Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt | Văn mẫu 12
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân tuyển chọn 9 bài văn mẫu siêu hay gồm bài phân tích ngắn gọn, đầy đủ, bài làm của học sinh giỏi . Qua đó giúp cho các em học sinh lớp 12 có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng luyện Văn ngày một tốt hơn.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ tứ Dàn ý số 1 I. Mở bài
● Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là
nhưng người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.
● Tác phẩm Vợ nhặt: nằm trong tập truyện Con chó xấu xí, là bức tranh chân
thực về nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử, khát vọng sống.
● Bà cụ Tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam. II. Thân bài
1. Giới thiệu nhân vật
● Là một bà mẹ nghèo, già nua (lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già), là dân ngụ cư.
● Ngoại hình: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng,
lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.
2. Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ
- Trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch “bà lão phấp phỏng”.
- Bà không hề hay biết chuyện anh con trai đã nhặt một người vợ về, thấy người đàn
bà lạ trong nhà, bà rất ngạc nhiên: “quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ?” “người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “sao lại chào mình bằng u?”
- Sau tất cả sự ngạc nhiên, bà đã hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoèn đi”:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
● Bà thương, buồn tủi cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới
lấy được vợ “Chao ôi”, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn
nên làm làm nồi ... còn con mình thì ...”.
● Bà cũng thấy hờn tủi cho chính mình, có lỗi với con trai bởi không thể lo được
chuyện dựng vợ gả chồng cho con chu đáo.
● Bà cảm thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai
bà, thương cho cả sự ngờ nghệch của đứa con trai: “Người ta có gặp bước khó
khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được ... ”
- Bà mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “các con đã phải duyên ... u cũng mừng
lòng”, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” chấp nhận đứa con dâu vừa được nhặt về.
- Bà cụ Tứ dần lo lắng cho cuộc sống các con sau này: “chúng nó có nuôi nhau sống
qua được cơn đói khát này không”, “vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó
liệu có hơn bố mẹ trước kia không”
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới bằng sự cảm thông, trân trọng:
● Ân cần quan tâm con: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”,
● Nói về tương lai với niềm lạc quan “biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”
● Bảo ban các con làm ăn: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh
lại chả mấy mà có đàn gà cho xem”.
- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm
hi sinh vì hạnh phúc của con. Bà là nhân vật tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp
của người mẹ nghèo Việt Nam. III. Kết bài
● Cảm nhận riêng về nhân vật bà cụ Tứ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
● Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm
lí nhân vật nhuần nhuyễn, ngôn ngữ giản dị, gần gũi.
● Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh
người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức
sống mãnh liệt của họ. Dàn ý số 2 1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm 2. Thân bài:
a. Khái quát về bà cụ Tứ:
- Là một người đàn bà già, nghèo khổ, sống ở xóm ngụ cư
- Dáng đi “lọng khọng”, “chậm chạp”, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán”, cuộc sống lam
lũ, khổ cực, điển hình cho những người phụ nữ nông thôn già.
b. Diễn biến tâm trạng của bà:
- Sự ngạc nhiên khi thấy con trai đon đả, sự “phấp phỏng” lo âu vì không hiểu có chuyện gì.
- Thấy người đàn bà trong nhà, bà càng ngạc nhiên và băn khoăn tột độ, “quái lạ …ai thế nhỉ?”
- Sau khi nghe Tràng giải thích, bà “nín lặng”: •
Bà thương con phải lấy vợ thời đói khát. •
Bà thấy tủi hờn cho chính mình vì làm mẹ mà không lo được cho con. •
Bà thấu hiểu và cảm thông cho người đàn bà nghèo khổ “bước khó khăn, đói
khổ này, người ta mới lấy đến con mình”. •
Bà chấp nhận người đàn bà và mừng vì con trai đã có vợ, bà mở lòng với nàng dâu mới.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
- Thế nhưng, sau niềm vui là nỗi lo lắng, thương xót “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi
nhau sống qua được cơn đói khát này không?
- Bà cụ Tứ là một người mẹ thương con và là một người phụ nữ giàu lòng thương người. - Sáng hôm sau: •
Gương mặt “bủng beo u ám” của bà, hôm nay “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày
thường”, “rạng rỡ hắn lên”: bà vui mừng, phấn khởi. •
Bữa cơm thảm hại nhưng cả nhà đều ăn ngon lành. •
Bà cụ nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”: lòng lạc quan,
yêu cuộc sống, hy vọng vào tương lại, gieo vào lòng con cái niềm tin vào tương lai. c. Nghệ thuật:
- Xây dựng nhân vật đặc sắc
- Miêu tả tâm lý nhân vật hết sức hợp lý, sinh động
- Đặt mình vào nhân vật để miêu tả 3. Kết bài:
- Bà cụ Tứ là điển hình cho những người nông dân trước Cách mạng tháng tám.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ học sinh giỏi
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người
nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện
được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ được Kim Lân khắc họa trong tác phẩm là một phụ nữ nông dân nghèo khổ.
Ngay từ cái tên, người đọc đã thấy được về xuất thân của nhân vật. Sống trong xã hội
Việt Nam xưa cuộc đời bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả. Cả cuộc đời bà mưu
sinh cực nhọc để nuôi con. Đến khi già cả vẫn không được hưởng cuộc sống sung
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
sướng, mà lại phải chịu cảnh đói kém hoành hành. Nhân vật không xuất hiện từ đầu
tác phẩm mà chỉ đến khi Tràng đưa người vợ nhặt về nhà, nhà văn mới khắc họa hình
ảnh bà cụ Tứ: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre
lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Đó là
hình ảnh của một bà lão, dáng đi thì chậm chạp, đôi mắt kèm nhèm. Bà lão vừa đi vừa
ho húng hắng, miệng còn lẩm nhẩm tính toán một cái gì đó.
Nhưng đặc biệt hơn cả là tình mẫu tử thiêng liêng của bà cụ Tứ. Điều đó được thể hiện
qua tình huống Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà. Khi nhìn thấy có người lạ
mặt trong nhà, tong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc. Những câu
hỏi liên tiếp vang lên trong suy nghĩ của bà: Quái, sao lại có một người đàn bà nào ở
trong ấy nhỉ?” “Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”,
“Sao lại chào mình bằng u?”. Rồi bà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ
Tràng giải thích. Đến khi bà cụ “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự” rồi thì bà im lặng. Những
dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà lấy vợ.
Nhưng đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng thương con sâu sắc, bà hiểu
được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý, bởi Tràng cũng đã
đến tuổi dựng vợ. Thương con, bà lại càng xót xa: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả
chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Việc lấy vợ trọng đại
cả đời, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá” -
đó phải chăng là sự mặc cảm của người mẹ khi không thể lo cho con tử tế.
Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ lại còn thương cả con dâu. Điều đó đã thể hiện
một tấm lòng nhân văn sâu sắc. Bà đồng cảm với hoàn cảnh của cô vợ nhặt: “Người ta
có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới
có vợ được…”. Bà lão đã vui vẻ chấp nhận người con dâu mới: “Cái mặt bủng beo u
ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã không ghét bỏ cô vợ nhặt, mà còn ân cần hỏi han:
“Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”. Bà còn an ủi con dâu: “Kể có ra
làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp
nhặt chỉ cái lúc này…”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Nhưng hiện thực cuộc sống khiến bà không khỏi lo lắng: “Biết rằng chúng nó có nuôi
nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động
viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi
may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Bà nói
với con dâu bằng giọng của người từng trải - vừa lo lắng, vừa thương xót: “Năm nay
thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...”, “bà nghẹn lời không nói
được nữa”. Đặc biệt là chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ. Bà khóc “Nước mắt cứ
chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của một người mẹ.
