tác giả về sự hiện hữu của mỗi đất nước. Mỗi hình ảnh lại gợi lên
một sự hiện hữu nhằm khẳng định nét riêng với sự không trộn lẫn của đất nước này.
“Ngày xửa ngày xưa” với một ngôn ngữ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích; khi
hình ảnh người bà – nhà thơ muốn nói rằng đất nước này cũng đã tồn tại từ lâu đời,
khi tồn tại từ thuở “Mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng
Long”, ở cái thuở Nam quốc sơn hà. Từ đó, đất nước lớn lên với những phong tục, khi
cốt cách của một dân tộc đậm tình, đậm nghĩa nhưng cũng sẵn sàng xả thân cho đến
khi Tổ quốc lâm nguy. Thân thương gần gũi biết bao khi đất nước hiện hữu vừa thật
nhỏ nhoi, cũng lại vừa thật tình cảm nơi miếng trầu bây giờ bà ăn. Ở đây, sức liên
tưởng thật sáng tạo, với đầy ắp những nét đẹp về phong tục, tập quán, và bản sắc quê hương:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Ở đó, có những bàn tay, với những trái tim, những con người cần cù chịu thương chịu
khó, lam lũ cần cù, khi một nắng hai sương. Đặc biệt ở đó, có sự tồn tụ hiện hữu có
những khi phải được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi, và cả nước mắt của cả một
dân tộc luôn cần phải rũ bùn và đứng dậy tự khẳng định mình.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Cũng trong đoạn thơ trên, ngoài hình ảnh là việc sử dụng những từ xưng hô tạo một
quan hệ tình cảm đầy tình nghĩa máu thịt của cộng đồng người Việt. Dường như với
cách gọi này, cùng với tất cả như những quây quần, hội tụ, đoàn kết, châu tuần chung
một dòng máu, thành một huyết thống Rồng – Tiên. Đó là từ mẹ, từ cha, từ bà, từ
chính dân mình quá đỗi ngọt ngào trong những cách xưng hô đằm thắm, mang dẩy
nhiều những bản sắc Việt Nam ấy. Chúng tạo nên một phong vị, cả một sức gợi đầy
thẩm mĩ về Đất Nước, cả con người Việt Nam, thân ái, thủy chung, giàu truyền thống,
giàu tình nghĩa, đạo lý làm người. Ở đoạn hai, tác giả lại ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về
nhiều những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến những định nghĩa rất
riêng và rất chung về đất nước.
Có thể khẳng định rằng, với sức mạnh của đoạn thơ là do có rất nhiều hình ảnh, phong
phú, đa dạng. Tất cả lại được diễn tả với nhiều hơn một giọng thơ hết sức tự nhiên,
không ồn ào của nhiều hình thức thơ văn xuôi, thơ tự do khiến cho hiệu quả thẩm mỹ
càng lớn. Điều đáng nói là từ chính những hình ảnh đó, với sức suy tưởng lo lắng của
một trí thức trẻ khả năng gợi mở, và vang ngân, liên tưởng của thơ càng lớn. Nó đủ
sức để khái quát một cách đầy đủ tầm vóc, cùng với thế đứng, dáng đứng của một Đất
Nước trong chiều hơi hướng ấy thật trầm lắng, đáng tự hào về chiều sâu lịch sử, chiều
dài của thời đại. Đó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại và cả về tương lai.
Một vẻ đẹp nói như tac giả Tố Hữu:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Ta đứng dây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu.
Vậy là Đất Nước đã có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi mà dân
ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết
sống yêu thương, sự thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi,
còn linh thiêng biết mấy. Đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng
xứng cũng đáng là một khúc ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, và cả
đất nước và con người Việt Nam.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - Mẫu 4
Đất nước là một đề tài muôn thuở trong thơ ca và nghệ thuật. Hình hài đất nước được
khắc tạc muôn hình với nhiều vẻ đẹp khác nhau từ đa dạng góc nhìn. Tố Hữu tìm thấy
hình hài đất nước qua bóng dáng người anh hùng, người mẹ; Chế Lan Viên “tìm hình
của nước” trong vị cha già Hồ Chí Minh kính yêu; Nguyễn Trãi lại tự hào về triều đại
“Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”,... Còn đối với Nguyễn Khoa Điềm
vẻ đẹp của đất nước lại nằm trong chiều sâu văn hóa, phong tục mang đậm dấu ấn tư
tưởng “Đất Nước của nhân dân”. Đó cũng chính là nét mới trong cách xây dựng hình
tượng đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm hướng tới trong tác phẩm “Đất Nước”.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Câu thơ mở đầu, nhà thơ đã hồi đáp cho câu hỏi “Đất Nước có tự bao giờ? ” bằng cách khẳng định:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”
Đất nước có từ bao giờ? Đất nước bắt đầu từ đâu? - Nguồn gốc của Đất Nước vẫn
luôn là một dấu hỏi lớn thử thách những nhà khoa học, lịch sử học, khảo cổ học.
Không ai trong chúng ta biết được đất nước có từ bao giờ hay ai là người khởi thủy ra
nó. Song, luôn tồn tại một sự thật hiển nhiên rằng: khi ta lớn lên thì “đất nước đã có rồi”.
Nhà thơ khẳng định sự hình thành đất nước qua ba chữ “đã có rồi” khiến hình ảnh đất
nước hiện lên sừng sững trước mắt người đọc. Theo Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất
Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua
nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác”. Nhà thơ tự hào, khẳng định
sự lâu đời, trường tồn vĩnh hằng của đất nước “Từ vũ trụ đã có giang san” (Trương
Hán Siêu), cách diễn đạt ấy còn mang đến ý niệm: Đất Nước là nguồn cội thiêng liêng,
là máu thịt của mỗi con người.
Hai chữ “Đất Nước” vang lên khẳng khái trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến.
Không riêng gì câu thơ mà xuyên suốt cả tác phẩm hai chữ “Đất Nước” đều được viết
hoa. Bàn về vấn đề này Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ rằng với ông đất nước không
đơn thuần là vùng đất vô tri mà đó là một nhân vật, là sinh thể có linh hồn và với cách
viết này nhà thơ mới có thể bộc lộ hết nỗi niềm trân trọng với đất nước thiêng liêng.
Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về yếu tố chính luận nhưng lại mang giọng điệu trữ
tình qua cách xưng hô “ta” đầy thắm thiết. “Ta” ở đây vừa là nhân vật trữ tình vừa là
chúng ta bao hàm cho cả dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô đã khiến cho vấn đề mang
tính trừu tượng, lớn lao như đất nước trở nên thân thuộc, gần gũi. Lời thơ mở đầu thật
giản dị mà trang trọng, tự hào biết bao.
Ba câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa,
phong tục, truyền thống.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Điệp ngữ “Đất Nước” nhắc lại liên tiếp trong ba dòng thơ vừa thiêng liêng, trang trọng
vừa tạo nên nhạc tính ngân nga, chất chính luận, trữ tình chắp cánh thăng hoa bay
bổng diệu kỳ. Từ điệp ngữ này tác giả mở ra chiều sâu văn hóa, phong tục, truyền thống.
Đầu tiên nhà thơ đã sử dụng chất liệu dân gian để diễn tả sự ra đời của đất nước: đất
nước có trong truyện cổ.
Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” như tấm vé thông hành, như con đò đưa ta quay về vùng
đất tuổi thơ, làm sống dậy những kỉ niệm đẹp. Nơi đó có hình ảnh cô Tấm dịu hiền, có
chàng Thạch Sanh dũng cảm, những ông bụt bà tiên với phép màu kì diệu sẵn sàng
cứu giúp những con người lương thiện,... Những câu chuyện ấy như dòng sữa ngọt
ngào nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng tới những vẻ đẹp “chân- thiện- mĩ” trân quý, để
con người ta biết tin vào cái thiện, thêm yêu quê hương đất nước. Bởi truyện cổ nước
ta hay lắm, nhân văn lắm mà nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động viết lên những vần thơ thật đẹp:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm”
Nhắc tới “ngày xửa ngày xưa” còn là nhắc tới cách lí giải hồn nhiên của nhân dân về
sự hình thành và phát triển đất nước, về quá trình dựng nước và giữ nước. Vì “ngày
xửa ngày xưa” là một trạng từ chỉ thời gian vô định, đâu ai biết được đó là ngày hôm
nào, là năm bao nhiêu, điều duy nhất chúng ta biết là nó đã có từ rất lâu. Và đất nước
có từ trong những câu chuyện xa xưa ấy nghĩa là đất nước còn xuất hiện từ xa hơn, lâu
hơn. Qua đó nhà thơ thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về truyền thống ông cha, về bề
dày lịch sử, về kho tàng văn học văn hóa dân gian đặc sắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Không chỉ có trong cái “ngày xửa, ngày xưa”, Đất Nước trong Nguyễn Khoa Điềm
còn được xác định qua một nét sống giản dị mà đậm đà bản sắc dân tộc của những bà,
những mẹ với phong tục ăn trầu:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu bé nhỏ. Hình thức câu
thơ có vẻ phi lý nhưng lại cực kỳ hợp lý khi xuất phát từ chân lý: “Những điều lớn lao
đều được bắt đầu từ những điều nhỏ bé”. Hình ảnh “miếng trầu” gợi nhắc về “Sự tích
trầu cau” – một câu chuyện nhân văn về tình yêu đôi lứa và tình anh em keo sơn, được
xem là câu chuyện xưa nhất trong các câu chuyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng
bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho thấy miếng trầu nhỏ bé được nhắc
tới chứa đựng trong đó là cả 4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục cùng truyền thống
hiếu khách: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Hai chữ “bây giờ’ chỉ thời điểm hiện tại,
cũng là cách lí giải thật bình dị: Lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống không chỉ
hiện diện trong chiều dài lịch sử mà cho đến tận bây giờ vẫn còn “miếng trầu bây giờ bà ăn”.
Trải qua thời gian đằng đẵng, miếng trầu không chỉ mang giá trị vật chất mà còn trở
thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh thần của người Việt. Đối với tuổi trẻ
miếng trầu là biểu tượng cho tình yêu: giao duyên, miếng trầu cưới hỏi ... Đối với
người già miếng trầu là biểu tượng của nghĩa tình. Và hơn thế nữa miếng trầu còn là
nhịp cầu giao cảm giữa cháu con và cha ông, là biểu tượng tâm linh để hậu nhân bày
tỏ tấm lòng thành kính với bậc tiền nhân. Và từ đó, hình ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca:
“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng” (Hoàng Cầm)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp trở thành khởi nguyên cho đất nước,
Nguyễn Khoa Điềm còn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành
cùng truyền thống đánh giặc giữ nước trong suốt 4000 năm của dân tộc ta:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Một đất nước không thể thiếu đi những truyền thống mà một trong những truyền
thống quý báu nhất của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước như Bác từng
khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của
dân tộc ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi,
nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.” Đến với thơ Nguyễn
Khoa Điềm truyền thống ấy được gợi nhắc qua hình ảnh cây tre và truyền thuyết
Thánh Gióng. Bao đời nay, tre không còn là hình ảnh xa lạ đối với đời sống của người
dân Việt Nam. Nó đã đi vào trong những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa với những đặc
điểm tượng trưng cho phẩm cách của con người Việt Nam như: “Tre xanh Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu” (Nguyễn Duy)
Hình ảnh cây tre song hành cùng thời gian, cùng con người Việt Nam trải qua bao
thăng trầm từ thuở xa xưa đến nay. Dân tộc Việt Nam tự hào khi mang những phẩm
chất đẹp như tre: giàu sức sống, thật thà, chất phác, bất khuất, kiên trung,... Cây tre ấy
cũng gắn liền với hình ảnh Thánh Gióng – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, nhổ tre
bên đường đánh đuổi giặc Ân khỏi bờ cõi Việt:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân” (Tố Hữu)
Cũng từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng của tuổi trẻ Việt Nam khỏe khoắn,
kiên cường, bất khuất. Truyền thống vẻ vang ấy đã đi theo suốt chặng đường lịch sử
dân tộc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã có biết bao nhiêu người con gái con
trai sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi mang trong mình lời thề “Quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh”. Những tháng năm ấy và cả những năm tháng sau này, truyền
thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết quản ấm nóng cuộn trào trong
lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Hai chữ “lớn lên” là cách nói gợi hình về quá trình
trưởng thành của đất nước và hình ảnh Thánh Gióng lớn vụt lớn lên, là biểu tượng cho
một dân tộc bé nhỏ nhưng rất đỗi anh hùng. Đất nước kì vĩ, tráng lệ, lãng mạn, hào
hùng đã được tái hiện như vậy đấy!
Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm
nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mĩ tục dân tộc Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đầu tiên là nếp sống giản dị trong đời sống người phụ nữ Việt Nam với phong tục búi tóc sau đầu
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Phong tục này bắt nguồn từ công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người
phụ nữ phải búi tóc thành búi sau gáy cho gọn gàng. Trải qua một thời gian dài, điều
đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Tóc
cuộn búi cao sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp mộc mạc, nữ tính, thuần hậu
rất riêng. Nét đẹp ấy khiến người đọc chúng ta gợi nhớ tới câu ca dao:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh”
Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước thông qua lối sống, tình
cảm gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng, tình yêu chung thủy, sắt son:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Lối sống coi trọng nghĩa tình, sống ân nghĩa thủy chung là vẻ đẹp truyền thống ngàn
đời của dân tộc. Trong kho tàng ca dao, tục ngữ đã có câu:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ
nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Gừng càng già càng cay, muối càng để lâu
càng mặn, vợ chồng sống với nhau càng lâu thì nghĩa tình càng đong đầy. Qua gian
nan, cơ cực tình nghĩa vợ chồng gắn bó càng thêm sâu sắc, khăng khít, bền chặt. Có lẽ
vì vậy mà đất nước đã ghi lại dấu ấn của cha, của mẹ bằng “Hòn Trống Mái”, “núi
Vọng Phu”,... như một cách riêng để khẳng định nghĩa tình son sắt ấy, là suối nguồn
yêu thương chảy qua bao thế hệ.
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Câu thơ gợi nhắc truyền thống dựng nhà “kèo-cột” -một đặc trưng văn hóa Việt. Cái
kèo có dạng tam giác cân là hệ thống gỗ kết nối các đầu cột để đỡ hai mái dốc. Cột
đẩy mái nhà lên cao còn kèo giữ chặt các cột lại với nhau tạo sự vững chãi cho căn
nhà. Và từ ngôi nhà “kèo cột” ấy ngôn ngữ dân gian được hình thành thông qua cách
lấy tên các vật dụng đơn giản đặt tên con với quan niệm tên càng xấu càng dễ nuôi.
Những quan niệm gần gũi ấy là thành tố cấu tạo nên “Đất Nước”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Hơn thế là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về truyền thống của con người Việt
Nam cần cù, chịu khó, gắn với một nền văn minh nông nghiệp. Để đất nước có được
như ngày hôm nay, không thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha,
hay nói cách khác là quá trình dựng nước. Nhà thơ chọn ra một nghề đặc trưng nhất
của ngành nông nghiệp- nghề trồng lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay,
giã, giần, sàng.” Bằng thành ngữ “một nắng hai sương” kết hợp với một loạt động từ
“xay, giã, giần, sàng” đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi
vất vả, cực nhọc. Lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm như phảng phất lời ca dao, cũng là lời khuyên răn:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”
Thành ngữ “một nắng hai sương” gợi ra sự cần cù, chịu thương chịu khó, chăm chỉ lao
động của ông cha ta. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình đầy vất vả.
Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé ấy là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những
người nông dân tần tảo sớm hôm. Đất nước của chúng ta trưởng thành từ những vất vả,
lam lũ, một nắng hai sương như thế.
Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả một lần nữa khẳng định cội nguồn của đất
nước với niềm tự hào mãnh liệt nhất:
Đất Nước có từ ngày đó
“Ngày đó” là một từ mang tính chất phiếm định về thời gian. Không ai biết chính xác
ngày đó là ngày nào chỉ biết rất rõ một điều đó là ngày có những câu chuyện cổ tích,
truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của những thuần phong mỹ tục, là ngày dân ta có
truyền thống đánh giặc giữ nước, có tập quán làm nhà kèo cột và cả nền văn minh lúa
nước được lưu giữ ngàn đời. Tất cả đều là những biểu hiện cao đẹp của bề dày văn
hóa. Mà văn hóa truyền thống lại là hiện thân của chiều sâu đất nước. Đúng như nhân
xét của tác giả Huy Văn: “Nếu như trong thơ Nguyễn Đình Thi, hình ảnh đất nước hào
hoa, kiêu hãnh, lãng mạn và tràn tràn đầy sức sống thì trong thơ Nguyễn Khoa Điềm
hình ảnh đất nước lại giàu có về văn hóa, là sức mạnh của chân lý”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
“Đất Nước” là một chương thơ hay nhất trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm mà cũng là đoạn thơ hay nhất viết về đề tài Đất Nước trong thơ
ca Việt Nam hiện đại. “Đất Nước” không chỉ khẳng định tài năng thơ phú của nhà thơ
mà còn qua đó nói lên được tiếng nói của người công dân yêu nước với tình yêu sâu
nặng, mãnh liệt “như máu xương của mình”.
