Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân hay nhất | Văn mẫu lớp 12

Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân tổng hợp 29 mẫu cực hay kèm theo 3 gợi ý cách viết, được biên soạn nhằm giúp cho các em học sinh có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn ngày một tiến bộ hơn. Mời bạn đọc đón xem!

Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
● Giới thiệu tác giả: Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
● Giới thiệu tác phẩm: “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một
trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
II. Thân bài:
* Khái quát chung
- Tác phẩm kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất
vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con
người nơi đây.
* Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông
+ Bờ sông
● “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng.
● Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”.
● “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy
cũng cảm thấy lạnh”.
● Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào
mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
hiện ra trước mắt một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để
bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.
+ Ghềnh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
● ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm…”.
● Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình
ảnh khủng khiếp của nơi đây.
● Được miêu tả như những kẻ sẵn sàng đòi n
thể y ra rất nhiều nguy hiểm con người không thể nào lường trước
được.
+ Hút nước
● Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô
gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.
● Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu.
● “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.
Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem
một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.
+ Thác nước
● Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng
gằn mà “chế nhạo”.
● “Thế rồi nó rống lên”,so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
→ sự gi di của nưc sông.
+ Đá
● “cả một chân trời đá” → đá sông Đà nhiều vô kể.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
● từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.
● Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông
Đà.
→ sông Đà giống như kẻ thù số một của con người
* Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
● Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo
đốt nương xuân”.
● Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước: mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
● Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn
bươm bướm sông Đà”.
● So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
→ Những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn
giàu chất thơ.
* Đánh giá
- Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo → đưa người đọc đi hết từ
sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.
III. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
Dàn ý số 2
I. M bài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân là nhà văn ln ca thế k XX. Nền văn xuôi luôn in hn nhng du vết
nghiêm túc và đầy sáng tạo trong lao động ngh thut ca ông.
- Tác phẩm Người lái đò sông Đà là thi phẩm tiêu biểu, thành công đánh dấu hướng đi,
suy nghĩ ca ông sau cách mng tháng tám.
II, Thân bài
1. Hình ảnh con sông Đà
Theo Nguyn Tuân con sông Đà như nhân vật có hình thù, cá tính với hai tính cách cơ
bn: hung bo và trnh.
*Tính cách hung bạo và nét hùng vĩ của sông Đà
“Ở khong sông hp, b sông cht lại như một cái yết hu, hai b đá đứng
thành vách, mặt sông đoạn y rt u, tối, đúng ngọ mi thy mt trời…” “đi
gia thuyn vn thy lnh, nhìn lên ch thy một ô sáng như cửa s
đèn…”
Ngôn ng được s dng rt giàu cht tạo hình, thuật đin ảnh để miêu t
từng đưng nét, ánh sáng, quan sát nhiều góc độ nên nhà văn mới to dng
nên cnh b sông một cách đng, toát lên v hùng vĩ, dữ di him tr,
nhiu cm giác.
“Những cái hút c Mường Vát như những cái giếng tông khng l
đang xoáy tít đáy mặt giếng, thành giếng xây toàn ớc sông xanh ve như
mt áng thy tinh khi đúc dày…” “Nước sôi lên ng ặc… Nếu ngi trong
thuyền thúng ới đáy cái hút c y lia ống kính ngưc lên thì s truyn
cho ngưi xem trong rp mt cm giác quay cuồng…”
Ngôn ng cùng sc cnh, hình nh lạ, đầy nguy hiểm được miêu t nét,
chân tht, làm toát lên v d di, ghê gm của máy hút nước trên sông, hin lên
khuôn mt d dn ca dòng sông.
Đon ghềnh sông “nước đá, đá xô sóng, sóng gió” tiếp đến nhng thác
nước, t xa nghe tiếng như oán trách, ri li van xin, sau đó lại rống lên như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
mt ngàn con trâu mng đang lng ln mc kt gia rng tre ni lửa… mặt
sông rung lên tung bt trắng xóa…
Vn t phong phú, ngôn ng giàu sc tạo hình, câu văn phóng túng, nghệ thut
va nhân hóa va so sánh làm hình nh con sông hin lên hình thù tâm
tính nét. Âm thanh phát ra cung nộ, cơn giận d cho thy bn tính hung
hãn.
Trn thy chiến trên sông vi bày trí thch trn, nhiu vòng vây vi lực lượng
phi hp ca đá tng, con sóng ngầm hò la vang động núi tri…
Qua vic miêu t cn cnh, chi tiết, s dng t ng giàu sc to hình, gi t, tác
gi đã làm hiện lên hình ảnh sông Đà hung bo, cung n khi vặn mình đau
đớn qua nhng tảng đá. Qua đó cho thấy s uyên bác trong trang văn, s hóm
hnh, linh hot trong sáng to ca tác gi.
*Tính cách tr tình
Chy qua vùng bình nguyên hoặc khi đứng t trên nhìn xuống, sông Đà trở nên
hiền hòa đến lạ, tưởng như một ngưi bn của con ngưi.
T trên máy bay nhìn xuống, “sông Đà tuôn dài tuôn dài như mt áng tóc tr
tình… n hin trong mây tri Tây Bc bung hoa ban hoa gạo”: qua cái nhìn say
đắm, chìm sâu ca tác gi sông Đà trở nên quyến rũ, màu sắc đa dng, lp lánh
Hình ảnh thơ mng, phép so sánh giàu giá tr biu cm, ngôn t linh hot, mm
mi làm ni bật sông Đà có vẻ đẹp du dàng, hin hòa, mộng mơ.
“T trên dc nhìn xung thy mt sông lp lánh như đa tr nghch chiếu
gương… sáng lên mt màu nắng tháng ba Đường Thi”
Một phép so sánh độc đáo, mới l, giọng văn nhẹ nhàng cho thy v hn nhiên,
thanh bình của sông “sông vui như nối li chiêm bao ngắt quãng… đằm thm
m ấm như gặp li c nhân…”
Tác gi nhìn ra khía cnh chiu sâu ca sông, mt v đẹp thân thin, d mến,
hơi m ca tình người trong dòng sông. Hơn nữa, dòng sông tr thành người
bn hin du, ci m, nim n ch đợi người phương xa trở v.
i thuyn nhìn lên thấy “b ng hoang dại như bờ tin s, b sông hn
nhiên như nỗi nim c tích tuổi xưa..”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Một phép so sánh đc l, t không gian liên ng v thi gian, s m rng
biên độ làm cho con sông mang nét hoang dã, c a nhưng thuần khiết
Trên đồi c non con hươu thơ ng ngẩng đu nhung khi áng c sương ngơ
ngác…” như đang hỏi thăm ông khách sang sông. Tiếng đập c, con lng
l trôi nh thương…
Bin pháp nhân hóa giàu chất thơ khiến dòng sông tr nên hn nhiên, hoang sơ,
tinh khiết hiện ra đẹp như tranh vẽ mi góc nhìn. V đẹp hin hòa, yên bình
ca sông góp phần tô điểm cho cảnh quang non sông đất nước.
Miêu t sông Đà như một s bng ngôn t linh hot, phong phú, giàu sc
gợi, như thế mi thy Nguyễn Tuân tài năng, đằng sau s say miêu t dòng
sông còn là tình yêu t quc, nâng niu tiếng m đẻ…
2. Hình ảnh ông lái đò
*Ngoi hình, ging nói
“Tay ông lêu nghêu như cái o, chân ông lúc nào cũng khunh khunh li
như kẹp ly mt cái cuống lái tưởng tượng, đầu bc quắc thước, thân hình cao
to và gọn quánh như chất sng mun, đôi cánh tay trẻ tráng quá…”
“giọng ông ào ào như tiếng nước trước mt ghnh sông, nhn gii ông vòi vi
như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó…”
Ngôn t giàu cht to hình, t láy cùng các bin pháp so sánh tác gi đã khắc
ha th lc ng tráng, khe mnh, rn ri. Cách liên miêu t ca Nguyn
Tuân liên tưng ngoi hình của ông lái đò có dấu n ngh nghip
*Niềm say mê lao đng
Ông lái đò một ngưi anh hùng danh, bình d thm lng quang vinh.
Ông luôn tâm huyết vi ngh, mãi không thay lòng, ngày ngày chèo lái, chế
ng con thuyền vượt qua s hung hãn ca sông một cách đáng tự hào.
Hình ảnh người lao động mi yêu ngh, t tin, t do làm ch cuộc đời, chinh
phc thiên nhiên, sn lòng cng hiến, xây dựng quê hương.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
*Tính cách
Qua cách ông chiến đấu vi con sông th thy ông một ngưi có tri thc,
năng lực.
Ông đóng đanh tất c dòng nước, nhng con thác him tr, thuc làu dòng
sông…
Nm chc binh pháp thn sông, thần đá…
Có tài ch huy.
Ông là người mưu trí, tài ba, mưu c làm ch cuộc đi, phong thái ung
dung.
Khi ra trn ông bc l v đẹp anh hùng vàn ngh
Ông bình tĩnh đưa con thuyền vào trn chiến thiên la địa võng, sn sàng vt ln
vi con thy quái. Lao vào trận địa như viên tướng t xung hữu đột,,,
Ông lái đò người v đẹp tiêu biu yêu ngh, tinh thn làm ch, va mang
du n phong cách Nguyn Tuân
III. Kết bài
Người lái đò sông Đà không ch miêu t con sông Đà n khc ha v đẹp ca
người lao động. Qua đó cho thy s tri thc, hiu biết ca tác gi mang li mt tác
phm văn hc uyên bác.
Dàn ý s 3
I. M bài
Gii thiu tác gi Nguyn Tuân tác phẩm Người lái đò sông Đà. (Nguyễn Tuân
mt tác gi ln có nhiều đóng góp quan trng cho nền văn học ca Vit Nam).
II. Thân bài
1. Hình tượng con sông Đà
a. Con sông Đà hung bo
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và quãng sông hp:
Có vách đá chẹt dòng sông Đà như mt cái yết hu.
Đứng bên này b nh tay ném hòn đá qua bên kia vách. quãng con nai con
h đã có lần vt t bên b này sang bên kia.
Mt sông ch y ch lúc đúng ngọ mi có mt tri.
→ Tác giả s dng nhiu giác quan (th giác, xúc giác) để cm nhn.
- Cnh quãng mt ghnh Hát Loóng:
Dài hàng cây s ớc đá, đá sóng, sóng gió, cun cun lung gió gùn
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi n xuýt bt c người lái đò sông Đà...
Quãng này mà khinh sut tay lái thì cũng d lt nga bng thuyn ra.
Sử dng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cu trúc gi lên nhp chuyển động gp
gáp của sóng gió đang phối hp vi nhau, to thêm nét hung bo của sông Đà.
- Cnh quãng Tà Mưng Vát:
Trên sông bng những cái hút nước giống như cái giếng ng th xung
dòng sông để chun b làm móng cu.
c đây thở kêu như cái cửa cng b sc... nhng cái giếng sâu nước c
c lên như va rót du sôi vào.
Nhiu thuyn g đi nghênh ngang vô ý nhng cái giếng hút c y
lôi tt xung.
Sử dng các biện pháp so sánh, liên ởng, nhân hóa độc đáo gi lên cm giác v
nhng mi nguy him ca sông Đà.
- Cuc thy chiến giữa con sông Đà và người lái đò:
Mt th thiên nhiên Tây Bc nhiu lúc trông thành ra din mo tâm
địa mt th k thù s mt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Tiếng nước nghe như là oán trách , ri lại như van xin, ri lại như khiêu
khích, ging gn chế nho...rống lên như tiếng ca mt ngàn con trâu mng
đang lồng ln gia rng vu rng tre na n la, đang phá tuông rng la, rng
la cùng gm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
Sông Đà đã giao vic cho mi hòn, bày thch trận trên sông: Đám tảng đám
hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyn. Hàng tin
v, có hai hòn canh mt cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đa gi vai
trò d cái thuyền đối phương đi vào sâu na,....
Phi hp với đá, nước thác reo làm thanh vin cho đá, những hòn đá b v
oai phong, lm lit, thách thc chiếc thuyn.
c bám ly thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật nga mình ra gia
trận nước vang tri thanh la não bt.
Dòng thác hùm beo đang hng hc tế mnh trên sông đá...
Sử dng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khc ha s hung bo,
d dn trong trn thy chiến gay go, quyết lit.
Sông Đà hiện lên qua ngòi t ca Nguyn Tuân không phi con sông tri,
giác mt sinh th hoạt động, tính cách, tính, có tâm trng, không ch
hung hãn còn rt xo huyệt, mưu ma đ lừa người đò vào thế trận đã bày sẵn
và hướng người ta vào ca t.
Hình tượng con sông Đà hiện lên thật vĩ, him tr, d di rt hung bạo… Sông
Đà biểu tượng cho sc mnh d di v đẹp hùng của thiên nhiên núi rng Tây
Bc.
b. V đẹp thơ mộng, tr tình
T trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc tr tình, đầu tóc,
chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban, hoa go"
"Mùa xuân xanh màu ngc bích", khác vi sông m, sông "màu xanh canh hến".