Không chỉ vậy, bà cụ Tứ còn là người truyền ngọn lửa niềm tin vào tương lai đến các
con. Sáng hôm sau, trong bữa cơm đầu tiên sau khi Tràng có vợ. Dẫu rằng mâm cơm
ngày đói kém trông thật thảm hại với “mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng” thế
nhưng không khí trong nhà vẫn rất vui vẻ đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ toàn nói đến chuyện
tương lai, chuyện vui vẻ sau này. Đặc biệt người mẹ nghèo khó còn chiêu đãi con trai
và con dâu bằng một nồi “chè khoán”, mà thực tế đó là là cháo cám để mừng tân hôn.
Trong khi Tràng thì “chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, còn
cô vợ nhặt thì “đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thì bà cụ Tứ
vẫn tươi cười vẫn tươi cười, đon đả: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà
xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Tấm lòng của một người mẹ cố
gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động
viên các con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.
Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” là một hình tượng tiêu biểu cho
những bà mẹ Việt Nam xưa. Cả cuộc đời hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu
sắc bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. Dù sống trong sự nghèo khó
thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được những sự lạc quan, vui vẻ
trong cuộc sống, trở thành điểm sáng tinh thần cho những đứa con.
Phân tích bà cụ Tứ trong Vợ nhặt
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam.
Những tác phẩm của ông thường viết về nông thôn và những con người quê lam lũ,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
hồn hậu, chất phác, giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu
biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói
1945 đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc,
hướng tới tương lai của những người lao động. Trong đó nổi bật là nhân vật bà cụ Tứ
được nhà văn khắc hoạ sinh động, tinh tế, bà hiện lên với hình ảnh một người mẹ
nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.
Nếu ai đã từng đọc qua giọng văn Ngô Tất Tố, Nam Cao, chúng ta sẽ thấy đồng cảm
với cuộc sống cơ cực của những người dân lao động. Họ bị bần cùng và bức bách
khiến họ bị tha hoá về nhân phẩm. Nhưng có những con người trong nỗi cơ cực ấy
vẫn liều lĩnh chấp nhận thêm những khốn khổ cùng cực, vì tình yêu, tình người, lòng
nhan hậu. Đó là chị Dậu, là cụ Tứ, là anh cu Tràng.
Trong những tháng ngày u ám vì nạn đói, cái chết có thể rơi xuống bất kì ai thì anh cu
Tràng lại làm một việc tưởng như bị "điên" đó là lấy vợ, tuy nhiên chỉ có mẹ anh- bà
cụ Tứ mới là người thấm thía hết cơ sự.
Bà cụ Tứ là mẹ anh cu Tràng. Hình ảnh bà được khắc hoạ trong tác phẩm đó là trong
bóng hoàng hôn chiều, người mẹ nghèo khổ "húng hắng ho". Trước mái tranh nghèo
trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, người mẹ nghèo lại càng thêm cơ cực.
Vốn dĩ việc làm nhà, cưới vợ là một chuyện hệ trọng trong cuộc đời mỗi con người,
cần có sự đóng góp ý kiến của cha mẹ - những người đi trước. Thế nhưng sự kiện
Tràng lấy vợ lại đi ngược lại với những lẽ hiển nhiên đó, việc Tràng lấy vợ được
thông báo đột ngột khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên, ban đầu chỉ là sự thắc mắc thái độ sốt
sắng của thằng con trai, bà cụ Tứ hấp háy hai con mắt nhìn Tràng chậm chạp hỏi: Có
việc gì thế vậy? Khi Tràng vẫn thong thả chưa trình bày câu chuyện, bà cụ phấp
phỏng bước theo con vào nhà. Kim Lân đã rất khéo léo khi dùng hai từ "phấp phỏng"
để diễn tả sự lo lắng và sự nhẫn nại chờ đợi của bà cụ. Hành động "đứng sững lại" thể
hiện sự ngạc nhiên đã lên cao trào, nhà văn đã thấu suốt những nỗi băn khoăn của
nhân vật, rất nhiều câu hỏi đang xoay quanh bà: Quái sao lại có người đàn bà nào ở
trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà ai thế nhỉ? Những câu hỏi cứ
dồn dập được đặt ra mà không có câu trả lời. Mọi thắc mắc xoay quanh sự xuất hiện
của người đàn bà trong ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con bà sống. Đáng thương hơn
bà cụ lại tưởng mình nhầm lẫn: bà cụ hấp háy mắt cho đỡ cay, nỗi băn khoăn của bà
vẫn không được giải bày, bà lão quay sang nhìn con ra chiều không hiểu. Điều này
thật dễ hiểu, trong sự việc này bà cụ hoàn toàn bị động, mọi việc đã rồi mà bà không hay biết điều gì cả.
Khi con trai bà vẫn trì hoãn bí mật, mời mẹ vào nhà ngồi, bà cụ "lập cập" bước vào
nhà. "Lập cập" là sự run rẩy của người già hay là sự thấp thỏm, lo sợ những điều
không hay xảy đến. Với một người mẹ cả đời lam lũ này còn gì khủng khiếp sẽ xảy
đến với bà nữa đây. Kim Lân đã khơi dậy lên trong lòng người đọc một sự cảm
thương sâu sắc với hai từ "lập cập".
Có lẽ bà cụ Tứ không nghĩ được rằng người đàn bà đang ngồi kia chính là vợ của con
trai, là con dâu của bà. Có lẽ cảm thấy sốt ruột trước thái độ của bà cụ mà Tràng phải
lên tiếng: "kìa nhà tôi nó chào u". Vậy mà bà cụ vẫn không hiểu được đầu đuôi câu
chuyện, làm sao một người mẹ nghèo khốn khổ ấy có thể tin rằng con trai mình có vợ.
Bà cũng hiểu rõ hoàn cảnh đáng thương của con trai mình, vừa nghèo, vừa xấu, vừa
cục mịch, làm gì có ai để ý tới chứ đừng nói lấy vợ, trong giai đoạn nghèo khó "ốc
chẳng mang nổi mình ốc mà còn mang cọc cho rêu" ai có thể nghĩ tới chuyện cưới xin
được. Nỗi băn khoăn của bà cụ từ đầu tới giờ mới được gỡ khi Tràng dõng dạc vắn tắt
trình bày cơ sự :" nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên
phải kiếp với nhau. Chẳng qua nó cũng là cái số cả. Và thế là bà cụ cúi đầu nín lặng.
