Phân tích bài Dục Thúy sơn chọn lọc hay nhất
Phân tích bài Dục Thúy sơn chọn lọc hay nhất - Mẫu số 1
Tình yêu thiên nhiên luôn nguồn cảm hứng bất tận trong những tác phẩm
của Nguyễn Trãi. Sau mỗi bức tranh thiên nhiên sống động, n thơ tài hoa
luôn khéo léo gửi gắm những suy tư, trăn trở về cuộc đời thế sự. Điều này
được thể hiện nét qua tác phẩm "Dục Thúy sơn". Bài thơ, được viết bằng
chữ Hán theo thể ngũ ngôn luật thi, đã để lại nhiều ấn tượng u đậm cho
độc giả bởi cảnh sắc nên thơ trữ tình.
Trước hết, Nguyễn Trãi khéo léo nhắc đến vị trí của núi Dục Thúy:
"Hải khẩu hữu tiên san" ("Cửa biển non tiên")
Cụm từ "tiên san" gợi lên hình ảnh ngọn núi thần tiên ngay tại cửa biển "hải
khẩu". đã nhiều lần ghé thăm "tiền niên vãng hoàn", nhưng thi vẫn
luôn cảm nhận nơi đây đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Vẻ đẹp ấy được tạo
nên bởi những hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.
Ngắm nhìn cảnh sắc tươi đẹp nơi đây, con người không khỏi say đắm:
"Liên hoa phù thủy thượng; Tiên cảnh trụy trần gian."
Qua quan sát cảm nhận, thi nhân tưởng tượng hình dáng núi giống như
bông hoa sen thanh khiết đang nở rộ giữa dòng nước trong xanh. Hình ảnh
ẩn dụ "liên hoa phù thủy thượng" cho thấy sự liên tưởng thú vị mới lạ của
nhà thơ. Sen tượng trưng cho vẻ đẹp giản dị, trong sáng. Ví dáng núi như
hoa sen, Nguyễn Trãi muốn nhấn mạnh sự thuần khiết tươi đẹp của núi
non, sông nước nơi đây. Đến câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục khẳng định
cảnh sắc sơn thủy hữu tình. Chữ "tiên" một lần nữa được sử dụng để nhấn
mạnh vẻ đẹp huyền diệu, lung linh như chốn tiên cảnh của i Dục Thúy.
Đứng trước cảnh tượng ấy, con người cứ ngỡ đây là "cõi tiên i xuống trần
gian".
Bức tranh thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu được thi miêu tả từ điểm nhìn
xa, với tầm bao quát rộng, mang màu sắc của tiên giới - huyền ảo diệu kỳ.
Đến những câu thơ tiếp theo, khung cảnh núi Dục Thúy hiện ra cùng chân
thực nét:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc; Ba quang kính thúy hoàn."
Trong bài thơ "Dục Thúy sơn", Trương Hán Siêu từng viết "Trung lưu quang
tháp ảnh," ("Lòng sông in bóng tháp"). Nếu như Trương Hán Siêu ch đơn
thuần miêu tả hình ảnh ngọn tháp in bóng lên dòng nước, thì Nguyễn Trãi lại
mang đến một sự ng tạo độc đáo. Ông bóng tháp trên mặt nước giống
như chiếc trâm cài c của người thiếu nữ, được làm từ ngọc màu xanh.
Xưa nay, các thi nhân thường lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả nét đẹp
của con người. Trong "Dục Thúy sơn", Nguyễn Trãi lại dùng vẻ đẹp đằm
thắm, duyên dáng của người con gái để hình dung dáng núi soi bóng trên
sóng biếc. Đây qu một hình ảnh so sánh hiện đại đặc biệt. Sự liên
tưởng bút pháp mới lạ tiếp tục được thể hiện qua câu thơ "Ba quang kính
thúy hoàn". Ánh sáng dòng nước như soi chiếu mái tóc xanh biếc. Thi
không chỉ cảm nhận thiên nhiên qua đôi mắt tinh tường n bằng trái tim
đong đầy tình yêu. Nhờ đó, cảnh vật càng trở nên hồn.