Mùa thu nưc sông "l l chín đ như da mặt mt ngưi bm đi vì rưu ba"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
→ Sông Đà mỗi mùa mang mt v đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như mt c nhân vi nhng cnh quan hai bên b cc kì
gi cm: non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khi
áng c ơng" Dòng sông Đà như gi nhng ni nim sâu thm trong lch s đất Vit:
B sông hoang dại như một b tin s. B sông hồn nhiên như nỗi nim c tích xưa.
Nguyễn Tuân say miêu t dòng sông vi tt c s tinh tế ca cm xúc, bng
mt tình yêu thiết tha. Lòng ngưng m, trân trng, nâng niu t hào v mt dòng sông
đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.
2. Hình ảnh người lái đò
- V lai lch: mt ông lão gn 70 tui, làm ngh lái đò nhiều năm.
- Ngoại hình: “tay lêu nghêu... chất mun” để ngi ca những con ngưi danh âm
thm cng hiến.
-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối din vi con thy quái hung bo..
-Tài năng và tâm hn:
Là người tng tri, hiu biết và thành tho trong ngh lái đò: “trên sông Đà ông
xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nh t m... nhng luồng nước”...
người mưu trí ng cảm, bản lĩnh tài ba: ung dung đối đầu vi thác d
“nén đau giữ mái chèo, tnh táo ch huy bạn chèo...”, “nắm chc binh pháp ca
thn sông thần núi”, động tác điêu luyện cưỡi đúng ngay trên bờm sóng,
phóng thng thuyn vào gia thác...”
Là ngưi ngh sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiu ghnh thác, không thích lái
đò trên khúc sông bằng phng, coi vic chiến thắng “con thủy quáichuyện
thưng.
III. Kết bài
Khẳng định li giá tr ca tác phm.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Ngưi lái đò sông Đà phân tích - Mu 1
Nguyn Tuân mt nhà văn lớn, mt ngh suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông cây bút
uyên bác, tài hoa, không qun nhc nhằn để c gng khai thác cảm giác liên tưởng
phong phú, bn b nhm tìm ra những nghĩa xác đáng nhất. Người lái đò sông Đà
mt trong nhng tác phm tiêu biu ca Nguyn Tuân sau cách mng tháng Tám.
Trong bài tùy bút này, Nguyn Tuân ca ngi v đẹp thiên nhiên con ngưi Tây Bc.
Đến với “Người lái đò sông Đà”, ngưi đc s được chiêm ngưỡng nhng v đẹp khác
nhau của hình tượng sông Đà.
Sông đà là mt hình nh trung tâm ca tác phẩm được tác gi xây dng rt thành công.
i ngòi bút ca Nguyễn Tuân sông Đà không ch tiêu biu cho thiên nhiên Tây Bc
còn tr thành mt sinh th tâm hồn tính cách. Đó mt dòng sông rt hung
bo d dội và thơ mộng tr tình. Không đ cho người đọc phi ch đợi lâu, ngay trong
lời đề t ca tác phm Nguyễn Tuân đã tạo du ấn trong lòng người đọc v s l
thưng của con sông đà. Nhà văn đã ợn câu thơ của Nguyễn Quang Bích để gii
thiu:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang đc bắc lưu”
Vic s dng những u thơ ch n đã tăng thêm tính trang trng, c kính cho hình
ợng sông Đà. Từ “độc” trong lời thơ được s dng cùng hiu qu th hin s độc
nht, không lp li, s khác biệt khác thưng của sông Đà. Sau lời đề t, Nguyn
Tuân đã tỉ m lit tên ca 73 con thác của sông Đà, nhưng sự ng của không
ch thác còn vách đá. Bờ sông Đà không trôi giữa hai b cát trng phng
thơ mộng tr tình nSông Đung ca Hoàng Cm chy sữa hai vách đá dựng
đứng hun hút. T đim nhìn bao quát, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc hình dung v
s him tr của sông Đà. Cảnh quan b sông “dng vách thành, mt sông ch ấy đứng
ng mi thy mt trời”. Những t ng chính xác chi tiết c th đã giúp người đọc
hình dung v s him tr của vách đá đó.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Không ch vy, bng cách s dng ngh thuật so sánh tài tình “cách đá thành chét lòng
sông Đà như một cái yết hầu”, cùng sự liên ởng độc đáo va chính xác kinh tế va
bt ng l lùng “ngồi trong quãng đó…” lấy ph phường để von với sông nước, hai
s vt vốn không điểm tương đồng nay li th dùng để liên tưởng vi nhau.
Cách liên tưởng ấy đã truyền cho người đọc mt cm giác n lnh rùng mình rt chân
thc, có th làm kinh đng hồn trí người đc khi nghĩ đến quãng sông y.
Con sông Đà không ch những vách đá dựng đứng quãng Hát Loong còn:
“dài hàng dài cây s ớc đá, nước đá, đá sóng, sóng lại gió” như mt
vòng tun hoàn. Nguyn Tuân tp trung miêu t cnh mt ghềnh Hát Loóng để khc
ha s hung bo din mo ca con sông. Tác gi nhắc đến địa danh Hát Loóng
nhm gi s xa xôi hoang nguy hiểm. Thêm vào đó s kết hp ngh thut lit
“nước, đá, sóng, gió” cùng điệp t “xô” đã gi ra nhng hoạt động liên tiếp ni nhau
cùng va đập, xô đẩy, gào thét tạo âm thanh kinh hãi vang động kéo dài c hàng cây s.
T láy “cuồn cuộn” cùng thủ pháp so sánh, nhân hóa “như đòi nợ xuýt”, “gùn ghè”
va nhn mnh dòng chy cun xiết, d di cùng tiếng gió rít rùng rợn, quăng quật,
gào thách thc con ngưi va m hành động tâm địa nham hiểm độc ác ca con
sông. T đó nhà văn làm ni bt s hung hãn lm cung bo ca Đà Giang ngày
đêm hăm dọa uy hiếp con người.
Đến quãng ng, ta li bt gặp “trên ng những cái hút c giống như cái
giếng tông th xuống sông để chun b làm móng cầu…”. Từ “bng” gợi cm giác
bt ngờ, hoang mang trưc s xut hiện đột ngt của hút nước. Ngh thut so sánh
“như cái giếng tông” đã v ra hình dáng to lớn, đen ngòm, sâu hoắm, tối tăm, hình
dung như miệng ca con thy quái khng l đang chực nut mi th đi qua . Tt c
đã cụ th tiếng kêu ghê s, rùng rợn, hoang dã, đ thy s bo lit hiểm độc ca xoáy
nước Đà Giang. Không chỉ vậy, nhà văn còn đậm sc mnh khng khiếp ghê gm
của hút nước sông Đà “những bè g ln nghênh ngang b lôi tut xuống đáy, rồi b hút
xung khiến trng cây chuối ngược vt biến đi và tan xác khuỷnh sông dưới”,
gây nguy him cho tt c thuyền đi qua quãng ấy. Như vậy Nguyễn Tuân đã khc
sâu s d di nguy hiểm cũng như cảm giác rùng mình nght th hãi hùng trưc sc
mnh ca những xoáy nước trên sông.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Không ch dng li nhng hình ảnh vách đá dựng đứng, những cái hút nước sâu hút
hay hơi thở ng c ca dòng c cun cuộn, con sông Đà còn phi hp hài hòa vi
âm thanh réo rt ca những thác ớc. Tưởng chừng như tác giả mt nhạc trưởng
đang chìm đắm điều khin dàn nhạc giao ng hùng tráng của sông Đà vi bài ca
ca sóng hòa với gió xô c lên nhng vách đá. “Còn xa lm mới đến cái thác dưới,
nhưng đã thấy tiếng c réo gn... cùng gm thét với đàn trâu ra cháy bùng bùng”.
Như thế sông Đà phô trương thanh thế dọa con ngưi ngay c khi chưa xuất
hin. Khi giáp mt, âm thanh gào thét rùng rn của thác nước li khiến con ngưi
choáng váng. Bng những liên tưởng độc đáo. nhà văn đem đến n tượng mnh m v
một sông Đà hung bạo khng khiếp nhm uy hiếp đến mc mt tinh thn hn siêu
phách lc vi những người lái đò non kinh nghim yếu tay lái.
Con sông Đà hiện lên d dn, hung bạo, tàn ác không khác kẻ thù s mt ca con
người”. Nhưng cũng chính từ hình nh con sông y li k tôn vinh tài năng nghệ
thut tài hoa, uyên bác ca Nguyn Tuân- ngòi bút s mt v th loi tùy bút Vit
Nam. Nhưng con sông Đà hiện lên không ch trông hung bo, d tợn như vậy đôi
khi nó cũng có vẻ đẹp dịu dàng, thơ mng tr tình. Dòng sông Đà không chnhng
“dòng thác hùm beo đang hng hc tế manh trên sông đá” mà nó còn là bc tranh thy
mặc vương vấn lòng người.
Vi góc nhìn t trên tàu bay nhìn xuống “Mùa ớc sông Đà lừ l chín đỏ như da
mặt ”. Tác giả s dng t láy “ngoằn ngoèo” kết hp với phép so sánh “như cái
dây thừng” gợi đưng nét uốn n quanh co gấp khúc khi sông Đà chảy giữa núi đồi
Tây Bắc. Cách so sánh liên ng gin d khiến sông Đà thật gần gũi, trong phút chốc
người đọc quên đi ấn ng v mt dòng ng hung hãn nguy hiểm, luôn tìm cách đ
mưu hại con ngưi. T trên cao nhìn xung sông Đà xinh đẹp nmột người con gái
kiu dim vi hình ảnh “thuôn dài thuôn dài như mt áng tóc tr tình”. Bằng s quan
sát đầy tinh tế, Nguyn Tuân nhận ra mùa xuân nước sông “màu xanh ngọc bích”,
đến mùa thu nước sông Đà: “l l chín đỏ như da mặt một người bầm đi rượu”, với
cái nhìn đầy đắm Nguyn Tuân nhn ra v đẹp n sống động din mo khiến
sông đà như cô gái đẹp nhưng đỏng đnh thất thường đầy cá tính.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
T trong rừng nhìn ra, con sông đà gợi cảm nmt c nhân : “b sông Đà, bãi sông
Đà, …, đằm đm, ấm áp như gặp li c nhân”. Bằng th giác nhà văn đã phát hin
v đẹp quyến cuốn hút riêng thiên nhiên sông Đà mang lại. T “c nhân” khắc
sâu b dày k nim với sông Đà cũng như tình cảm gn bó sâu nng ca Nguyn Tuân
dành cho dòng sông này. Vi tác gi, v đẹp gi cm của Sông Đà đưc khc sâu qua
chính cm xúc ca ông trong ngày tái ng. Bng s gi cm của mình, sông đà đã
thc s tr thành mt c nhân, mt tình nhân du trái tính vn hp dn hoc lòng
người.
Cui cùng Nguyn Tuân tp trung miêu t v đẹp hoang sơ trù phú của đôi bờ khi ông
đi thuyền trên sông Đà: “Cảnh ven sông đây lặng từ… con sông như đang trôi
những con đò đuôi én thp mình dây c điển”. Thi v nhất không gian tĩnh lng trên
dòng sông Đà, tác gi liên tưởng đến dòng sông chảy xa xăm trong lịch s “đi ,
đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lng t đến thế mà thôi”, vừa làm ni bt s c
kính tĩnh lặng ca không gian va gợi cái thăm thẳm xa xăm của thi gian. Không ch
vy, cnh b ng tiếp tục đưc miêu t qua nhng so sánh độc đáo “bờ sông hoang
dại như mt b tin sử…”, sự liên tưởng mi l của ông đã đậm v đp c kính
hoang sơ vẫn trong trẻo êm đềm nh lặng của dòng sông đã t rất xa xưa. n
sau v đẹp nh yên tĩnh mịch sông Đà còn mang v đẹp hữu hình trù phú, đưc n
văn phát hiện qua các hình ảnh “cỏ danh đang ra nhng nõn mút, búp c danh đẫm
sương đêm, mấy ngô non đu mùa, áng c sương”. Tt c đã làm nổi bt khung
cảnh yên bình thơ mng s sng tràn tr đã to nên din mo mới cho sông Đà nơi hạ
lưu. Trong cảm nhn ca Nguyễn Tuân sông Đà còn rất nng tình nng nghĩa.
V đẹp của sông Đà đưc khc ha thành công bi tác gi đã vận dng linh hot các
bin pháp tu t so sánh, nhân hóa, s dng ngôn ng có giá tr to hình cao, dùng
nhiều câu liên tưởng độc đáo bất ngờ, câu văn đa dạng giàu nhịp điu. Qua góc nhìn
tài hoa ca Nguyễn Tuân, ng Đà tri giác đã tr thành người tình nhân chưa
quen biết đang chia tay với thưng nguồn để v vi mảnh đất mi con người mi. Qua
đó ông bày tỏ niềm ngưỡng m t hào cũng như tình yêu tha thiết quê hương đất nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Vi phong cách ngh thut tài hoa uyên bác ca mình Nguyễn Tuân đã làm ni bt v
đẹp hung bạo, hùng thơ mng tr tình ca thiên nhiên Tây Bc. T đó khơi dậy
trong mi chúng ta tình yêu nim t hào v thiên nhiên đất nước trong công cuc
xây dng t quc.