Không phải là im lặng mà là im lặng nín nhịn không thể nói được điều gì. Lúc này bà
đã hiểu hết sự tình. Nhà văn Kim Lân đồng cảm với những suy tư, những tủi hờn xót
xa trong lòng bà cụ: "lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai
oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con của mình. Những nỗi ai oán, xót thương,
những thổn thức trong lòng bà chỉ nhà văn Kim Lân mới hiểu được. Thì ra suy nghĩ
của bà cụ không đơn giản như chúng ta nghĩ, cái nghèo đói không làm bà cụ chấp
nhận cuộc sống buông tuồng, bà đau đá trong lòng vì không thể hoàn thành trách
nhiệm của người mẹ đó là chăm lo cho hạnh phúc của con trai mình một cách chu đáo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
"Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những
mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này". Còn bản thân cụ Tứ, khi đứa con độc nhất của
mình cưới vợ là những lời tự trách, là tiếng khóc nghẹn ngào của người mẹ nghèo
khổ. Tuổi già hạt lệ như sương, nhưng trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ vẫn rỉ xuống
hai dòng nước mắt. Đó là những giọt nước mắt tủi phận cùng cực, đó là những giọt
nước mắt xót thương cho sự khốn khó của chính mình. Đó đồng thời cũng chính là
giọt nước mắt của lòng tự trọng, những giọt nước mắt giữ nhân cách của con người,
những giọt nước mắt ấy là minh chứng thể hiện tình yêu của mẹ đối với các con.
Bà cụ Tứ hết sức lo lắng cho cuộc sống của các con. Chỉ một câu đáp: Biết rằng chúng
nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Băn khoăn ấy có cơ sở
cả, xóm ngụ cư của cụ đang sống trong những tháng ngày lầm than do cơn đói hoành
hành, việc giữ cho mình được mạng sống còn khó huống chi cu Tràng còn đèo bòng.
Ở cái tuổi gần đất xa trời, đáng lẽ bà đã được nghỉ ngơi, nhưng vì cái nghèo đói, khổ
cực mà trong lòng bà vẫn đau đáu một nỗi niềm lo lắng cho các con.
Hình ảnh bà cụ Tứ chỉ xuất hiện nửa sau tác phẩm, có thể người ta sẽ nghĩ bà cụ xuất
hiện với dáng vẻ cay nghiệt thường thấy ở các bà mẹ chồng, nhưng cụ xuất hiện với
sự nhã nhặn trong cách cư xử đặc biệt là chuỗi diễn biến tâm trạng nhân vật khắc hoạ
nhân cách cao đẹp của người phụ nữ. Trước mắt chúng ta đó là hình ảnh một người
mẹ thương con vô bờ bến, những nỗi lo, những suy nghĩ trong lòng cụ được nhà văn
ghi lại một cách chân thật, xúc động.
Qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng xen lẫn với các tình huống
con trai "nhặt được vợ", nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật lên tấm lòng của người mẹ
nghèo khổ nhưng giàu lòng vị tha, nhân hậu. Với những tình cảm mà bà cụ đã dành
cho con trai và con dâu, chúng ta càng thấu hiểu hơn về tấm lòng của người mẹ và
cũng chính điều đặc biệt này khiến nhân vật bà cụ Tứ hiện lên chân thật và cảm động
hơn đối với người đọc. Hình ảnh người mẹ với tình yêu thương con ấy, như một ngọn
nến thắp sáng cuộc đời tối tăm của những kiếp người nghèo khổ bị cùng cực.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ (4 Mẫu)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 1
Vợ nhặt là một tác phẩm ưu tú của Kim Lân và cũng là một thành tựu xuất sắc của nền
văn học Việt Nam đã viết về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói
khủng khiếp năm 1945. Song câu chuyện ấy của Kim Lân không bị bụi thời gian phủ
mờ, làm khuất lấp mà ngược lại cho đến bây giờ Vợ nhặt vẫn như một viên ngọc sáng
lung linh. Thành công của Kim Lân trong thiên truyện không chỉ là việc chọn được
một tình huống lạ, độc đáo mà còn là xây dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ – một hình ảnh
chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong nạn đói 1945.
Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ờ phần gần cuối truyện. Nhà văn Kim Lân
không có ý định đưa bà cụ Tứ làm nhân vật chính, miêu tả hình ảnh bà cụ Tứ như một
hình tượng điển hình. Nhưng thiếu nhân vật này thì Vợ nhặt chắc sẽ không còn hấp
dẫn hoặc sẽ hấp dẫn theo một cách khác. Bà cụ Tứ đã giữ cho truyện Vợ nhặt có chiều
sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Viết Vợ nhặt với tình huống anh
Tràng “nhặt” được vợ, nhà văn Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người
nông dân trước Cách mạng tháng Tám và lòng khát khao hướng tới hạnh phúc của họ.
Còn xây dựng nhân vật bà lão, Kim Lân dường như muốn hướng người đọc nhìn việc
Tràng lấy vợ ở một khía cạnh khác, một góc độ khác. Càng đi sâu vào tác phẩm, càng
ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước
Cách mạng. Có thể điều này nằm ngoài chủ ý của tác giả song sự kính trọng người mẹ
của đứa con, nỗi khổ cực đè nặng lên đôi vai bà cụ suốt cả cuộc đời làm nên sức sống
lâu bền của nhân vật bà cụ Tứ.
Ai đó đã từng nói: “sống với nhân vật tựa như được sống với thế giới tâm hồn còn thật
hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ nhiều lúc ta có cảm giác như bà
đang “hấp háy cặp mắt”, chầm chậm bước ra từ căn nhà dúm dó, tồi tàn của mình mà
đi vào trang truyện, chứ không phải do dùng công xây dựng của tác giả. Bà cụ Tứ
bước vào tác phẩm với cái dáng vẻ: “lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính
toán gì trong miệng”. Chao ôi! biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến! Ta gặp lại
dáng hình gầy gò còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà Việt Nam quen
thuộc. Nhà văn sử dụng từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Nó vừa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
cho thấy sự lẩm cẩm, chậm chạp của bà lão lại vừa mang theo đó nỗi “phấp phỏng”
trước sự đón tiếp khác thường của cậu con trai. Bà bước vào trong nhà, đến giữa sân,
khi thấy một người phụ nữ đang ngồi ở đầu giường của con mình, bà lão rất sững sờ,
đứng lại và càng ngạc nhiên hơn. Hàng loạt câu hỏi được đặt ra ngay trong đầu óc già
nua của bà: “Quái lạ sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại
đứng ngay đầu giường của thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? không
phải con cái Đục mà – Ai thế nhỉ?” Bà làm sao mà ngờ được, giữa những tháng ngày
đói kém, thóc gạo không có nổi để ăn vậy mà con bà đã dẫn không về một người vợ.