Như bao sáng tác khác, hai câu t cuối chính những suy ngẫm tâm
trạng của nhà thơ:
"Hữu hoài Trương Thiếu bảo; Bi khắc tiển hoa ban."
Trong khoảnh khắc ngắm nhìn núi Dục Thúy, Nguyễn Trãi không quên gửi
gắm nỗi nhớ thương, hoài niệm tới cố nhân - Trương Thiếu bảo. Nhìn tấm bia
khắc chữ của người xưa nay đã lốm đốm rêu, thi bùi ngùi nhớ về vị danh
đời Trần, được nhiều vị vua trọng dụng. Lời thơ chậm rãi, ngôn ngữ đọng
góp phần lột tả nỗi niềm nhớ tiếc u lắng. vật đổi sao dời, nước sông
dâng rồi lại xuống, đất nước trải qua bao biến cố, thăng trầm nhưng dưới làn
rêu xanh, những nét chữ trên bia đá vẫn vẹn nguyên giá trị. Qua hai câu thơ
ngắn gọn, ta cảm nhận được tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" cao đẹp của
một người tâm hồn nhạy cảm tinh tế như Nguyễn Trãi.
Với hình ảnh mỹ lệ, giàu sức gợi, giọng thơ nhịp nhàng cùng các biện pháp tu
từ như so sánh "Tháp ảnh trâm thanh ngọc;/ Ba quang kính thúy hoàn." ẩn
dụ "liên hoa phù thủy thượng", nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ về
núi Dục Thúy, đồng thời khéo léo bộc lộ suy về con người, lịch sử dân
tộc.
"Dục Thúy sơn" là một tác phẩm tuyệt vời của Nguyễn Trãi - con người yêu
thiên nhiên, yêu đất nước tha thiết. Bài thơ khiến chúng ta không quên hình
ảnh núi Dục Thúy vừa kỳ vĩ, vừa thơ mộng cùng tấm lòng "uống nước nhớ
nguồn" cao quý thi gửi tới người xưa.
Phân tích bài Dục Thúy sơn chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Nguyễn Trãi đã từng viết: Túi thơ chứa hết mọi giang san”. Thật vậy, Ức Trai
đã đi qua nhiều miền, khám phá biết bao danh lam thắng cảnh. Với tình yêu
thiên nhiên say đắm, cùng hồn thơ nhạy cảm tinh tế, bất cứ nơi nào ông
đến, Nguyễn Trãi đều những vần thơ đẹp về cảnh sắc của đất nước. Ngày
nay, độc giả thể tìm thấy một bộ sưu tập phong cảnh Việt Nam phong phú
đa dạng qua tập thơ chữ Hán "Ức Trai thi tập": t núi Côn n, núi Yên
Tử, cảng Vân Đồn, chùa Tiên Du, chùa Đông Sơn, núi Long Đại, đến núi Lam
Sơn… Đặc biệt, Nguyễn Trãi nhiều bài thơ về các địa danh Ninh Bình,
tạo nên một quần thể danh thắng của vùng "vịnh Hạ Long cạn" này như núi
Dục Thúy, cửa biển Thần Phù, trấn Vịnh Doanh.
Trong số các danh thắng ấy, nổi bật nhất núi Dục Thúy. Ban đầu, núi tên
n Thúy, sau này Trương Hán Siêu đã đổi tên thành Dục Thúy. người
giải thích rằng núi hình dáng giống chim trả, lại bên bờ sông, nên gọi
Dục Thúy, nghĩa chim trả tắm (dục: tắm, thúy: chim trả). Tuy nhiên, không
Trương Thiếu bảo gọi núi Dục Thúy sơn do này hay đơn giản
núi tắm trong sắc xanh biếc (thúy: xanh biếc). Dù sao đi nữa, tên gọi Dục
Thúy sơn vẫn rất đẹp t mộng, khiến người chưa từng đặt chân đến
cũng thể hình dung được cảnh sắc qua tên gọi ấy.