Phân tích Người lái đò sông Đà học sinh gii - Mu 2
Nguyn Tuân một nvăn ln của văn học hiện đại Vit Nam thế k XX. Trưc
cách mng tháng 8 tên tui của ông được biết đến thông qua tác phẩm “Vang ng
mt thời”, “Một chuyến đi”,…Sau cách mạng tháng 8, ông chuyn sang th loi tùy
bút thành công nht th loi này chính tùy bút Người lái đò sông Đà”. Tác
phẩm đã để li ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không ch hình tượng con
sông Đà “hung bo, tr tình” còn bởi hình ợng người lái đò hiên ngang trên thác
d.
Người lái đò sông Đà mt thiên tùy bút xut sắc được in trong tập Sông Đà (1960)
ca Nguyễn Tuân. Đó kết qu ca nhiu dịp đi viết v Tây Bc trong thi
kháng chiến chng Pháp ca ông. Tác phm một thiên tùy bút mang đậm phong
cách ngh thut ca Nguyễn Tuân. Người ngh sĩ tài hoa đã dùng cây bút của mình để
khám phá, ca ngi v đẹp ca thiên nhiên, đất nước và con người lao động Vit Nam.
M đầu thiên tùy t, Nguyễn Tuân đã dẫn hai câu thơ làm đề t: “đẹp vây thay tiếng
hát trên dòng sông” “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. Như vậy
nhà văn đã ngầm thông báo vi bạn đọc v hai đặc điểm ca con sông vi nét tính
cách đối nghch: d di, him ác kiu diễm, thơ mộng. Dưới con mt ca bc du t
luôn khát tìm s l hóa, thiên nhiên sông Đà như mt bn th tâm tính phc tp.
Thot tiên ta có th nhn thy tính chất hùng vĩ, d di him ác của con sông Đà.
Theo Nguyn Tuân l đây con sông lắm thác ghnh, vc xoáy, cùng nguy
hiểm cho con người. Mùa đến, “ác như người ghẻ”, dữ dn như con quái vật,
tr thành “kẻ thù s một” của con ngưi. Chất hùng của con sông Đà được hin lên
trưc hết cảnh đá b sông dựng đứng vách thành. Nhng bức thành vách đá cht ly
lòng sông hẹp. Độ hp của lòng sông được nhà văn xoay ngắm đủ các giác độ: “mặt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
sông ch y ch lúc đúng ngọ mi mt trời”, “chẹt lòng sông Đà như một cái yết
hầu”,…thật thú v. Mt sc hút bình thường làm sao ni s so sánh va chính xác,
va tinh tế va phong phú, va bt ng l lùng đến thế. Nguyn Tuân luôn lc li
đến kit cùng cái khó ngôn ng muôn màu sắc để đem đến cho người đọc không ch
cm nhn bng th giác, cm giác c nhng ởng tượng thú v. Cái khng khiếp,
d di him ác của con sông Đà tiếp tục đưc Nguyễn Tuân đặc t nhng quãng
mt ghềnh Hát Loong: ớc xô đá, đá sóng, sóng xô gió cuồn cun,..ri tiếp đến
những hút xoáy ớc “Hút ớc xoáy nước tít đáy lừ l như cánh qu đàn…sâu như
tiếng bê tông th xung”, “Tiếng nước th kêu như cng cái b sặc”. Chưa dừng li
đó Nguyn Tuân tiếp tc tìm cho ra cảnh ợng gây được ấn tượng mạnh cho đọc
giả. Đó cảnh thác ớc: “Tiếng thác c nghe gn mãi lại réo to mãi lên,…nghe
như oán trách rồi lại như van xin…Thế ri bng rống lên như tiếng mt ngàn con
trâu mộng đang lồng ln gia rng vu, rng tre, na n lửa, đang phá tuông rừng la,
rng la cùng gm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng,..”. Nếu như đoạn trên nhà
văn dùng ngôn ngữ điện ảnh để din t s khng khiếp đầy thú ca nhng xoáy
hút nước thì đoạn y ta nghe nâm thanh ca bn nhạc giao ng, dạo đầu
bng nhng tiếng n non ca dòng thác, rồi nghe như oán trách, van xin, rồi lại như
chế nho, khiêu khích. Thế ri bng phóng to hết c dn dp, bng bng gào thét hn
độn tt c c loi âm thanh ca i rừng, thiên nhiên đang đỉnh điểm của cơn phấn
khích d di, man di cung lon bi những âm thanh đập m ầm vào đá. Đ nói
cho tn cùng tình d di, him ác ca con ng, Nguyn Tuân tiếp tục đưa người đọc
đến khúc ngot ca sông chân trời đá: “đá đây từ ngàn năm vẫn mai phc hết
trong lòng sông”. Chúng ngỗ ngược, đng, ngi, nm tùy s thích. Dường như từ
ngàn xưa, sông đã giao việc cho chúng phi bày binh b trn, hàng tin v, tuyết
gia hu v, ca sinh, ca t, biết d biết la, biết đánh, biết đá, biết hi biết
c thách thc. Phi hp với đá thác ớc, chúng la vang đng làm thanh vin
cho đá, khi liều mạng sóng ớc ùa vào làm “bẻ gãy cán chèo, đá trái, thúc gi,
túm thắt lưng lật nga đánh đòn hiểm…”. Nguyễn Tuân đã s dng ngôn ng ca
nhiu ngành khác nhau: thut, th thao, quân s để làm sng dy mt con sông.
Nhà văn xoay ngắm nhiu chiu, nhiu b: cao rng, trên b mt dưới lòng sâu,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
đào xới đến tn cùng bn cht d dn, hiểm ác để chng t sông Đà con thy quái
k thù s mt của con người.
Sông Đà làm một bn th chính vy bên cnh s hùng vĩ, dữ dn ca con sông,
sông Đà còn hin lên vi v đẹp thơ mộng, tr tình.
Viết v v đẹp thơ mộng, tr tình của con sông Đà, Nguyễn Tuân không bng lòng
vi nhng tri thc hi ht, quen nhàm luôn dn hết tâm huyết, dng công khó
nhọc tìm tòi mang đến cho người đọc s hiu biết phong phú, toàn din v mt con
sông, một vùng đất giàu giá tr vàng vi những trang văn dạt dào cảm xúc. Đây
đoạn văn không còn sự hin din ca thác, ghềnh, đá, sông Đà đoạn này hin hòa
thơ mộng. Lời văn ca Nguyn Tuân bỗng đổi ging dt dào, tha thiết, ngôn ng giàu
chất thơ, chất nhc, cht họa. Người đọc cảm giác như đang đưc cùng Nguyn
Tuân bng bềnh trên máy bay “từng nét sông ra trên đại ơng đá lờ l bóng
mây dưới chân nh”, thy T quc thật bao la. Để t đó bậc du t vy bút v mt
bc tranh thy mc ch trong một câu văn: “Con sông Đà tuôn dài như mt áng tóc tr
tình, đầu tóc, chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban, hoa go tháng
hai và cun cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Thật không còn so sánh nào đẹp
hơn dòng chảy của sông Đà với áng tóc ca mt mĩ n.
Tr tình đáng yêu hơn nữa màu sc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã
nhn ra nhng sc u khác nhau của sông Đà theo từng mùa mang v đẹp riêng
“mùa xuân dòng xanh màu xanh ngọc bích”, qua ánh nắng mùa thu “sông Đà lừ l
chín đỏ như da mặt ngưi bần đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này cho thy
s tài hoa ca bc du t khi miêu t sc nước sông Đà.
cây bút suốt đời tìm kiếm khám phá cái đẹp, Nguyn Tuân cùng với các đồng
nghip ca nh không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến vi min Tây
Bc xa xôi ca T quc đ tìm cho ra “cái thứ vàng mười” ca núi sông Tây Bc.
Trên sông Đà, người lái đò xuôi ngưc c trăm lần. Dòng sông đối với ông “như một
trường thiên anh hùng ca ông đã thuộc đến c nhng cái chm than, chm câu
những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu quy lut của dòng nước, đóng đinh vào trí nhớ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
ca mình tng con thác, xoáy nước, lung nh, lung d, lung t lung sinh, thông
minh gan d, hot bát t tin như một dũng ng trong trận đồ bát quái. V đẹp ngoi
hình của người lái đò được Nguyn Tuân khc họa đã ngoài bảy mươi, đầu tóc bc
trắng, thân hình như một pho tượng được tc bằng đá cẩm thạch. Nưc da ánh lên cht
sng cht mun. Cánh tay rn chc tr tráng “lêu nghêu như cái sào”. Cặp mt tinh anh
vi nhãn lc nhìn xa vi vi. Trên ngc ni lên mt s thương tích trên “chiến trường
Sông Đà” Nguyễn Tuân ngưỡng m gọi đó “thứ Huân chương lao động siêu
hạng”. Ông lái đò là một “tay lái tài hoa” từng vưt qua bao trùng vây thch trn, giao
phong sinh t với “lũ đá nơi ải ớc”. Ông một nhân vt không tên bởi ông đi
diện cho bao con ngưi trên khắp đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm cn mn
trong lao động, không ngừng đối mt vi nhng thiên tai, địch họa để giành ly s
sng bo v quê hương đất nước. Chính bi vậy hình tượng người lái đò càng
tr lên lớn lao và kì vĩ.
V đẹp hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyn Tuân khc ha trong ba ln
thy chiến. Cuc giao tranh gia mt bên chiếc thuyn con én cùng một con người
nh bé, mong manh đơn độc vi mt bêngần trăm con thác dữ ln nh được ví như
con quái vt khng l tâm địa hiểm ác đại din cho sc mnh k vĩ, dữ di ca thiên
nhiên. Cuc chiến din ra không cân sức nhưng hình ảnh người lái đò tay vn gi cht
mái chèo, chân kp cht cuống lái, hiên ngang, ngoan cường, nh tâm x tình
hung một cách dũng cảm, mưu trí, quyết lit, táo bạo trưc con quái vt nanh ác
giành đưc chiến thắng. Đ miêu t cuộc giao tranh đầy cam go, quyết lit gia người
lái đò con sông Đà hung bo, Nguyễn Tuân đã tung ra vốn kiến thc uyên bác v
địa lí, lch s vn ngôn ng thuộc các lĩnh vực th thao, thut, quân s kết hp
vi các th pháp nhân hóa, so sánh liên ởng khôn lường, bt ng để cng hiến cho
người đọc những trang văn, những bc tranh thy chiến, nhng cnh quay sống động
bng ngh thut ngôn t đầy tài hoa, kì thú và hp dn.
Cuc giao chiến ln một sông Đà hiện lên như một k thù nham him, xo quyệt, đó là
chân trời đá. Đá con thác này mai phục hàng ngàn năm, chúng ngỗ ngược đứng,
nm, ngi tùy s thích, biết bày binh b trận như binh pháp Tôn T. Gm 5 ca trn,
trong đó 4 ca t, mt ca sinh chia làm ba tuyến: tiến, trung, hu vệ…đòi ăn chết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
con thuyền đơn độc nhưng ông lái vn nh mt từng đứa. Khi thch trn bày xong,
s phi hp của nước thác, sóng thác. Nước hò la vang dy làm thanh viện cho đá. Đá
oai phong lm lit, tiến lùi thách thức. Sóng nước như quân liều mạng đá trái, thúc gối
vào bng, vào hông thuyn, lại như đòi túm ly thắt lưng ông lái lật nga mình
ra gia trn c vang tri thanh la não bạt đánh đòn hiểm độc nht. Song ông lái đò
vn gi chặt mái chèo để khi b ht tung ra khi trận địa sóng. Sóng đánh hi lùng,
đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vô cùng thâm hiểm nhưng ông đò cố nén nhng vết thương,
kiên cường vượt qua cơn hỗn chiến.
Nguyễn Tuân đã dùng sc mạnh điêu khc ca ngôn t truyn hn sng vào tng khi
đá, biến chúng thành bày thch tinh hung hãn trong cuc giao chiến với con người.
Miêu t thiên nhiên d di nguy him chẳng qua đ tôn vinh sc mnh, lòng qu
cm của con ngưi trong cuc chinh phục thiên nhiên. Đoạn n thật đặc sắc, đem li
cho người đọc nhng cm xúc thẩm mi mẻ, lo âu đầy kiêu hãnh như chính
mình là ngưi trong cuc.
Để đậm hình ảnh người lái đò tài hoa, trí dũng, Nguyễn Tuân tiếp tc miêu t cuc
giao tranh lần hai. Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dng
dậy như “kẻ thù s một” của con người với tâm địa còn độc ác và xo quyệt hơn.