Bà lão cúi đầu nín lặng, băn khoăn mãi và bây giờ “bà lão hiểu rồi”. “Lòng người mẹ
nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp
con mình”. Khi biết con mình đã có vợ là một sự thật, bà cụ Tứ rất mừng. Mừng thế là
từ nay Tràng đã có vợ. Cái điều mà cụ một đời mơ ước như một cái gì vô cùng khó
khăn xa vời ấy bỗng nhiên đã đến một cách bất ngờ và giản dị. Nhưng đằng sau những
điều mừng vui ấy là nỗi buồn tủi. Đó là nỗi buồn tủi của một người mẹ đã không tự
mình lo liệu được chuyện lấy vợ cho con. Đó là cái tủi đã để cho con mình phải lấy vợ
theo cách thức như vậy; không cưới xin, không dạm hỏi, không một nghi thức nào vẫn
thường được tôn trọng trong những dịp thiêng liêng của đời người như thế ở nông
thôn ta ngày xưa. Cái tủi ấy là cái tủi của một người mẹ nghèo. Càng xót xa, tủi phận
mình, bà cụ Tứ càng thương con trai, “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc
trong nhà ăn nên làm ra, những mong sinh con đẻ cái để mở mặt sau này. Còn mình
thì…” Đọc những dòng này ta như có cảm giác trái tim người mẹ trong cái thân hình
còm cõi ấy đang rung lên một nỗi đau đớn, xót xa, ai oán, tủi cực. Việc trọng đại nhất
của cả đời con lẽ ra “làm được dăm ba mâm thì phải” nhưng “nhà mình nghèo quá”
nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ và không thực hiện được. Từ chỗ thương con trai,
tủi phận mình rồi bà lại thương con dâu: “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này
người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ…” Vừa mừng, vừa tủi
lại vừa lo lắng trước sự kiện con trai bà lấy vợ, bà cụ lo một nỗi lo rất chính đáng của
con người đã nếm trải cả một đời cực nhọc đớn đau “biết rằng chúng nó có nuôi nổi
nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Trong trận đói khủng khiếp vô cùng ấy, chỉ khoảng một năm mà “từ Quảng Trị ra đến
Bắc kỳ có hơn hai triệu người chết đói”, Tràng lại đi dẫn không một người phụ nữ về
nhà. Ngay đến bản thân mình cũng đang bị cái đói rình rập, đe doạ, không biết cái
chết rồi sẽ đến lúc nào, “cứ mỗi sáng lại thấy vài xác người chết còng queo vì đói bên
một vài lều chợ”. Ấy vậy mà bây giờ Tràng lại có thêm một miệng ăn. Có cô gái ấy thì
viễn cảnh bị chết đói sẽ đến với họ nhanh hơn. Bằng kinh nghiệm, vốn sống và sự
từng trải, bà lão hiểu rằng cô gái kia chỉ tìm đến con bà vì miếng ăn mà thôi. Một
người mà chỉ ngồi mơm mớm ở mép giường, tay ôm khư cái thúng thì rõ là mang
dáng vẻ của một người ăn nhờ ở đậu chứ chẳng hề có ý định sống trọn đời, trọn kiếp
nơi đây. Biết vậy song bà không hề tỏ ra sẽ đuổi người phụ nữ kia đi mà ngược lại bà
còn thương xót thị bởi sự đồng cảm giữa những người phụ nữ với nhau. Bà cụ thương
cho số phận con người chấp nhận đánh mất cả nhân phẩm vì miếng ăn, chấp nhận làm
tấm thân cỏ rác ngay giữa đường giữa chợ để người ta nhặt về nhà như nhặt thứ gì đó
vậy. Bà “nhẹ nhàng” nói với “nàng dâu mới”: “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải
kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…Hai chữ “mừng lòng” ấy chứa đựng biết bao nhiêu
là thân thương, trìu mến và cảm thông. Chỉ một câu nói ấy thôi đã đủ để trút đi gánh
nặng đang đè lên đôi vai con trai bà. Nén nỗi lo lắng trong lòng, bà cụ khuyên răn con
bằng những lời lẽ thấm đẫm ân tình: “Nhà ta thì nghèo con ạ, vợ chồng chúng mày
liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu
ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Bà nói với con dâu
những lời của một con người từng trải, vừa lo lắng vừa thương xót: “năm nay thì đói
to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” Đến đây bà cụ không nói được
nữa bỗng trở nên nghẹn ngào, hai dòng nước mắt của người mẹ già nua cứ ròng ròng
chảy xuống. Đó là những dòng nước mắt của một bà mẹ nông dân nghèo đã chịu
nhiều cực khổ, đớn đau. Những giọt nước mắt ấy càng cho thấy bà cụ Tứ có một tấm
lòng thật nhân hậu, bao dung, giàu tình yêu thương tha thiết và cảm thông cho những
người cùng cảnh ngộ. Ngửi thấy mùi đốt đống rấm đâu đây để xua đi mùi tử khí, bà cụ
lại chợt nhớ đến ông lão, nhớ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời cực khổ ở phía
trước mà lo: “không biết vợ chồng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ
trước kia không?. Nghệ thuật “biện chứng tâm hồn” đã thể hiện thật nhuần nhuyễn
trong từng biến thái tâm lý tinh tế, phong phú của người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống, có sự am hiểu nông thôn và người
nông dân nghèo sâu sắc thì ông mới có được những trang văn diễn tả tâm trạng con
người sâu sắc, chân thực và đầy cảm động đến như thế.
Dõi theo từng câu nói của bà cụ Tứ, thì người đọc không khỏi ứa nước mắt vì cảm
động trước tấm lòng vị tha cao cả của một người mẹ Việt Nam. Song điều đáng nói ở
đây là trong muôn vàn những đau khổ, khó khăn của cuộc đời, bà cụ vẫn tràn đầy tinh
thần lạc quan, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng hơn ở ngày mai. Trong cái đói bà
cụ vẫn không mất hết hy vọng, một người già nua đã “gần đất xa trời” nhưng bà lại
toàn nói về những chuyện tốt đẹp. Niềm vui có con dâu, vì hạnh phúc của con và niềm
tin ở cuộc sống vẫn làm cho người mẹ dường như nhanh nhảu hơn “cái mặt bủng beo
u ám của bà cũng rạng rỡ hẳn lên”. Bà dự định sẽ mua phên để ngăn thành từng buồng
cho đôi trẻ, trong bữa ăn ngày hôm sau, bà cụ chỉ nói toàn chuyện vui, toàn chuyện
sung sướng: “khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà rồi chẳng mấy chốc sẽ có cả một đàn
gà cho mà xem…”. Những lời ấy không phải được thốt ra từ những người trẻ tuổi hơn
như Tràng, vợ Tràng mà đó là lời của một bà lão đã cận kề cái chết, sự sống và cái
chết đối với bà chỉ còn là một ranh giới rất mỏng manh. Bà cụ tựa hồ như một cái đê
chắn sóng, xua đi những u buồn, những mệt nhọc và phiền muộn cùng những lo âu để
truyền cho con mình niềm tin vào một cuộc sống ngày mai hạnh phúc. Cho dù bữa
cơm ngày đói thật thảm hại: Chỉ có một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với
một nồi cháo nước lõng bõng và một nồi “chè khoán” đắng chát. Nhưng bà cụ vẫn
không quên đem lại một chút không khí vui tươi, phấn chấn cho gia đình: ” cám đấy
mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà không có cám mà ăn
đấy”. Câu nói có xen chút tự hào của bà lão vang lên mà sao lòng người đọc lại cảm
thấy xót xa, nghẹn đắng đến thế. Chao ôi, cám là thứ người ta bỏ đi, chỉ dành cho súc
vật ăn vậy mà những con người đáng thương ấy đã phải ăn. Ấy thế mà gia đình Tràng
như vậy là đã sung sướng lắm, có nhiều nhà còn đói rách hơn họ nhiều lần.
