/5
BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
I. Giới thiệu chung
1. Tác giả: Nguyễn Công Tr
- Xuất thân từ một gia đình Nho học.
- Quê làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh nh.
- “Chàng trai của đất Uy Viễn”
- Nhỏ sống trong cảnh nghèo khó, có điều kiện tham gia sinh hoạt ca trù, sau tr thành
“Ông hoàng hát nói”.
- “Ngàn năm vang mãi tiếng cười Hi n”.
Nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến một nhà thơ tài năng, nh trọn cuộc đời của mình,
dùng cái tài cái chí để thực hiện chí nam nhi, mục đích kinh bang tế thế. Thơ văn của ông để
lại trên nền văn học Việt Nam thể hiện ý chí nỗ lực của ông trên đường công danh s nghiệp
ấy. Bài Ca Ngất Ngưởng” một minh chứng cho điều đó. Bài thơ đã thể hiện được bản lĩnh
nhân trong cuộc sống với thể thơ t do, phóng khoáng, đan xen giữa nhạc thơ.
--
“Ngàn năm vang mãi tiếng cười Hi n”
“Bài Ca Ngất Ngưởng” chính một tiếng cười thể hiện phong cách sống, nhân cách sống tài
năng của Nguyễn Công Tr trên cuộc đời này. Bài thơ đã khẳng định được bản lĩnh nhân của
ông trong cuộc sống, đan xen giữa nhạc thơ, đồng thời cũng thể hiện được tài năng của
Nguyễn Công Trứ
2. Tác phẩm
- Được sáng tác theo thể hát nói, điệu của ca trù, gần với thơ tự do sau này.
II. Phân ch
“NGẤT NGƯỞNG”
- Nội dung chính của tác phẩm
- Miêu tả vật trên cao, chới với, không cân bằng
- Bảng tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Tr
- Thái độ, phong cách sống của nhà Nho muốn vượt lên mọi người: thể hiện ý thức
nhân, thể, bản ngã cứng cỏi của một nhà Nho.
KẾT CẤU
Đoạn 1: Quan điểm sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ khi làm trong triều.
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao ợc đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, c đại ớng,
khi về Phủ doãn Thừa Thiên.”
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,”
- Câu đầu tiên của bài thơ bằng chữ Hán, khác với phần còn lại của bài thơ.
- Nghĩa: Mọi việc trên trời đất này đều thuộc phận sự của ta.
- Một lời tự nhận trách nhiệm của đấng nam nhi với mọi việc trong trời đất này, không
phải ai cũng có.
tưởng đáng ngưỡng mộ, nhân sinh quan rất cao đẹp.
- Khi Nguyễn Công Trứ bắt đầu đậu giải nguyên năm 41 tuổi thì cả đời ông dùng tài
chí để thực hiện trách nhiệm của mình đối với non sông đất nước, đúng với 4 t “kinh
bang tế thế”, trị nước giúp dân.
Không phải người bình thường.
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.”
Mang tính khôi hài, tự trào phúng, tự đắc.
- Ông ý thức được tài năng của mình gói gọn hết vào trong t “tài bộ”.
- Dùng tài chí để phụng sự cho non sông, đất nước.
Tự cười mình.
- Ông biến tự do tài năng của mình đi vào vòng cương tỏa của những luật lệ trong
hội phong kiến. Ông bị giam hãm trong lồng, mất tự do nhưng thái độ lại tự
nguyện.
Thái độ sống sự tự đánh giá nh rất trân quý.
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao ợc đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, c đại ớng,
khi về Phủ doãn Thừa Thiên.”
Những dòng sau ông đã dùng nghệ thuật liệt kể ra hàng loạt những chiến tích đáng tự o sau
28 năm m quan.
- Điệp từ “khi”, “lúc”.
- Nghệ thuật liệt .
- Ông đỗ thủ khoa
Tri thức uyên thâm.
- Từng giữ những chức như tham tán, tổng đốc.
Đánh giá cuộc đời ông một cách toàn diện.
- Ông đã thực hiện những công việc lớn đối với đất nước.
+ Dẹp tan bọn cướp bóc chuyên phá vùng biển Bắc Hà, lãnh chức doanh điền sứ.