Khúc sông y nhiu ca t ch mt ca sinh. Dòng thác hùm beo hng hc tế
mạnh trên sông đá. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như i trên
lưng hổ, ông nm chc bờm sóng, ghì cương bám chắc vào dòng c, phóng nhanh
vào ca sinh, lái miết. Bốn năm bọn th quân ca ải nước liên ra đnh níu thuyn
vào ca t. Dòng sông như con thú hoang lng lộn đòi ăn chết con thuyn. hin
thân ca sc mnh thiên nhiên khó chế ngự. Ông lái đò nắm chc quy lut ca thn
sông thần đá, không hề nao núng, luôn tnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thut, ng
phó kp thi. Mc cho Đà giang hung d, him ác ông vn bám chặt dòng nước, ghì
cương lái như bám chặt vào s sng. Nguyn Tuân tht tài hoa trong cách dùng t,
ông không dùng “ghì tay lái” “ghì cương lái” khiến ng sông như con h, dòng
thác là hùm beo con thuyn chiến mã, còn ông lái vt lớn cao như k sĩ anh hùng
điều khin con chiến tung hoành trên chiến trận sông Đà. Để chiến thng, ông lái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
đò không chỉ dũng cảm còn mưu trí trong cách đối phó. Thông qua ngh thut
ngôn t ca Nguyn Tuân hình ảnh con người hin lên tht oanh lit, hào hùng.
Cuc giao tranh th ba kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm. Ngòi bút ca Nguyn Tuân
tr nên bay bng, linh hot bi nhiều liên tưởng tạt ngang đầy thú v. Trong trùng vi
thch trn th ba này, dòng thác càng tr n điên cuồng, d dội hơn, ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều ca t. Cái lung sng ngay gia bọn đá hậu nên s sng ca
ông đò càng hết sc mong manh. Chính gia ranh gii ca s sng cái chết, ngưi
đọc càng thy tài ngh chèo đò vượt thác tht tuyt ca ông lái. Ông c phóng thng,
chc thng, vút qua cng đá để ri chiến thng vinh quang. Thác d không chn bt
được con thuyn, cui cùng vẫn là con ngưi chiến thng. Sc mnh thn thánh ca t
nhiên cũng phải cúi đầu. Con người cưỡi lên thác ghnh, toang hết lớp này đến lp
khác trùng vi thch trn, biu l sc mạnh phi thường trong quá trình thun phc s
hung hãn ca dòng sông. Ngôn ng miêu t nhanh, gn nh nhàng như chính ông
lái đò đang lướt đi trên băng khiến người đọc cùng cm phc những con người lao
độ động bình thường gin d mà rất đỗi phi thưng.
Con sông Đà hung dữ vậy ông lái đò chỉ coi như một chiếc thu. Ông đến vi
như đến vi một ngưi lm chng nhiu tật nhưng đằm thm như một c nhân.
Ông hiu nó, lng nghe âm vang ca nó, thy chung vi nó. Qua mi ln chinh phc,
mi nguy hiểm đều tan biến: “Sóng thác o xèo tan trong trí nhớ”. Họ li đốt la
nướng cơm lam, bàn chuyn v anh vũ, cá dầm xanh như không h chuyn
xy ra, mc ngày nào h cũng phải vt lộn, đối mt vi thác dữ. Đó thực v đẹp
ca mt tâm hn ngh sĩ.
th nói, thiên y bút Người lái đò sông Đà tác phẩm mang đậm phong cách
ngh thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác trong cách tiếp cn
khai thác đối ng t nhiu khía cạnh, phương diện thẩm mĩ, n hóa. Dòng sông
được miêu t như một công trình thut tuyt vi ca tạo hóa, người lái đò được
khc ha với chất trí dũng tài hoa, ngh sĩ. Tác giả vn dng ngôn ng điêu luyện
ca nhiu ngành ngh thuật khác nhau như: hi ha, âm nhạc, điện ảnh, điêu
khắc,…huy đng kiến thc nhiều lĩnh vực: địa lí, lch s, th thao, thut,..Tt c đã
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tng hp, tu chung li làm ni bt v đp một dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội thơ
mng cùng với đó v đẹp hình tượng người lao động rất đỗi bình d vĩ, ln
lao.
Khép lại tùy bút sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem đến cho độc gi bc tranh v thiên
nhiên sông nước hùng vĩ, dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng tr tình. Hin
lên trong bức tranh đó là hình ảnh con người lao động trí dũng tài hoa của thời đại mi
thi đi H Chí Minh.
Ngưi lái đò sông Đà phân tích - Mu 3
Nguyn Tuân mt trong nhng nhà văn tiêu biu ca nền văn hc hiện đại Vit
Nam. Trước năm 1945, ông ghi đm du ấn trong lòng đọc gi vi tp "Vang bóng
mt thi" sau khi Cách mng tháng Tám thành công ông vn nhng tác phm
mi mang nhng nét sáng to ca chính mình. Nguyn Tuân mt nhà văn yêu cái
đẹp, ông luôn khám phá ra mi góc cnh ca v đẹp trên thế giới y. Con người
cnh vật thiên nhiên khi vào văn chương ca ông như hoá thành những công trình
ngh thuật độc đáo mà kì vĩ.
Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" được rút ra t tập tùy bút Sông Đà đưc ông sáng
tác vào năm 1960. c phm này là kết qu ca mt chuyến đi đy gian nan
cùng hng khi của nvăn về min y Bắc đầy him trở. Trong đoạn trích, hình
ảnh con sông Đà hin lên quanh co, uốn lượn dc nhng triền núi. Sông Đà những
dòng nước chy xiết cùng độ dc ln. Chính cái nét khác bit ấy đã tạo nên cho
mt v đẹp hoang hùng vĩ. Bi cái s hung bo nhưng tr nh ấy, sông Đà lại
làm bt lên v đẹp tài hoa ca người lái đò trên sông.
Ngay t nhng câu m đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc gi cun theo cm giác s hãi
nhưng đê mê, vui thú vi bc tranh một con sông Đà hung dữ, bo tn hiện lên. Điu
ấy đã hiện ngay trong nhng dòng miêu t đầu tiên như "đá b sông dng vách
thành". Nhà văn đã s dng ngh thut n d để miêu t nhng vách đá nơi b sông y
giống như những thành trì vng trãi, kiên c, n giấu trong đó biết bao nhiêu bí mt và
s nguy hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dòng văn của ông thì đc gi li
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
càng cm thy thích thú vi nhng cách von dùng t miêu t v dòng sông Đà.
Nhà n đã dùng ngôn t để v ra con sông y, mặt sông thường úng ngọ" mi
mt trời. khi đó thì các vách đá như "chẹt lòng sông như một cái yết hu", ri "có
quãng ởng như cn hươu, con nai nhy t b này qua b kia". Tác gi đã thể hin
nhng liên của mình tưởng chừng như ý, tưởng chừng như ngu nhiên hin ra thế
nhưng lại rt hợp lý, đấy cái tài tình của ông. như đng t "cht", ging
như từ dùng trong ngôn ng văn nói thế nhưng khi đt vi hình ảnh "như mt cái yết
hu" thì lại vô cùng ăn khớp và không có t nào có th thay thế được. V đẹp hùng vĩ,
d di của dòng Đà giang còn đưc th hin cái cm giác thy lnh của nhà văn khi
đi qua vào mùa hè. Cái cảm giác y va cho thấy không khí nơi đây, va to ra mt
khung cảnh đầy tráng lệ, hùng với các ch đá dựng đứng khiến con người cm
thy nh bé gia thiên nhiên bao la.
Chính cái s hung bo của dòng sông Đà ấy đã làm nền để tôn vinh lên v đẹp tr tình
và hình tượng của người lái đò. Cảnh hung bo của dòng sông đưc khc họa đậm nét
mt ghềnh Hát Loóng. Ông đã miêu tả dòng sông phải đến ng ngàn cây s
"nước đá, đá sóng, sóng gió". Chỉ một câu nhưng từ "xô" đưc lp li ti ba
ln mt lot t vi thanh sắc, điều y khiến độc gi cm thy cm giác như sóng,
gió nước đang tạt thẳng vào ngưi, mi lúc mt cao, mt mnh liên hồi hơn.
Qua đây, chúng ta cm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sc mnh ca thiên nhiên sao
khng khiếp, lạnh lùng đến vy. "gùn ghè", hầm y như những con thú
hoang bo tợn, đầy hung dữ. đang giơ nanh vuốt như sn sàng thách thc vi con
người.
V đẹp hung bo ấy còn được th hin nhưng cái "hút nước" khng l quãng sông
ờng Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tuân, xoáy nước giống "như
nhng cái giếng tông" đưc th xung làm móng cu. đây, ông dùng bin pháp
nhân hoá, biến cái xoáy nước ấy thành con người biết th biết kêu. S von như
mt cái cng b sc tht sinh động, hp dẫn. Hình như chưa một nhà văn nào lại
th ởng tượng so sánh nhng hình tượng này vi nhau một cách độc đáo như
Nguyễn Tuân đã làm. thể nói nh ông nhiều người chưa từng đưc tn mt
nhìn thấy con sông Đà nhưng vn cm nhn đưc khúc sông đó hiểm nguy đến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
nhường nào. th nut chng mi th nên không mt con thuyn nào dám ti
gn nếu như không muốn b hút và dìm xung dòng sông.
Đặc bit nơi khúc thác sông Đà, cái v d dội, đầy him ác ấy đã được tác gi vch
trn một cách nét. Ông đã miêu t bng nhng âm thanh cùng mnh m, quyết
liệt như tiếng "réo gn mãi lên, réo to mãi lên". Ông nghe tiếng ớc như lúc đang
"oán trách", khi li "van xin" hay lại đy "khiêu khích". lúc li rống lên như
"mt ngàn con trâu mộng" đang vật ln trong lúc rng cháy. Không nhng vậy, đá
trên sông Đà như hp li thành "chân trời đá" mênh mông. Chúng mang nhiu dáng v
khác nhau như "ngỗ nghịch", "nhăn nhúm", "méo mó"... Tác giả đã dùng nhiu tính t
t người đ miêu t khiến cho những hòn đá tri y tr nên tâm hn. Bi thế
độc gi cũng cảm nhn được s bướng bnh, bt cn của đá. Đến đây chúng ta thy
được bằng trí ởng ng phong phú ca mình thì tác gi đã biến sông Đà thành mt
"loài thu quái khng l" đầy độc ác, nguy him.
Dòng sông Đà y không ch mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo d di còn
mang trong mình v đẹp tr tình thơ mộng đy du dàng, e ấp. Nét đẹp thu m như
thiếu n mi ln ấy đưc Nguyn Tuân cm nhn t nhiu góc cạnh, điểm nhìn
nhng không gian thi gian khác nhau. Với ông, dòng sông Đà t trên cao nhìn
xung uốn lượn như áng tóc mây của người con gái vùng Tây Bc xinh đp, kiu
diễm "tuôn dài như mt áng tóc tr tình, đầu tóc, chân tóc n hin trong mây tri Tây
Bc bung n hoa ban, hoa go tháng hai và cun cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân".
Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo tng mùa
của dòng sông như mùa xuân dòng sông "xanh ngc bích", mùa thu "l l chín đỏ".
Không nhng thế trong trí ng của ông thì lúc sông Đà nh nhàng "nmột c
nhâ". Ông còn thấy đưc dòng sông mang "màu nắng tháng ba Đường thi" vi b
sông đầy nhng chun chuồn bươm ớm bay n. Tác gi đã không quên tả
hai bên b sông như nhuộm màu c tích, miêu t t xa ti gn, t khái quát đến chi
tiết. C dòng Đà giang gi đây còn mang trong mình những ni nim hoài niệm xưa
cũ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bên cnh nh ảnh con sông Đà hình nh nhân vật người lái đò. Nếu như thiên
nhiên càng d di bao nhiêu, càng bao la thì li càng tôn lên v đẹp tài hoa, đức độ
trí tu của người lái đò. Người lái đò ấy đại din cho những con người lao động
chăm ch, cn cù, kiên trì mnh m can đảm. Phm cht tốt đp của người lái đò y
đã được khc ha mt cách rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước cái
dòng sông đầy nguy him ấy, người lái đò phi gi s tnh táo và vng tâm mi có th
vượt qua đưc ma trn vi nhng vòng thách đu với dòng ng. Trưc cái "thch
trn" ấy, ông lái đò vn chng hs nao núng. Ông vn "gi ly mái chèo cho khi
b ht lên". Mc dù mt nước có hò reo, hùa nhau đ b gãy cán thuyền còn sóng nước
thì như những "quân liu mạng" lao vào "đá trái thúc gối vào bng hông thuyn".
Mặc nước bám lấy như "đô vật" mun vt ngửa ông ra, còn sóng thì như bóp chặt
ly h b ông đò. rồi b thương đến mc "mt méo bệch đi" thì ông vẫn
cương quyết không đầu hàng. Ông "c nén vết thương, hai chân vẫn kp cht bung
lái" và ch huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mi "trùng vi thch trn".