Câu nói và những cử chỉ đầy trìu mến, yêu thương đã phần nào khiến cho món cháo
cám bớt đi vị đắng chát, nghẹn ứ nơi cổ họng. Bà mẹ nghèo ấy chẳng có của cải vật
chất gì quý giá để cho đôi vợ chồng mới. Nhưng có một thứ bà dành cho các con còn
đáng trân trọng, nâng niu gấp ngàn lần thứ khác: đó là tình yêu thương, sự chở che
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
chăm sóc rất chân thành của một người mẹ. Chính tình yêu thương của bà cụ Tứ và
của Tràng nữa đã đem đến cho người đàn bà vợ nhặt một sự thay đổi lớn lao. Sớm ấy
thị cũng xăm xăm, quét tước, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng, chuẩn bị bữa cơm để
cả nhà cùng ăn. Thế là thị đã thực sự tìm thấy một tổ ấm gia đình, một mái nhà không
chỉ bảo vệ thị trước những sương giá của cuộc đời đầy khổ ải mà hơn hết đó là tình
yêu thương quý mến giữa con người với con người. Thị đã tìm được mảnh đất mà thị
nhất định sẽ sống trọn đời trọn kiếp nơi đây. Và chính ngôi nhà bé nhỏ, xiêu vẹo này
thị sẽ được hưởng không khí gia đình ấm cúng, hưởng tình yêu và hạnh phúc. Thị cảm
nhận được vai trò của mình trong cái gia đình này và tự thấy mình phải có trách nhiệm đối với nó.
Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ còn là những trang văn mà đã trở thành
những trang đời thấm đẫm biết bao giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng một nỗi
lo cho tương lai và niềm lạc quan trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng
thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến những diễn biến tâm
lý khá phức tạp mà còn rung động trước tâm tình tha thiết của lòng người mẹ. Những
giọt nước mắt trong suốt chảy ra từ đôi mắt đã đục mờ, những giọt nước mắt lấp lánh
tấm lòng vị tha cao cả, những giọt nước mắt mặn mà của muối đất, của trái tim yêu
thương dạt dào như biển cả đã trở thành điểm sáng rực rỡ của toàn bộ tác phẩm. Giọt
nước mắt chảy ngược vào trong đã biến thành niềm vui, thành hành động, thành
những mơ ước khát khao một cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
Cho dù không có dụng tâm xây dựng điển hình người mẹ Việt Nam trong nạn đói
khủng khiếp song hình ảnh bà cụ Tứ đã là một thành công lớn của nhà văn Kim Lân
trong việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Dẫu rằng những mơ ước về tương lai
hạnh phúc bé nhỏ, giản đơn của bà lão chưa cất lên được trước không khí u ám, ảm
đạm vẩn mùi tử khí song đó vẫn là điểm sáng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Quả thật
nhân vật bà cụ Tứ đã đem lại chiều sâu nhân đạo sâu sắc cho thiên truyện Vợ nhặt.
Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 2
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác
phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tần tảo,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân
vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhân
vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.
Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng
khọng, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để cho người đọc hình
dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ, vất vả đã bị cái đói cái nghèo đeo bám suốt cả cuộc đời.
Nhưng dưới ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời
điểm: trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã
cho thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.
Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ
bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên tâm lí phấp
phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà.
Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có
người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà
không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.
Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim
yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu
người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời
điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo
khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng
ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo
lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”.
Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu
thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ
nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình
và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông,
yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu
tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ
những người có số phận bất hạnh, éo le.
Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói những điều vui vẻ, hạnh
phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u
cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự
chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói
ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi
vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không
nén nổi thành dòng nước mắt chảy ròng ròng.
Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt
nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô
vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của
mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó
là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những
hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của
người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.
Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói
bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua
lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin
vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không
thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để
vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo
cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy
cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát
cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.
Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa
trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước
sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách
bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là
điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.
Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của
mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi
vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu
bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 3
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Kim Lâm. Truyện đã
khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ - một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, vị tha và là điểm
sáng tinh thần cho những đứa con.
Nhân vật bà cụ Tứ không xuất hiện ngay từ đầu trong tác phẩm. Kim Lân đã cho nhân
vật xuất hiện trong hoàn cảnh Tràng đưa người vợ nhặt về ra mắt mẹ, để từ đó làm nổi
bật lên hình ảnh bà cụ Tứ với những phẩm chất tốt đẹp. Đầu tiên, ngoại hình của bà cụ
Tứ đã được Kim Lân miêu tả bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa
lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Người đọc như bắt gặp lại dáng hình gầy gầy,
còng đi vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Hình ảnh bà cụ Tứ là đại diện
mang dáng vẻ chung của những người mẹ nông dân Việt Nam:
“Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ”
(Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm)
Cách dùng từ của nhà văn thật tinh tế, chỉ với từ “lọng khọng” nhưng đã cho thấy cái
dáng hình nhỏ bé, chậm chạm và già cả của một bà lão. Cùng với đó là thói quen tính
toán chi li, cẩn thận của những bà mẹ Việt Nam. Cuộc đời của bà cụ Tứ cũng giống
như biết bao người phụ nữ trong xã hội xưa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Khi bước vào trong nhà, bà cụ Tứ nhìn thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu
giường con mình, bà hết sức ngỡ ngàng, thắc mắc. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu
óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia?
Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Từ sự ngạc nhiên
đến ngỡ ngàng, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt mình. Điều ấy dẫn đến hành động:
“Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì
phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay
lại nhìn con tỏ ý không hiểu” để chờ đợi lời giải thích từ anh con trai. Chỉ đến khi
nghe Tràng nói: “Nhà tôi nó chào u”, người mẹ ấy mới chợt hiểu ra: “bà lão cúi đầu
nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình” Để rồi nỗi tủi thân đã
hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà
vừa mừng, vừa lo, vừa tủi. Tấm lòng của một người mẹ thật bao dung và cũng thật cay
đắng, xót xa. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận, trong nỗi
đau không lo nổi hạnh phúc cho con mình. Bà tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn
bổn phận người mẹ: “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn
nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ
mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Bà cụ Tứ khóc vì thương con,
lòng tự trách đã không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ.
Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ cũng thương cả con dâu: “Người ta có gặp bước
khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ
được”. Tấm lòng bao dung khiến bà đồng cảm với hoàn cảnh của con dâu: “Thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau cũng mừng lòng”. Và từ đó mà người mẹ ấy
cảm thấy vui vẻ khi con trai có được vợ: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn
lên”. Sự ân cần hỏi han “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”, động
viên con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo,
cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u
mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Tất
cả đã cho thấy tấm lòng cao cả của một người mẹ.
Đặc biệt nhất, nhân vật bà cụ Tứ được Kim Lân xây dựng với tình cảm mẫu tử thiêng
liêng. Bà đã trở thành điểm sáng tinh thần cho Tràng và người vợ nhặt. Chính bà là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
người động viên các con: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra
ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Trong bữa ăn
ngày đói, người mẹ ấy chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ. Cái ánh sáng
kỳ diệu đó tỏa ra từ nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là “chè khoán”: Bà lão múc ra một
bát. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon” này cần phải cảm thụ một cách đặc
biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về
tinh thần. Điều đó cho thấy ở người mẹ này, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào.
Với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thông qua những đối thoại, độc thoại nội tâm,
Kim Lân đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ nhưng đầy tấm lòng
yêu thương, bao dung. Bà chính là chỗ dựa tinh thần cho những đứa con.
Phân tích bà cụ Tứ (4 Mẫu)
Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 1
Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú "phong lưu đồng
ruộng". "Nên vợ nên chồng" và "Con chó xấu xí" là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của
nhà văn. "Vợ nhặt" - một truyện ngắn độc đáo rút trong tập "Con chó xấu xí" xuất bản
năm 1962. Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ
cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp
thuộc. Nhà văn kể về chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ khi cả xóm ngụ cư người
chết đói như ngả rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ - mẹ của Tràng
để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.
Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm
lặng... Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm
nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh "đứng rúm ró
trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những búi cỏ dại". Sau tấm phên rách nát là những
"niêu bát, xống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất". Người mẹ già nghèo khổ
"húng hắng ho" chẳng khác nào một chiếc bóng "lọng khọng" đi vào ngõ. Bà cụ ngạc
nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
lão "đứng sững lại", càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: "Sao lại chào mình
bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?". Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình
"nhoèn ra", ... rồi "lập cập" bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão "băn
khoăn" ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng "giới
thiệu" người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân. Lòng bà xáo trộn bao
nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa,
thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng,
chua xót: "Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy... vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp
đứa con mình". Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn tủi. Tiếng than, tiếng thở
dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng
năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy
cay đắng: "Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng con lúc trong nhà ăn nên làm nổi,
những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...".
Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
được cơn đói khát này không?". Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con
gái chết con. Bà sống với đứa con trai thô kệch "mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra" lại có
tật vừa đi vừa nói lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn
sống độc thân. Tục ngữ có câu: "Trẻ cậy cha, già cậy con". Bà mẹ càng thấy buồn, lo
vô hạn. Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ đến cái may của gia đình mình:
Người có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con
mình mới có vợ được". Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui
xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu
mới. Chẳng cần phải cưới cheo. Cũng chẳng tìm đâu ra cỗ bàn để đón mừng người
con dâu mới, cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" rồi
sưng "u" một cách thân tình, ruột thịt: "Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp
nhau, u cũng mừng lòng". Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi
tục lệ, bà vui mừng vì từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của
con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.
Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ
thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: "...Cốt làm sao chúng mày hòa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".
Bà nhắc con trai đủ chuyện, từ việc đan tấm liếp để che chắn gian buồng, đến chuyện
làm chuồng gà, chuyện làm ăn, chứa chan hi vọng.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ
chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già
lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng
lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: "Rồi may ra ông trời cho khá... Biết
thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng về sau"...
Bữa cơm đón nàng dâu mới sau "tối tân hôn" của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu
tính nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rối
và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất
vui. Trong bữa ăn bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà gọi
nồi cháo cám "đắng chát" là "chè khoán" rối rít khen "ngon đáo để", ít nhiều tự hào,
an ủi động viên con trai và nàng dâu: "Cám đấy mày ạ! Ngon đáo để, cứ thử ăn mà
xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!". Sau này, vợ chồng con cái Tràng có
thể có những bữa cơm no, nhiều thịt cá ngon lành, nhưng họ có bao giờ quên được
mùi vị "đắng chát" của nồi cháo cám ấy. Vì trong bát cháo cám ấy đã chứa đựng biết
bao tình thương của mẹ già.
Mượn ngoại cảnh, sự việc để phô diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của
Kim Lân trong việc khắc hoạ tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh
tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung
hoành ngay lối đi đã được hót sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm được đem ra phơi...
Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu giẫy cỏ...
Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà đã bắt đầu đổi thay. Mặc dầu còn nhiều thử
thách cam go. Tiếng quạ kêu. Tiếng trống thúc thuế. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những
nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng bà "không dám
để con dâu nhìn thấy bà khóc". Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn
người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho
hai vợ chồng Tràng đi tới... để khẳng định niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...".
Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi
vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã
có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.
Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng", Tố Hữu viết:
"Đời ta gương vỡ lại lành,
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa".
Cuộc đời mẹ con Tràng nhất định sẽ "đâm cành nở hoa". Có biết trận đói năm Ất Dậu
1945, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới
cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn "Vợ nhặt" này. Giọt nước mắt, tiếng
thở dài, nụ cười của bà cụ Tứ khi nhận nàng dâu mới làm ta cảm động khi khép trang
văn "Vợ nhặt" của Kim Lân với nhiều bâng khuâng.
Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 2
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Trong tác
phẩm ta không chỉ nhớ về anh cu Tràng và chị vợ nhặt mà còn nhớ đến bà mẹ tần tần,
chịu nhiều vất vả. Bà cụ Tứ là hình ảnh bà mẹ nông dân Việt Nam trước 1945. Ở nhân
vật này, Kim Lân không chú ý vào hành động mà đi sâu vào khai thác tâm trạng nhân
vật, qua đó khẳng định tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của ông.
Diện mạo của bà cụ Tứ chỉ được tác giả phác họa bằng vài chi tiết “dáng đi lọng
khọng, đôi mắt ghèn dử, vừa đi vừa húng hắng ho”. Nhưng chừng ấy cũng đã đủ để
cho người đọc hình dung về một bà mẹ nhân dân lam lũ, vất vả đã bị cái đói cái nghèo
đeo bám suốt cả cuộc đời.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Nhưng ngòi bút tập trung đi sâu miêu tả tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt là ở hai thời điểm:
trong buổi tối cô vợ nhặt về nhà và buổi sáng hôm sau. Qua hai thời điểm đó đã cho
thấy tài năng miêu tả tâm lí bậc thầy của Kim Lân.
Khi bà cụ Tứ nhìn thấy cô con dâu, bà ngạc nhiên đến mức ngỡ ngàng vì chưa bao giờ
bà thấy con trai bà mong ngóng bà về đến vậy. Sự ngạc nhiên tạo nên tâm lí phấp
phỏng khi bà theo anh cu Tràng vào nhà và thấy một người đàn bà lạ ngồi trong nhà.
Đến lúc này sự ngạc nhiên của bà đã lên đến đỉnh điểm, bà tự hỏi: “Quái, sao lại có
người đàn bà ngồi trong ý nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u”. Sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến mức bà
không tin nổi vào mắt mình, phải dụi mắt để cho đỡ nhoèn.
Sau khi được anh con trai giải thích, tâm trạng bà ngổn ngang, rối bời. Bằng trái tim
yêu thương của người mẹ, lòng bà dâng lên tình yêu thương con sâu sắc. Bởi bà hiểu
người ta chỉ lấy vợ lấy chồng khi cuộc sống yên ổn, nhưng con bà lại lấy vợ vào thời
điểm cái đói diễn ra ác liệt nhất. Cùng với đó bà nghĩ tủi cho phận người mẹ nghèo
khi không làm tròn trách nhiệm lo lắng cho hạnh phúc của con. Tất cả những nỗi lòng
ấy được dồn trong cái cúi đầu nín lặng. Sau tình yêu thương bà chuyển sang xót xa, lo
lắng “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau vượt qua cơn đói khát này được không?”.
Nạn đói đang hoành hành, những lo lắng của bà là hoàn toàn hợp lí. Từ lòng yêu
thương, lo lắng cho con, tấm lòng nhân hậu của người mẹ còn chuyển sang người vợ
nhặt. Dù Tràng không giới thiệu chi tiết, tỉ mỉ nhưng với kinh nghiệm sống của mình
và hiểu đám cưới vội vã của người con dâu. Bà nhìn cô với ánh mắt đầy cảm thông,
yêu thương: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con
mình. Mà con mình mới có được vợ”. Như vậy bà không chỉ là hiện thân của tình mẫu
tử thiêng liêng mà còn là hiện thân của tấm lòng bao dung, vị tha, sẵn sàng giúp đỡ
những người có số phận bất hạnh, éo le.