+ Lập nên 2 huyện Tiên Hải Kim Sơn, 2 tổng Hoành Thu Ninh Nhất.
+ Thi hành chính sách khai hoang một loạt nơi trên đất Bắc, nhân dân được ấm no.
=> Được nhân dân lập đền thờ ngay cả khi ông còn sống.
- Không chỉ kiến thức uyên bác còn có tài về quân sự.
Khi nhìn lại những mình đã làm, sự tự hào dâng trào trong từng con chữ.
6 dòng thơ lập nên một bảng tự thuật về 28 năm của một con người vẫy vùng ngang
dọc cùng trời đất. vẫn buồn đau trên con đường hoạn lộ thăng trầm nhưng ông
vẫn nhất lại bằng một thái độ tự hào nhất.
Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ không hạn hẹp không ích kỷ, không thuộc chủ
nghĩa nhân thuần túy. Ông không nghĩ vun vén cho bản thân ch nghĩ tới tài
năng của mình đã đóng góp cho đất nước.
Sau khi m ông mất vào năm 1832, Nguyễn Công Trứ được c làm quan bố chánh Hải
Dương. Lúc đó nhà vua mới hiểu được hoàn cảnh của ông, nói: “Khanh nhà nghèo, trẫm
vẫn biết, nay nhận nhiệm vụ này thì cứ giữ lòng thanh liêm như thế. Nếu chỉ dụ không đủ
thì mật tấu về, trẫm s chu cấp cho.”. Không lâu sau thì vua sai thị vệ bán cho ông 20
bánh thuốc trà, trong mỗi bánh 1 n bạc.
Nhà vua cũng hiểu được cái chí của Nguyễn Công Tr tấm lòng cao cả của ông.
Khi ông 80 tuổi, thực dân Pháp xâm lược, các quan dâng sớ xin vua cử ông ra trận. Một
cụ già mắt mờ, chân yếu, nhưng khi giặc xâm lược thì vẫn nhận lệnh cầm quan ra trận.
“Dù tôi như cái màn, cái lọng rách, cũng không dám từ nan, còn chút hơi thở nào xin lên
đường này.”
Tiếc thay chàng trai uy viễn năm đó giờ đã già nên không thể đảm nhận được nhiệm vụ
như vậy. Tháng 11 năm ấy thì ông t trần.
Nhưng điều đọng lại trong sổ sách trong lòng người đọc tấm lòng yêu nước, khát
vọng cống hiến.
Ông bằng lòng về mình, bằng lòng về quãng đời sống cống hiến. “Ngất ngưởng”
đây sự đánh giá cao về bản thân mình.
“Công danh” của ông đây không chỉ vinh còn trách nhiệm đối với đất nước.
Đoạn 2
“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đúng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
“Đô môn giải tổ chi niên”
Từ quan trở về sống như một người n thường thì Nguyễn Công Trứ đã sống như thế o?
Với hai bước ngoặc trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ thì nhà thơ đã viết bằng tiếng Hán Việt
trang trọng thể hiện là bước ngoặc lớn trong cuộc đời của mình.
Quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ. Liệu rằng ông còn ngất ngưởng hay không?
Đến khi từ quan, Nguyễn Công Tr trả lại tất cả áo mũ, chức sách triều đình ban cho. Ông đã
từng nói: “Trở về bốn ch tường mo, ba gian nhà cỏ.”.
“Đạc ngựa vàng đeo ngất ngưởng.
- Khi về hưu ông vẫn sống ngất ngưởng.
- Ngược đời, ông cáo quan đủng đỉnh về quê trong khi kinh thành xa hoa đầy kiệu
ngựa.
- Thể hiện đó trái khoáy, thay cưỡi ngựa thì ông cưỡi bò, loài vật được xem
thấp kém. Ông cũng cho đeo đạc ngựa; tương truyền, Nguyễn Công Trứ còn cho
đeo mo cau đuôi với tuyên ngôn ngược ngạo “để che miệng thế gian”.
đó ngược đời, trêu ngươi, đối lập với tất c quan niệm người đời hội phong
kiến. Ta thấy không chỉ ông ngất ngưởng, chú ông cưỡi cũng ngất ngưởng
ng.