Qua truyn ngắn "Người lái đò sông Đà" tác giả đã xây dựng hình ng ca nhân vt
người lái đò bng nhiu ngh thuật đặc sc nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhc,
thut, th thao... Đng thi bng các bin pháp tu t nhân hoá, so sánh, ng câu
văn ngắn gọn, súc tích đã khc ho thành công nhân vật lái đò dòng sông huyền
thoại. "Người lái đò sông Đà" thực s là mt tác phẩm vô giá. Nó đã thôi thúc mi đc
gi sau khi đọc xong đu muốn xách ba n đi ti thám him vùng Tây Bc, để
được thu trn vào tm mt cái v đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng lại tr tình ca dòng
sông này. Đồng thi, chúng ta có th cm nhận được ông lái đò đ thêm yêu, thêm
hiu những con ngưi gan d nơi đây.
Phân tích Người lái đò sông Đà ngắn gn - Mu 4
“Người lái đò sông Đà” một bút đc sắc đầy sáng to tiêu biu cho phong
cách độc đáo ca Nguyn Tuân sau cách mng tháng tám. Một nhà văn tài hoa, uyên
bác, không qun ngi gian lao vt v để được những dòng bút ký, đậm cm giác
chân thc, sức liên ng phong phú khiến cho người đọc ngưi nghe muốn được
hòa nhp vi nhịp đng phát trin ca đất nước ca cuộc đời.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
th nói trong ngh thuật, đến vi Nguyễn Tuân đó đến vi s tìm tòi, khám phá
sáng to, bởi chính ông ngưi sáng to li thế gii. Nguyn Tuân s mình ca
ngày hôm nay cũng giống vi mình của ngày hôm qua, ông như s s trùng lp tm
thưng, giản đơn. Cho nên ông đi theo “ch nghĩa dịch” lấy làm đề tài cho
các tác phm ca mình, phi đi thì mi có th viết lên nhng tác phm có giá tr được.
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” kết qu ca cuộc hành trình ngược v min Tây
Bắc trong giai đoạn năm 1958-1960 đầy tri nghim sâu sc ca tác gi và được in ln
đầu trong tập tùy bút Sông Đà (1960). ng sông Đà quanh co, uốn n dc qua các
triền núi, dòng nước thì chy xiết với độ dc lớn. Chính đặc điểm này đã to cho con
sông mt v đp k thú, rất hoang sơ kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bo, d
dn mà tr nh, thơ mộng đã làm nổi bt lên v đẹp tài hoa, đầy ngh sĩ của ông lái đò
trên dòng Đà giang.
Trên thc tế, hình ảnh con sông Đà cũng đã đưc nhiều nhà n, nhà thơ chọn m đề
tài khc ha lên v đẹp của nó, nhưng phải đến vi Nguyễn Tuân thì con sông Đà
y mi hin ra chân thực và đầy những điều mi m mà chưa từng bt k mt tác
phẩm nào. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên vi v va hung bo, d
dội nhưng cũng va tr tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang một tâm địa
xo quyệt, mưu mô ca th k thù s mt, tt c như muốn cướp đi mạng sng ca bt
c k nào l sa chân vào “thạch trận”…” mà chúng bày ra. Không dng li đó, nước
con sông Đà này cũng reo như đun sôi lên một trăm độ… vẫn mai phc hết trong
lòng sông ”. Nguyễn Tuân còn miêu t mt cách sống động rng khi thy chiếc
thuyn nào nhô vào thì chúng lại nhm c dậy để v lấy”… Thế nhưng ngay sau đó,
khi s hung hãn, d tợn kinh người trôi qua, li hin lên vi c v tr tình, thơ
mộng đến khó tin. Tác gi còn miêu t ni bật lên được hình nh con sông lúc
những đoạn xuôi dòng, không nhng thế ngòi bút ca Nguyễn Tuân cũng bỗng tr lên
mm mi, uyn chuyn mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: Con sông Đà tuôn
dài như một áng tóc tr tình, đầu tóc, chân tóc n hin trong mây tri Tây Bc bung
n hoa ban, hoa go tháng hai và cun cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Vi việc so sánh ng sông Đà “như mt áng tóc tr tình”, tác gi đã phác họa dòng
sông hin lên vi cái v kiu diễm, thướt tha ca một người ph n. Thông thường
người ta s dùng ch áng” để ch nhng tác phm ngh thut, vy đây Nguyễn
Tuân lại dùng đ ch sông Đà. thể thy trong suy nghĩ của Nguyn Tuân, con
sông Đà y giống như một tác phm ngh thut mà tạo hoá đã tạo ra.
Sông Đà không chỉ đẹp dáng hình, ngay c màu nước cũng mang một v đẹp riêng.
Tác gi đã quan sát dòng sông nhng thời điểm không gian khác nhau. Vào mùa
xuân thì dòng nước xanh như ngc bích, va trong xanh vừa óng ánh. Nhưng khi thu
sang nước sông li chín đỏ như da mặt người bầm đi u ba. Bng vic miêu t
c th tng chi tiết vi những so sánh độc đáo con sông Đà hin lên va đẹp, vừa đa
dạng qua đó mới thấy được s hiu biết sâu rng cùng kh năng quan sát tinh tế
ca nhà văn.
Cũng chính trong cái v hung tn, d dằn và cái đẹp đy tr tình, thơ mng y của đất
tri thiên nhiên, thì nh ảnh ông lái đò xuất hin tht d dội, phi thường giống như
một ngưi ngh sĩ. Khi đng trong mt cuc chiến đấu cam go “mt mt, một còn”
vi những cái thác c hung d, lúc này Nguyễn Tuân cũng đã cho ta thấy được cái
tài hoa, s trí dũng tuyệt vi của ông lái đò. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khin
con thuyn ca mình mt cách ch động thun thc giống như một ngưi ngh sĩ.
Với đoạn văn miêu tả cn cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp, thật oai hùng: Nm
cht lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chc ly lung
nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chèo v phía cửa đá
y ”. Nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện li khung cảnh ông lái điu khin chiếc thuyn
c như một nhạc đang kéo đàn violon tht hay, tht nhp nhàng, du dương không
chch mt nt.
Hình nh của người lái đò ấy dường như cũng chính sự hin thân ca tác gi. Vi
Nguyn Tuân thì ông không thích nhng th mèm, tầm thưng, gin d thì vi
người lái đò cũng vậy, ông cũng chỉ thích lao vào nhng cuc chiến đấu nguy him,
đầy kch tích với thácc d di mà chẳng ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm , bình
lng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Thành công ca Nguyễn Tuân đó sử dng giọng văn thật t nhiên phóng túng
khi miêu t hai trng thái đối lp trong cùng mt s vật, điều này mt s mi m
đầy sáng tạo. Con sông Đà vừa tr tình va hung bo, mt k thù nhưng đồng
thời cũng chính mt c nhân. Chính dưới ngòi bút tài hoa ca tác gi, con sông
không chết cng vn vận động mt ch mnh m, sôi ni bng nhng t ng,
câu văn gợi hình nh, tt c như đã tác động mnh vào giác quan của người đọc. S
xut hin của ông lái đò cũng thế, hin lên một cách sinh động, nét sc sảo. Đối
vi Nguyễn Tuân nói thì đã văn thì trưc hết phải văn ”. Đã văn thì đu
tiên phải đẹp, phi trau chuốt. cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn ca tác gi như
đứng trên toàn b tác phm. Hình ảnh thiên nhiên con người lúc này đây đều được
khai thác trên phương tiện thuật tài hoa ngh biết bao nhiêu thông qua ngòi
bút tài ba ca Nguyn Tuân.
th nói tác phẩm tùy bút “Người lái đò sông Đà” một bước chuyn mình ln
trong phong cách sáng tác ca Nguyn Tuân. trưc cách mạng, ông luôn đi tìm đ
tài cho tác phm ca mình bng cách quay v vi quá kh, ông luôn viết, tìm hiu v
mt thời vang bóng đã qua. Qua đó, người đọc có th d dàng nhìn thấy được nhân vt
ca Nguyễn Tuân đó nhng Hun Cao, nhân vt qun ngc mang mang khí phách
ca k nào biết trên đầu ai”. Tất c các nhân vật “vang bóng một thi” y
nhng v anh hùng ngang dc, h đều nhng khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau
cách mng, Nguyn Tuân li tìm thy cái cht tài hoa ngh nhng con người lao
động hết sc bình d, gần gũi, thân thuộc ngay chính nhng công việc bình thường
mà h đang làm.
Với “Người lái đò sông Đà” thì ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như một người
ngh tài hoa, trí dũng song toàn. Qua đó, Nguyễn Tuân đã thể hin tm lòng trân
trng, s cm phc, lòng biết ơn những con người đã góp phần vào công cuc xây
dng T quc. Chính trong vic phác ha li v đẹp ca sông núi Tây Bc cùng vi
hình nh của người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hp nhng hiu biết, nhng kiến thc
ca mình t nhiu ngành ngh thuật khác nhau như: hi họa, điêu khắc, âm nhạc, điện
ảnh, Tất c mi cnh vt, mi s vic như hiện lên trưc mt ta sng sng sinh
động biết bao nhiêu. Tác gi đã miêu tả chi tiết, sinh động, c th đến mc khiến cho
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
người đọc cảm tưởng như mình đang tận mt chng kiến cuc vt ln gia ông lái vi
thác nước, với dòng sông quái ác, đng thời cũng thấy được từng đoạn sông d tn,
lm chm nhng đá ngầm, đá nổi hình nh mt con sông êm , tr tình biết bao
nhiêu.
Chng phi ngẫu nhiên người ta gi Nguyễn Tuân nhà văn của s tài hoa
uyên bác. ông một ngưi vốn ng như ngun tri thc v lch s, khoa hc,
địa lí, sinh học… khng l. Tt c các kiến thc này cũng thường được th hin, tuôn
trào dào dt trong nhng tác phm của ông, qua “Người lái đò sông Đà” ta lại càng
thấy rõ hơn về điều này.
Kh năng diễn đạt vn ngôn ng ca Nguyn Tuân thật phong phú, đa dng. Mi
t ng, mỗi câu văn khi đưa vào các trang viết dường như đã đưc cht lc, gọt giũa
mt cách cn thận. Ông cũng khéo léo sáng to nên nhiu t ng mi lạ, độc đáo,
chính điều này đã đóng góp vào s đa dạng ngôn ng Vit Nam. Giọng văn ca
Nguyễn Tuân đôi khi mang v thô kệch, đời thưng, mc mạc nhưng lại hết sc
đúc tự nhiên. Ông không ch viết lên những trang văn tài hoa, nhng tác phẩm đặc
sc mà còn khiến cho người đc cm nhận đưc những âm hưởng trong mi đon văn.
Nguyễn Tuân đã viết v người lái đò sông Đà, cũng như viết v mt miền quê ơng
ca T quốc. Qua đó, ông đã thể hin ngun xúc cảm yêu thương tha thiết, s trân quý
đối với người lao đng và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nưc sâu nng. Thc
s chính nhng tác phẩm văn chương đc sc này của ông đã mang đến cho chúng ta
mt v đẹp tri thc tài hoa, uyên bác.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 5
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.
(Tiếng hát con tàu Chế Lan Viên)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Hoàn cảnh lịch sử diễn ra đó khi cả nước rộn ng lên đường theo tiếng gọi của
“tâm hồn Tây Bắc” để thể xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc. Lúc bấy giờ
biết bao nhà văn, nhà thơ lúc này đây dường như cũng đã thực hiện quá trình lột xác
để đến với cách mạng. Trong đó không thể không nhắc đến người nghệ yêu nước
Nguyễn Tuân được như một cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam. Nhà
văn Nguyễn Tuân đã sáng tác ra tác phẩm “Người lái đò sông Đà” đthể thể hiện
được rõ nét và vô cùng sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Có thể nói khi đến với nghệ thuật, thì chính đối với Nguyễn Tuânđến với sự tìm tòi
sáng tạo, bởi chính nhà văn người sáng tạo lại thế giới. Tác giả Nguyễn Tuân
sợ mình của ngày m nay dường như cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông
như sợ sự trùng lặp tầm thường. Cho nên ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài
cho tác phẩm, phải đi thì mới có thể viết lên các tác phẩm có giá trị được.