Phân tích Đất nước 9 câu đầu - Mẫu 5
Đất Nước- hai từ thôi mà sao nó thân thương đến thế! Và đó cũng là nguồn cảm hứng
bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ sẽ chọn cho mình một góc nhìn riêng để
nói về Đất Nước, nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước
bằng những hình ảnh kỳ vĩ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn
Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, bình dị để miêu tả về Đất Nước. Bài thơ Đất
Nước của Nguyễn Khoa Điềm đã gợi cho người đọc những nét đẹp về văn hóa, truyền
thống, phong tục đẹp vô ngần, sinh động lạ thường, mang đậm dấu ấn con người Việt.
Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả
lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ đồng thời cũng là nhà chính trị Việt Nam. Ông là
một người con của xứ Huế, chính những nét đặc trưng của Huế đã tạo nên hồn thơ
Nguyễn Khoa Điềm trữ tình mà sâu lắng, hài hòa giữa trí tuệ và cảm xúc. Sau khi tốt
nghiệp khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, Nguyễn Khoa Điềm trở về quê hương hòa
mình vào cuộc chiến đấu dữ dội tại chiến trường Bình Trị Thiên. Tiếp xúc trực tiếp
với chiến tranh, tận mắt chứng kiến tội ác của kẻ thù, cuộc chiến đấu gian khổ của
đồng bào ta...những điều đó đã khơi nguồn cảm hứng mãnh liệt cho hoạt động sáng
tác của Nguyễn Khoa Điềm. Từ những đêm không ngủ, những ngày xuống đường,
Nguyễn Khoa Điềm đã tích lũy cho mình vốn sống và sự trải nghiệm để cảm hứng ấy
trào lên thành trường ca Mặt đường khát vọng, được viết năm 1917 gồm 9 chương.
Thành công nhất là chương Đất Nước, nó đã trở thành một bài thơ có sức sống độc
lập, thể hiện trọn vẹn tài năng phong cách Nguyễn Khoa Điềm.
Ngay từ những câu thơ đầu đoạn trích, Nguyễn Khoa Điềm đã trầm ngâm, suy tư về
cội nguồn, quá hình thành của Đất Nước bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể chuyện cổ tích:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Mở đầu đoạn thơ như một lời khẳng định "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", Đất
Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì khi lớn lên nó đã có rồi. Đó cũng là
một lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử
dựng nước và giữ nước. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" chỉ thời gian huyền hồ, hư ảo là
nhịp thời gian cổ xưa xa thẳm để mở đầu những câu chuyện cổ. Với Nguyễn Khoa
Điềm, Đất Nước có từ rất xa xưa, trong sâu thẳm thời gian, trong kí ức tuổi thơ hồn
nhiên trong sáng của mỗi cuộc đời. Câu chuyện của Nguyễn Khoa Điềm đã đánh thức
trong người đọc những hoài niệm đẹp đẽ của một thời đại. Đó cũng chính là đất nước
được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hóa và lịch sử:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đó là miếng trầu gợi lên sự tích vào loại cổ nhất người Việt "Sự tích trầu cau" từ đời
vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son
đồng thời đánh thức dậy hình ảnh miếng trầu đã trở thành biểu tượng của tình yêu,
lòng thủy chung, miếng trầu là đầu câu chuyện. Đó còn là truyền thuyết Thánh Gióng
nhổ tre đuổi giặc Ân, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất
khuất. Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi
làng quê. Hình ảnh tre như những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật
thà chất phác, thuỷ chung, yêu hoà bình, kiên cường bất khuất trong những cuộc chiến
tranh. Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước đã nằm sâu trong tiềm
thức mỗi chúng ta, trong đời sống tâm hồn của người dân từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tác giả còn nhắc đến thuần phong mỹ tục của người Việt, câu ca dao "Tay bưng chén
muối đĩa gừng/Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" như đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Đất Nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ
nữ Việt Nam từ bao đời nay. Đó là vẻ đẹp giản dị nhưng mang một nét đẹp riêng biệt
không thể lẫn lộn với những nền văn hóa khác. Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng
suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để
giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền
thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Người
ta vẫn thường hay nói gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn nghĩa là
con người sống với nhau càng lâu thì tình nghĩa càng đong đầy.
Đất nước gắn bó, thân thiết như người ruột thịt và bao công việc lao động khác:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nông nghiệp thóc gạo
với mái lá nhà tranh nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái tên nôm
na, dân dã, có khi lấy những bộ phận của ngôi nhà tre gỗ chính mình đang ở "cái kèo",
"cái cột". Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo
trở thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ
mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ,
kết tinh từ mồ hôi nước mắt của người lao động, "một nắng hai sương xay, giã, giần,
sàng" phải suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, dầm mưa dãi nắng nhân dân
ta mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là vị mặn
mồ hôi nhọc nhằn của người nông dân. Chính vì thế khi ăn hạt cơm dẻo, thơm phải
nhớ đến người làm ra nó.
Câu cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: "Đất Nước có từ ngày
đó..." “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có
truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ "Đất Nước đã có",
"Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên", "Đất Nước có từ" đã giúp cho ta hình dung
được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm
sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm lặng
lẽ quan sát Đất Nước ở muôn mặt đời thường và trong quan hệ ruột rà, thân thuộc. Đất
Nước là những gì bình dị nhất, gần gũi và thân quen nhất trong đời sống hằng ngày
của mỗi con người việt nam ta: câu chuyện cổ tích bà kể, miếng trầu bà ăn, gừng cay, muối mặn, hạt gạo…
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 6
Đất nước là đề tài phong phú thơ ca, trong mỗi thời kỳ lịch sử đất nước được nhìn
nhận ở những gương mặt khác. Người đọc không quên cảm xúc chân thành, tha thiết
của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đất nước,chúng ta không khỏi tự hào là
người con của đất việt anh hùng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Trường ca mặt đường khát vọng được Nguyễn khoa Điềm hình thành ở chiến khu trị
thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, thời điểm miền nam bị tạm chiếm, đế quốc mĩ
và bọn tay sai ra sức xuyên tạc về Đảng Cộng Sản, về cách mạng nhằm lôi kéo, mua
chuộc thanh niên vào chốn ăn chơi và quên đi trách nhiệm với đất nước. Bản trường
ca ra đời đã đánh thức tinh thần trách nhiệm và giúp thế hệ tự nhận rõ ý thức hơn về
vai trò và trách nhiệm của họ đối với đất nước.
Khác với các nhà thơ cùng thời viết về đất nước và nhà thơ Nguyễn khoa Điềm đã đi
tìm và viết nên bài thơ “ Đất nước” ở nhiều phương diện. Trước hết nói về nguồn gốc
của đất nước ông đã sử dụng những hình ảnh, những chi tiết bình dị, thân thuộc, gần
gũi nhất đối với con người.
“ Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi.
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”
Bằng giọng tâm tình như lời kể chuyện cổ tích tác giả đã thể hiện những cảm xúc suy
tưởng của mình về đất nước. Đất nước được đưa về thời kỳ quá khứ của những câu
chuyện cổ tích trong lời kể của mẹ. Cha ông đã đội đá, vá trời dựng lên gương mặt đất
nước cho con cháu đời sau hưởng thụ. Chẳng ai trong số chúng ta biết đất nước có tự
bao giờ, chỉ biết có từ khi có miếng trầu bà ăn, khi dân mình trồng tre đánh giặc thì
đất nước cũng đã có rồi.
Nguyễn khoa Điềm không sử dụng số liệu, các triều đại để nói về nguồn gốc đất nước
mà chọn lối kể đậm chất dân gian, vừa giản dị, gần gũi, như những gì đang tồn tại
quanh ta, như gia đình, cha mẹ, ông bà, như những phong tục tập quán ngày xưa.
“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn.
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”
Hình ảnh thơ gợi cho ta về sự tích trầu cau từ đời Hùng Vương với tình anh em, vợ
chồng sau nặng. Tác giả đưa ta về thời kỳ Thánh Gióng nhổ tre đánh giặc Ân, khiến ta
không khỏi tự hào về truyền thống yêu nước của nhân dân ta được đúc kết lại từ rất xa
xưa thời Vua Hùng dựng nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất nước lớn lên theo phong tục tập quán:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu.
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Lịch sử lâu đời của đất nước được tác giả nhìn từ chiều sâu văn hóa, văn học dân gian.
Là cách búi tóc quen thuộc thành cuộn sau gáy, gọn gàng của người phụ nữ việt nam.
Là tình nghĩa vợ chồng trọn vẹn trong câu ca dao:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Đất nước cách đặt tên con cái từ những vận dụng hàng ngày để mong may mắn hay ăn chóng lớn.
“Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải 1 nắng 2 sương xay giã dần sàng”
Cấu trúc câu thơ đất nước đã có, đất nước bắt đầu, đất nước có từ…cho chúng ta hình
dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong trường kỳ, trong
tâm thức của con người việt nam bao nhiêu thế hệ. Đất nước gắn liền với nền văn hóa
nông nghiệp lúa nước, gợi tả những gương mặt chăm chỉ, cần cù làm lụng.
Có thể nói Nguyễn Khoa Điềm sử dụng tài tình và hiệu quả chất liệu ca dao, dân ca.
Nhà thơ không nêu ra một bài cụ thể nào cũng như trích nguyên văn một câu thơ nào
mà chỉ gợi dẫn một vài từ ngữ, chi tiết, hình ảnh tiêu biểu. Những chừng đó cũng đủ
để nhà thơ đạt được mục đích của mình là thể hiện một đất nước bình dị, gần gũi, đời
thường, vừa gợi dậy trong tâm trí người đọc cả một bề dày chiều sâu văn hóa nghìn
đời của dân tộc, với những nét rất đặc thù, và tự hào. Khác với Nguyễn Đình Thi tự
hào về đất nước rộng lớn mênh mông.
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”.
Đất nước là một phạm trù chính trị xã hội, viết về đất nước, bàn về đất nước, tìm về
cội nguồn, định nghĩa đất nước vốn là vấn đề chính luận khô khan, có mòn nhưng
những câu thơ của tác giả thể hiện bằng ngòi bút đầy cảm xúc trữ tình, nồng nàn, tha
thiết được thể hiện qua tâm hồn giàu suy tưởng và rất yêu mến văn hóa, văn học dân
gian, dân tộc. Tài năng của Nguyễn Khoa Điềm là từ cái cũ mà thể hiện bằng cái nhìn
mới mẻ, vừa quen vừa lạ khiến người đọc cảm thấy gần gũi và ngạc nhiên.
Tình yêu quê hương đất nước, yêu văn hóa dân gian của dân tộc đã là nên đã hình
tượng đất nước ở Nguyễn khoa Điềm, một đoạn thơ ngắn mà đã chạm vào kỉ niệm ấu
thơ, tự hào về gia đình, dòng họ, tổ quốc, của mỗi người dân việt nam. Đoa là bài học
quý báu cho thế hệ ở bất kì hoàn cảnh lịch sử nào.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 7
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Ông từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu
biểu: Đất ngoại ô, Trường ca Mặt đường khát vọng. Đất nước là bài thơ được trích từ
chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị
Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu
hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đặc biệt thể hiện qua 9 câu thơ đầu bài.
Khác với các nhà thơ cùng thế hệ – thường tạo một khoảng cách khá xa để chiêm
ngưỡng và ngợi ca đất nước, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, có tính chất biểu
tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự
nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong
đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm
tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm
dấu ấn con người Việt.
Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta,
từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen thuộc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
(tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng
ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành cái
gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hàng ngày của con người.
Câu thơ mở đầu được nhà thơ viết theo thể câu khẳng định: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”.
Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh
hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời
này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn Khoa Điềm –
Tác giả và Tác phẩm). Cách nói “Đất Nước đã có rồi” đã thể hiện niềm tự hào mãnh
liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời
và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy, không
biết Đất Nước có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của mình rồi, nó
hiện diện quanh ta với những gì yêu thương nhất.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa,
phong tục. Những từ ngữ như Đất Nước “có trong”, Đất Nước “bắt đầu” là những từ
ngữ diễn tả rất nhẹ nhàng về sự ra đời của Đất Nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất
Nước thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ… Có nghĩa là Đất
Nước đã có từ lâu đời. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi
những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện
diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những
câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những
bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện
mỹ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống
tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Không chỉ “có trong những cái ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn xác định
cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ,
người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây
giờ bà ăn”. Đất Nước lớn lao, kì vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ?
Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả những điều
lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví không có những dòng suối nhỏ sao trở
thành dòng sông, ví như không có những dòng sông sao có thể trở thành biển cả. Cho
nên nhắc đến “miếng trầu” chắc hẳn là nhắc đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ
về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện
cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu chuyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong
miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn
trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng
tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời.
Hoàng Cầm trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” cũng đã từng nhắc đến nét đặc trưng ấy:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống mà một trong những truyền thống quý
báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn lên khi dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ “Đất Nước
lớn lên…”. Chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Câu thơ gợi nhắc
cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết xông pha trận mạc. Đứa
bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh
giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên
cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tố Hữu cũng đã có thơ:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi (Tố Hữu)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến
hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo
vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử
Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi…
Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng
quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam:
thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường
bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân
tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ”, bởi:
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm
nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ
với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một
vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao
động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí
ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ
nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời.
Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy
luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng
đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn
trống mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng. Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến
“Cái kèo cái cột thành tên”.
Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm
nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được
mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng
năng tích góp dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Câu thơ gợi nhắc bài ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những
ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao
động cần cù, chịu thương chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông
dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong
hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân bao đời nay.
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: Đất Nước có từ ngày
đó. “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền
thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng
như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước
trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước.
Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân
gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông
nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ… Tất cả làm
nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản
dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
Tóm lại, bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã mang
đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp.
Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội
nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta
thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 8
Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn
từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng.
Đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh của những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của
Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch
sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...
Muốn hiểu về Đất Nước nhưng “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”: lời thơ khẳng định
đất nước ra đời từ rất lâu như ta thường bảo 4000 năm lịch sử. Câu thơ cũng khẳng
định sự trường tồn của đất nước sau bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu lần đánh giặc
ngoại xâm, chống lại nội thù để bảo vệ đất nước. Nhưng câu thơ cũng nói lên nỗi lòng
băn khoăn của nhà thơ vì làm sao hiểu được đất nước khi đất nước đã có từ lâu, đã
cách ta quá xa, đã ” có từ ngày xửa ngày xưa…”: một cụm từ vô cùng quen thuộc,
thân thương vì ai trong chúng ta không từng được đắm mình trong những câu chuyện
cổ tích thần tiên” mẹ thường hay kể”. Những câu chuyện kể, những lời ru của mẹ đưa
con về với đất nước yêu dấu.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm
khiến con nhớ đến câu chuyện cảm động “Sự tích trầu cau” mẹ kể con nghe về tình
nghĩa gia đình thắm thiết, ven tròn, hoà quyện nhau như màu đỏ huyết thống thiêng
liêng. Đấy chính là nền tảng để xây dựng gia đình, để khởi đầu đất nước hay đây cũng
chính là bài học đầu tiên về đất nước. Miếng trầu bình thường bà vẫn ăn hàng ngày
sao bỗng dưng trở thành thiêng liêng, thấp thoáng đâu đó dáng hình đất nước qua tập tục ăn trầu thân quen.
Hình ảnh cây tre trong câu thơ” Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh
giặc” con đã từng gặp trong “Sự tích Thánh Gióng” khi cậu bé chỉ mới 3 tuổi đã vươn
vai thành người chiến sĩ nhổ tre, đánh giặc thù, bảo vệ bờ cõi. Cây tre hiền hoà hằng
ngày ta vẫn thấy trong xóm làng cho ta những vật dụng và bóng mát, thế nhưng cây
tre đã từng là vũ khí theo suốt con đường cha ông ta đánh giặc để giữ cho con cháu
hôm nay đất nước này. Truyền thống đấu tranh bất khuất của người xưa dẫu ko có vũ
khí tương xứng nhưng đã để lại cho con cháu một bài học: muốn đất nước lớn lên
vững vàng thì dân mình phải biết trồng tre để chuẩn bị thành vũ khí đánh giặc. Bài
học lịch sử quý giá này cháu con luôn ghi nhớ và đang vận dụng trong những ngày
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
đánh Mỹ ác liệt để bảo vệ đất nước với “gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù.
Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ
đồng lúa chín” (Thép mới)
Mỗi một đất nước đều có riêng những phong tục tập quán và dân tộc ta cũng thế. Hình
ảnh” tóc mẹ thì bới sau đầu” đã nói lên một nét đẹp của phong tục Việt Nam ta từ xưa
còn lưu lại đến bây giờ dù đất nước đã phải trải qua bao năm bị ngoại bang đô hộ và
đồng hoá nhưng dân tộc này vẫn giữ được tập quán riêng của đất nước mình.
Có được lớn lên từ mái ấm gia đình, từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ ta mới thấy
câu ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau” là lời nhắn nhủ, dặn dò quý giá
biết bao. Với Nguyễn Khoa Điềm “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” để
con được hưởng hạnh phúc đầy đủ, cho con hiểu thêm một nét đẹp đạo lí dân tộc là
tình nghĩa luôn thuỷ chung, son sắc.