Từ lâu, Dục Thúy sơn đã nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Nhiều thi
lừng danh như Trương Hán Siêu, Phạm Mạnh, Thánh Tông, Tản Đà
đã sáng tác thơ về danh thắng này. Tuy nhiên, tình cảm của Nguyễn Trãi đối
với Dục Thúy sơn mang những nét riêng biệt. Ông viết về Dục Thúy sơn với
hai nguồn cảm hứng chính: cảm hứng thiên nhiên cảm hứng hoài cổ.
nguồn cảm hứng nào, người đọc cũng thấy nét độc đáo của Ức Trai.
Trong cảm hứng thiên nhiên, tình yêu đối với cảnh đẹp đất nước, tác giả đã
nhiều lần đến thăm Dục Thúy sơn:
“Tiền niên vãng hoàn”.
(Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần)
Không trong đời mình, Ức Trai đã bao lần đặt chân lên núi Dục Thúy,
nhưng trong thơ chữ Hán, ông từng nhắc đến:
“Dục Thúy tình phong tự ngọc (Dục Thúy mưa tan non tự ngọc)
(Vọng Doanh)
Nhà thơ ấn tượng sâu sắc về danh thắng này, gọi “núi tiên” “cảnh
tiên”. Trong đoạn thơ ngắn, Nguyễn Trãi hai lần dùng từ tiên đ tả vẻ đẹp
thần diệu của Dục Thúy sơn. Thơ Đường kiêng kị việc trùng lặp từ ngữ,
nhưng để tôn lên vẻ đẹp thần diệu của Dục Thúy sơn, Nguyễn Trãi đã phá vỡ
quy tắc đó. Trong cảm nhận của người Việt, từ "tiên" gợi lên hình ảnh thần
diệu, phi thường, thoát tục (phép tiên, cầu tiên), sự sung sướng, hạnh phúc
(sướng như tiên) vẻ đẹp (đẹp như tiên). Từ "tiên" trong "núi tiên" "cảnh
tiên" gây ấn tượng u sắc về vẻ đẹp huyền ảo của Dục Thúy n. Người
không mang cảm quan tôn giáo ng cảm thấy như đang bước vào cõi mộng,
cõi tiên.
Cảnh đẹp ấy được Ức Trai tả bằng hình tượng hoa sen, tượng trưng cho
sự tinh khiết thanh cao:
“Liên hóa phù thủy thượng”.
(Núi tựa (như) đóa hoa sen nổi trên mặt nước)
Sự liên tưởng của nhà t rất tinh tế - i trên dòng sông giống n đóa sen
nổi trên mặt nước. Hình ảnh hoa sen, biểu tượng của vẻ đẹp tinh khiết, rất
phù hợp với cảnh tiên, non tiên.
Trong những câu thơ đầu, c giả tập trung o vẻ đẹp thần tiên, huyền o
của Dục Thúy sơn. Nhưng cảm hứng này bỗng chợt chuyển hướng khi ông
phát hiện một vẻ đẹp khác, quyến hơn:
Tháp bảo trâm thanh ngọc Ba quang kính thúy hoàn.
(Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như) cái trâm bằng ngọc xanh, Ánh
sáng (lấp lánh trên) sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc.)
Nguyễn Trãi đã kế thừa hình nh ngọn tháp từ Trương Hán Siêu, nhưng
nâng cao lên thành một sáng tạo độc đáo. ng tháp in trên dòng sông n
chiếc trâm ngọc bích cài trên mái tóc dài xanh mướt của người thiếu nữ. Một
liên tưởng hợp nhưng cũng rất bất ngờ. Cảnh vật không chỉ nên thơ, nên
họa còn mang cả hồn người. Nguyễn Trãi đem cả tình đời, tình u vào
cảnh vật, tạo nên vẻ đẹp độc đáo đầy nhân văn trong thơ ông.