Sau khi nghỉ hưu, ông đi ngao du bốn phương:
“Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung nên dạng từ bi.
- Từ khi nghỉ hưu cuộc sống ông thay đổi khá sâu sắc: từ cương vị một vị tướng
quyền sinh, quyền sát, tay kiếm cung thì y giờ trở thành một ông già với dạng từ bi,
để lại phía sau lưng một cuộc đời chiến tích ngang dọc. Còn chờ đón của Nguyễn
Công Trứ về phía trước là một cuộc đời bình thường, trống vắng, chỉ núi quê ông
với những tầng y trắng phau cho nên ông mới viết “kìa núi nọ phau phau mây
trắng”.
- “Mây trắng”: sự thanh cao, nhẹ, mong manh, định thoáng hiện lên một chút
vô. Trong ông lúc này đó bâng khuâng, bất định.
- Ông già từ bi hướng cuộc sống của mình đến một nơi định.
- Câu thư trữ tình, thoáng ý vị chua chát. bỏ hết áo mạo cơm đay, chiến tích bây
giờ chỉ một con người cùng đỉnh núi cao mấy trắng.
Bản ngã, cái tôi của Nguyễn Công Trứ đã trỗi dậy nên ông thể hiện lối phá cách ngất ngưởng của
mình:
“Gót tiên theo đúng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”
- Gợi lên đoàn người thong dong, tự do t tại trời mây nước.
- Nguyễn Công Trứ thường đưa các gái lên chùa Thiên Tự.
- Số từ “một đôi” chỉ thể hiện một quan niệm sống vượt lên trên người đời lúc bấy giờ.
- Ông không theo thiền học, giác ngộ lại sống phóng khoáng, thảnh thơi cui vẻ
với những cuộc dạo chơi khi ngắm cảnh chùa.
- Cười cợt tất c mọi người để thể hiện lối sống phóng khoáng của mình.
- “Ngất ngưởng”: độc đáo, lạ đời một phần trong tính cách của ông.
Cách sống của ông cũng làm người ta suy ngẫm:
“Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.”
- Những “được mất” hay những lời “khen chê” trong cuộc đời hay đem đến tâm trạng
trái ngược: được khen thì phơi phới, bị chê thì buồn bã.
- Đối với một người bản lĩnh như Nguyễn Công Tr thì được, mất hay khen, chê
ông đều không quan tâm.
- “Được mất” của ông giống như người thái thượng, người thượng cổ không quan tâm
đến chuyện được mất.
- “Khen chê” thì như ngon gió thoáng qua như “ngọn đông phong”.
Rèn được bản lĩnh như thế không phải một người bình thường.
Những câu tiếp theo ông lại liệt cách sống khi về hưu của mình:
“Khi ca, tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.”
- Ông không phải tiên, cũng không phải con người của Phật, người của cuộc đời.
- Con người của đời còn sắc màu âm nhạc trong cuộc sống của mình ca”, “tửu”,
“cắc”, “tùng”.
- Con người này cũng không vướng tục trần, không bị lụy điều tiếng của người đời.
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
- Ông vẫn nhà Nho.
- Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật những người nổi tiếng sự nghiệp hiển hách.
- Theo ông hai trách nhiệm đối với nam nhi: “kinh bang tế thế” “tạo nghĩa vua
tôi”.
- “Ngất ngưởng”: một lần nữa khẳng định niềm tự hào của ông.
Sau khi tổng kết hết được về cuộc đời của mình thì ràng ông nhận thấy mình đã thực hiện trọn
vẹn trách nhiệm của một đấng nam nhi, thậm chí xuất sắc. Bởi thế ông mới đưa ra lời thách
thức, cũng khẳng định câu cuối.
Bài thơ tuyên ngôn khẳng định về phong cách sống, nhân cách sự nghiệp của chính
mình. Bài thơ có một vị trí đặc biệt trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ, cũng lời nói đối
với hậu thế ông đã sống cuộc đời ngất ngưởng thực hiện xuất sắc trách nhiệm nam nhi.

Preview text:

BÀI CA NGẤT NGƯỞNG I. Giới thiệu chung
1. Tác giả: Nguyễn Công Trứ
- Xuất thân từ một gia đình Nho học.