Từ cái nhà con ở khi “cái kèo, cái cột thành tên” đến hạt gạo con ăn”phải một nắng hai
sương xay, giã, giần, sàng” ta hiểu được bao thế hệ mẹ cha đã lao động vất vả, chắt
chiu, dành dụm để tạo dựng cuộc sống cho những đứa con nên người và góp phần
dựng xây đất nước. Tất cả chính là đất nước. Thế thì đất nước ko phải đâu xa lạ, vô
hình mà là những vật dụng, những hình ảnh hàng ngày ta vẫn thấy quanh đây rất đỗi
thân quen đã từng gắn bó với ta từ thời thơ bé khi bên ta có bà, có mẹ , có cha. Nhưng
chính những câu chuyện cổ tích mẹ kể con nghe, chính những lời ru ca dao đã đưa con
vào thế giới sâu nặng nghĩa tình của đất nước thiêng liêng với bao truyền thống, tập quán tốt đẹp.
Từ những hình ảnh thân quen nhưng ẩn chứa chiều sâu kiến thức văn học dân gian
cùng với giọng thơ ngọt ngào đoạn thơ như lời kể chuyện tâm tình, Nguyễn Khoa
Điềm đã bình dị hoá đất nước, đất nước hóa thân vào cổ tích, ca dao, vào cuộc sống
hàng ngày. Tác giả đã có một cách cảm nhận mới vừa quen vừa lạ, vừa cụ thể vừa
trừu tượng, vừa gần gũi vừa rất đỗi thiêng liêng…tạo nên sự xúc động sâu sắc. Điều
đó nói lên thành công của tác phẩm cũng như những đóng góp của Nguyễn Khoa
Điềm đối với nền Văn học Việt Nam.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 9
“Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu
Nghe dịu nỗi đau của mẹ”
(Đất nước tôi – Tạ Hữu Yên)
Đất Nước và mẹ là những điều thiêng liêng làm nên nguồn cội, từ lâu đã trở thành
cảm hứng sáng tác của nền văn học lấy tinh thần yêu Tổ quốc mình đặt lên vai. Ở mỗi
tác giả, chúng ta bắt gặp những cảm hứng khác nhau để từ đó hình tượng Đất Nước
chưa bao giờ lặp lại mình qua lăng kính cá nhân của những người làm nghệ thuật. Đến
với Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng Đất Nước được cảm nhận một cách mới mẻ, độc
đáo qua lối thơ giàu chất trữ tình, giọng thơ suy tưởng, mang nhiều triết lý. Nhà thơ trí
tuệ này đã dành cả chương 5 – Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng để
luận giải về sự ra đời của Đất Nước thông qua nhiều phương diện lịch sử, địa lý, văn
hoá dân gian để đi đến khẳng định Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Trong
dòng suy tưởng ấy, cội nguồn của Đất Nước hiện ra ở 9 câu thơ đầu tiên.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi …
Đất Nước có từ ngày đó..”
Những năm đầu của thập niên bảy mươi thế kỷ trước, khi mà đế quốc Mỹ đang dồn
sức đẩy cuộc chiến tranh ở miền Nam lên cao trào và không ngừng bắn phá miền Bắc,
trong tình thế cam go ấy, cần lắm những con người nhiệt huyết, sẵn sàng xông pha
vào tuyến lửa, sẵn sàng đi đầu, xuống đường đấu tranh giành lại hoà bình. Nguyễn
Khoa Điềm đã hăng hái viết bản trường ca Mặt đường khát vọng với mong muốn thức
tỉnh, thôi thúc thế hệ trẻ hòa mình vào cuộc đấu tranh dữ dội của quần chúng nhân
dân. Bằng tấm lòng tha thiết với Tổ quốc, bằng cảm xúc dạt dào của ngòi bút không
ngại gian khổ, Nguyễn Khoa Điềm đã bất chấp tiếng bom rơi ngoài hầm trú ẩn, không
nao núng trước tiếng gào thét của động cơ phản lực, từng câu thơ như mạch sống cuộn trào.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Trong đoạn trích, Đất Nước được viết hoa và cũng là chủ đề bao trùm cả chương. Đất
Nước, tiếng gọi thiêng liêng gợi chiều sâu cảm xúc. Đất Nước cũng là tình yêu sâu
nặng của nhân dân dành cho những điều giản dị, đời thường. Đất Nước còn gợi chiều
dài xuyên suốt từ quá khứ đến hiện tại và tiếp tục ở tương lai. Nguyễn Khoa Điềm đã
dùng cả nhận thức của trí tuệ và sự rung cảm của tâm hồn để khám phá vẻ đẹp mang
tên Đất Nước thông qua cuộc trò chuyện tâm tình giữa hai nhân vật “anh” và “em”.
Đây là sự hoá thân của tác giả đưa vào mạch thơ cảm xúc tự nhiên, để từ cảm nhận
của “anh” và “em” Đất Nước hiện lên trong mọi mặt đời sống nhân dân.
Để lý giải về cội nguồn của Đất Nước, nhà thơ đã phục dựng hình tượng đẹp đẽ này từ
quá khứ hiện lên qua cái nhìn hiện tại.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Cái hay của nhà thơ không chỉ là nói những cái mới, cái lạ mà từ cái tưởng chừng đã
quen, thông qua chất trí tuệ của một nhà thơ giàu suy tưởng, lại trở thành cái những
liên tưởng thú vị. Đất Nước có từ rất lâu rồi, điều mà chúng ta không thể phủ nhận.
Tuy nhiên vai trò nhận thức Đất Nước không phải của riêng ai mà là “ta”, bao gồm cả
tác giả và mỗi con người trên xứ sở này. Thông thường, chúng ta hay dùng cách nói
quen thuộc để chỉ thời gian dài như “khi ta sinh ra” hoặc “khi ta lớn lên”. Xét về
nghĩa, “khi ta sinh ra” chỉ thời gian sớm hơn “khi ta lớn lên”. Vậy mà nhà thơ lại sử
dụng cách nói “lớn lên”. Phải chăng nhà thơ muốn nói rằng chỉ khi ta “lớn lên” có
nghĩa là khi ta đã hình thành nhận thức, đã hoàn thiện về tâm hồn, trí tuệ thì Đất Nước
mới thực sự hiện lên đầy đủ, hoàn chỉnh. Cũng khi ấy chúng ta mới biết xúc động, biết
yêu quý và tự hào về Đất Nước mình.
Đất Nước được sinh ra từ những câu chuyện cổ, những nét văn hoá dân gian mà mỗi
con người đều thấm đẫm câu “ngày xửa ngày xưa”
“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…mẹ thường hay kể”
Cũng như cánh cò trong bài hát ru đi vào tiềm thức mỗi đứa trẻ, những câu chuyện cổ
bắt đầu từ “ngày xửa ngày xưa”, tuổi ấu thơ ngây dại nhiều mơ mộng cũng bắt đầu từ
đấy. Chất giọng ấm áp của mẹ, trầm trầm của bà khi hóa thân vào nàng tiên, cô Tấm,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
như ngọt ngào hương Thị, say nồng hương cau. Mỗi câu chuyện là hình hài dân tộc, là
lời dạy bảo, khuyên răn để qua những cái “ngày xửa ngày xưa” con cháu mai sau nhớ về nguồn cội
“Chỉ còn truyện cổ thiết tha
Cho tôi nhận mặt ông cha của mình”
(Truyện cổ nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Đất Nước xuất hiện trong truyền thống văn hoá, qua những nếp sống đời thường trở
thành nét đẹp trong phong tục.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Miếng trầu cũng từ cổ tích, dáng bà dáng mẹ cũng từ thuở nào bước vào cuộc đời. Sợi
dây kết nối giữa văn hoá và thói quen cũng từ đấy mà hình thành. Những thói quen
như ăn trầu theo thời gian dần trở thành phong tục. Nét đẹp của phong tục làm nên
văn hoá. Còn văn hoá thì trở thành máu thịt của chúng ta. Miếng trầu từ trong cổ tích
đi vào cuộc đời, từ trong câu chuyện về nghĩa tình anh em, sự son sắt vợ chồng trở
thành món sính lễ không thể thiếu trong ngày cưới của người Việt. Miếng trầu còn
nhắc nhỏ cho con cháu bài học về sự chân thành, cởi mở, tấm lòng hiếu khách, lịch sự
của nhân dân mình “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Mượn chất liệu dân gian, Nguyễn
Khoa Điềm vẫn khéo léo đan cài cách nói ẩn ý của mình. “Miếng trầu bây giờ bà ăn”
mà không phải là “miếng trầu ngày xưa bà ăn”. Đấy là ý đồ phục dựng lại quá khứ
một cách tròn đầy ở hiện tại. Miếng trầu đâu chỉ có mặt trong quá khứ, trong tâm
tưởng mà còn hiện diện ở thời điểm “bây giờ”. Miếng trầu là tượng trưng cho văn hoá,
cho bốn nghìn năm lịch sử, cũng là cho vẻ đẹp ý vị dân gian. Vẻ đẹp ấy có linh hồn,
có sức sống bất diệt muôn đời. Câu thơ như sự khẳng định chắc nịch trong hiện tại vẫn
có quá khứ, trong cuộc sống hôm nay vẫn hiện hữu bóng dáng hôm qua.
Câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khái quát quá trình phát triển của Đất Nước thông qua
hình tượng loài cây quen thuộc.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Không cần mượn những câu chuyện xa xôi, không cần tìm những hình ảnh lớn lao,
tầm vóc như thơ xưa, Nguyễn Khoa Điềm dùng chất liệu dung dị của đời sống nhưng
cũng đậm đà chất suy tưởng. Tre bao đời nay gắn với đời sống nông dân Việt Nam.
“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép Mới). Tre lao
động, tre anh hùng, tre của những ký ức tuổi thơ không gì thay thế. Và tre xuất hiện
trong huyền thoại Tứ bất tử về người anh hùng Thánh Gióng đánh giặc Ân. Sự liên
tưởng này nhà thơ đã khẳng định quá trình lớn lên của Đất Nước chính là quá trình
nhân dân ta đấu tranh bảo vệ từng tấc đất mà vũ khí bắt đầu từ cây tre.
Câu chuyện về Đất Nước đâu chỉ dừng lại ở văn hoá dân gian, ở truyền thống yêu
nước chống giặc ngoại xâm, Đất Nước mình còn được viết bằng đời sống sinh hoạt
thường ngày, bằng những thói quen hình thành từ lao động.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Bới tóc là một nét đẹp trong văn hoá cổ xưa. Ngoài dấu hiệu cho thấy người phụ nữ
bới tóc là người đã lập gia đình thì bới tóc sau đầu còn xuất phát từ đặc thù công việc
đồng áng và khí hậu nóng nực của ta. Những người phụ nữ để tóc dài, búi lên sau gáy
đã trở thành nét đẹp giản dị, tự nhiên không cầu kỳ mà vẫn toát lên vẻ thanh thoát vốn
có. Chính những cái đẹp bình dị không tên lại là nhịp cầu nối hai bờ thương yêu để từ
đấy nghĩa tình vợ chồng sâu nặng qua hình ảnh “gừng cay muối mặn”. Cái tài tình của
Nguyễn Khoa Điềm là chắt lọc từ thành ngữ dân gian sự tinh túy trong mối quan hệ
hôn nhân đó chính là lòng chung thuỷ.
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” (Ca dao)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Tấm lòng son sắt, thuỷ chung trong tình chồng nghĩa vợ qua gian lao, thử thách, qua
những tháng ngày cơ hàn có nhau càng thêm nồng đượm, bền chặt. Và cũng chính từ
thái độ sống nghĩa tình ấy đã trở thành động lực để ông bà, cha mẹ ta vượt qua tháng
ngày gian khổ, dựng xây hạnh phúc gia đình trên cái túng thiếu, khó khăn. Cũng từ
đấy thế hệ con cháu ra đời trong niềm vui giản dị.“Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ
gợi nhớ đến thói quen đặt tên con cháu của ông bà ta ngày xưa. Chẳng cầu kỳ bóng
bẩy, chẳng vay mượn đâu xa, cứ lấy những vật quanh mình, những điều mộc mạc
trong đời sống như “cái kèo, cái cột” để gọi tên. Chất bình dân gắn với cuộc đời mỗi
con người từ đấy. Nghe tên đã thấy thương làm sao khi sự thiếu thốn vật chất trong
đời sống thường ngày không thể khỏa lấp được tình cảm gắn bó máu thịt của nhân dân
với từng vật dụng lao động, từng hình ảnh hiện diện xuyên suốt trong đời sống.
Nhắc đến lao động, đến cuộc sống vất vả của người nông dân phải nhắc đến câu lúa và
quá trình làm nên hạt gạo. Cây lúa đến với người nông dân Việt Nam như sự đặc ân
của đất mẹ dành cho giọt mồ hôi bao đời mặn. Ngày cây lúa đơm bông là ngày giấc
mơ cuộc đời ấm no, hạnh phúc đến gần hơn. Nhìn ở góc độ văn hoá, cây lúa là biểu
tượng cho người nông dân Việt Nam. Nhà thơ nhắc về hạt gạo để tái hiện tập quán
trồng lúa nước của nhân dân ta bao đời nay.
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Không gian lao động hiện ra trong phép liệt kê “xay, giã, giần, sàng”. Từng công đoạn
làm ra hạt gạo từ hạt thóc giống ban đầu đâu phải dễ dàng. Chưa kể đến những ngày
“bán mặt cho đất bán lưng cho trời” trên đồng sâu ruộng cạn để cày, cuốc, bừa, trục.
Chưa tính những giọt mồ hôi nhỏ xuống để từ một cây mạ non xanh trưởng thành cây
lúa chín vàng đồng. Ngay lúc hạt thóc đã thu hoạch về phơi ngoài sân trước muốn trở
thành hạt gạo trắng ngần cũng lại là cả một câu chuyện dài. “Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo cơm một hạt đắng cay muôn phần” (Ca Dao)
Thế nên khi liệt kê quá trình ấy, nhà thơ như cố tạo những khoảng trống và sức nặng
trên từng chữ để truyền tải cái sức nặng của cả công đoạn gian lao mà người nông dân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
phải trải qua. Nặng nhọc với chiếc cối xay trong tay, với chày giã gạo nện đều mỗi
đêm và còn nặng lòng khi hạt gạo hôm nay là ước mơ ngày mai tươi sáng. Thành ngữ
“một nắng hai sương” chỉ sự khắc nghiệt trong thời tiết, đặt trước công đoạn làm ra
hạt gạo để nhấn mạnh bất cứ thành quả nào cũng phải có cái giá của nó. Niềm vui có
trong tay hạt gạo thơm phải đổi lấy bao gian nan, khổ cực. Nhắc đến lao động, nhà thơ
còn khéo léo gợi về tình nghĩa của nhân dân hình thành trong nỗi gian truân, cực nhọc.
Nhờ sự gắn kết, san sẻ, yêu thương mà công việc dù có khó khăn đến đâu cũng cùng nhau hoàn thành.
Cuối cùng để khẳng định sự ra đời của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng mốc
thời gian vô hình để nói cái hữu hình có trong mỗi con người chúng ta.
“Đất Nước có từ ngày đó”. “Ngày đó” là phép thế cho các mốc thời gian đã nói đến
phần trước. Ngày mà bắt đầu từ câu chuyện cổ, hiện hữu trong miếng trầu cau, ngày
mà mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau quả ngọt bùi, cay đắng, cũng là ngày con
cháu ra đời bằng cái tên dân dã để tiếp bước ông cha nâng niu hạt lúa vàng. “Ngày đó”
dù không xác định rõ mốc thời gian nhưng trong tâm thức con người Việt ai cũng rõ
đó là ngày chúng ta biết thương nhau, biết trân trọng cuộc sống và biết vì nhau mà sống.
Câu chuyện lịch sử hình thành một quốc gia, dân tộc đã có các ngành khoa học đảm
đương, nhưng câu chuyện về cội nguồn khai sinh mảnh đất quê hương cần ngân vang
trong trái tim mỗi con người qua từng câu thơ, tiếng hát. Ở góc độ này, 9 câu thơ đầu
trong đoạn trích Đất Nước đã có cái nhìn thú vị về các yếu tố hợp thành Đất Nước.
Cũng ngần ấy câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất chính luận kết hợp trữ
tình đặc sắc để hình tượng Đất Nước mang chiều sâu tư tưởng. Đồng thời sự góp mặt
của các chất liệu văn học dân gian đã khiến cho khái niệm trở nên thi vị, gần gũi, mộc
mạc như chính đời sống thường nhật của nhân dân lao động.