Tuy nhiên, thơ Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại cảm hứng thiên nhiên
còn chuyển hướng sang cảm hứng hoài cổ:
“Hữu hoài Trương Thiếu bảo. Bi khắc tiển hoa ban “.
(Nhớ ông Thiếu bảo họ Trương Bia khắc của ông đã lốm đốm hoa rêu)
Cảm xúc hoài cổ trong thơ Nguyễn Trãi không giống những tác giả khác.
Trong thơ ông luôn sự đối lập giữa tạo hóa vĩnh hằng con người trong
khoảnh khắc:
“Kim cổ cùng giang mạc mạc, Anh hùng hữu luận, diệp tiêu tiêu
(Xưa nay thời gian không cùng (như) dòng sông t ngát, Đời anh hùng
mang mối hận (như) rụng veo veo).
(Vãng hứng)
bài Dục Thúy sơn, cảnh vật n đây, bia đá còn đây, nhưng Trương Thiếu
bảo không còn. Con người - một thực thể khát khao sống yêu, lại cuộc
đời hữu hạn, trong khi tạo vật - tri, lại tồn tại vĩnh hằng. Nỗi buồn hoài cổ
của Nguyễn Trãi nỗi buồn mang giá trị nhân bản sâu sắc.
Từ những phân tích trên, thể thấy bài thơ Dục Thúy sơn đã đem đến cho
người đọc nguồn cảm xúc thẩm mỹ dồi dào: cảm xúc về vẻ đẹp của danh
thắng, của hình tượng nghệ thuật đặc biệt vẻ đẹp của tâm hồn Ức Trai:
yêu thiên nhiên, yêu đất nước, giàu chất nhân văn.

Preview text:

Phân tích bài Dục Thúy sơn chọn lọc hay nhất
Phân tích bài Dục Thúy sơn chọn lọc hay nhất - Mẫu số 1
Tình yêu thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong những tác phẩm
của Nguyễn Trãi. Sau mỗi bức tranh thiên nhiên sống động, nhà thơ tài hoa
luôn khéo léo gửi gắm những suy tư, trăn trở về cuộc đời và thế sự. Điều này
được thể hiện rõ nét qua tác phẩm "Dục Thúy sơn". Bài thơ, được viết bằng
chữ Hán theo thể ngũ ngôn luật thi, đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm cho
độc giả bởi cảnh sắc nên thơ và trữ tình.
Trước hết, Nguyễn Trãi khéo léo nhắc đến vị trí của núi Dục Thúy:
"Hải khẩu hữu tiên san" ("Cửa biển có non tiên")
Cụm từ "tiên san" gợi lên hình ảnh ngọn núi thần tiên ngay tại cửa biển "hải
khẩu". Dù đã nhiều lần ghé thăm "tiền niên lũ vãng hoàn", nhưng thi sĩ vẫn
luôn cảm nhận nơi đây đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Vẻ đẹp ấy được tạo
nên bởi những hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.
Ngắm nhìn cảnh sắc tươi đẹp nơi đây, con người không khỏi say đắm:
"Liên hoa phù thủy thượng; Tiên cảnh trụy trần gian."
Qua quan sát và cảm nhận, thi nhân tưởng tượng hình dáng núi giống như
bông hoa sen thanh khiết đang nở rộ giữa dòng nước trong xanh. Hình ảnh
ẩn dụ "liên hoa phù thủy thượng" cho thấy sự liên tưởng thú vị và mới lạ của
nhà thơ. Sen tượng trưng cho vẻ đẹp giản dị, trong sáng. Ví dáng núi như
hoa sen, Nguyễn Trãi muốn nhấn mạnh sự thuần khiết và tươi đẹp của núi
non, sông nước nơi đây. Đến câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục khẳng định
cảnh sắc sơn thủy hữu tình. Chữ "tiên" một lần nữa được sử dụng để nhấn
mạnh vẻ đẹp huyền diệu, lung linh như chốn tiên cảnh của núi Dục Thúy.