- Quê ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- “Chàng trai của đất Uy Viễn”
- Nhỏ sống trong cảnh nghèo khó, có điều kiện tham gia sinh hoạt ca trù, sau trở thành “Ông hoàng hát nói”.
- “Ngàn năm vang mãi tiếng cười Hi Văn”.
Nhắc đến Nguyễn Công Trứ là nhắc đến một nhà thơ tài năng, dành trọn cuộc đời của mình,
dùng cái tài và cái chí để thực hiện chí nam nhi, mục đích kinh bang tế thế. Thơ văn của ông để
lại trên nền văn học Việt Nam thể hiện ý chí và nỗ lực của ông trên đường công danh sự nghiệp
ấy. “Bài Ca Ngất Ngưởng” là một minh chứng cho điều đó. Bài thơ đã thể hiện được bản lĩnh cá
nhân trong cuộc sống với thể thơ tự do, phóng khoáng, đan xen giữa nhạc và thơ. --
“Ngàn năm vang mãi tiếng cười Hi Văn”
“Bài Ca Ngất Ngưởng” chính là một tiếng cười thể hiện phong cách sống, nhân cách sống và tài
năng của Nguyễn Công Trứ trên cuộc đời này. Bài thơ đã khẳng định được bản lĩnh cá nhân của
ông trong cuộc sống, đan xen giữa nhạc và thơ, đồng thời cũng thể hiện được tài năng của Nguyễn Công Trứ 2. Tác phẩm
- Được sáng tác theo thể hát nói, điệu của ca trù, gần với thơ tự do sau này. II. Phân tích “NGẤT NGƯỞNG”
- Nội dung chính của tác phẩm
- Miêu tả vật ở trên cao, chới với, không cân bằng
- Bảng tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Trứ
- Thái độ, phong cách sống của nhà Nho muốn vượt lên mọi người: thể hiện ý thức cá
nhân, cá thể, bản ngã cứng cỏi của một nhà Nho. KẾT CẤU
Đoạn 1: Quan điểm sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ khi làm trong triều.

“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.”
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự,”
- Câu đầu tiên của bài thơ bằng chữ Hán, khác với phần còn lại của bài thơ.
- Nghĩa: Mọi việc trên trời đất này đều thuộc phận sự của ta.
- Một lời tự nhận trách nhiệm của đấng nam nhi với mọi việc trong trời đất này, không phải ai cũng có.
⇨ Tư tưởng đáng ngưỡng mộ, nhân sinh quan rất cao đẹp.
- Khi Nguyễn Công Trứ bắt đầu đậu giải nguyên năm 41 tuổi thì cả đời ông dùng tài và
chí để thực hiện trách nhiệm của mình đối với non sông đất nước, đúng với 4 từ “kinh
bang tế thế”, trị nước giúp dân.
⇨ Không phải người bình thường.
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.”
Mang tính khôi hài, tự trào phúng, tự đắc.
- Ông ý thức được tài năng của mình và gói gọn hết vào trong từ “tài bộ”.
- Dùng tài và chí để phụng sự cho non sông, đất nước. ⇨ Tự cười mình.
- Ông biến tự do và tài năng của mình đi vào vòng cương tỏa của những luật lệ trong
xã hội phong kiến. Ông bị giam hãm trong lồng, mất tự do nhưng thái độ lại tự nguyện.
⇨ Thái độ sống và sự tự đánh giá mình rất trân quý.
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.”
Những dòng sau ông đã dùng nghệ thuật liệt kê kể ra hàng loạt những chiến tích đáng tự hào sau 28 năm làm quan.
- Điệp từ “khi”, “lúc”. - Nghệ thuật liệt kê. - Ông đỗ thủ khoa ⇨ Tri thức uyên thâm.
- Từng giữ những chức như tham tán, tổng đốc.
⇨ Đánh giá cuộc đời ông một cách toàn diện.
- Ông đã thực hiện những công việc lớn đối với đất nước.
+ Dẹp tan bọn cướp bóc chuyên phá vùng biển Bắc Hà, lãnh chức doanh điền sứ.
+ Lập nên 2 huyện Tiên Hải và Kim Sơn, 2 tổng Hoành Thu và Ninh Nhất.