Đoạn thơ cho chúng ta có cái nhìn tổng quát về nguồn gốc hình thành Đất Nước theo
sự chiêm nghiệm mang tính nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Để trong
chúng ta, thế hệ trẻ hôm nay nhận ra Đất Nước có trong mỗi tâm hồn, hiện hữu trong
đời sống văn hoá, phong tục, tập quán của nhân dân. Đất Nước còn là hiện thân của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
đời sống đấu tranh và lao động. Không chỉ thế, Đất Nước sẽ là tiếng hát đầu tiên ca
ngợi lối sống nghĩa tình, đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 10
Đất nước là một trong những đề tài gắn với sự thành công của nhiều cây bút trong các
thời kì, nhất là thời kì kháng chiến. Ta không sao quên được hình ảnh đất nước hóa
thân vào “mảnh hồn quê Kinh Bắc”, đất nước bị dày xéo dưới chân của bọn giặc ngoại
xâm trong thơ của Hoàng Cầm hay hình ảnh một đất nước nhỏ bé, đau thương mà anh
hùng, bất khuất “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” trong thơ của Nguyễn Đình Thi. Đến với
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta lại có khám phá mới về đất nước của ca dao,
thần thoại. Đoạn trích Đất nước nằm trong chương 5 của bản trường ca Mặt đường
khát vọng. Với hình tượng trung tâm là đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã cho độc giả
thấy được tư tưởng mới mẻ của mình trong hành trình lí giải về cội nguồn đất nước
mà đặc biệt là trong chín câu thơ đầu bài:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nới lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Đất nước là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, hình tượng đất nước luôn có một vị trí
đặc biệt, là hình tượng cao quý, đẹp đẽ nhất trong thơ văn. Macxen Prust: “Một cuộc
thám hiểm không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà ở chỗ cần một đôi mắt mới”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bới thế mà với mỗi một điểm nhìn khác nhau thì đất nước lại có một vẻ đẹp, hình
dáng khác, đất nước hiện lên với muôn hình vạn trạng trong con mắt nhà thơ. Nếu như
các nhà thơ cùng thời chọn điểm nhìn cảm hứng về đất nước từ lịch sử thông qua các triều đại như:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
Hay những hình ảnh vô cùng mỹ lệ, đẹp đẽ:
Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca
Thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn cho mình một điểm nhìn vô cùng mới mẻ, bình dị,
thân quen mà qua đó đất nước hiện lên không kém phần tươi đẹp.
Với cấu trúc tổng-phân-hợp mang đậm phong cách chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đã
thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và trách nhiệm của
mỗi người đối với quê hương, tổ quốc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ta vào câu chuyện về sự hình thành của Đất
nước mà theo đó Đất nước có từ những gì quen thuộc, gần gũi nhất.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Câu thơ mở đầu tự nhiên như một lời kể, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để hình dung ra
sự tồn tại của Đất nước trong nhận thức, tình cảm con người. Theo đó, “Đất Nước đã
có từ rất lâu, từ khi mà “ta” cất tiếng khóc chào đời, lớn lên thì đất nước đã có và tồn
tại cùng với “ta”. “Ta” ở đây phải chăng là anh, là chị, là những người còn sống hay
đã chết, là ta của quá khứ hay của tương lai, là cái chung của dân tộc. Năm chữ “Đất
Nước đã có rồi” vang lên đầy tự hào, nó giống như một lời khẳng định về sự trường
tồn của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta
đã được Nguyễn Trãi nhắc đến:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Đến hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể sự hình thành của Đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Truy tìm về cội nguồn của đất nước, khó có ai có thể xác định rõ ràng, minh bạch về
sự khởi thuỷ của hình tượng này. Với Nguyễn Khoa Điềm thì Đất nước được hình
thành từ những nét sống giản dị nhất của người mẹ, người bà. Sau trạng từ chỉ thời
gian”ngày xửa ngày xưa”, người đọc đã hình dung ra biết bao kỉ niệm về tuổi thơ với
những nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh Gióng... Từ những câu chuyện
đó hình ảnh Đất nước hiện lên thật đẹp đẽ, thơ mộng. Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi
cho người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với
nét đẹp của những người phụ nữ Việt xưa. Từ nét đẹp đó, Nguyễn Khoa Điềm đã lý
giải về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” biểu tượng
cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu
tượng của phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách con người Việt Nam xưa và nay. Bên
cạnh đó, hình ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử tình yêu”miếng trầu nên dâu
nhà người”. Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành của đất nước qua quá trình đấu tranh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì nhà thơ
nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có dáng, có hồn, đẹp ngất ngây
trong con mắt nghệ thuật. Hình ảnh “trồng tre mà đánh giặc” gợi cho ta về truyền
thuyết một cậu bé mới ba tuổi đã biết cất tiếng nói trách nhiệm với quê hương, tổ quốc
đó là Thánh Gióng, một biểu tượng cho cốt cách con người Việt, kiên cường, mạnh
mẽ trong đấu tranh chống lại cái ác. Hình tượng đó đã được Tố Hữu đưa vào thơ của mình:
Ta thuở xưa như thần Phù Đổng
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.
Hình ảnh cây tre đại diện cho cốt cách ngay thẳng, bất khuất của con người Việt Nam:
Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi.
Nguyễn Khoa Điềm đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với nhau.
Đó là sự đồng hiện trong cốt cách, phẩm chất của con người Việt Nam như thật thà,
chất phát, đôn hậu thuỷ chung, yêu hoà bình nhưng lại vô cùng kiên cường trong chiến đấu.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những truyền thống, vẻ đẹp
thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Có phải chăng hình tượng người mẹ-người phụ nữ với búi tóc sau đầu đã làm sáng tỏ
sự kín đáo, nhẹ nhàng mà chân chất trong cách ăn mặc của con người Việt Nam. Nét
đẹp của người phụ nữ ấy khiến ta liên tưởng đến câu thơ:
Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh
Vẻ đẹp của con người Việt còn ở phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách của mình.
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng vô cùng độc đáo, nhẹ nhàng mà
thấm đẫm câu thơ. Gừng thì tất nhiên phải cay, muối tất nhiên phải mặn, đó là nguyên
lý của tạo hoá cũng như tình cảm của những người vợ chồng luôn đong đầy và không
lay chuyển. Nó gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người với người:“Gừng càng già càng
cay, muối càng lâu càng mặn.” con người ở với nhau càng lâu thì tình cảm càng đong
đầy. Ý câu thơ được lấy ra từ câu ca dao:
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
“Cái kèo, cái cột thành tên” gợi cho ta nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt xưa.
Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình đoàn tụ, mang đến sự ấm áp, hạnh phúc.. Có
lẽ bởi vậy mà tục đặt tên con là “kèo”, là “cột” ra đời, vừa giản dị lại gần gũi và tránh
được sự dòm ngó của ma quỷ theo quan niệm xưa.
Không những vậy, con người Việt Nam còn mang trong mình phẩm chất cần cù, chăm
chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự chịu thương chịu khó của ông cha ta
trong lao động. Các động từ “xay”, “giã”, “dần”, “sàng” là các công đoạn làm ra hạt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
gạo. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc người đọc cần phải biết trân trọng những
hạt cơm ta ăn hằng ngày vì đó là vào mồ hôi công sức của những người nông dân:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Câu thơ cuối cùng là một lời khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về cội nguồn của Đất nước:
Đất Nước có từ ngày đó...
“Ngày đó” là cái ngày mà ta có truyền thống, có văn hoá. Vậy nên, muốn yêu nước thì
trước hết ta phải yêu văn hoá, truyền thống của dân tộc mình. Thật đáng trân quý,
nâng niu biết bao lời thơ dung dị, nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng đặc sắc, khéo léo các thi liệu
dân gian, những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết hoa chữ Đất
nước thể hiện sự thành kính, thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm chất
văn hoá người Việt và sự thành kính đối với đất nước. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời
thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về
quê hương, đất nước. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá
nhân đối với tổ quốc. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm
vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm
thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi Đất nước hiện ra thật
bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá một vẻ
đẹp mới của đất nước mà qua đó ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc
và trách nhiệm của ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn
giữ đất nước, góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 11
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất nước" - hình tượng thiêng liêng mà quen thuộc, là đề tài muôn thuở và nguồn cảm
hứng bất tận của nghệ thuật, thi ca. "Đất nước" hiện diện trong lời hát, tiếng ru hay làn
điệu dân ca mượt mà, dịu ngọt. "Đất nước" làm rung động biết bao mê say xúc cảm
của các thế hệ thơ Việt Nam, vì vậy, chân dung Tổ quốc được hiện lên muôn hình vạn
trạng dưới những ngòi bút tài hoa. Trong số các tác giả, phải kể đến Nguyễn Khoa
Điềm - một nhà thơ, một nhà chính trị. Có lẽ, nhờ những trải nghiệm cá nhân mà thi sĩ
được nhào nặn trong những năm tháng đấu tranh vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Khoa
Điềm mang cho mình cảm xúc nồng nàn cùng suy tư sâu lắng về tư tưởng "Đất nước
của Nhân dân". Với bản trường ca "Mặt đường khát vọng" ( viết năm 1971 tại chiến
khu Trị-Thiên) , ông chọn điểm nhìn gần gũi, thân quen nhất để miêu tả hình dáng xứ
sở, tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, hào hùng. Tất cả những cảm
xúc được dồn nén trong phần đầu đoạn trích "Đất nước" của tác phẩm
"Khi ta lớn lên ......... Đất nước có từ ngày đó"
Giọng điệu tâm tình thủ thỉ như lời kể chuyện cổ tích, câu thơ dẫn dắt ta đi tìm cội
nguồn đất nước: "Đất nước có từ bao giờ?" - Lời thắc mắc chẳng phải mới nghĩ ra, mà
bao đời nay vẫn không ngừng tìm kiếm câu trả lời thỏa đáng. Bằng những chi tiết giàu
sức gợi, Nguyễn Khoa Điềm có sự lý giải của mình: "Khi ta lớn lên đất nước đã có
rồi" - Đất nước có từ lâu rồi, từ khi ta còn thôi nôi, theo từng bước chân ta lớn, đất
nước lớn lên cùng ta. "Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường
hay kể", tham vọng tìm tuổi Đất nước của nhà thơ thật khó có lời giải, bởi "ngày xửa
ngày xưa.." là đơn vị đo thời gian trừu tượng, mông lung nhất, chẳng ai biết ngày xửa
ngày xưa là từ bao giờ cả, chỉ biết nó rất xa xôi, đã trôi qua từ lâu, rất lâu. "Ngày xửa
ngày xưa.." còn vẽ lên trong tiềm thức ta khung cảnh của những câu truyện cổ tích
"mẹ thường hay kể": cô Tấm bước ra từ quả thị, Thạch Sanh tốt bụng cứu người,
chàng Phù Đổng kiên cường bất khuất, hay những nhân vật chăm chỉ cần cù, người
tiều phu chất phác, ông bụt đôn hậu cười hiền giúp đỡ biết bao nhân vật lương thiện,...
Tất cả, tất cả thế giới thần tiên ấy cứ xuất hiện ám ảnh tâm trí ta mà một khi nghĩ đến
thì thật khó dứt bỏ. "Ngày xửa ngày xưa" mở ra những câu truyện, thì dấu 3 chấm bỏ
lửng ở cuối cụm từ lại khiến người ta cứ mãi suy tư. Người đọc hẳn phải hình dung
mãi những hình tượng truyền thuyết cổ tích ấy, nhớ về cái thời tấm bé ầu ơ đòi bà, đòi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
mẹ kể chuyện. Dưới ánh trăng vàng lặng tuyệt đẹp, chất giọng dìu dịu, hiền từ thổi
hồn cho ước mơ trong lành của những đứa trẻ. Cổ tích là thế đó, đã là người Việt đâu
thể thiếu bóng dáng Thạch Sanh, Thánh Gióng, Mai An Tiêm, hồi nhỏ nghe và liên
tưởng đến cuộc sống màu hồng với bao điều tốt đẹp, chân thiện mĩ lúc nào cũng chiến
thắng, lớn lên thì hiểu, cổ tích là cả một nền văn học dân gian. Nó quá rộng lớn, quá
hùng vĩ, mấy câu thơ đâu thể bao chứa cả một kho tàng văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm
bỏ lửng, trao chiếc chìa khóa để người đọc tự mình khám phá thư viện dân tộc khổng
lồ kia. "Ngày xửa ngày xưa..." cứ ngân vang, da diết, đưa ta về với hành trình tìm câu
hỏi phía ban đầu: "Đất nước hình thành như thế nào"
"Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc"
Nguyễn Khoa Điềm xác định thời khởi thủy của Đất nước, bắt đầu từ miếng trầu, rồi
lớn lên cùng hàng tre dân tộc. "Miếng trầu là đầu câu chuyện", một hình ảnh mộc mạc
đậm chất dân gian lần nữa xuất hiện. Tưởng chừng những thứ xung quanh thân thuộc
và bình dị ấy cứ mãi là điều hiển nhiên, chẳng ai ngờ bằng sự phát hiện của mình,
Nguyễn Khoa Điềm khiến cho bao người lặng mình suy nghĩ. Vì đằng sau những câu
chữ tự sự, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống tốt đẹp của con người Việt
Nam. Mỗi dịp cúng giỗ, lễ Tết, miếng trầu - quả cau luôn xuất hiện trên bàn thờ tổ
tiên, linh thiêng, trân trọng, trở thành biểu tượng cho tấm lòng thành con cháu gửi đến
cha ông, hồn thiêng của tiền nhân. Bên cạnh đó, miếng trầu cũng chính là tình yêu e
ấp thẹn thùng của đôi lứa thời xưa
"Miếng trầu có bốn chữ tòng
Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà
Nào là chào mẹ chào cha
Cậu cô chú bác... mời ra xơi trầu"
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 12
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu.
Nghe dịu nỗi đau của mẹ.
Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ.
Các anh không về mình mẹ lặng im…”.
Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng tôi xốn xao da diết. Nhớ những ngày bé thơ đến
lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả
hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm! Thời gian trôi qua nhanh,
mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc
được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Trong những vần thơ mến
yêu dạt dào cảm hứng ấy, tác phẩm “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nổi bật
hơn cả.., bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức
được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng
Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận – trữ tình.
Đất nước - hai tiếng ấy thật thiêng liêng, tự hào. Nó trở thành đề tài muôn thuở trong
thơ ca chỉ có điều các nhà thơ nhà văn hay dùng những hình ảnh mang tính biểu tượng
để viết về đất nước hay tự tạo ra một khoảng cách để chiêm ngưỡng. Còn trong thơ
Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà rất gần gũi
đối với mỗi người. Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, mỗi
người đều có cách cảm nhận, lí giải riêng của mình. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất
Nước được cảm nhận ở các phương diện lịch sử, địa lý văn hoá …nên tác giả tự hào
mà nói rằng “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”. Nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức
tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự
nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm
hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương
“Đất Nước” chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”
Giọng thơ thủ thỉ, chân thành mà sâu lắng ấy đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về
Nhân Dân – Đất Nước. Đất Nước đã có từ lâu, rất lâu rồi. Khi ta oa oa cất tiếng khóc
chào đời, lớn lên và trưởng thành thì đất nước đã có rồi. Cảm hứng về đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại: “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường
hay kể” giờ còn đọng lại trong tiềm thức với cô Tấm ngoan hiền, với sự tích bánh
chưng bánh dày, bà tiên nhân hậu hay mụ dì ghẻ độc ác, …Hình ảnh Đất Nước vừa
hiện lên vừa giản dị gần gũi, vừa thiêng liêng sâu lắng bởi nó gắn với thế giới tâm hồn
con người, được nuôi dưỡng từ thuở thơ bé và truyền lại cho muôn đời sau “ngày xưa”
chỉ với hai từ mà bao kỉ niệm tuổi ấu thơ lại ùa về.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Trong kho tàng văn học dân gian, nhà thơ đã chọn ra hai câu chuyện để khắc hoạ hình
ảnh đất nước bằng chính những cảm nhận sâu sắc của mình. “Đất Nước bắt đầu” một
câu thơ lí giải sự hình thành đất nước gắn liền với câu chuyện cổ tích cầu cau. Đó là
câu chuyện cổ tích ngợi ca nghĩa anh em và tình vợ chồng gắn bó keo sơn. Đất Nước
bắt đầu với miếng trầu có nghĩa là Đất Nước được hình thành trong lối sống tình
nghĩa. “Miếng trầu bây giờ bà ăn” bắt nguồn từ thuở xa xưa - đó là truyền thống tốt
đẹp - “Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”. Đất Nước được sinh ra và nuôi dưỡng trong
truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc đó là lối sống nghĩa tình. Đất Nước được hình
thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ những cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Câu thơ gợi nhắc truyền thuyết “Thánh Gióng” làm ta nhớ đến một cậu bé lớn nhanh
như thổi để lên đường đánh giặc Ân cứu nước. Một câu chuyện ngợi ca sức mạnh của
tình yêu dân tộc và hình ảnh kì vĩ Thánh Gióng. Và đất nước ta cũng trưởng thành khi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
mọi người cùng nhau đồng lòng chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi. Với Nguyễn
Khoa Điềm, ông đã nhìn thấy sự trưởng thành của Đất Nước trong đau thương, thử
thách nhờ công cuộc đấu tranh và lòng yêu nước của dân tộc. Qua lịch sử, truyền
thống ấy đã trở thành truyền thống yêu nước thiêng liêng.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Trong muôn vàn truyền thống đẹp, nhà thơ chọn ra một hình ảnh thật giản dị nhưng
rất tinh tế đặc sắc: hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu - hình ảnh thật
gần gũi, thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống
lam lũ vất vơ nhưng vẫn duyên dáng, tần tảo, đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm
tháng vẫn không thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng. Và
hình ảnh Đất Nước hiện lên qua chính mỹ tục ấy.