Đứng trước cảnh tượng ấy, con người cứ ngỡ đây là "cõi tiên rơi xuống trần gian".
Bức tranh thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu được thi sĩ miêu tả từ điểm nhìn
xa, với tầm bao quát rộng, mang màu sắc của tiên giới - huyền ảo và diệu kỳ.
Đến những câu thơ tiếp theo, khung cảnh núi Dục Thúy hiện ra vô cùng chân thực và rõ nét:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc; Ba quang kính thúy hoàn."
Trong bài thơ "Dục Thúy sơn", Trương Hán Siêu từng viết "Trung lưu quang
tháp ảnh," ("Lòng sông in bóng tháp"). Nếu như Trương Hán Siêu chỉ đơn
thuần miêu tả hình ảnh ngọn tháp in bóng lên dòng nước, thì Nguyễn Trãi lại
mang đến một sự sáng tạo độc đáo. Ông ví bóng tháp trên mặt nước giống
như chiếc trâm cài tóc của người thiếu nữ, được làm từ ngọc và có màu xanh.
Xưa nay, các thi nhân thường lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả nét đẹp
của con người. Trong "Dục Thúy sơn", Nguyễn Trãi lại dùng vẻ đẹp đằm
thắm, duyên dáng của người con gái để hình dung dáng núi soi bóng trên
sóng biếc. Đây quả là một hình ảnh so sánh hiện đại và đặc biệt. Sự liên
tưởng và bút pháp mới lạ tiếp tục được thể hiện qua câu thơ "Ba quang kính
thúy hoàn". Ánh sáng dòng nước như soi chiếu mái tóc xanh biếc. Thi sĩ
không chỉ cảm nhận thiên nhiên qua đôi mắt tinh tường mà còn bằng trái tim
đong đầy tình yêu. Nhờ đó, cảnh vật càng trở nên có hồn.
Như bao sáng tác khác, hai câu thơ cuối chính là những suy ngẫm và tâm trạng của nhà thơ:
"Hữu hoài Trương Thiếu bảo; Bi khắc tiển hoa ban."
Trong khoảnh khắc ngắm nhìn núi Dục Thúy, Nguyễn Trãi không quên gửi
gắm nỗi nhớ thương, hoài niệm tới cố nhân - Trương Thiếu bảo. Nhìn tấm bia
khắc chữ của người xưa nay đã lốm đốm rêu, thi sĩ bùi ngùi nhớ về vị danh sĩ
đời Trần, được nhiều vị vua trọng dụng. Lời thơ chậm rãi, ngôn ngữ cô đọng
góp phần lột tả nỗi niềm nhớ tiếc sâu lắng. Dù vật đổi sao dời, nước sông
dâng rồi lại xuống, đất nước trải qua bao biến cố, thăng trầm nhưng dưới làn
rêu xanh, những nét chữ trên bia đá vẫn vẹn nguyên giá trị. Qua hai câu thơ
ngắn gọn, ta cảm nhận được tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" cao đẹp của
một người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế như Nguyễn Trãi.
Với hình ảnh mỹ lệ, giàu sức gợi, giọng thơ nhịp nhàng cùng các biện pháp tu
từ như so sánh "Tháp ảnh trâm thanh ngọc;/ Ba quang kính thúy hoàn." và ẩn
dụ "liên hoa phù thủy thượng", nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ về
núi Dục Thúy, đồng thời khéo léo bộc lộ suy tư về con người, lịch sử và dân tộc.
"Dục Thúy sơn" là một tác phẩm tuyệt vời của Nguyễn Trãi - con người yêu
thiên nhiên, yêu đất nước tha thiết. Bài thơ khiến chúng ta không quên hình
ảnh núi Dục Thúy vừa kỳ vĩ, vừa thơ mộng cùng tấm lòng "uống nước nhớ
nguồn" cao quý mà thi sĩ gửi tới người xưa.