+ Thi hành chính sách khai hoang ở một loạt nơi trên đất Bắc, nhân dân được ấm no.
=> Được nhân dân lập đền thờ ngay cả khi ông còn sống.
- Không chỉ có kiến thức uyên bác mà còn có tài về quân sự.
⇨ Khi nhìn lại những gì mình đã làm, sự tự hào dâng trào trong từng con chữ.
⇨ 6 dòng thơ lập nên một bảng tự thuật về 28 năm của một con người vẫy vùng ngang
dọc cùng trời đất. Dù vẫn có buồn đau trên con đường hoạn lộ thăng trầm nhưng ông
vẫn nhất lại bằng một thái độ tự hào nhất.
⇨ Chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ không hạn hẹp và không ích kỷ, không thuộc chủ
nghĩa cá nhân thuần túy. Ông không nghĩ vun vén cho bản thân mà chỉ nghĩ tới tài
năng của mình đã đóng góp gì cho đất nước.
Sau khi mẹ ông mất vào năm 1832, Nguyễn Công Trứ được cử làm quan bố chánh Hải
Dương. Lúc đó nhà vua mới hiểu được hoàn cảnh của ông, nói: “Khanh nhà nghèo, trẫm
vẫn biết, nay nhận nhiệm vụ này thì cứ giữ lòng thanh liêm như thế. Nếu chỉ dụ không đủ
thì mật tấu về, trẫm sẽ chu cấp cho.”. Không lâu sau thì vua sai thị vệ bán cho ông 20
bánh thuốc trà, trong mỗi bánh có 1 nén bạc.
⇨ Nhà vua cũng hiểu được cái chí của Nguyễn Công Trứ và tấm lòng cao cả của ông.
Khi ông 80 tuổi, thực dân Pháp xâm lược, các quan dâng sớ xin vua cử ông ra trận. Một
cụ già mắt mờ, chân yếu, nhưng khi giặc xâm lược thì vẫn nhận lệnh cầm quan ra trận.
“Dù tôi như cái màn, cái lọng rách, cũng không dám từ nan, còn chút hơi thở nào xin lên đường này.”
Tiếc thay chàng trai uy viễn năm đó giờ đã già nên không thể đảm nhận được nhiệm vụ
như vậy. Tháng 11 năm ấy thì ông từ trần.
Nhưng điều đọng lại trong sổ sách và trong lòng người đọc là tấm lòng yêu nước, khát vọng cống hiến.
⇨ Ông bằng lòng về mình, bằng lòng về quãng đời sống cống hiến. “Ngất ngưởng” ở
đây là sự đánh giá cao về bản thân mình.
“Công danh” của ông ở đây không chỉ là vinh mà còn là trách nhiệm đối với đất nước. Đoạn 2
“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đúng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
“Đô môn giải tổ chi niên”
Từ quan trở về sống như một người dân thường thì Nguyễn Công Trứ đã sống như thế nào?
Với hai bước ngoặc trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ thì nhà thơ đã viết bằng tiếng Hán Việt –
trang trọng và thể hiện là bước ngoặc lớn trong cuộc đời của mình.
Quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ. Liệu rằng ông có còn ngất ngưởng hay không?
Đến khi từ quan, Nguyễn Công Trứ trả lại tất cả áo mũ, chức sách triều đình ban cho. Ông đã
từng nói: “Trở về bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ.”.
“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.”
- Khi về hưu ông vẫn sống ngất ngưởng.
- Ngược đời, ông cáo quan đủng đỉnh về quê trong khi kinh thành xa hoa đầy kiệu và ngựa.
- Thể hiện gì đó trái khoáy, thay vì cưỡi ngựa thì ông cưỡi bò, loài vật được xem là
thấp kém. Ông cũng cho bò đeo đạc ngựa; tương truyền, Nguyễn Công Trứ còn cho
đeo mo cau ở đuôi bò với tuyên ngôn ngược ngạo “để che miệng thế gian”.
⇨ Có gì đó ngược đời, trêu ngươi, đối lập với tất cả quan niệm người đời xã hội phong
kiến. Ta thấy không chỉ có ông ngất ngưởng, mà chú bò ông cưỡi cũng ngất ngưởng cùng.
Sau khi nghỉ hưu, ông đi ngao du bốn phương:
“Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.”