Đất Nước còn hiện lên trong sự gắn liền với một lối sống đẹp “Cha mẹ thương nhau
bằng gừng cay muối mặn”. Câu thơ gợi từ một câu ca dao “gừng cay muối mặn xin
đừng bỏ nhau”. Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Tình yêu được sinh ra và
nuôi dưỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân
trọng, đáng quý. Đó là lối sống trọn nghĩa, trọn tình, thuỷ chung đã trở thành một
truyền thống thiêng liêng được lưu truyền qua bao đời. Và sự sinh thành, phát triển
của Đất Nước song hành cùng với sự lưu truyền và phát triển của truyền thống tốt đẹp
ấy. “Cái kèo, cái cột thành tên” Đất Nước được gắn liền với những hình ảnh đơn sơ,
mộc mạc “cái kèo, cái cột” nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên
một mái ấm gia đình, làng xóm, quê hương, đất nước. Nói cách khác, nó chính là tế bào của đất nước.
Đất Nước hiện lên qua cuộc sống lao động sinh hoạt: “Hạt gạo phải một nắng hai
sương xay, giã, giần, sàng”. Sự hình thành và phát triển của Đất Nước là một quá trình
lâu dài, nhờ bàn tay lao động xây dựng của con người từ thuở sơ khai, khi con người
tạo dựng những cái đơn giản nhất với nỗ lực một nắng hai sương. Con người lao động
đã biết “xay, giã, giần, sàng” để tạo nên hạt gạo, tạo nên những giá trị vật chất để xây
dựng Đất Nước no ấm. Cách sử dụng từ ngữ “một nắng hai sương” và chọn lọc hình
ảnh “xay, giã, giần, sàng” cùng nhịp điệu lan toả gợi sự suy ngẫm liên tưởng, hình ảnh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất Nước hiện dần nhờ bàn tay lao động cần cù, sáng tạo của con người, hình ảnh ấy
hiện dần trong nhịp điệu gạo rơi trên sân, trong tiếng chày, trong máy xay với cuộc
sống lao động bền bỉ dù vất vả, lam lũ. Qua đó ta nhận ra nét đặc trưng riêng của nền
văn học Việt - văn hoá lúa nước. Hình ảnh Đất Nước hiện lên trong cuộc sống sinh
hoạt là một Đất Nước cần cù, sáng tạo trong lao động.
Cũng chính trong cuộc sống lao động sinh hoạt, nhà thơ còn khám ra sự hình thành,
phát triển ngôn ngữ dân tộc gắn liền với nguồn gốc hình thành và phát triển của Đất
Nước: Khi con người biết lao động tạo dựng cuộc sống chính là khi họ biết đặt tên cho
những sự vật hình tượng gần gũi nhất “cái kèo, cái cột”. Và trong quá trình lao động,
trong sự tìm tòi khám phá, sáng tạo nên những giá trị vật chất như hạt gạo, họ đã sáng
tạo nên những ngôn từ ghi lại quá trình lao động ấy “xay, giã, giần, sàng”. Đây là kết
tinh tinh tuý linh hồn của dân tộc. Đất Nước hình thành và phát triển cùng với sự hình
thành tiếng mẹ thiêng liêng ấy. Khám phá Đất Nước ở phương diện văn hóa sinh hoạt,
Nguyễn Khoa Điềm đã phát biểu nhận thức của mình như lối định nghĩa độc đáo, một
cách lí giải không hề mang tính áp đặt mà đầy sức gợi, sức thuyết phục bằng những
câu chuyện, chọn lọc chi tiết giàu ý nghĩa giúp ta nhận ra Đất Nước bắt nguồn từ
những điều giản dị nhất, gần gũi nhất, nhưng bền vững đến muôn đời.
Trong đoạn thơ trên tác giả sử dụng nhiều các yếu tố ca dao dân ca tục ngữ truyền
thuyết cổ tích không chỉ đem đến sự gần gũi mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dân
tộc. Từ “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại 5 lần thể hiện sự thành kính. Với chín
dòng thơ 85 chữ, không hề có một từ hán việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên những
vần thơ tự do dạt dào cảm xúc, kết hợp với chất giọng thủ thỉ tâm tình như một điệu ru
dễ đi vào lòng người. Nhưng chuyển tải mạch cảm xúc ấy là một lối lập luận chặt chẽ:
tổng -phân – hợp. Chính sự kết hợp hài hoà giữa trí tuệ và cảm xúc bay bổng đã làm
sáng lên lối thơ trữ tình chính luận - phong cách độc đáo riêng của Nguyễn Khoa Điềm.
Qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng chừng như đã ăn sâu
vào máu thịt mỗi người dân Việt, qua chiều sâu văn hóa, sinh hoạt Nguyễn Khoa
Điềm đã có một phát hiện, một cảm nhận vô cùng sâu sắc: Đất Nước hiện lên trong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt, trong cuộc sống sinh hoạt từ bao đời. Đất
Nước hiện lên gắn liền với những phong tục tập quán với lối sống, nếp nghĩ, qua kho
tàng văn học dân gian, qua bản sắc văn hoá... Đó là một Đất Nước không trừu tượng
mà cụ thể, chứa đựng mơ ước, khát vọng, quan niệm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm hồn
dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiện lên thật sống động, lung linh: trong cuộc sống,
trong lao động và trong chiến đấu.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 13
Đầu năm 1971, đang công tác trong thành ủy Huế, Nguyễn Khoa Điềm được mời
tham gia trại sáng tác tổ chức ở đất bạn Lào. Nhà thơ rất thích nhạc giao hưởng ấy tâm
sự: Tôi nghĩ tôi sẽ viết một bản giao hưởng bằng ngôn ngữ. Và trường ca Mặt đường
khát vọng đã ra đời. Trường ca gồm chín chương. Đoạn thơ Đất Nước trích từ phần
đầu của chương V có tên là Đất Nước. Trong thơ kháng chiến chống Mỹ đất nước là
chủ đề bao trùm. Các thế hệ trước nhiều người viết rất hay về đề tài đất nước, cho nên
Nguyễn Khoa Điềm tìm cách thể hiện mới, chọn chất liệu từ đời sống dân gian để thấy
rằng đất nước là ý niệm thiêng liêng, nhưng cũng thật gần gũi và giản dị.
Đất nước có từ đâu? Đất nước là gì? “Đất nước”, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy chẳng
phải ở đâu xa mà ở ngay trong mỗi gia đình chúng ta: từ lời kể chuyện của mẹ, miếng
trầu của bà, đến phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt
gạo, hòn than, cái kèo, cái cột trong nhà:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”
Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể
hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước. Lịch sử sâu thẳm
của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các vương triều
hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô Đại Cáo”:
“Như nước Đại Việt ta từ thuở trước
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc – Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương”
Mà bằng những hình ảnh gần gũi, thân quen, bằng những câu thơ gợi nhớ đến truyền
thuyết xa xưa, đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng những phong tục tập quán
độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm
hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử:
“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích “Trầu cau” từ đời vua Hùng dựng
nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son; về truyền thuyết
Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, trở thành bài ca giữ nước hào hùng của nhân
dân đã trở thành lịch sử đất nước:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc n
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi” (Tố Hữu)
Nghĩa là, lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể, trong
miếng trầu bà ăn thường ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân quen quanh ta.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Bằng thể loại trữ tình chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một cách cảm nhận,
một định nghĩa về đất nước để từ đó rút ra một quan niệm về đất nước. Bao trùm là tư tưởng, quan niệm:
Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại
Trước hết, tác giả cảm nhận đất nước qua những hình ảnh bình dị, cụ thể, gần gũi:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa... mẹ thường hay kể Đất Nước bắt
đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phủi một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó
Từ những hình ảnh bình dị, cụ thể: miếng trầu bà ăn, mảnh đất trồng tre đánh giặc, cái
kèo, cái cột, ngôi nhà ta ở, hạt gạo một nắng hai sương ta ăn..., tác giả muốn nói rằng
đất nước không ở đâu xa mà rất gần gũi, thân thiết, gắn bó trong đời sống của mỗi gia
đình hàng ngày và từ bao đời nay. Và mỗi đứa trẻ lớn lên trong không gian cụ thể ấy
sẽ được bà, cha mẹ truyền cho ý niệm về đất nước thông qua những câu chuyện huyền
thoại cổ tích, dần dần khái niệm về đất nước sẽ hình thành trong tâm hồn mỗi con
người, đến khi lớn lên đứa bé sẽ nhận thức được đất nước. Những hình ảnh này còn
gợi liên tưởng, mở ra đời sống của dân tộc, theo chiều dài thời gian qua hàng ngàn
năm dựng nước, giữ nước. Trong quá trình lịch sử hình thành và lớn lên đất nước đã
được nhân dân xây dựng nền văn minh nông nghiệp lúa nước với phong tục tập quán
riêng: ăn trầu, bới tóc. và hình thành tâm hồn tính cách riêng: thủy chung trong tình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
yêu, cần cù trong lao động. Nhân dân cũng xây dựng truyền thống yêu nước anh hùng
chống giặc ngoại xâm: trồng tre đánh giặc. Đất nước được nhân dân xây dựng sáng
tạo từ buổi đầu, lại gắn bó với đời sống vật chất và trong tâm thức của nhân dân từ xa
xưa đến nay, nên đất nước này là của nhân dân.
Đoạn thơ Đất Nước có giọng điệu tâm tình, sự liên tưởng phóng túng nhưng tập trung
thể hiện cách cảm nhận về đất nước của tác giả theo chiều bình diện rất rõ ràng.
Tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở chiều rộng không gian, địa lí, lãnh thổ. Đó là
một không gian cụ thể, thân thiết đầy đủ dấu yêu đối với mỗi con người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Con đường đến trường, bến sông, nơi lứa đôi yêu nhau hò hẹn, tương tự gợi ra không
gian, khung cảnh cụ thể, thân quen gần gũi nhưng không kém phần đẹp đẽ thơ mộng.
Đó là không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao nhiêu thế hệ. Đất nước luôn gắn bó
với anh và em trong suốt cuộc đời. Khi lớn lên nhiều mảnh đất trở thành kỉ niệm. Do
đó, đất nước gắn bó trong chiều sâu của tâm hồn. Đất nước sẽ mở rộng ra và lớn lên
mãi theo mỗi cuộc đời, lúc đầu là ngôi nhà, rồi con đường, bến sông và xa hơn nữa là
không gian rộng lớn với núi sông, rừng, biển:
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi
Hai câu thơ mượn lời dân ca Bình Trị Thiên đã mở ra một không gian đẹp thơ mộng,
bát ngát tráng lệ, huy hoàng; vừa thân quen, cụ thể vừa lãng mạn bay bổng như trong
huyền thoại. Viết về phong cảnh non sông gấm vóc, giàu có ấy, nhà thơ đã bộc lộ tình
yêu đất nước say đắm.
Thành công nghệ thuật của đoạn thơ là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không gian
nghệ thuật riêng đưa ta vào thế giới gần gũi, mĩ lệ, giàu sức bay bổng của ca dao
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
truyền thuyết, văn hóa dân gian. Đây là điểm đặc sắc của hình thức nghệ thuật thống
nhất với nội dung tư tưởng.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 14
Con người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy
trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc.
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ,
bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một
trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca
Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất
nước. Mở đầu đoạn trích, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất nước vô cùng thân thương.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc
đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng
nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách
nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca Mặt đường
khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Đất
nước thuộc chương V của bản Trường ca. Ở đoạn trích, tác giả lí giải cội nguồn của
Đất nước; và cội nguồn đó được lí giải vô cùng tinh tế qua 9 câu đầu của bài thơ:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
….………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó…”
Mở đầu đoạn thơ, tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu rồi,
khi mà con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê
hương. Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử
thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận
bây giờ. Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì
rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời hát
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng chúng ta
khôn lớn, làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành một
phần kí ức tốt đẹp khiến ta không thể quên. Những câu chuyện cổ tích, những bài học
đạo lí làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng được gửi gắm vào
câu ca dao đó đã góp phần tạo nên Đất nước đa dạng về văn hóa như hiện nay.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Nhai trầu từ lâu đã trở thành một thói quen không thể thiếu của những người phụ nữ
Việt Nam nhất là các bà, các mẹ và từ lâu dân gian ta đã có câu chuyện sự tích trầu
cau nói về tình nghĩa con người. Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của
hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh
đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh
nhổ cả lũy tre giơ cao đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người
nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên
cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng
bước đi lên trưởng thành của một dân tộc, của một đất nước con người ý thức được về
đất nước, về sự tồn tại của đất nước và ý thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ
lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.
Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến
những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam :
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liền với mái tóc dài, được búi
gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, người mẹ, người chị, của một
người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng.
Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong con người như
câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau
lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.
Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa
Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo,
cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng
chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng
nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước. Ngôi
nhà là mái ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn
thành sự phát triển đất nước. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai
sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các
động từ “xay – giã – dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được
hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả gieo cấy,
chăm sóc, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn
nhọc nhằn của người nông dân vất vả nắng mưa. Thành quả ngọt ngào này không chỉ
giúp dân ta có đời sống no ấm mà nó còn trở thành nền văn minh lúa nước mà khi
nhắc đến người ta biết ngay đến Việt Nam; không chỉ dừng lại ở đó, nền văn minh này
đã giúp cho nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế giới và toàn cầu biết đến lúa gạo Việt Nam.
Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định:
“Đất Nước có từ ngày đó…”
“Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết
rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
có nhiều văn hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong
tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông
nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ… cùng với ngôn ngữ mộc mạc,
giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình và điệp từ “Đất nước”, tác giả
Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn
của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của truyền
thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng đất nước của nhân dân.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với bản trường ca “Mặt đường khát
vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp
đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả
sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất
nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước này.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 15
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi ................
Đất Nước có từ ngày đó".
Đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước.
Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng như kể chuyện
cổ tích, như dẫn hồn ta ngược thời gian trở về cội nguồn Đất Nước và dân tộc. Bốn
chữ "ngày xửa ngày xưa" dùng rất khéo:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa ..." mẹ thường hay kể.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Chữ "có" trong "đã có rồi", "Đất Nước có trong những cái..." đã làm cho ý thơ khẳng
định, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích Trầu - Cau gợi lên hình ảnh Đất
Nước xa xưa, "Đất Nước bắt đầu"... Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết sự vươn
mình của dân tộc, đánh dấu sức mạnh quật khởi "Đất Nước lớn lên". Câu thơ mở rộng
đến 12, 13 chữ, với cách gieo vần lưng (đầu - trầu, ăn - dân) nên vẫn thanh thoát, giàu âm điệu:
"Đất Nước bắt đầu với miếng trầu giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình trồng tre mà đánh giặc".
Hai chữ "lớn lên" liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai thành
một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược.
Rồi nhà thơ nói đến phong tục và đạo lí tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Phong tục
"bới tóc" của người Lạc Việt. Câu ca dao nói về đạo vợ chồng: "Tay bưng chén muối
đĩa gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng quên đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
"Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn".
Chuyện "ngày xửa ngày xưa" nhưng vẫn hiện diện trên "tóc mẹ" trong tình thương của
"cha mẹ" bây giờ. "Đất Nước đã có rồi", "Đất Nước có...", "Đất Nước bắt đầu", "Đất
Nước lớn lên" và Đất Nước đang hiện diện quanh ta, gần gũi ta.
Tiếp theo, nhà thơ lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ dân tộc để nói về nguồn
gốc lâu đời của Đất Nước. Mỗi vật dụng đều có một cái tẽn riêng: "Cái cột, cái kèo
thành tên". Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Nghề trồng lúa nước tạo nên
nền văn minh sông Hồng. Khi hạt gạo được sáng tạo nên bằng công sức "một nắng hai
sương", thì ngôn từ "xay, giã, giần, sàng" cũng xuất hiện. Tiếng Việt là của quý lâu
đời của Đất Nước ta, Nhân Dân ta. Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm thật ý vị:
"Cái kèo, cái cột thành tên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó".
Lấp lánh trong đoạn thơ là hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá khứ của Đất Nước "ngày
xửa ngày xưa" đồng hiện trong "miếng trầu bây giờ bà ăn". Có Đất Nước anh hùng
"biết trồng tre mà đánh giặc". Có Đất Nước cần cù trong lao động sản xuất: "Hạt gạo
phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng". Có nền văn hóa giàu bản sắc, nền văn
hiến rực rỡ hội tụ qua thuần phong mỹ tục (tục ăn trầu, tục bới tóc), qua tục ngữ ca
dao "gừng cay muối mặn", qua cổ tích thần thoại, truyền thuyết.
Đoạn thơ 9 câu, 85 chữ mà không hề có một từ Hán Việt nào. Ngôn từ bình dị, cách
nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có
miếng trầu, cây tre, tóc mẹ, ... Có "gừng cay muối mặn" cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v...
Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong
phủ, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp" để ta yêu
thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: "tổng – phân – hợp"; mở
đầu là câu "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", khép lại đoạn thơ là câu "Đất Nước có
từ ngày đó".Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ
tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 16
Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn
từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng.
Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: “Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền
thoại, của những anh hùng nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân
dân”. “Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước Giản dị, gần gũi nhất”. Rút ra từ
trường ca “Mặt đường khát vọng”, đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh của những
sáng tạo độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã
đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
…………………………..
Đất Nước có từ ngày đó
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thơ
năm chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm
lắng đọng, giàu chất suy tư. Phân tích Đất Nước mới thấy được đây là một đoạn trích
tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Đất Nước là phần đầu chương V của
trường ca “Mặt đường khát vọng” – tác phẩm được ra đời vào năm 1971, giữa lúc của
kháng chiến chống Mỹ diễn ra khốc liệt.
Đất Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những “cái ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn bây giờ
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đất Nước vốn là giá trị bền vững, vĩnh hằng; Đất Nước được tạo dựng, bồi đắp qua
nhiều thế hệ, được truyền từ đời này, sang đời khác: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có
rồi. Đứng trước một Đất Nước thiêng liêng như thế, lòng thơ dâng trào niềm xúc động
và thành kính. Hai từ “Đất Nước” được viết hoa một cách trang trọng. Đó là cách mà
nhà thơ thể hiện niềm tự hào và lòng thành kính trước Đất Nước của mình. Khi ta cất
tiếng khóc chào đời, khi ta lớn lên, Đất Nước đã hiện hữu. Đất Nước có từ bao giờ/
Suy ngẫm về cội nguồn của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm bỗng phát hiện: Đất Nước
có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ kể/ Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn.
Mẹ Đất Nước vừa cổ kính lâu đời vừa bình dị, mộc mạc hiện ra trong câu thơ của
Nguyễn Khoa Điềm. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện cao dao,
cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ,
là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.
Cùng với tục ăn trầu, Đất Nước còn, gắn liền với những phong tục khác:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
– Tóc mẹ thì bới sau đầu
– Cái kèo cái cột thành tên
Thân thương, mộc mạc biết chừng nào là búi tóc sau đầu của mẹ, là những nếp nhà
dựng lên từ cái kèo, cái cột, mái lá, tường rơm, vách đất; là cách đặt tên con giản dị
nôm na. Mộc mạc, thân thương vật như đó cũng là một phần của Đất Nước. Và Đất
Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Hình ảnh Đất Nước thật thân
thuộc với những lũy tre xanh rì, những búp măng non bật mình vươn thẳng. Có thể
thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây trẻ trở
thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước,
biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất
chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc. Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm
làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình.
Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc
đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người.
Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước còn ẩn mình trong những vật nhỏ bé nhất. Đất
Nước ẩn mình trong hạt muối, nhánh gừng; đằm sâu trong tình thương mẹ cha: Cha
mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Được chắt lọc từ văn hóa dân gian, câu thơ
trầm tích những ý từ xâu xa. Dù sống cuộc sống thiếu thốn, gian khổ, cha mẹ ta vẫn
thương yêu nhau như gừng cay muối mặn, vẫn gắn bó trước sau, mặn mà, đinh ninh.
Đất Nước mình giản dị thân thương là thế. Hình ảnh Đất Nước còn có trong từng bông
lúa, củ khoai: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng. Hình ảnh thơ giản
dị nhưng gợi ra tập quán sản xuất gắn liền với văn minh lúa nước của dân tộc Việt
Nam. Để làm ra hạt gạo trắng ngần, bát cơm thơm, người nông dân phải dầm sương,
dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tỉ mỉ xay, giã, dần, sàng. Hình ảnh thơ
gợi lên bao sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn cùng phẩm chất cần cù, chịu khó của những
người chân lấm, tay bùn.
9 câu đầu khép lại bằng tứ thơ khái quát về thời điểm hình thành Đất Nước: Đất Nước
có từ ngày đó. Ngày đó vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi
dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết
sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy.
Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ mà không hề có một từ Hán Việt. Ngôn ngữ thơ bình
dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài
hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để ta thêm
yêu và tự hào về Đất Nước.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 17
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim
con người. Với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ
nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi
cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần
thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh
ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam
trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với
hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước:
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình
trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
trước ngõ… gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son
tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả
cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn
nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của
một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia
đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất
nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia.
Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào:
Tay bưng đĩa muối chén gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và
giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng
của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.
Với thể thơ tự do cùng những hình ảnh dân gian độc đáo, tác giả đã đưa ra nguồn gốc
của Đất nước một cách khác biệt mà cũng rất chính xác. Tác phẩm đã góp phần to lớn
vào việc làm phong phú văn chương nước nhà cũng như khẳng định đất nước này là của con người Việt Nam
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 18
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Khổ thơ thứ nhất (9 câu đầu): Sau khi điểm qua hai quá trình "bắt đầu" và "lớn lên"
của đất nước, tác giả khẳng định: "Đất Nước có từ ngày đó..." - từ rất xa xưa. Những
cái xa xưa thường hay xa lạ, nhưng đất nước thì không - đất nước gần gũi với mọi người.
Mở đầu là những lời bình dị nhưng hàm súc: "Khi ta lớn lên, Đất Nước đã có rồi". Đất
nước thành bậc tiền nhân. Mọi người đều được nuôi dưỡng từ đất nước... Nhắc lại
điệp khúc "ngày xửa ngày xưa...", tác giả muốn chứng tỏ đất nước hình thành từ rất
lâu, đất nước có trong từng lời mẹ kể.
Gắn liền với sinh hoạt gia đình: "Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn". Tứ
thơ này làm sống lại nhiều câu tục ngữ, ca dao và truyện Trầu cau bi thương, tình
nghĩa. Qua hình ảnh "miếng trầu", Nguyễn Khoa Điềm "nhân dân hóa" thơ mình và có
thêm một bằng chứng về đất nước hình thành từ xa xưa. Tuy vậy, đất nước chỉ lớn lên
với truyền thống: "dân mình biết trồng tre mà đánh giặc" và quá trình hình thành nhiều phong tục, tập quán:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Nguyễn Khoa Điềm thật sự xúc động khi nói đến:"Cha mẹ thương nhau bằng gừng
cay muối mặn". Đó lời ngợi ca tình nghĩa, thuỷ chung trong gian khó. Chữ "thương"
giúp thơ ông gần văn học bình dân. "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"- điều ấy, hiển
nhiên như khi ta lớn lên đã có ông bà, cha mẹ... Đất nước gắn bó, thân thiết như người
ruột thịt và bao công việc lao động khác:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là lúc con người khép lại thời "dã man" bước vào giai đoạn văn minh. Tứ thơ "cái
kèo, cái cột thành tên" còn gợi tập tục đặt tên mộc mạc để mong sự bình yên. Đất
nước ta gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước: "Hạt gạo phải một nắng hai sương
xay, giã, giần, sàng". Làm nên hạt gạo trắng thơm phải trải qua nhiều công đoạn, phải
đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Quá trình hình thành đất nước cũng đau đớn như chuyện
nhân loại hoài thai, sinh nở.
Từ những lời phân tích trên đây, có thể thấy Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác một
cách triệt để vốn văn hoá dân gian. Hàng loạt câu tục ngữ, ca dao, truyền thuyết, cổ
tích, phong tục, tập quán đã được tái tạo, sáng tạo lại. Không chỉ hay ở phương diện
câu chữ, cấu trúc và lời kết đoạn đã gây được ấn tượng. "Khi ta lớn lên đất nước đã có
rồi", đất nước bắt đầu, đất nước lớn lên... chặng đường nào cũng song hành với cuộc
sống nhân dân. Tác giả nêu nhiều chứng cứ để làm sáng tỏ kết luận: "Đất Nước có từ
ngày đó..." - từ "ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể". Trong suốt quá trình ấy, đất
nước gắn bó với mọi gia đình và từng cá nhân. Đó là cơ sở vững chắc để tác giả tiếp
tục triển khai tư tưởng Đất Nước này là đất Nước Nhân dân ở 3 khổ thơ sau.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 19
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ
trong những năm tháng trường kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn đọc giả bởi sự
kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và
con người Việt Nam.Nổi lên cho phong cách sáng tác của ông là “Trường ca Mặt
đường khát vọng”, được ông sáng tác ở chiến khu Trị-Thiên năm 1971, in xuất bản lần
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiến miền Nam về
trách nhiệm với non sông đất nước và sứ mệnh thế hệ mình , hơn cả là hòa mình với
cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Đoạn trích bài thơ “Đất nước” nằm ở phần đầu
chương V của tường ca. 9 câu thơ mở đầu của đoạn trích là 9 câu thơ nói lên quan
điểm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
Với 9 câu thơ đầu tác giả đã thể hiện quan điểm mới mẻ của mình về cội nguồn đất nước:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Mở đầu trong đoạn trích, tác giả đã muốn khẳng định “khi ta lớn lên Đất Nước đã có
rồi”. Chẳng biết là đất nước hình thành và có từ bao giờ, chỉ biết là khi ta lớn lên thì
đất nước đã có ở đây rồi. Đó chính là lời khẳng định chắc chắn về sự trường tồn của đất nước.
Sau khẳng định chắc nịch về sự tồn tại của đất nước, tác giả dần dần vén màn cho ta
thấy rõ hơn về nguồn gốc của đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Dòng thơ “ngày xửa ngày xưa” là mở đầu cho từng một câu chuyện cổ tích mà các bà,
các mẹ hay kể chuyện cho các con cháu nghe.Cũng chẳng biết từ khi nào, chỉ biết là
từ “ngày xửa ngày xưa” hình thành đất nước đã có rồi. Những câu chuyện cổ tích
truyền thuyết ra đời là từ đất nước.
Đó là hình ảnh Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện
cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. Với nhà thơ, hai từ “đất nước” còn bắt đầu với
miếng trầu bà ăn. Người xưa thường xuyên nói “miếng trầu là đầu câu chuyện”, đó
hẳn là bởi vì tục ăn trầu là một trong những phong tục lâu đời của Việt Nam ta.
Hình ảnh của “miếng trầu” cũng như là hình ảnh của sự khởi đầu. Đất Nước đã có từ
khi dân mình có tục ăn trầu và tục ăn trầu của nhân dân cũng là khởi đầu cho một đất
nước, khởi đầu cho một nền văn hiến.
Bắt đầu của một sự sống và những bước trưởng thành của sự sống đó. Sau sự bắt đầu
của một Đất Nước chính là sự trưởng thành của cả một dân tộc:
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần
đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những
câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre dơ cao đánh đuổi giặc.
Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà
chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực
tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc,
của một đất nước con người . Ý thức được về đất nước, về sự tồn tại của đất nước và ý
thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 20
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là những trang thơ đậm chất suy luận, nhưng lại
thấm đẫm, nồng nàn trong cảm xúc. Bởi thế mà dẫu viết về một đề tài đã cũ, đã quen,
nhưng cách khai thác chất liệu mới mẻ, sáng tạo đã giúp nhà thơ tạo được dấu ấn riêng
trong lòng người đọc. Đặc biệt, 9 câu thơ mở đầu Đất Nước, trong mạch cảm xúc trăn
trở, tìm về cội nguồn lịch sử của dân tộc, đã thể hiện rất rõ điều đó.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”
Đất Nước đã lớn lên, và được hình thành dựng xây từ khi ta còn chập chững những
tiếng khóc đầu tiên, từ trong mạch nguồn văn hóa thẳm sâu, mà trước hết ở đây, nó
hiện diện trong lời kể của mẹ. Mẹ kể cho ta nghe về những câu chuyện cổ tích thuở
xưa, và nhuần thấm trong những câu chuyện dân gian bay bổng, lãng mạn chất chứa
mơ ước hi vọng của người dân lao động nghèo, là hình ảnh đất nước một nắng hai
sương có từ ngày đó. Nghĩa là, Đất Nước đã gắn liền với mỗi người từ thuở ấu thơ, từ
những gì thân thương bình dị nhất, chính vì thế mà đất nước hiện lên không phải là
hình ảnh quá đỗi lớn lao, vĩ đại của non kỳ thủy tú, giang sơn gấm vóc tươi đẹp trong
thơ ca trước đó ta từng thấy, mà nó đẹp trong nét mộc mạc, gần gũi, giản dị của chính
nó. Để rồi, tiếp tục mạch chảy của các chất liệu dân gian, hình ảnh đất nước hiện lên
như được bồi đắp, tạo xây vẻ đẹp lịch sử, sâu xa của mình từ những phong tục tập
quán của người Việt cổ, trong những truyền thuyết lịch sử hào hùng:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên”
Hình ảnh miếng trầu có lẽ đã trở nên rất đỗi quen thuộc trong các bài ca dao, dân ca,
trong cả những câu hát giao duyên của tình yêu đôi lứa: trầu này trầu tính trầu tình, ăn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
vào cho đỏ môi mình môi ta. Mượn chất liệu dân gian gắn liền vẻ đẹp của phong tục
văn hóa để trả lời cho câu hỏi về mạch nguồn lịch sử đất nước, đã giúp cho câu văn
của Nguyễn Khoa Điềm không triết lý khô khan, mà nhuần thấm những phong vị xưa,
mềm mại, bay bổng. Rồi cả sự tích Thánh Gióng đánh giặc cũng được liệt kê một cách
khéo léo vào mạch thơ, từ đó làm nên sự hài hòa của các chất liệu dân gian. Tục bởi
tó, đặt tên mộc mạc, chất phác của người Việt xưa, kết hợp những yếu tố ấy lại với
nhau, phải chăng Nguyễn Khoa Điềm muốn khẳng định, Đất Nước không chỉ có trong
ký ức tuổi thơ, mà còn hòa mình đằm thắm vào mạch nguồn văn hóa, tạo nên nét đẹp
gần gũi, bình dị và thân thương đến lạ với người đọc khi cảm nhận tác phẩm.
Không chỉ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi về sự hình thành đất nước, nhà thơ còn gián
tiếp qua đó gợi hình ảnh tần tảo của người dân lao động cần lao, đồng thời khắc họa
nét đẹp tâm hồn của con người dân tộc.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Bằng cách sử dụng sáng tạo các chất liệu dân gian, 9 khổ thơ đầu đã giúp Nguyễn
Khoa Điềm không chỉ trả lời cho câu hỏi về cội nguồn, lịch sử hình thành Đất Nước,
mà còn như gợi lại trong thẳm sâu tâm hồn người đọc những vẻ đẹp văn hóa phong
tục đã được đắp bồi dưỡng nuôi trong hàng ngàn thế hệ, cũng từ đó, như một cánh
cửa, đưa ta ngược dòng về với vẻ đẹp bình dị, xưa cũ của dân tộc.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 21
Bài thơ Đất nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng của nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ hay và xúc động về tình cảm của một người con
Đất nước với Tổ quốc yêu thương của mình. Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật
đặc sắc giàu giá trị văn hóa, giá trị nhân văn sâu sắc mà tiêu biểu là 9 câu thơ đầu trong bài thơ.
Đất nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”
Bốn từ “ngày xửa ngày xưa” sao quá đỗi quen thuộc với chúng ta. Nó xuất hiện trong
những câu chuyện cổ tích bà kể, trong những lời ru tha thiết của mẹ ru con trong giấc
say nồng. Nó thể hiện sự kì diệu về sự sinh thành và phát triển của Đất nước, của
những đặc trưng rất riêng của con người Đất nước. Hình ảnh Đất nước vừa hiện lên
vừa giản dị gần gũi, vừa thiêng liêng sâu lắng bởi nó gắn với thế giới tâm hồn con
người, được nuôi dưỡng bởi việc truyền đời cho con cháu đời sau, những cái “ngày
xưa” ấy là bao kỉ niệm cho những chiến tích lịch sử văn hóa đã qua. Đất nước được
nói đến qua khía cạnh, bắt đầu với miếng trầu có nghĩa là Đất nước được hình thành
trong lối sống tình nghĩa. “Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”, thể hiện lối sống giản dị,
chân chất của con người Đất nước. Lối sống nghĩa tình ấy trở thành truyền thống đạo
lí tốt đẹp của dân tộc ta. Đất nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh
và trưởng thành nhờ những cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
“Tóc mẹ thì bới sau đầu” hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu, hình
ảnh thật gần gũi, thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con người trong
cuộc sống lam lũ vất vả nhưng vẫn duyên dáng, đẹp dịu hiền, đảm đang. Hình ảnh ấy
qua bao năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất nước còn hiện lên trong sự gắn liền với một lối sống đẹp, cái cội nguồn của sự
sống, đó chính là ân nghĩa vợ chồng. Con người Việt ta từ xưa đã luôn coi trọng đạo
lý, coi gia đình và hôn nhân là điều thiêng liêng và đáng trân trọng. Cha mẹ sinh ra coi
cái không phải nuôi con do trách nhiệm mà đó là nghĩa tình, đó là niềm hạnh phúc
sum vầy của tình cảm gia đình, càng đông càng vui. Cuộc sống mưu sinh vất vả nhưng
sự thủy chung, sắt son “đồng vợ đồng chồng tát biển Đông cũng cạn” đã giúp cho
người Việt ta vượt lên tất cả. Cuộc sống bấp bênh, nhiều khó khăn vất vả, chỉ có
“gừng cay” và “muối mặn” chứ ít khi ngọt ngào nhưng cũng chính vì lẽ đó mà con
người ta biết trân trọng hạnh phúc nhiều hơn.
Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Tình yêu được sinh ra và nuôi dưỡng từ
trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng
quý. Đó là lối sống trọn nghĩa, trọn tình, thuỷ chung đã trở thành một truyền thống
thiêng liêng được lưu truyền qua bao đời. Cũng chính từ cái tình cảm đáng quý ấy là
một tấm gương, bài học đáng quý truyền đời cho các thế hệ sau về cách sống nhân nghĩa ân tình này.
Đất nước còn được gắn liền với những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc “cái kèo, cái cột”
nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, làng
xóm, quê hương, Đất nước. Đất nước hiện lên qua cuộc sống lao động sinh hoạt: “Hạt
gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Sự hình thành và phát triển của Đất
nước là một quá trình lâu dài, nhờ những giọt mồ hôi của công sức lao động vất vả,
một nắng hai sương mà có được. Con người lao động đã biết “xay, giã, giần, sàng” để
tạo nên hạt gạo để xây dựng Đất nước no ấm. Những hình ảnh trên đều gần gũi, chân
thành vô cùng. Cũng chính đi đi lên và trưởng thành trong gian khó mà nhân dân ta
biết thương nhau, biết đến sự đoàn kết nhiều hơn, biết trân trọng những giá trị lao
động và hun đúc ý chí con người quật cường và gan dạ.
Nguyễn Khoa Điềm có điểm nhìn rất gần gũi, thân thuộc bình dị để miêu tả về Đất
nước. Đến với bài thơ ta càng thêm thấu hiểu về quê hương Đất nước với những
truyền thống, nét văn hóa đáng trân trọng và ngợi ca. Đất nước trong chúng ta chính là
những tình cảm thân thương và gần gũi nhất.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 22
Cảm hứng về đất nước, về tầm vóc đáng tự hào của nó là một cảm hứng vốn quen
thuộc của thơ ca hiện đại giai đoạn từ 1945 đến 1975. Bất cứ ai cũng nhận ra rằng từ
sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc, tổ quốc đã thực sự lớn mạnh của Thánh Gióng.
Đó chính là hiện thực, là tiền đề thẩm mĩ cất cánh cho những dòng cảm xúc đáng trân
trọng về vóc dáng của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam. Là một nhà thơ trẻ,
trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước, nặng tình với non sông, người trí thức
Nguyễn Khoa Điềm cũng góp riêng một tiếng nói của mình để khẳng định sự lớn dậy
ấy. Với 9 câu thơ mở đầu bài thơ "Đất nước" trích trường ca "Mặt đường khát vọng",
Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về đất nước.
Điểm rất mới của Nguyễn Khoa Điềm là đề cập đến một đề tài rất khái quát, nếu
không muốn nói là trừu tượng, đề tài đất nước, nhưng những hình ảnh thơ, chất liệu cụ
để dựng nên tầm vóc đó lại rất cụ thể, gần gũi. Để nói lên sự hiện hữu của đất nước
này ở chiều sâu của thời gian, chiều rộng của không gian, trong đoạn mở đầu, ông đã
tập trung sử dụng rất nhiều hình ảnh hết sức cụ thể, gần gũi đầy thân thương nhưng lại
có sức liên tưởng mãnh liệt và tính khái quát cao. Đặc biệt, ông nối kết để tạo nên
mạch thơ nói về sự hiện hữu của đất nước bằng điệp từ có. Điệp từ này đã nối kết
những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời,
khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất
nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Ta hãy nghe nhà thơ bộc lộ suy nghĩ của mình.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...
Đọc đoạn thơ, ta không thể không chú ý đến những hình ảnh thơ đầy sức tưởng tưởng
của tác giả về sự hiện hữu của đất nước. Mỗi hình ảnh lại gợi một sự hiện hữu nhằm
khẳng định nét riêng không trộn lẫn của đất nước này. "Ngày xửa ngày xưa" một ngôn
ngữ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích; hình ảnh người bà - nhà thơ muốn nói rằng
đất nước này đã tồn tại từ lâu đời, tồn tại từ thuở "Mang gươm đi giữ nước – Nghìn
năm thương nhớ đất Thăng Long", cái thuở Nam quốc sơn hà. Từ đó, đất nước lớn lên
với những phong tục, cốt cách của một dân tộc đậm tình, đậm nghĩa nhưng cũng sẵn
sàng xả thân khi Tổ quốc lâm nguy. Thân thương gần gũi biết bao khi đất nước hiện
hữu vừa thật nhỏ nhoi, lại vừa thật tình cảm nơi miếng trầu bây giờ bà ăn. Ở đây, sức
liên tưởng thật sáng tạo, đầy ắp những nét đẹp về phong tục, tập quán, bản sắc quê hương:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Ở đó, có những bàn tay, những trái tim, những con người cần cù chịu thương chịu
khó, lam lũ cần cù, một nắng hai sương. Đặc biệt ở đó, có sự tồn tụ hiện hữu có khi
phải được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi, nước mắt của cả một dân tộc luôn cần
phải rũ bùn đứng dậy tự khẳng định mình.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...
Cũng trong đoạn thơ này, ngoài hình ảnh là việc sử dụng những từ xưng hô tạo một
quan hệ tình cảm đầy máu thịt của cộng đồng người Việt. Dường như với cách gọi
này, tất cả như quây quần, hội tụ, đoàn kết, châu tuần chung một dòng máu, một huyết
thống Rồng - Tiên. Đó là từ mẹ, từ cha, từ bà, dân mình quá đỗi ngọt ngào trong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
những cách xưng hô đằm thắm, mang dẩy bản sắc Việt Nam ấy. Chúng tạo nên một
phong vị, một sức gợi đầy thẩm mĩ về Đất Nước, con người Việt Nam, thân ái, thủy
chung, giàu truyền thống, giàu tình nghĩa, đạo lí làm người. Ở đoạn hai, tác giả lại
ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến
những định nghĩa rất riêng rất chung về đất nước.
Có thể khẳng định rằng, sức mạnh của đoạn thơ là do có rất nhiều hình ảnh, phong
phú, đa dạng. Tất cả lại được diễn tả với một giọng thơ hết sức tự nhiên, không ồn ào
của hình thức thơ - văn xuôi, thơ tự do khiến cho hiệu quả thẩm mĩ càng lớn. Điều
đáng nói là từ những hình ảnh đó, với sức suy tưởng lo lắng của một trí thức trẻ khả
năng gợi mở, vang ngân, liên tưởng của thơ càng lớn. Nó đủ sức để khái quát một
cách đầy đủ tầm vóc, thế đứng, dáng đứng của một Đất Nước trong chiều hướng ấy
thật trầm lắng, đáng tự hào về chiều sâu lịch sử, chiều dài và chiều sâu của thời đại.
Đó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại, tương lai. Một vẻ đẹp nói như Tố Hữu:
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu.
Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết
trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu
thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết
mấy. Đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng xứng đáng là một khúc
ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, đất nước và con người Việt Nam.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 23
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ
trong những năm tháng trường kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn đọc giả bởi sự
kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và
con người Việt Nam.Nổi lên cho phong cách sáng tác của ông là “Trường ca Mặt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
đường khát vọng”, được ông sáng tác ở chiến khu Trị-Thiên năm 1971, in xuất bản lần
đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về
trách nhiệm với non sông đất nước và sứ mệnh thế hệ mình , hơn cả là hòa mình với
cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Đoạn trích bài thơ “Đất nước” nằm ở phần đầu
chương V của tường ca. 9 câu thơ mở đầu của đoạn trích là 9 câu thơ nói lên quan
điểm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
Với 9 câu thơ đầu tác giả đã thể hiện quan điểm mới mẻ của mình về cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Mở đầu trong đoạn trích, tác giả đã muốn khẳng định “khi ta lớn lên Đất Nước đã có
rồi”. Chẳng biết là đất nước hình thành và có từ bao giờ, chỉ biết là khi ta lớn lên thì
đất nước đã có ở đây rồi. Đó chính là lời khẳng định chắc chắn về sự trường tồn của đất nước.
Sau khẳng định chắc nịch về sự tồn tại của đất nước, tác giả dần dần vén màn cho ta
thấy rõ hơn về nguồn gốc của đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Dòng thơ “ngày xửa ngày xưa” là mở đầu cho từng một câu chuyện cổ tích mà các bà,
các mẹ hay kể chuyện cho các con cháu nghe.Cũng chẳng biết từ khi nào, chỉ biết là
từ “ngày xửa ngày xưa” hình thành đất nước đã có rồi. Những câu chuyện cổ tích
truyền thuyết ra đời là từ đất nước.
Đất Nước hiện diện lên trong truyện cổ. Đó là hình ảnh Đất Nước của một nền văn
học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. Với
nhà thơ, hai từ “đất nước” còn bắt đầu với miếng trầu bà ăn. Người xưa thường xuyên
nói “miếng trầu là đầu câu chuyện”, đó hẳn là bởi vì tục ăn trầu là một trong những
phong tục lâu đời của Việt Nam ta.
Hình ảnh của “miếng trầu” cũng như là hình ảnh của sự khởi đầu. Đất Nước đã có từ
khi dân mình có tục ăn trầu và tục ăn trầu của nhân dân cũng là khởi đầu cho một đất
nước, khởi đầu cho một nền văn hiến.
Bắt đầu của một sự sống và những bước trưởng thành của sự sống đó. Sau sự bắt đầu
của một Đất Nước chính là sự trưởng thành của cả một dân tộc:
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần
đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những
câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre dơ cao đánh đuổi giặc.
Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà
chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực
tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc,
của một đất nước con người . Ý thức được về đất nước, về sự tồn tại của đất nước và ý
thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.
Tiếp theo đó là những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mỹ tục giản dị của con người Việt Nam :
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đầu tiên đó chính là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của một
người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái mộc mạc Việt Nam, tuy giản dị
nhưng lại nữ tình, thuần hậu rất riêng. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” đã vận dụng
một cách hết sức tự nhiên nhưng cũng là hết sức đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân
tình con người , gợi lên sự thuỷ chung ở trong con người như câu nói “gừng càng già
càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.
Rồi đến câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm
nhà cổ của người Việt ngày xưa . Nhà được làm bằng cách sử dụng kèo cột giằng giữ
vào nhau làm cho nhà thêm vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó
cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ bên nhau; siêng năng
tích góp mỡ máu dồn thành sự sống phát triển đất nước.
Và cả truyền thống cần cù lao động động , chịu thương chịu khó miệt mài của dân tộc
ta nữa “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.Câu thành ngữ “Một nắng
hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong cần cù
và lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu.
Đó chính là truyền thống lao động cần cù, miệt mài chịu thương chịu khó. Các động
từ như “Xay – giã – dần – sang” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được
hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã và
giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp
nông dân vất vả nắng mưa.
Và sau tất cả, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại “Đất Nước có từ ngày đó … “.
“Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán,
có nhiều văn hoá. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong
tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông
nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ… Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị,
lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí thơ ca.
Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại rất nhiều lần cũng như việc nhà thơ luôn luôn viết
hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính vô cùng thiêng liêng… Tất cả đã làm nên
một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt.
Qua đoạn thơ trên nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu
văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu
ấn của tư tưởng Đất Nước của con người của nhân dân.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 25
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong
những năm chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể
hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân,
mang màu sắc chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” là một trong những bài thơ tiêu biểu
của ông. Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước, và cái mới mẻ ấy thôi thúc
chúng ta đi tìm cội nguồn của Đất Nước. Với 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm thể
hiện quan niệm của mình về cội nguồn của Đất Nước thật đặc sắc.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu, chương V của bản trường ca “Mặt đường khát
vọng”. hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự
thức tỉnh của tuổi trẻ ở các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về
sự mệnh thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mĩ.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có
rồi”. Đất Nước có từ “khi ta lớn lên”, từ khi ta chưa ra đời, xuyên suốt bốn ngàn năm
văn hiến. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên, nó có chiều sâu cội
nguồn cũng như sự hình thành và phát triển bao đời nay. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất
Nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu bằng
“ngày xửa ngày xưa”. Câu thơ khiến ta nhớ đến hình ảnh của người bà thường hay kể
chuyện cho con cháu nghe, là hình ảnh cô Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt, là hình là nàng
tiên bước ra từ quả thị…. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc và gần gũi với
con người Việt Nam. Bởi, mỗi câu chuyện là mỗi bài học đạo lí dạy ta biết “ở hiền
gặp lành”, biết thiện thắng ác, biết sống thủy chung, … Tác giả không dùng từ ngữ,
hình ảnh hoa mĩ tráng lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách
nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta tìm hiểu Đất
Nước có từ nền văn hóa dân gian cha ông ta để lại.
Tác giả cảm nhận Đất Nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
“Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “sự tích trầu cau” khiến ta rung rung
nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó, hình ảnh “trầu
cau” trở thành “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trở thành thứ không thể thiếu được
trong lễ cưới, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, duyên sáng và thật đáng
yêu. Nét đẹp ấy làm ta gợi nhớ đến câu ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh”
Không những chỉ là những cảm nhận ở trên về Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn
cảm nhận Đất Nước trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nặng
nghĩa như “gừng cay muối mặn”
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Dù gian nan, dù cay đắng nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để
tình cảm thêm mặn nồng, thắm thiết. Hình ảnh thơ gợi ta nhớ câu ca dao:
“Tay bưng đĩa muối, chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” Hay
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng vẫn hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho
người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột
giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó
cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ
màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.
Đất Nước ta từ ngàn đời đã có truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh “cây tre” là biểu tượng của người Việt Nam, gắn với đời sống thường ngày
và có lúc trở thành vũ khí xông pha ra chiến trường đánh giặc, Thánh Gióng từng nhổ
tre đánh giặc Ann, nhà văn Thép Mới cũng từng nhận ra:
“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”
Tre thật thà chất phác, đôn hậu, yêu thủy chung yêu chuộng hòa bình nhưng cũng kiên
cường bất khuất trong chiến tranh. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa cho dân tộc:
“Một cây chông cũng tiến công giặc Mĩ” Bởi
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sáng”
Thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên tiếp xay, giã, giần, sàng gợi lên
sự vất vả và triền miên của người nông dân trên đồng rộng. Đất Nước gắn với nền văn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
minh lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bảo, gắn liền với quá trình lao động vất vả để có
được hạt gạo, để sinh tồn. Ý thơ thật sâu sắc. Câu thơ gợi nhắc đến ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cà
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"
Từ Đất Nước viết hoa diễn tả tình cảm thiêng liêng đối với Đất Nước. Giọng thơ trữ
tình, câu thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tự nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ
giản dị, sử dụng sáng tạo các chất liệu từ văn học dân gian tạo chiều sâu cho ý thơ.
Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là những gì bình thường, gần gũi nhất. Nó có
trong cổ tích, ca dao, gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên một chân dung
trọn vẹn về Đất Nước: Thân thương mà hào hùng, vất vả mà thủy chung.
Phân tích 9 câu đầu Đất nước - Mẫu 26
Kho tàng thơ văn của dân tộc Việt Nam ta tựa như một bản hợp xướng du dương với
những nốt trầm bổng làm đắm say lòng người… Ta nghe đâu đây lời thơ hùng tráng
về một “Nam quốc sơn hà” vừa tự hào lại không kém phần kiêu hãnh; rồi một dấu
luyến ngân lên của một thời đại mang đậm nét dân tộc; đột ngột lại giáng một âm dài
thâm trầm, đau thương để rồi bản đàn ấy lại thăng lên những âm hào hùng, mang theo
khí thế của một dân tộc nồng nàn yêu nước, kiên trung quật cường. Bản hùng ca ấy
nên thanh, thành điệu chính là từ ngòi bút và xúc cảm chân thành của rất nhiều thi
nhân, mà trong đó, mỗi nhà thơ mang một âm sắc khác nhau. Trong số đó, một trong
những nốt hay nhất, dịu dàng và du dương nhất hòa thành hợp âm được viết nên bởi
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà điển hình là đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất Nước - chín
câu thơ lý giải cho hai tiếng “Đất Nước” tưởng như xa xăm mà gần gũi, lớn lao mà
mộc mạc - mở đầu cho chương thứ năm của bản trường ca “ Mặt đường khát vọng”:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến vì độc lập tự do, nhà thơ trẻ với hai
mươi tám mùa xuân Nguyễn Khoa Điềm năm ấy đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin
cho thế hệ thanh niên vào một ngày mai tươi sáng bằng những vần thơ thật đẹp, để rồi
giữa những ngày lửa đạn, bom rơi nơi chiến khu Trị -Thiên năm 1971, “Đất Nước” đã
ra đời, nhẹ nhàng và dịu êm len lỏi vào sâu trái tim từng người dân con Lạc cháu
Hồng, khảm sâu vào trí óc, trường tồn với thời gian…
Bằng giọng thơ thật dịu và thật êm của mình, nhà thơ thủ thỉ những dòng thơ đầu tiên
như cất lên tiếng lòng bấy lâu nay dồn nén:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Câu thơ chỉ là một lời trần thuật nhưng lại mang cho người đọc một cảm giác thật đặc
biệt, dường như có chút gì đó xưa cũ gợi về trong kí ức còn mơ hồ. Trước mắt người
đọc, hai tiếng “Đất Nước” được cẩn thận viết hoa khiến lòng người không khỏi xao
xuyến một nỗi niềm khó tả. Ôi… “Đất Nước”… Xưa nay có ai từng viết hoa hai tiếng
thiêng liêng ấy ngoài Nguyễn Khoa Điềm? Ta đã từng biết đến một đất nước qua
giọng thơ êm nhẹ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
Thế nhưng “đất nước” của Nguyễn Đình Thi không viết hoa! Còn Nguyễn Khoa
Điềm, ông viết hoa hai tiếng “Đất Nước” như một niềm tôn kính, thương yêu bằng tất
cả trái tim. Với nhà thơ, đất nước mình không chỉ là đất nước vô giác vô tri, đất nước
từ lâu đã mang một linh hồn dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ
hơn về sinh thể thiêng liêng, ruột thịt này…Chỉ bao nhiêu đó thôi, nhà thơ đã khiến
cho biết bao nhiêu tâm hồn lay động, để rồi kết lại bằng ba tiếng “đã có rồi” chậm và
nhỏ, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào sâu
sắc: “ Đất Nước đã có tự ngàn xưa, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành, ở bên, yêu
thương và chở che cho ta. Ta có thể không rõ Đất Nước khởi nguồn ra sao, thế nhưng
Đất Nước thì luôn quan sát và dõi theo bước chân ta đi đến cuối đất cùng trời...”.