Dù trong lòng ngập tràn nỗi xót xa, nhưng bà vẫn luôn nói nhưng điều vui vẻ, hạnh
phúc với người con dâu mới: “ừ, thôi thì các con đã phải duyên, phải kiếp với nhau, u
cũng mừng lòng”. Câu nói vừa xóa đi cái ngượng ngùng cho người con dâu vừa là sự
chào đón đầy ấm áp, nhân từ bà dành cho thành viên mới của gia đình. Dù miệng nói
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
ra những điều phấn khởi, vui vẻ nhưng ám ảnh về cái đói, cái chết vẫn là quá lớn. Bởi
vậy, khi chìm vào thế giới của riêng mình bà vẫn không khỏi lo lắng, xót xa, và không
nén nổi thành dòng nước mắt chảy ròng ròng.
Trong buổi sáng hôm sau, Kim Lân tiếp tục đi sâu khai thác tâm lí bà cụ Tứ, đặc biệt
nhấn mạnh vào niềm tin, khát vọng tương lai. Cùng với sự thay đổi của Tràng và cô
vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng có sự thay đổi rõ ràng. Tràng đã cảm nhận thấy người mẹ của
mình có dáng vẻ khác hẳn mọi khi, không phải sự nhếch nhác, khổ sở mà thay vào đó
là dáng điệu nhẹ nhõm, tươi tỉnh. Bà dậy sớm cùng con dâu quét dọn nhà cửa. Những
hành động tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn lao, nó thể hiện sự vun đắp, chăm lo của
người mẹ cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ.
Để tạo niềm tin và hi vọng vào tương lai cho vợ chồng Tràng, trong bữa cơm ngày đói
bà lão toàn nói những chuyện sung sướng sau này. Sự tính toán của bà về việc mua
lấy đôi gà để ngoảnh đi ngoảnh lại đã có đàn gà, khiến cho đôi vợ chồng có niềm tin
vào tương lai. Nhưng dù dùng những câu chuyện vui, lạc quan thì bà lão vẫn không
thay đổi được hiện thực là nồi cháo kia chỉ đủ cho mỗi người ăn hai lưng là hết. Và để
vượt qua cái đói, bữa cơm đón cô dâu mới có thêm cả nồi cháo cám. Bưng nồi cháo
cám ra, phản ứng tâm lí của bà vô cùng đáng thương, bà lật đật, lễ mễ, khuấy khuấy
cùng với giọng nói đầy phấn khởi, để giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực là bát
cháo cám nghẹn ứ ở cổ. Những hành động đó của bà thật cảm động và đáng trân trọng.
Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa
trời nói về tương lai, những điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào
cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước
sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách
bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là
điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.
Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của
mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi
vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 3
Có một lí do khiến người đọc “rất mệt” khi đọc các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Kim Lân… bởi họ viết hay quá, cuốn
quá, đời quá và “gắt” quá. Mỗi khi đọc một trang văn, ta lại như sống cùng nhân vật,
cùng nhân vật đi qua những niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi đau đáu, bi ai. Đọc
truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên như một điển hình về
người đàn bà tuy sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con vô bờ bến.
Kim Lân Kim Lân (sinh 1 tháng 8 năm 1920 – mất 20 tháng 7 năm 2007), tên thật là
Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Văn Kim Lân mang đậm dấu ấn cá nhân. Kim Lân đặc biệt thành công trong việc tái
hiện không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả
của người nông dân thời kỳ đó. Các tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân gồm có “Nên vợ
nên chồng” (1955), “Làng” (1948), “Vợ nhặt” (in trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” năm 1962)…
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Nói về tác phẩm, Kim Lân viết: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết
về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến
những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác.
Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không
nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ
vẫn muốn sống, sống cho ra con người." Nhân vật bà cụ Tứ chính là điển hình cho
“những con người ấy”.
Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo hèn, tuy lớn tuổi
vẫn phải nhọc nhằn suy tính mưu sinh. Ta nhận biết được điều này thông qua một vài
chi tiết rất nhỏ: “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
lẩm bẩm tính toán gì trong miệng…”. Từ “lọng khọng” khiến người đọc có cảm giác
như một bà lão dáng dấp nhỏ bé, không còn nhanh nhẹn, bước từng bước chậm chạp,
nhọc nhằn đang bước ra từ bóng tối mịt mùng. Giữa không gian xóm ngụ cư tồi tàn,
con người “tối sầm” vì đói khát, không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi
gây của xác người chết đói” cộng hưởng với cái “lầm bầm tính toán” khiến ta rợn
người. Có thể tính toán gì nữa đây trong cái cảnh “không còn gì để mất” này? Do đó,
bà cụ Tứ bước tới mang theo cả “bầu trời” thê lương đến não lòng.
Tiếp theo, Kim Lân còn xây dựng lên nhân vật bà cụ Tứ giàu tình thương, đức hi sinh,
luôn mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Bà cụ Tứ là người mẹ luôn
biết thấu hiểu cho đưa con trai – cu Tràng, hết lòng mong cho con được hạnh phúc.
Điều này thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trong suốt câu chuyện. Lúc
đầu, thấy anh Tràng dắt về một người đàn bà lại, cụ Tứ “đứng sững lại”, “ngạc nhiên”.
Rồi càng ngạc nhiên hơn, khi người đàn bà kia “chào mình bằng u”. Sống quá nửa đời
người, chỉ giây lát bà cụ Tứ như dần hiểu ra mọi chuyện, mắt bà nhoè đi. Một câu hỏi
lớn xuất hiện trong đầu bà cụ Tứ: giữa nạn đói khủng khiếp này, ăn còn chẳng đủ làm
sao mà nuôi nổi nhau đây? Bà hiểu cả, hiểu khao khát có một mái ấm gia đình của cu
Tràng, nhưng hiện thực phũ phàng không cho Tràng có cơ hội có một đám cưới đàng
hoàng như bao người. Của hồi môn là vài câu hò với mấy bát bánh đúc, cô vợ là người
đàn bà “nhặt” về, thế nhưng, sau những giây phút ngập ngừng suy tính, bà cụ Tứ cũng
“mừng lòng” đón nhận. Đó chẳng phải minh chứng cho khao khát hạnh phúc gia đình
của bà cụ Tứ đó sao? Bà cụ Tứ không chỉ thương con, mà còn là người giàu lòng nhân
ái, thương người cùng cảnh. Bà đón nhận một người đàn bà dưng về dù “không biết có nuôi nổi nhau không”.
Cuối cùng, bà cụ Tứ còn là một người luôn sống lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi
sáng. Cảnh buổi sáng hôm sau rực nắng vàng xua tan mọi âm u, chết chóc. Cả gia
đình cùng nhau sửa sang ngôi nhà, rọn vườn, quét sân… Trong bữa ăn ngày đói, mâm
cháo cám “đắng chát” mừng con dâu mới phơi bày hiện thực “cái đói ngay trước
mắt”. Ba con người, ba mảnh đời. Một kẻ ngờ nghệch. Một người rẻ rúng được “nhặt”
về. Một bà lão “gần đất xa trời”. Thế nhưng, họ say sưa nói chuyện tương lai. Bà cụ
Tứ hào hứng kể những dự tính sắp tới
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
Như vậy, thông qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã nói lên khát vọng, ước mơ cao
đẹp từ đó bày tỏ lòng trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người. Đó cũng chính
là biểu hiện của tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Một lần nữa, Nam Cao lại
thành công trong xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật sinh động, chân thực, nói lên
phong cách văn chương độc đáo của riêng mình.