- Từ khi nghỉ hưu cuộc sống ông thay đổi khá sâu sắc: từ cương vị một vị tướng có
quyền sinh, quyền sát, tay kiếm cung thì bây giờ trở thành một ông già với dạng từ bi,
để lại phía sau lưng một cuộc đời chiến tích ngang dọc. Còn chờ đón của Nguyễn
Công Trứ về phía trước là một cuộc đời bình thường, trống vắng, chỉ có núi quê ông
với những tầng mây trắng phau cho nên ông mới viết “kìa núi nọ phau phau mây trắng”.
- “Mây trắng”: sự thanh cao, nhẹ, mong manh, vô định – thoáng hiện lên một chút hư
vô. Trong ông lúc này có gì đó bâng khuâng, bất định.
- Ông già từ bi hướng cuộc sống của mình đến một nơi vô định.
- Câu thư trữ tình, thoáng ý vị chua chát. Rũ bỏ hết áo mạo cơm đay, chiến tích và bây
giờ chỉ là một con người cùng đỉnh núi cao và mấy trắng.
Bản ngã, cái tôi của Nguyễn Công Trứ đã trỗi dậy nên ông thể hiện lối phá cách ngất ngưởng của mình:
“Gót tiên theo đúng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”
- Gợi lên đoàn người thong dong, tự do tự tại ở trời mây nước.
- Nguyễn Công Trứ thường đưa các cô gái lên chùa Thiên Tự.
- Số từ “một đôi” chỉ thể hiện một quan niệm sống vượt lên trên người đời lúc bấy giờ.
- Ông không theo thiền học, giác ngộ mà lại sống phóng khoáng, thảnh thơi và cui vẻ
với những cuộc dạo chơi khi ngắm cảnh chùa.
- Cười cợt tất cả mọi người để thể hiện lối sống phóng khoáng của mình.
- “Ngất ngưởng”: độc đáo, lạ đời – một phần trong tính cách của ông.
Cách sống của ông cũng làm người ta suy ngẫm:
“Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.”
- Những “được mất” hay những lời “khen chê” trong cuộc đời hay đem đến tâm trạng
trái ngược: được khen thì phơi phới, bị chê thì buồn bã.
- Đối với một người bản lĩnh như Nguyễn Công Trứ thì dù được, mất hay khen, chê ông đều không quan tâm.
- “Được mất” của ông giống như người thái thượng, người thượng cổ không quan tâm
đến chuyện được mất.
- “Khen chê” thì như ngon gió thoáng qua như “ngọn đông phong”.
⇨ Rèn được bản lĩnh như thế không phải một người bình thường.
Những câu tiếp theo ông lại liệt kê cách sống khi về hưu của mình:
“Khi ca, tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.”
- Ông không phải tiên, cũng không phải con người của Phật, mà là người của cuộc đời.
- Con người của đời còn có sắc màu âm nhạc trong cuộc sống của mình “ca”, “tửu”, “cắc”, “tùng”.
- Con người này cũng không vướng tục trần, không bị lụy vì điều tiếng của người đời.
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!” - Ông vẫn là nhà Nho.
- Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật – những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách.
- Theo ông có hai trách nhiệm đối với nam nhi: “kinh bang tế thế” và “tạo nghĩa vua tôi”.
- “Ngất ngưởng”: một lần nữa khẳng định niềm tự hào của ông.
Sau khi tổng kết hết được về cuộc đời của mình thì rõ ràng ông nhận thấy mình đã thực hiện trọn
vẹn trách nhiệm của một đấng nam nhi, thậm chí là xuất sắc. Bởi thế ông mới đưa ra lời thách
thức, cũng là khẳng định ở câu cuối.
Bài thơ là tuyên ngôn khẳng định về phong cách sống, nhân cách và sự nghiệp của chính
mình. Bài thơ có một vị trí đặc biệt trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ, và cũng là lời nói đối
với hậu thế ông đã sống cuộc đời ngất ngưởng và thực hiện xuất sắc trách nhiệm nam nhi.
Document Outline

  • BÀI CA NGẤT NGƯỞNG
  • 2.Tác phẩm
  • II.Phân tích
  • KẾT CẤU
  • Đoạn 2