Hình ảnh con sông Đà cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ khắc họa, nhưng phải đến
với Nguyễn Tuân thì con sông Đà mới hiện ra chân thực cùng cảm động. Với
ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình
biết bao nhiêu. Con ng Đà như còn mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một,
tất cả như cũng thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân o “thạch
trận”…” không dừng lại ở đó thì nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở
đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Nguyễn Tuân còn miêu tả khi
thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”Thế nhưng chính
cái hung hãn dữ tợn y vẫn không làm mất đi được nét trữ tình sông Đà. Nhà văn
còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông những đoạn xuôi dòng, không
những thế thì ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, thật uyển chuyển, mang
đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời y Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Chính trên con sông ấy, hình ảnh ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Khi đứng
trong một cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với những cái thác nước, tác giả
Nguyễn Tuân lúc này cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
ông lái đò. Hình ảnh của người lái đò sông Đà cũng chính là một hiện thân của tác giả,
ông như cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội
mà dường như cũng không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…
Sử dụng giọng văn thật tự nhiên phóng ng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của
cùng một sự vật một thành công của Nguyễn Tuân. Hình ảnh con sông Đà vừa trữ
tình vừa hung bạo, đồng thời con sông Đà ng chính một kẻ thù nhưng lại một
cố nhân. Chính dưới ngòi bút tác giả, con ng không chết cứng vận động một
cách mạnh mẽ, thêm với đó một sự sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tất cả
như đã tác động mạnh vào giác quan người đọc. Hình ảnh của ông lái đò cũng thế
cũng xuất hiện một cách sinh động, thể hiện một sự nét sắc sảo… Đối với nhà
văn Nguyễn Tuân thì “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Đầu tiên đã là văn phải đẹp,
phải trau chuốt. đối với cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả Nguyễn Tuân
như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh con người sự vật lúc này đây cũng lại
thông qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện thuật tài
hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu.
Qua bài tùy bút thì nét đẹp sông Đà được đánh giá chính một công trình dày công
sáng tạo của tạo hóa. Con sông Đà như cũng vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng
dấp đến màu sắc, với những câu văn miêu tả dòng nước, tốc độ chảy của con sông Đà
mới đẹp làm sao. Đó cũng chính là nguồn cảm hứng của bao nhiêu văn, nghệ sĩ. Nước
của con sông Đà khi đến mùa xuân dòng xanh ngọc bích, còn với mùa thu thì nước
sông Đà dường nclừ lừ chín đỏ giống như da mặt người bầm đi rượu bữa”.
Hình ảnh con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên
cũng thật gợi cảm. Con sông Đà như cũng đã gây nên nỗi nhớ da diết cho
những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Khi gặp lại sông Đà, tác giả Nguyễn
Tuân như cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui ớng như gặp lại cố nhân phải
thốt lên: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau a dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Cũng chính trong cái đẹp đẽ, một cái đẹp như thật thơ mộng của đất trời thiên nhiên,
hình ảnh con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đò sông Đà điêu luyện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
điều khiển con thuyền một cách chđộng thuần thục nhất giống như một người
nghệ sĩ. Hình ảnh ông lái đò bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội bắt chúng
phải quy hàng. Với đoạn văn miêu tả cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp: “Nắm chặt
lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”.
Nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một
nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng không chệch một nốt.
thể nói tác phẩm “Người lái đò sông Đà” một bước chuyển lớn trong phong
cách Nguyễn Tuân. trước cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân lúc đó cũng thường đi
tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ. Nguyễn Tuân luôn viết, tìm
hiểu với một thời vang bóng đã qua. Người đọc thể dễ dàng nhận thấy được nhân
vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang tâm trạng của kẻ
phí phách “nào biết trên đầu ai”. Tất ccác nhân vật “vang bóng một thời”
những vị anh hùng ngang dọc, họ đều khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng
thì nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động
hết sức bình dị, gần gũi nhất ngay chính trong các công việc bình thường họ
đang làm.
Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” thì người lái xuất hiện trước mắt chúng ta như
những người nghệ tài hoa một trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân cũng đã miêu tả
hình ảnh người đời thường lái đò, Thêm với đó Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng
trân trọng, sự cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
Chính trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc thêm với đó hình ảnh
của người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành
nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của chính mình như: hội họa, điêu khắc, điện
ảnh, âm nhạc… Tất cả mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững sinh
động biết bao nhiêu. Miêu tả đoạn “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa
cả một chân trời đá”. Con sông Đà còn có âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền
thế rồi những con sóng dậy lên thành thác núi. Đọc tác phẩm độc giả giống như đang
tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, đồng thời cũng lại chứng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
kiến từng đoạn sông dtợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi cả những đoạn sông
êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.
Chẳng phải ngẫu nhiênngười ta lại coi Nguyễn Tuân từng được mệnh danh nhà
văn của sự tài hoa uyên bác. vốn cũng như nguồn tri thức khổng lồ của ông về
lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thật lớn. Tất cả các kiến thức này cũng thường
được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm của ông. Thể hiện rất trong tùy bút “Người
lái đò sông Đàthì Nguyễn Tuân cũng đã đưa ta đến với một miền quê ơng Tổ
quốc. Vị trí sông Đà, rồi lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những
trang viết đầy tính uyên bác, tài hoa.
Nói riêng về khả ng diễn đạt vốn ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Tuân thật phong
phú. Cứ mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn ờng như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn
thận. Nguyễn Tuân như cũng đã khéo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo.
Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi vẻ thô kệch, dường như cũng đã dàn trải
nhưng lại hết sức đúc tự nhiên. Tác giả không chỉ viết lên những trang văn tài
hoa mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được âm hưởng trong mỗi đoạn văn.
Tác giả đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một vùng quê ơng Tổ
quốc thì nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối
với người lao động thêm với đó tình yêu thiên nhiên đất nước. Thực sự chính
văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 6
Nguyễn Tuân một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác
phẩm của ông mỗi bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tưởng,
tình cảm gắn với đất ớc quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa,
cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải
nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút
đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của sông Đà cũng như thiên
nhiên hùng núi rừng y Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Giữa thiên nhiên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bao la rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nối bật lên là hình ảnh người lái đò sông Đà can
trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà.
Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà được trích từ tập “Sông Đà” được sáng tác năm 1960,
thành nghệ thuật đẹp đẽ Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian
khổ hào hứng tới miền Tây Vắc rộng lớn, xa xôi của Tổ Quốc không chỉ để thỏa
mãn tìm những miền đất lãn chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng
“thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động nơi đây.
“Người lái đò sông Đà” một tuỳ bút viết về thiên nhiên và con người lao động vùng
Tây Bắc. Nổi bật giữa thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hình ảnh con người, hình ảnh
người lái đò dùng cảm, can trường. Với phong cách nghthuật rất riêng của mình,
khai thác mọi vấn đề dưới con mắt nghệ thuật, đối với Nguyễn tuân, khi đó, lái đò
một nghệ thuật và người lái đò là một người nghệ sĩ.
Người lái đò trên sông đà trong tác phẩm một ông lão đã hơn 70 tuổi đã lái đò
trên dòng ng đà y đã hơn 15 năm. Có lẽ chính bởi ông đã dành phần lớn thời gian
của của mình cho nghề lái đò trên sông nước bản thân ông đã trở thành một người
lái đò lão luyện “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh
tay giữ lái độ sáu chục lần…”.
Nhân vật người lái đò một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề
lái đò, đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng
đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Không dừng lại
đó, Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với ông: “Sông Đà, với
ông lái đò y, nmột trường thiên anh hùng ca ông đã thuộc đến cả những dấu
chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.
Thật một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị mang đậm phong cách nghệ
thuật của Nguyễn tuân. Hình nh người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên
một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mùn” những cánh tay vẫn
cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của thiên nhiên
khắc nghiệt như những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc ng
lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá đây từ ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần chiếc thuyền o xuất hiện ở quảng ầm
ầm quạnh hiu này, mỗi lần chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng một số hòn
bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
một mình một thuyền, ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái
chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào nh. Mặt nước la vang
dậy quanh mình, ùa vào bgãy cán chèo, ktrên cánh tay mình”, sóng
nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền.
lúc chúng đội cả thuyền lên. ớc bám lấy thuyền như đô vật m thắt lưng ông
đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la o bạt”. lúc tưởng như
ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Từng chi tiết được tác giả miêu tả chân
thực táo bạo cho thấy sự dữ dội ghê gớm của dòng thác đối với con người chỉ
cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm
lái để lái con đò đến mức điêu luyện nghệ thuật. Đối với tác giả Nguyễn Tuân,
người lái đò chính là một người nghệ sĩ.
Tác giả đã so nh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất
nguy hiểm nhưng người lái xe còn phanh chân, phanh tay, tiến lên, lùi lại “còn
như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không
lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang ụp, chứ không
mùi gì cả…”.
Rồi lại vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả
đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi
hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. chỗ thì nước sông “reo lên như
đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp
ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…Thật một dòng sông đầy hiểm trở, gian
nan cho con người. Thế nhưng, “người lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt
lấy cái cuống lái.. ”. Mặc mặt “méo bệch đi” những đòn hiểm, “nhưng trên cái
thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh o của người cầm
lái”…
Qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân đã ca ngợi sự
dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng đại của ông lái đò, đã vượt
bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò vđến bến bình yên, không phải chỉ một
lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà.
Cuộc đọ sức giữa thiên nhiên dữ dội con người nhỏ bé, trong cuộc chiến đó, con
người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “Sông nước lại thanh bình. Đêm
ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”
Từ đây, cảm hứng lãng mạn đậm đà trong ng lan tỏa trong từng u văn tả thực, tạo
cho đoạn n một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Với tác giả, thiên nhiên chất
vàng của tây Bắc còn con người là chất vàng mười đã qua thử lửa. Trong suy nghĩ của
Nguyễn Tuân, con người đẹp hơn tất cả, quý hơn tất cả.
“Người lái đò sông Đà” một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say
đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa
hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhân và nhất là con người lao động bình dị
miền Tây Bắc. Hình ảnh người lái đò sông Đã tiêu biểu cho con người lao động
vùng Tây Bắc, dũng cảm, gan dạ, quật cường, luôn kiên trì hết mình với công việc.
Nổi bật nền trên thiên nhiên bao la hùng của núi rừng Tây Bắc chính con người
lao động nơi đây.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 7
Nhà văn Nguyễn Tuân một trong những nvăn tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Trước 1945, ông ghi dấu trong lòng độc giả với tập “Vang bóng một
thời” . Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, những sáng c của ông vẫn giữ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
được những nét sáng tạo độc đáo riêng. Nguyễn Tuân được biết đến như một nhà
văn tôn sùng cái đẹp. Ông luôn tìm kiếm khám phá mọi góc cạnh đẹp đẽ của thế giới
trên văn hoá thẩm mỹ. Con người thiên nhiên xuất hiện trong văn chương của
ông như những công trình nghệ thuật độc đáo và kỳ vĩ.
Người lái đò sông Đà được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà ông sáng tác năm 1960
độc giả sẽ cảm nhận hơn điều đó. Tác phẩm kết qusau một chuyến đi “phượt”
gian nan nhưng đầy hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong
đoạn trích, hình ảnh sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn chảy dọc qua các triền núi.
Sông Đà dòng nước chảy xiết với độ dốc cùng lớn. Chính những nét khác biệt
đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp hoang nhưng cùng kỳ vĩ. chính sự hung
bạo mà trữ tình của dòng sông Đà lại là cơ sở làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa của người
lái đò trên sông.
Ngay từ những lời kể đầu tiên, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác vừa sợ
hãi tột độ nhưng vừa đê mê, vui thú với hình ảnh dòng sông Đà đầy hung bạo dữ
tợn. Điều đó hiện ngay từ những miêu tả đầu tiên như “đá bờ sông dựng vách
thành”. Ở đây, nhà văn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để phỏng những khối đá bờ sông
như những thành trì vững chãi, kiên cố, ẩn giấu nhiều mật đe dọa nhiều nguy
hiểm. Càng đọc, độc giả càng thích thú với những von cách dùng từ miêu tả
dòng sông khác lạ đặc sắc của ông. Ông vẽ bằng ngôn từ rằng, mặt sông thường
“đúng ngọ” mới mặt trời. khi đó, các vách đá như “chẹt lòng sông như một cái
yết hầu”, rồi “có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia” . Nhà
văn thể hiện các liên tưởng tưởng chừng chỉ tình, ngẫu nhiên bân quơ, ấy thế
nhưng lại chứa đầy dụng ý nghệ thuật. Cái tài của Nguyễn Tuân đó. Ông nói
như không nói ông làm như không làm. Các hình ảnh, ngôn tcứ tự nhiên sắp
đặt đâu vào đấy một cách hợp tình ý đến độ không ai nghĩông cố tình. Ví như động
từ “chẹt”. giống như từ dùng trong ngôn ngữ nói hơn văn viết ấy thế nhưng
khi xuất hiện với hình ảnh “như một cái yết hầu” thì lại cùng ăn khớp không
từ nào có thể thay thế.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Vẻ đẹp dữ dội của Đà giang còn thể hiện cảm giác thấy lạnh của nvăn khi đi qua
vào mùa Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí trong lành nơi đây vừa tạo ra
khung cảnh đầy kỳ vỹ, với những vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy thật
nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.
Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông, bởi tiền đề làm tôn lên vẻ đẹp trữ tình hình
tượng người lái đò sau này. Cảnh hung bạo của dòng sông còn được khắc họa đậm nét
mặt ghềnh Hát Loóng. Tác giả viết dòng sông phải đến hàng ngàn cây số
“nước xô đá, đá sóng, sóng gió”. Chỉ một câu nhưng được lặp lại từ “xô” ba lần
và một loạt thanh sắc xuất hiện, khiến độc giả cũng cảm giác như đang bị sóng, gió
ớc tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, mạnh hơn liên hồi hơn. Qua đây,
chúng ta thấy sức mạnh của thiên nhiên thật khủng khiếp lạnh lùng. “gùn
ghè”, hầm y hệt thú hoang bạo tợn, lợm hung dữ. sẵn sàng giơ nanh vuốt,
thách thức với con người.