Cùng với đại từ phiếm chỉ “ta”, không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm
lên được ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi qua.
Và rồi hai chữ “mơ hồ” nhòa nhạt dần đi, nhường chỗ cho Đất Nước của nhà thơ hiện
thân, rõ ràng và gần gũi, thân thương đến lạ:
“ Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể…
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
"À… thì ra đất nước lại gần ta đến như thế…", tôi thốt lên ngỡ ngàng. Giọng thơ êm
ái như ru ta về một thời thơ ấu “ngày xửa ngày xưa”, ngày xưa yên bình với cổ tích,
với mái nhà tranh bình dị, với bếp lửa ấm áp, bập bùng - nơi có mẹ, có cha, có ông, có
bà, có tình thương gia đình không gì sánh nổi. Ở đó, ta lớn lên trong sự che chở của
cha, trong lời ru à ơi dịu dàng của mẹ, trong những câu chuyện cổ xưa thật xưa chẳng
rõ ai viết thành và viết năm nào mà chẳng hiểu sao lại in sâu vào trí óc thuở ngây ngô,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
khờ khạo.Chao ôi! …Dịu dàng và thân thuộc biết mấy bốn tiếng “ngày xửa ngày
xưa”, để rồi khi tuổi thơ vụt trôi qua, người ta không khỏi bâng khuâng, bồi hồi xúc động:
“ Tôi yêu truyện cổ nước mình
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”
(“Truyện cổ nước mình”, Lâm Thị Mỹ Dạ)
Dáng hình của đất nước chính là ẩn trong những điều bình dị và gần gũi ấy, len lỏi vào
từng chút một cuộc sống của ta từ thuở nằm nôi, nghe tiếng chõng kẽo cà kẽo kẹt,
nghe câu hát ru ngọt ngào ru ta vào giấc ngủ bình an... Đất nước tựa như một sinh thể,
cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành. Đất nước thì bước qua bao thăng trầm lịch sử,
còn ta bước qua lửa đạn chiến tranh để trọn vẹn gìn giữ hai tiếng “đất nước” yêu kính ngàn năm…
Đối với câu hỏi hồn hậu: “ Đất nước có tự bao giờ?”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
không hề né tránh. Ông không đứng trên quan điểm của một nhà sử học, cũng chẳng
hề sử dụng ngôn từ của một nhà nghiên cứu xã hội, ông đơn giản chỉ dùng trái tim và
tâm hồn mình để định nghĩa đất nước mà thôi. Thế nhưng cũng chính vì vậy mà đất
nước qua thơ ông trở nên gần gũi và thân thuộc hơn bao giờ hết, bình dị và dịu êm
như tình mẹ bao la. Từ hai tiếng “đất nước” tưởng như khó có thể nói thành lời, nhà
thơ đã dùng ngòi bút tài hoa của mình vẽ nên những đường nét mộc mạc và cụ thể,
cho ta thấy dáng hình đất nước mến yêu bằng một định nghĩa rất riêng - định nghĩa từ
tiếng lòng của một người con hiếu thuận của quê cha đất tổ, của một hồn thơ không
những tinh tế mà còn giàu tình cảm và uyên bác.
Bằng cách gắn liền sự ra đời của sinh linh Đất Nước với sự ra đời của miếng trầu bà
vẫn thường ăn, nhà thơ đã cho thấy một tâm hồn thấm nhuần tính dân tộc cùng với sự
tinh tế của bản thân. Ông không những trả lời và cụ thể hóa cho khởi nguồn của đất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
nước thân thương này, ông còn gợi nhắc về truyền thống nhuộm răng, ăn trầu của các
bà, các mẹ ngày xưa. Hương trầu thơm tho như phả vào từng con chữ, đưa ta về một
miền kí ức nhỏ đầy ắp yêu thương bên người bà kính yêu, nơi có bà miệng nhai trầu
móm mém, thơm thật thơm một kí ức sống mãi trong lòng người. Và miếng trầu têm
khéo ấy, dẫu thật nhỏ bé, lại chở cả một “Đất Nước” cùng đi…
Cứ thế, thời gian miệt mài chảy trôi, để rồi ta lớn khôn và “Đất Nước” cũng lớn lên
cùng với lũy tre làng xanh thật xanh vẫn hiền hòa đong đưa theo làn gió. Tre chẳng
biết từ thuở xa xăm nào đã gắn bó sâu sắc với làng quê Việt Nam, đi vào bao câu hát, bài thơ:
“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Cũng như đất nước mình vẫn dịu hiền lớn lên, lặng lẽ, âm thầm…
Hai tiếng “dân mình” khi được cất lên cùng “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết biết
trồng tre mà đánh giặc” nghe sao mà thân thương quá đỗi, bởi lẽ dâng mình cùng
chung một dòng máu Rồng Tiên, cùng một gốc gác, cội nguồn, mang trong mình
tương liên huyết mạch, là máu thịt, là anh em… Nếu như vế đầu câu thơ dâng sóng
lòng ta lên bởi những thanh âm trong trẻo tràn đầy tình cảm thì nửa sau câu thơ gợi
cho ta nhớ về hình ảnh chàng Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre mà đánh đuổi giặc. Từ
chính bờ tre Việt Nam hiền lành, mộc mạc ấy, sức mạnh của cả một dân tộc trên lên,
vươn mình khôn lớn như Thánh Gióng khi xưa, trưởng thành từ chính những gian truân, thử thách:
“Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”
(Bài thơ của một người yêu nước mình, Trần Vàng Sao)
Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua
bao biến cố thăng trầm, bao phen nguy nan, “biết bao đời đã chịu nhiều thương đau”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và
tồn tại hiên ngang, bởi đất nước luôn có chúng ta - những người con yêu kính đất mẹ
sẵn sàng đánh đổi tất cả, dẫu cho có phải hi sinh cả tính mạng vẫn không nề hà, chùn
bước mà chịu thua, bởi lẽ thẳm sâu trong tâm trí mỗi người, chỉ cần còn hơi thở cuối,
ta đều nguyện dành trọn cho Tổ quốc thân yêu.
Viết về đề tài đất nước không phải là một chủ đề mới lạ mà trái lại, đây luôn là chủ đề
khơi gợi lên nhiều xúc cảm, cũng là nguồn cảm hứng bất tận, chắp bút cho sự ra đời
của bao bài thơ. Trong bài thơ “Mũi Cà Mau”, nhà thơ Xuân Diệu từng đặt bút:
“ Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau
Những dòng sông rộng hơn ngàn thước
Trùng điệp một màu xanh lá đước”
Hay năm xưa, Nguyễn Trãi từng lưu danh sử sách với tác phẩm bất hủ “Đại cáo bình Ngô”:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Trong khi Xuân Diệu vì Tổ quốc ta như một con tàu, hùng dũng và hiên ngang trên
biển khơi, Nguyễn Trãi lại đưa ta bước vào âm vang hào sảng của một đất nước văn
hiến ngàn năm, vĩ đại, lớn lao và sừng sững. Hai nhà thơ biểu trưng cho hai thời đại,
tuy xa cách nhau bằng khoảng thời gian muôn trùng thế nhưng lại gặp nhau trong
giọng thơ đầy mạnh mẽ, tự hào khi nói về đất nước. Còn đối với nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm của chúng ta, ông không viết về đất nước bằng những chiến tích hiển
hách, hào hùng, lại càng không dùng ngôn từ với thật nhiều tráng lệ, hiển hách. “Đất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Nước” của ông chỉ đơn thuần và bình dị như thế, dịu êm như thế, “Đất Nước” ở ngay
chính nơi này - trong trái tim ta! Viết về đất nước bằng lối đi riêng, Nguyễn Khoa
Điềm không những không bị những tráng khí đi trước lu mờ, trái lại, ông đã khẳng
định được tài năng và chỗ đứng riêng của bản thân trên thi đàn Việt Nam.
Viết tiếp những vần thơ vẽ về đất nước mình, nhà thơ vẫn dịu dàng thủ thỉ những lời dịu êm như ban nãy:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Một lần nữa, hình ảnh mẹ lại hiện lên, gợi lên cảm giác thật ấm áp và yêu thương biết
mấy, bởi mẹ chính là hiện thân của hơi ấm và tình thương dạt dào, bao la. Câu thơ cất
lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên nhà - nơi
có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu. Mái tóc mẹ đen huyền, óng ả một
màu,mượt mà như dòng suối, từng vòng một được cuộn cẩn thận, búi lên đầu thành
mái tóc của người mẹ Việt Nam. Những búi tóc ấy có thể không có trâm cài đính ngọc
lấp lánh, nhưng có nhiều hơn thế - có tình yêu, có sự tảo tần, hiền dịu mà mẹ dành cho
con. Cùng với cha, mẹ tạo nên tổ ấm thân thương gọi là nhà, là gia đình, là chốn về
mỗi khi bước chân đã mỏi. Cha mẹ thương và sống với nhau không chỉ bằng tình yêu
mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền chặt với thời gian. Cũng như gừng bao năm
gừng vẫn nguyên vẹn vị cay, thậm chí càng già càng cay, càng đậm mùi vị đặc trưng
không đổi; hay như vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như
xưa. n tình thắm thiết ấy đã đi sâu vào ca dao, như một lời răn dạy về đạo vợ chồng
trăm năm như gừng, như muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dẫu hết tình
thì vẫn còn chữ “nghĩa” một đời không đổi cũng chẳng thay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Vẫn với lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi lên một truyền
thống khi đặt tên cho con của dân tộc ta:
“ Cái kèo cái cột thành tên”
Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra
đời bằng những “kèo” và những “cột”. Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và
tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho
con không đẹp - để bảo vệ con, mong cho con một đời bình an, hạnh phúc - từ lâu đã
được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ xưa.
Không những vậy, “cái kèo cái cột” còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu
mạnh thêm của ngôn ngữ nước mình - tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong
sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân tộc Việt Nam ta đã “quyết đem hết tinh
thần và lực lượng, của cải và tính mạng” ra để bảo vệ và gìn giữ, phát triển cho đến
ngày hôm nay. Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần
gũi và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ
nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian…
Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý
nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang
đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ những tiếng “ngày xửa ngày
xưa”, đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre làng xanh rì rào để về
đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến, yêu
thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và
mẹ… Thế nên không có lí do gì mà nhà thơ lại “bỏ quên” mất một truyền thống đã đi
cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền
vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung bay:
“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần
lao, chịu khó, vốn “một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò
thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn. Nhắc đến bông lúa trổ
đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn đã
rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ
đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân
Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải
“xay, giã, giần, sàng”, công phu lắm mới làm nên được một bát cơm thơm dẻo. Chính
vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông
dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn
tiếp nối ngọn lửa truyền thống của ông cha để lại. Vậy nên:
“ Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Câu thơ không chỉ dừng lại ở việc nêu lên truyền thống dân tộc mà còn là lời răn dạy
dịu dàng, nhắc người ta nhớ đến công lao của người nông dân. Từ đó nhắn nhủ người
ta biết yêu, biết quý hạt gạo, bởi mỗi hạt chứa đựng cả lịch sử và truyền thống hàng ngàn năm qua… Vậy là,
“ Đất Nước có từ ngày đó…”
Đất Nước đã khởi nguồn từ “đó”, nghe như thanh âm từ những ngày xa xôi vọng về.
Hai tiếng “ngày đó” gợi lên cảm nhận về khoảng thời gian lâu thật lâu và xưa thật xưa,
cùng với dấu ba chấm “…”, câu thơ như được ngân dài hơn, tha thiết và sâu lắng hơn.
Dường như mỗi khi “Đất Nước” được cất thành lời, đến câu “Đất Nước có từ ngày
đó…”, người đọc đều nhỏ giọng hơn, nhẹ nhàng hơn, để cho thanh âm như nhỏ dần,
nhạt dần, hòa dần vào trong không gian và dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi.
Khép lại chín câu thơ đầu của chương V, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thiện
xong bức họa đất nước bằng cách vẽ của riêng mình. Đất nước trong ông đã hiện lên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
ngay trước mắt người đọc, bằng cả thị giác và cảm xúc cảm bồi hồi, khó tả đang trào dâng.
Thơ ông vốn không vần, cũng chẳng đi theo một niêm luật nào cụ thể, tưởng như sẽ
rất nhàm chán và khô khan. Thế nhưng không… “Đất Nước” không những không bị
cuốn trôi theo dòng thời gian hay bị lu mờ bởi những tác phẩm cùng đề tài, “Đất
Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã tỏa sáng từ chính những câu thơ không vần chẳng
luật ấy. Chính bởi thơ không vần nên ý thơ mặc sức mà lan tỏa. Chính bởi ngôn từ
bình dị, mộc mạc không phô trương, bề thế mà “Đất Nước” dịu êm như bản tình ca
khắc ghi sâu vào lòng mỗi người - bản tình ca giữa “ta” và “Đất Nước - thắm thiết,
đậm đà và nặng sâu. Cùng với kiến thức phong phú, uyên bác về truyền thống dân tộc
mình, nhà thơ đã đưa cả bốn nghìn năm lịch sử vào từng câu, từng chữ, để mỗi khi
đọc lên, dải đất uốn lượn hình chữ S cong cong ấy hiện lên trong tâm trí mỗi người
dân đất Việt thật trọn vẹn, thật đẹp và thật sáng tươi. Đúng như trong “Học văn đọc
văn”, Giáo sư Trần Đình Sử từng nhận định: “ Một Đất Nước như thế không thể có
được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức
suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ,
vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ”. Đọc “Đất Nước”, người ta
không chỉ thấy được một đất nước gần gũi và dịu hiền trong tâm hồn mình, người ta
còn thấy cả một tấm lòng yêu nước dịu dàng, tinh tế cùng với tài hoa cầm bút của
người nghệ sĩ đã viết nên bài thơ.
Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì những năm cuối của cuộc kháng chiến chống
Mỹ chứng kiến sự ra đời của nhiều tuyệt tác, thực sự là một giai đoạn mà thơ văn nở
rộ như một vườn hoa rực rỡ sắc màu, đặc biệt là đối với văn học miền Nam. “Đất
Nước” đã góp phần hương sắc dìu dịu mà len lỏi in sâu vào trí óc thế hệ thanh niên trẻ
miền Nam lúc bấy giờ, cũng như toàn thể người dân Việt Nam, thức tỉnh họ sớm bước
đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bảo vệ độc lập và tự do của một dân tộc anh hùng. Và
dẫu ra đời trong hoàn cảnh bão lửa mưa bom, “Đất Nước” vẫn luôn nhẹ nhàng và dịu
êm như người mẹ dịu hiền vỗ về lòng ta bởi từng lời thơ du dương ấy, để rồi bốn
mươi tám năm qua, như đứng ngoài quy luật của thời gian, “Đất Nước” vẫn giữ được
vẹn nguyên giá trị tinh thần mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hướng đến.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích 9 câu đầu bài Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Mặc cho bước chân thời gian vẫn chảy trôi không ngừng,thơ văn vẫn ở đó và vẫn tỏa
sáng, bởi lẽ “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trở thành bất tử” ( Shelly), nên
chúng cũng trường tồn mãi với tháng năm. Bài thơ “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm đã ngân lên một khúc dạo du dương, dịu dàng, khắc sâu vào từng trái tim,
từng tâm hồn, gợi lên một niềm yêu thương, tự hào khó tả về mảnh đất quê hương
thân thương, nơi ta thuộc từng đường đi lối về, từng hàng cây ngọn cỏ. Dù đi đâu, đi
đến tận cuối đất cùng trời, ta vẫn tự hào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng hào
hùng, hiên ngang. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim
sẽ mãi luôn nhớ: “ Dù đi đâu… Đến phương trời nào, cũng chẳng đẹp hơn nước non Việt Nam”…