Phân tích bài Dục Thúy sơn chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Nguyễn Trãi đã từng viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang san”. Thật vậy, Ức Trai
đã đi qua nhiều miền, khám phá biết bao danh lam thắng cảnh. Với tình yêu
thiên nhiên say đắm, cùng hồn thơ nhạy cảm và tinh tế, bất cứ nơi nào ông
đến, Nguyễn Trãi đều có những vần thơ đẹp về cảnh sắc của đất nước. Ngày
nay, độc giả có thể tìm thấy một bộ sưu tập phong cảnh Việt Nam phong phú
và đa dạng qua tập thơ chữ Hán "Ức Trai thi tập": từ núi Côn Sơn, núi Yên
Tử, cảng Vân Đồn, chùa Tiên Du, chùa Đông Sơn, núi Long Đại, đến núi Lam
Sơn… Đặc biệt, Nguyễn Trãi có nhiều bài thơ về các địa danh ở Ninh Bình,
tạo nên một quần thể danh thắng của vùng "vịnh Hạ Long cạn" này như núi
Dục Thúy, cửa biển Thần Phù, và trấn Vịnh Doanh.
Trong số các danh thắng ấy, nổi bật nhất là núi Dục Thúy. Ban đầu, núi có tên
là Sơn Thúy, sau này Trương Hán Siêu đã đổi tên thành Dục Thúy. Có người
giải thích rằng núi có hình dáng giống chim trả, lại ở bên bờ sông, nên gọi là
Dục Thúy, nghĩa là chim trả tắm (dục: tắm, thúy: chim trả). Tuy nhiên, không
rõ Trương Thiếu bảo gọi núi là Dục Thúy sơn vì lý do này hay vì đơn giản là
núi tắm trong sắc xanh biếc (thúy: xanh biếc). Dù sao đi nữa, tên gọi Dục
Thúy sơn vẫn rất đẹp và thơ mộng, khiến người chưa từng đặt chân đến
cũng có thể hình dung được cảnh sắc qua tên gọi ấy.
Từ lâu, Dục Thúy sơn đã là nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Nhiều thi sĩ
lừng danh như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Lê Thánh Tông, Tản Đà
đã sáng tác thơ về danh thắng này. Tuy nhiên, tình cảm của Nguyễn Trãi đối
với Dục Thúy sơn mang những nét riêng biệt. Ông viết về Dục Thúy sơn với
hai nguồn cảm hứng chính: cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng hoài cổ. Dù ở
nguồn cảm hứng nào, người đọc cũng thấy rõ nét độc đáo của Ức Trai.
Trong cảm hứng thiên nhiên, tình yêu đối với cảnh đẹp đất nước, tác giả đã
nhiều lần đến thăm Dục Thúy sơn:
“Tiền niên lũ vãng hoàn”.
(Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần)
Không rõ trong đời mình, Ức Trai đã bao lần đặt chân lên núi Dục Thúy,
nhưng trong thơ chữ Hán, ông từng nhắc đến:
“Dục Thúy vũ tình phong tự ngọc “ (Dục Thúy mưa tan non tự ngọc) (Vọng Doanh)
Nhà thơ có ấn tượng sâu sắc về danh thắng này, gọi nó là “núi tiên” và “cảnh
tiên”. Trong đoạn thơ ngắn, Nguyễn Trãi hai lần dùng từ tiên để mô tả vẻ đẹp
thần diệu của Dục Thúy sơn. Thơ Đường kiêng kị việc trùng lặp từ ngữ,
nhưng để tôn lên vẻ đẹp thần diệu của Dục Thúy sơn, Nguyễn Trãi đã phá vỡ
quy tắc đó. Trong cảm nhận của người Việt, từ "tiên" gợi lên hình ảnh thần
diệu, phi thường, thoát tục (phép tiên, cầu tiên), sự sung sướng, hạnh phúc
(sướng như tiên) và vẻ đẹp (đẹp như tiên). Từ "tiên" trong "núi tiên" và "cảnh
tiên" gây ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp huyền ảo của Dục Thúy sơn. Người
không mang cảm quan tôn giáo cũng cảm thấy như đang bước vào cõi mộng, cõi tiên.