Tiếp đến, vẻ đẹp hung bạo ấy còn thể hiện những cái “hút nướckhổng lồ quãng
sông ờng Vát. Dưới con mắt của Nguyễn Tuân, xoáy nước “như những cái
giếng bê-tông” được thả xuống làm móng cầu. đây, ông nhân hóa xoáy nước thành
con người biết thở biết kêu. Sự von như một cái cống bị sặc thật sinh động
hấp dẫn. Chắc lẽ, chưa nhà văn o lại thể tưởng tượng so sánh các hình
tượng với nhau độc đáo như cách Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói, nhờ Nguyễn Tuân
mà dù nhiều người chưa thấy mặt mũi dòng sông Đà ra sao nhưng vẫn cảm nhận được
khúc sông đây cùng hiểm nguy. Nó thể nuốt chửng mọi thứ nên không một
con thuyền nào dám tới gần, nếu không sẽ bị hút rồi dìm xuống dòng sông. Thật đáng
sợ!
Đặc biệt khúc thác sông Đà, vẻ dữ dội, hiểm ác của dòng sông được tác giả “vạch
trần” nét. Ông miêu tả bằng những âm thanh, sắc thái ng mạnh mẽ, quyết liệt
như tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”. Ông nghe tiếng nước lúc như “oán
trách”, có khi lại “van xin”, hay đầy “khiêu khích”. lúc lại rống lên như “một
ngàn con trâu mộng” đang vật lộn trong lúc rừng cháy, Không những thế, đá sông
Đà như hợp lại thành cả một “chân trời đá” mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
khác nhau như “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, méo mó”. Nhà văn dùng nhiều tính từ tả
người để khiến cho những hòn đá vô tri trở nên tâm hồn. Nhớ thế, độc giả dễ dàng
cảm nhận sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Tới đây, chúng ta có đủ sở để khẳng
định, bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, nhà văn đã biến dòng sông Đà
bình thường thành một “loài thuỷ quái khổng lồ” với tâm địa độc ác, nguy hiểm. Đó là
lí do mà người dân nơi đây coi nó là kẻ thù số một.
Qua quá trình phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà, các bạn thể thấy, bên cạnh
vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo dữ dội, dòng sông còn mang trong nh vẻ trữ tình thơ
mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thùy mị như thiếu nữ ấy được tác giả cảm nhận qua
nhiều góc cạnh, điểm nhìn không gian thời gian khác nhau. Với Nguyễn Tuân,
sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc của người con gái vùng Tây Bắc
xinh đẹp, diễm lệ “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai cuồn cuộn khói núi o đốt
nương xuân”.
Ông không quên miêu tả chi tiết màu nước biến đổi theo mùa của dòng sông như mùa
xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu lừ lừ chín đỏ”. Không những thế, trong
trí tưởng tượng của nhà văn, lúc ng Đà nhẹ nhàng “như một cnhân”. Ông thấy
dòng sông còn mang “màu nắng tháng ba Đường thi” với bờ ng đầy những chuồn
chuồn và bươm bướm bay lượn. Từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết, tác giả không
quên tả hai bên bsông như nhuộm màu cổ tích. Cả dòng ng còn mang trong
mình những nỗi niềm hoài niệm xa xưa.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà không thể không nói tới nhân vật người lái
đò. Nếu như thiên nhiên càng bao la, dữ dội bao nhiêu thì càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa,
đức độ trí tuệ của người lái đò bấy nhiêu. Người lái đò đây ng chính người
lao động chăm chỉ, cần cù kiên trì mạnh mẽ và can đảm.
Phẩm chất đẹp đẽ ấy của người lái đò được khắc họa nét qua khung cảnh vượt thác
sông Đà. Trước con sông đầy mưu kế nhiều đòn hiểm nguy, người lái đò phải hết
sức tỉnh táo vững tâm mới thể xuyên qua ma trận với ba vòng thách đấu của
dòng sông. Trước “thạch trận” đầy căng go, ông lái vẫn không hề nao núng. Ông vẫn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
“giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. cho mặt ớc reo hùa nhau bẻ gãy cán
thuyền còn sóng nước thì như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng
hông thuyền”. Mặc cho ớc bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa ông ra, còn sóng
thì như bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. cho đã bị thương “mặt méo bệch đi” thì ông
vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt
buồng lái” và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi “trùng vi thạch trận”.
Qua đây ta thấy rõ, tác giả đã xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò bằng nhiều
nghệ thuật đặc sắc nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, thuật, thể thao…,
Đồng thời với các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích
đã khắc hoạt thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền thoại.
Đoạn trích người lái đò Sông Đà thực sự một tùy bút giá. thôi thúc mọi độc
giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lên đi đến Tây Bắc để được tận mắt
chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vị, đầy bạo tàn trữ tình của dòng sông độc đáo này.
Đồng thời thể trò chuyện với ông lái đò để thêm yêu, thêm hiểu những con người
quả cảm nơi đây.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 8
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân bút đặc sắc, kết quả của chuyến thâm
nhập thực tế vùng sông Đà 1958 1960 của nhà văn, in trong tập bút Sông Đà.
Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người
lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu Chế Lan Viên)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây
Bắc” để y dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực
hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nhà nghệ yêu ớc
ấy Nguyễn Tuân cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang
lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người
lái đò sông Đà một tác phẩm thể hiện t sâu sắc phong cách nghệ thuật độc
đáo của ông.
Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân đến với sự tìm tòi sáng tạo, bởi
“nhà văn người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay
giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính thế, ông đã
lấy “chủ nghĩa” dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình.
Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ.
Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều miền
quê đất ớc nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời.
Đó cũng tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều
nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công
cuộc xây dựng Tổ quốc.
Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc
song núi Tây Bắc, nhất cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những
con người ngày nay đang nhiệt tình gắn với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm
sáng sủa tươi vui bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng bầu nhiệt huyết
sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú
của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người thiên nhiên của miền
sông núi này…
Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn của ông
thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không thế
mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên
vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số
một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết
trong lòng sông” khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ
lấy”…
Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình sông Đà.
Miêu tả con sông những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm
mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng
hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội phi thường. Trong cuộc chiến đấu
“một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt
vời của ông lái. Người lái đò sông Đà hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những
cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác ớc dữ dội không ưa xuôi thuyền trên dòng
sông êm ả…
Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập
của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa “kẻ thù , vừa “cố
nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng vận động một cách mạnh
mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc.
Ông lái đò cũng thế ng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét sắc sảo… Đối với
Nguyễn Tuân, “đã văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái
đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người sự vật,
qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện thuật tài hoa
nghệ sĩ.
Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa
nên thơ. đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy
là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà cũng thế. “Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi
vì rượu bữa”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Con sông ấy đối với c giả không chỉ đơn thuần một cảnh đẹp thiên nhiên
thật gợi cảm. gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại
đi xa. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố
nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui nthấy nắng giòn tan sau mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng”.
trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một
nghệ tài hoa. Ông i điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục. Ông
bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội bắt chúng phải quy hàng. “Nắm chặt lấy
được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò gcương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”.
Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc
đang kéo đàn violon.
“Người lái đò sông Đà” một ớc chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân.
Trước cách mạng, nvăn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với
quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn Tuân những Huấn
Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng
một thời” những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng sau cách
mạng, Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất i hoa nghệ những con người lao động hết
sức bình dị, gần gũi.
Huấn Cao giờ đây đã lùi vào vãng chỉ n đây một ông lái đò cả đời gắn với
công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến đấu với tử
thần bằng cây sào nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân
đã trao tặng ông chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh
diện thiêng liêng. Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ tài
hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể
hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây
dựng Tổ quốc.
Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc người lái đò, Nguyễn Tuân đã
kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững sinh động. “Ngoặt
khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cmột chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ
vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim táo
tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi lao xuống “đáy hút
sông Đà” để quay phim…
Tất cả những nhà văn viết ra, những nvăn tưởng tượng sáng tạo nên đều
như được dựng lại trước người đọc. Tiếp c với tác phẩm Người lái đò sông Đà của
Nguyễn Tuân, ta nđang đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông
lái với thác ớc, chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá
nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.
Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, họcCuộc
chiến đấu giữa người lái với thạch trận sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì: “Mặt nước
hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền
như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ hình
ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta quan cảnh một cuộc
hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.
Nguyễn Tuân từng được mệnh danh nvăn của sự tài hoa uyên bác. Nguồn tri
thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào
dào dạt trong tác phẩm. Với Người lái đò sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền
quê hương Tổ quốc. Vtrí sông Đà, lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu
bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được tác giả nhắc đến
trong tác phẩm như Mường Vát, Sơn La, Hát LoóngTất cả, tất cả chứng tỏ sự
hiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết về sông Đà…
Khả năng diễn đạt vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú. Mỗi từ ngữ khi
đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên
nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết
sức đúc tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài
hoa lịch lãm ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc những dòng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
viết về con sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước giọng văn êm
ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân.
Viết về người lái đò ng Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã
thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động thiên nhiên đất
nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong
công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Người lao động
trong tác phẩm .
Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là
người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người
bình dị ấy chất nghệ tài hoa, dám đương đầu với sóng to glớn đchèo chống con
thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm người lao động hăng hái, quên
mình vì công việc.
Cuộc sống quanh ta vốn rất tầm thường, kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay
gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh
khôi, diệu. Nguyễn Tuân cũng một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế
giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền
riêng biệt, hấp dẫn độc đáo. Đó chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa uyên
bác…
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 9
Nói đến Nguyễn Tuân người ta ngngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ.
Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước sau
cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những
sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng
thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” “chất ng ời đã qua thử lửa” của con người
nơi đây.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo của sông
Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” t mộng mà bờ sông
“dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ
lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới mặt
trời”, “đang mùa đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da
thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua quãng này, người ta cảm
tưởng như mình “đang đứng một cái ngõ o ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái
tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng một loạt hình ảnh miêu tả, Nguyễn
Tuân đã đẩy người đọc từ phố xá đô thị về khung cảnh hoang sơ đến đáng sợ của thiên
nhiên sông nước. Người ta thấy hiện ra trước mắt một khúc sông Đà vừa sâu, vừa
hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.
Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, thể kể tên đến năm ơi cái ghềnh nhưng sợ hãi
nhất ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước đá, đá sóng, sóng gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn nhanh mạnh khiến
người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của sóng, gió, nước, đá. Các từ
láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng
khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những
người trên sông. thể gây ra rất nhiều nguy hiểm con người không thể nào
lường trước được.
Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng
một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của hút nước
sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống ncái lúm đồng tiền trên
gái nhưng lại không hề duyên dáng, dễ thương, thay vào đó thể lôi
tuột một cái thuyền xuống đáy sông đánh cho tan xác. Không chỉ vậy, Nguyễn
Tuân còn so sánh những cái hút ớc với những cái giếng tông thxuống sông để
chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh y vừa gợi độ sâu hun hút của những cái
xoáy nước vừa khiến người đọc khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hãi hơn khi đọc
những câu văn miêu tả âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều nhanh còn ặc ặc n như
mới rót dầu sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống nmột loài thuỷ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
quái bị bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn
liên tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi trên
thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống nh để ghi lại cảnh
tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp vỡ tan đổ ụp xuống
cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xoáy tít, những thước phim màu cũng quay
tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem
một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.
Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn hướng
người đọc chú ý vào âm thanh của chúng miêu tả lần lượt theo trình tự từ xa đến
gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa diện mạo thứ “kẻ thù số một
của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm thanh “réo gần mãi lại o to
mãi lên”. Tiếng thác nghe như “oán trách”, nghe như “van xin”, “khiêu khích”,
giọng gằn “chế nhạo”. Cách kết hợp khéo léo giữa so sánh nhân hoá này đã
khiến sông Đà hiện n với một tâm địa phức tạp. “Thế rồi rống lên”, âm thanh
được phóng to hết cỡ giống nđang đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại.
Nguyễn Tuân n so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
Và để tăng thêm sự hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút của mình
vào miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm giác đá sông Đà
nhiều kể. Những tảng Đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân thổi hồn vào đó với từng
tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng
còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con ng hung bạo này chẳng khác kẻ thù số một
của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trôi qua, nó lại hiện lên với cả
vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin.
Từ trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
cuồn cuộn khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so sánh ng Đà “như một
áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng ng hiện lên với cái vẻ kiều diễm của một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ “áng” hay được dùng để chỉ những
tác phẩm nghệ thuật, vậy đây Nguyễn Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Có thể thấy
trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã
tạo ra.