Tôi chợt nhớ tới câu nói trong tác phẩm “Cố hương” của Lỗ Tấn: “Trên thế gian này
làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi…” Cũng đi trên “con
đường mòn” phê phán hiện thực, viết về thể tài người nông dân như Nam Cao, Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… nhưng Kim Lân lại có bước đi của riêng mình.
Nhân vật bà cụ Tứ - Mẫu 4
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân. Truyện đã
miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu
của họ. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ được Kim Lân miêu tả không nhiều, nhưng cũng đủ để người đọc có thể
hình dung về nhân vật. Đầu tiên là cách gọi “bà cụ Tứ” gợi cho người đọc biết được
nhiều thông tin về nhân vật. “Bà cụ” gợi về tuổi tác, giới tính của nhân vật. Còn “Tứ”
là cách đọc chệch của “Tư” - một cách đặt tên quen thuộc trong xã hội Việt Nam xưa.
Thông qua tên gọi này, Kim Lân còn thấy được xuất thân của nhân vật. Bà cụ Tứ là
một người phụ nữ sinh ra trong một gia đình nông dân đông con, nghèo khổ. Cuộc đời
của bà cũng chính là cuộc đời của biết bao người phụ nữ khác trong xã hội Việt Nam thời xưa.
Tuy là một trong những nhân vật chính của tác phẩm. Nhưng bà cụ Tứ không xuất
hiện từ đầu tác phẩm, mà chỉ đến khi Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà, Kim Lân mới để
cho nhân vật xuất hiện: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài
rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”.
Chỉ với vài nét phác họa đơn giản, Kim Lân đã cho người đọc hình dung ra được về
ngoại hình nhân vật. Đó là một bà lão đã già cả, với cái lưng đã còng xuống in hằn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
những gánh nặng của cuộc đời cực nhọc. Dáng đi thì lọng khọng, chậm chạp. Đôi mắt
đã kèm nhèm vì dấu vết của thời gian. Bà lão vừa đi vừa ho húng hắng, miệng còn
lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già. Không ai biết bà tính toán những gì,
nhưng qua đó ta thấy sự lo toan của bà trong cuộc sống. Như vậy, Kim Lân đã khắc
họa hình ảnh một người mẹ đã vô cùng quen thuộc mà ta có thể bắt gặp ở bất kì đâu
trên đất nước Việt Nam này.
Đặc biệt nhất, phải kể đến diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ khi Tràng đưa cô vợ nhặt
về “ra mắt”. Kim Lẫn đã khéo léo qua đó khắc họa được những nét phẩm chất tốt đẹp
của nhân vật này. Trước sự sốt sắng của anh con trai, bà lão cảm thấy phấp phỏng
nhưng vẫn bước theo con vào nhà. Rồi khi nghe có tiếng ai đó chào mình, bà cảm thấy
kì lạ. Kim Lân đã sử dụng những dòng độc thoại nội tâm để khắc họa tâm trạng của
nhân vật: “Quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “Người đàn bà nào
lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u?”. Từ
sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt mình. Điều ấy dẫn đến
hành động: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình
nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào.
Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”. Đến khi Tràng giải thích, bà cụ Tứ mới
hiểu ra tất cả. Nhưng khi hiểu ra rồi, bà lại cảm thấy xót xa, buồn tủi cho con trai phải
lấy vợ trong cảnh đói khát. Tiếp tục lại là những dòng độc thoại nội tâm: “Chao ôi,
người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh
con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Đó là sự mặc cảm của lòng người mẹ
hết lòng yêu thương, lo lắng cho đứa con trai tội nghiệp. Đặc biệt nhất là chi tiết
“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt…”. Chi tiết giọt nước
mặt vốn đã quen thuộc trong các tác phẩm văn học. Đó có thể là giọt nước mắt giả dối
trong “Hạnh phúc một tang gia” - một đoạn trích trong tác phẩm hiện thực châm biếm
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng. Hay giọt nước mắt đau đớn đến xé lòng của lão Hạc -
người nông dân nghèo khi ông bán đi đứa con tinh thần, người bạn thân thiết của cuộc
đời mình - cậu Vàng. Còn trong Vợ nhặt, giọt nước mắt của bà cụ Tứ thể hiện nỗi
niềm đau xót khi con mình có được vợ trong hoàn cảnh trớ trêu. Cũng như sự lo lắng
về cuộc sống tương lai của con mình: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
được cơn đói khát này không?”. Càng thương con bao nhiêu, bà cụ Tứ lại càng tự
trách bản thân bấy nhiêu vì đã không thể lo lắng cho con mình.
Nhưng không dừng lại ở đó, cái nhân văn của Kim Lân là đã xây dựng được ở bà cụ
Tứ một tấm lòng bao dung cao cả. Thương con là vậy, nhưng bà cũng cảm thương cho
người người nhặt: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến
con mình. Mà con mình mới có vợ được...”. Tấm lòng của người mẹ thật vĩ đại biết
bao. Không chỉ thương con trai mà còn thương cả con dâu, đồng cảm với cảnh ngộ
của người vợ nhặt. Để từ đó bà cảm thấy mừng vì con trai đã yên bề gia thất: “Thôi thì
các con đã phải duyên phải kiếp với nhau cũng mừng lòng”. Bà lão đã vui vẻ chấp
nhận người con dâu mới: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã
không ghét bỏ cô vợ nhặt, mà còn ân cần hỏi han: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống
đây cho đỡ chân”. Rồi còn nhẹ nhàng giải thích để con dâu không cảm thấy tủi thân:
“Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai
người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi.
Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Tình yêu
thương của bà cụ Tứ đã xóa đi những định kiến trong xã hội xưa cũ về mối quan hệ
mẹ chồng - nàng dâu. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn lo lắng cho các con sau này:
“Chúng nó có nuôi nhau sống qua được cơn đói khát này không”, “Vợ chồng chúng
nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không”.
Đặc biệt nhất, bà cụ Tứ chính là người đã truyền cho các con niềm tin về một tương
lai tương sáng. Bà lão đã nói về tương lai với niềm lạc quan: “Nhà ta nghèo con ạ. Vợ
chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế
nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Bà
bảo ban các con kiên trí làm ăn. Đặc biệt là vào buổi sáng hôm sau, trong bữa ăn đầu
tiên của cô vợ nhặt khi về nhà Tràng. Bà cụ Tứ toàn nói chuyện vui vẻ, chuyền tương
lai: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà, ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có đàn gà
cho xem”. Bà mong ước cuộc sống của vợ chồng Tràng sẽ tốt đẹp hơn. Ở cuối truyện,
khi bà cụ Tứ bưng ra một nồi cháo cám. Trong khi Tràng thì “chum ngay lại, miếng
cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, còn cô vợ nhặt thì “đón lấy cái bát, đưa lên mắt
nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thì bà cụ Tứ vẫn tươi cười vẫn tươi cười, đon đả: “Cám
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt
đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”.
Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện độc đáo, cùng với ngòi bút khắc họa tâm lí
nhân vật thông qua những đối thoại, độc thoại nội tâm. Từ đó nhà văn đã khắc họa
hình ảnh bà cụ Tứ là người mẹ nghèo hiền từ, chất phác, vị tha, nhân hậu, âm thầm hi
sinh vì hạnh phúc của con.
Như vậy, Kim Lân đã thật thành công khi khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ. Bà là nhân vật
tiêu biểu cho những phẩm chất tốt đẹp của người mẹ nghèo Việt Nam.