Cảnh đẹp ấy được Ức Trai mô tả bằng hình tượng hoa sen, tượng trưng cho
sự tinh khiết và thanh cao:
“Liên hóa phù thủy thượng”.
(Núi tựa (như) đóa hoa sen nổi trên mặt nước)
Sự liên tưởng của nhà thơ rất tinh tế - núi trên dòng sông giống như đóa sen
nổi trên mặt nước. Hình ảnh hoa sen, biểu tượng của vẻ đẹp tinh khiết, rất
phù hợp với cảnh tiên, non tiên.
Trong những câu thơ đầu, tác giả tập trung vào vẻ đẹp thần tiên, huyền ảo
của Dục Thúy sơn. Nhưng cảm hứng này bỗng chợt chuyển hướng khi ông
phát hiện một vẻ đẹp khác, quyến rũ hơn:
Tháp bảo trâm thanh ngọc Ba quang kính thúy hoàn.
(Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như) cái trâm bằng ngọc xanh, Ánh
sáng (lấp lánh trên) sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc.)
Nguyễn Trãi đã kế thừa hình ảnh ngọn tháp từ Trương Hán Siêu, nhưng
nâng cao lên thành một sáng tạo độc đáo. Bóng tháp in trên dòng sông như
chiếc trâm ngọc bích cài trên mái tóc dài xanh mướt của người thiếu nữ. Một
liên tưởng hợp lý nhưng cũng rất bất ngờ. Cảnh vật không chỉ nên thơ, nên
họa mà còn mang cả hồn người. Nguyễn Trãi đem cả tình đời, tình yêu vào
cảnh vật, tạo nên vẻ đẹp độc đáo và đầy nhân văn trong thơ ông.
Tuy nhiên, thơ Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở cảm hứng thiên nhiên mà
còn chuyển hướng sang cảm hứng hoài cổ:
“Hữu hoài Trương Thiếu bảo. Bi khắc tiển hoa ban “.
(Nhớ ông Thiếu bảo họ Trương Bia khắc của ông đã lốm đốm hoa rêu)
Cảm xúc hoài cổ trong thơ Nguyễn Trãi không giống những tác giả khác.
Trong thơ ông luôn có sự đối lập giữa tạo hóa vĩnh hằng và con người trong khoảnh khắc:
“Kim cổ vô cùng giang mạc mạc, Anh hùng hữu luận, diệp tiêu tiêu
(Xưa nay thời gian không cùng (như) dòng sông bát ngát, Đời anh hùng
mang mối hận (như) lá rụng veo veo). (Vãng hứng)
Ở bài Dục Thúy sơn, cảnh vật còn đây, bia đá còn đây, nhưng Trương Thiếu
bảo không còn. Con người - một thực thể khát khao sống và yêu, lại có cuộc
đời hữu hạn, trong khi tạo vật - vô tri, lại tồn tại vĩnh hằng. Nỗi buồn hoài cổ
của Nguyễn Trãi là nỗi buồn mang giá trị nhân bản sâu sắc.
Từ những phân tích trên, có thể thấy bài thơ Dục Thúy sơn đã đem đến cho
người đọc nguồn cảm xúc thẩm mỹ dồi dào: cảm xúc về vẻ đẹp của danh
thắng, của hình tượng nghệ thuật và đặc biệt là vẻ đẹp của tâm hồn Ức Trai:
yêu thiên nhiên, yêu đất nước, giàu chất nhân văn.
Document Outline

  • Phân tích bài Dục Thúy sơn chọn lọc hay nhất
    • Phân tích bài Dục Thúy sơn chọn lọc hay nhất - Mẫu
    • Phân tích bài Dục Thúy sơn chọn lọc hay nhất - Mẫu