Sông Đà không chỉ đẹp dáng hình còn đẹp màu nước. Tác giả đã quan sát
dòng sông những không gian thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm
đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những so sánh độc đáo sông Đà
hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng qua đây ta cũng thấy được sự hiểu biết u rộng
cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.
Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp n hối hả, mau lẹ.
Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang dáng vẻ “lặng tờ”, tĩnh lặng tuyệt
đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa trong đó một sức sống dạt dào. Nhà văn
còn dùng những so nh cùng gợi cảm khi miêu tả ng sông “bsông hoang dại
như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn
đã sử dụng những khái niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến
sông Đà hiện ra không chỉ dòng không của không gian còn dòng sông của
thời gian. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ tĩnh lặng của sông
Đà sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa cái khung cảnh thơ mộng ấy nhà
văn nghe thấy một tiếng còi sương - tiếng còi xúp của một chuyến tàu đường sắt
Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy.
thể thấy những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một
đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.
Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn Tuân đã
đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo
và trữ tình của sông Đà.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của
Nguyễn Tuân được gọi cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác phẩm một lần
nữa khẳng định tài ng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ vừa
giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà ông gửi gắm trong các c
phẩm của mình.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 10
Với bài nổi tiếng “người lái đò sông Đà” rút từ tập “tùy bút sông Đà” xuất bản
năm 1960, Nguyễn Tuân muốn xưng tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên
nhiên bạo liệt, ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của như
một ông tài bậc thầy lèo lái con thuyền chữ trên dòng sông Thi không kém thác ghềnh.
Chính từ áng kỳ này, người nghệ vốn nổi tiếng tài hoa uyên bác từ trước cách mạng
tháng 8 nay lại dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy góc cạnh thú vị trước 1
cuộc sống đã đổi thay. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ
tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
Nguyễn Tuân một nhà văn lớn của dân tộc, một nghệ tài hoa suốt đời đi m,
tôn vinh cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học hiện
đại: thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú
thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách
nổi bật, tài hoa và độc đáo.
Với chất tài hoa tài tử sẵn trong một m hồn nghệ yêu cái đẹp, một bộ óc uyên
bác lối hành văn cầu kì, độc đáo, Nguyễn Tuân gây ấn tượng với người đọc bởi
những tác phẩm cực đẹp. Đối với ông, đã đẹp phải đẹp đến toàn mĩ, đã dữ dội
phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Và trong một chuyến đi gian khổ đầy
hào hứng đến vùng y Bắc rộng lớn, xa xôi, ông đã tìm thấy cho mình một “nàng
thơ” hoàn mĩ: ng Đà với hai “thái cực” mâu thuẫn đến hoặc: hung bạo, dữ dội
mà trữ tình, đẹp đẽ.
Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong
tác phẩm. Viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bởi “Người lái đò sông Đà” được viết bằng thloại tùy bút. Ông chẳng khác nào một
nhà quay phim lão luyện. khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía
viễn cảnh. Từ trên cao, Nguyễn Tuân nhìn thấy con sông Đà dài ngoằn ngoèo như một
sợi dây thừng.
đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt
từng đoạn sông để tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới mặt trời.” Thậm chí
những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này
bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.
quãng con nai con hổ đã lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ấn tượng hơn nữa
việc “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đang ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cảnh cửa sổ nhà nào ở
tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện. Và phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân còn
được thể hiện qua góc nhìn điện ảnh được sử dụng để cảm nhận, tạo cho người đọc
một ấn tượng về vẻ đẹp của sự hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại.
Những quãng ghềnh thác hãy còn đáng sợ cái dữ dằn của gió nước: quãng mặt
ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, gió phối hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên
những cơn xoáy thật kinh hãi: “nước xô đá, đá sóng, sóng gió cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm suốt tháng như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Cái dữ dội, hung bạo
của ghềnh thác được tả thành công sinh động nđang hiện hữu trước mắt
người đọc bởi nghệ thuật tài tình của Nguyễn Tuân với hàng loạt các động từ mạnh,
câu văn nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự liệt trùng điệp của hành động “sô”
phần nào dựng nên nhịp điệu hối hả, dồn dập vừa như cái dữ dội, mạnh bạo của dòng
nước mà còn như tiếng tim đập của người đi trên sông.
Như vậy ràng nơi ấy lòng sông rất hẹp, độ dốc của con thác rất cao, nhiều luồng
chết, vực xoáy. Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất
ngắn, huy động chủ yếu kiến thức thuật quân sự để miêu tả sự vận động của
dòng nước. Ông cũng cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tượng của độc giả bạn đọc. Bởi vậy, con sông Đà hiện lên là một nhân vật có tính cách
và cả ngôn ngữ.
Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang những
hút nước với cách liên tưởng cùng táo bạo. Ở những cái hút nước giống như những
cái giếng tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: “trên những cái hút
nước ấy cũng đang quay lừ lừ những nh quạ đàn”. Nước đó c“thở kêu như
cửa cống cái bị sặc”, có lúc lại nghe rờn rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Sông Đà không
khác một loài thú dữ đầy ranh mãnh, chực chờ vồ lấy những chiếc thuyền mỏng
manh. “Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy…
Bè gỗ nghênh ngang qua đây ý bị hút nước đó lôi tuột xuống, chiếc thuyền bị
giồng ngay y chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm dưới lòng sông đến mười phút
sau, mới thấy tan xác khuỷnh sông dưới”. Những so sánh, von “như cửa cống bị
sặc”, “như cái giếng tông”… đầy gợi hình, gợi cảm của tác giả gây cảm giác rất
mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy cận cảnh cái hung dữ của sông Đà
thót tim lại. Thế nhưng, giống như đang cùng người đọc ngồi cùng một chiếc
thuyền qua sông, Nguyễn tuân lại đưa người đọc đến những cái grợn n nữa của
dòng sông Đà.
Trước hết những âm thanh của tiếng thác gào rùng rợn, hoang dã: con sông Đà đã
trở thành một loại thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm: “Tiếng nước thác nghe như
oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn chế
nhạo. Thế rồi rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu, rừng tre nứa nổ lau, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn
trâu da cháy bừng bừng”. đoạn văn y, tác giả đã huy động rất nhiều biện pháp
nghệ thuật như nhân hóa, liên ởng, so sánh, sử dụng hàng loạt động từ mạnh khiến
hình ảnh sông Đà thật ghê rợn như một nhân vật mang tâm địa hiểm ác với cái kiểu
khôn khéo, ranh ma.
Tiếp đến là sự hung bạo, dữ dằn của đá sông Đà, đó là những cửa tử đang mai phục ẩn
nấp để gieo rắc kinh hoàng cho người lái đò. Bằng tri thức sâu rộng về quân sự,
thuật, thể dục, thể thao và điện ảnh, Nguyễn Tuân đã phác họa nên một cuộc chiến đầy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
gay cấn như một quyển binh pháp về đánh trận trên sông Đà. Đá đây được chia
thành ba tuyến và năm cửa, bốn cửa tử và duy nhất chỉ một cửa sinh.
Lòng sông thì trắng xóa làm nổi bật những tảng đá đang bày thế trận, tảng nào, n
nào “trông cũng ngỗ nghịch như những vị tướng”, “có vị trông oai phong lẫm liệt”,
“có vị thì như đang hất hàm bắt cái thuyền phải xưng tên ng tuổi trước khi giao
chiến”. Có vị “lại lùi về một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.
Con thác khúc sông này mới độc áo, xảo quyệt làm sao! như đang mai phục để rồi
đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt, khi tlại tra
hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh quật vu hồi. Khi đánh giáp
đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gãy cán chèo, rồi đá trái thúc gối vào bụng, gi
đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông lái đò trên trận nước.
Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu.
Đồng thời, khi viết về dòng sông, Nguyễn Tuân đã bộc lmình một nhà văn với
tình yêu quê hương đất nước tha thiết bởi trong văn chương nghệ thuật, viết về sông
núi viết về giang sơn viết về giang sơn viết vTổ quốc. Đây tình yêu nhất
quán trong cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trước cách mạng, tình yêu quê hương Tổ
quốc của Nguyễn Tuân được bộc lộ một ch thầm kín thông qua tác phẩm “Thiếu
quê hương”.
Không chỉ dừng lại đó, ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung vào để miêu tả cái
vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng của dòng sông Đà, nhất là đoạn sông ở phần hạ lưu. Người
yêu văn nhận thấy Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng
mạn, trữ tình, vô cùng kiều diễm.
Nếu đoạn văn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung bạo với những kiến
thức nền chủ yếu quân sự hay thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ,
nhiều thanh trắc thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến thức du
lịch, kiến thức lịch sử, kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo khoan
thai của thuyền tôi trôi trên sông Đà. Nếu để ý, người yêu văn hẳn sẽ nhận thấy có đến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
mười bốn câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh
mang mềm mại.
Cái đẹp của sông Đà,cũng có lẽ cũngnét đẹp trong tâm hồn Nguyễn Tuân, hiện
lên mỗi khác qua mỗi góc nhìn khác nhau. Khi nhà văn bay tạt ngang sông Đà, từ trên
cao nhìn xuống con sông, điều đầu tiên nhìn thấy lại chính hình dáng như “cái dây
thừng ngoằn ngoèo”, sau đó là “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây”
rất tinh tế ngưng đọng lại hình ảnh “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nhoa ban hoa gạo tháng hai
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên
sông Đà” hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu nhìn xuống dòng nước sông Đà”,
ông thấy dòng sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc
biến đổi diệu kì: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao
chứ không phải là con sông đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực
Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu”.
con sông Đà lại đẹp một kiểu khác nữa, khi Nguyễn Tuân dẫn người đọc đi xuyên
rừng đến. Ông đã gọi sông Đà đến ba lần tiếng “cố nhân”. Nguyễn Tuân ấn tượng với
cái màu loang loáng của mặt ớc như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi
bỏ chạy”. ông bất chợt phát hiện trong cái lấp lánh ấy “sáng e lên một màu nắng
tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ bãi sông Đà rập rờn
bay bao chuồn chuồn bươm bướm.
Nhà văn vui sướng đắm say khi hội ngộ cùng con sông. Nỗi niềm y được ông von
như niềm vui khi thấy cái “nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “như nối lại chiêm bao đứt
quãng” cái nắng sưởi ấm tình cảm thân thương, gần gũi của tác gitrong cảm giác
“đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”.
Một lần nữa khi thuyền trôi ven bờ, tác giả đã phát hiện được thêm bao nhiêu vẻ đẹp
gợi cảm của con sông. Gây ấn tượng đầu tiên với người nghệ sự tĩnh lặng nhẹ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
nhàng: “Hình như từ đời đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế
thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ của hiện tại, trôi ngược về quá khứ xa
xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của tác giả: “Bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử.
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Càng đọc, ta càng có cảm giác
như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông nước, như say sưa đắm với
không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao vẻ đẹp sinh động: đó
“nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, là “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn
búp”, là “một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Đằng sau những
dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống ngồn ngộn, ơi
mới, trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động.
ảo hơn nữa khi nhà văn như đã nghe được tiếng nói của chú ơu: “thơ ngộ
ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” cũng như dòng sông “đang lắng nghe những
giọng nói êm êm của người xuôi”. từ hiện tại, ông ước đến ơng lai nghe một
“tiếng còi ơng” hoặc “thèm được giật mình một tiếng còi xúp-lê của một chuyến
xe lửa đầu tiên” hòa nhập cùng dòng sông “lững lờ như nhớ thương”.
thể nói tâm hồn nvăn như vỗ cánh cùng ước sông Đà đẹp ơi hơn trong
ngày mới dựng xây. Càng về cuối bức tranh, sông Đà càng đẹp sống động với “áng
cỏ sương”, rồi “đàn dầm xanh quẫy vọt n mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”
“tiếng đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cảnh thiên nhiên cứ mở
rộng dần bằng vẻ đẹp vừa hiện thực vừa biến ảo trong cái nhìn đắm mình trong thơ
mộng của nhà văn.
Ta còn thấy hai nghệ thuật nhân hóa so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng một cách
rất nhuần nhụy. Ông cảm nhận con sông Đà so sánh nó, von như một áng tóc
của người thiếu nữ cùng lãng mạn, trữ nh, lệ: “như một áng tóc trữ tình”…
Đây được xem như đoạn thơ đẹp nhất trong tùy bút “Sông Đà”. Đọc xong “Người lái
đò sông Đà”, gấp lại trang sách đã lâu nhưng những câu văn đẹp như những vần thơ
ấy vẫn giăng mắc, ở trọ mãi trong tâm hồn của mỗi người yêu văn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên
nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hòa vào cùng cảnh vật, để chiêm
ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới
thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn
với cuộc sống con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào
phóng của sông Đà.
Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những ước mang tính
dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy
điện dồi dào. ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân những dự
cảm chính xác, niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế
độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.
Với sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú duy liên tưởng so sánh
bất ngờ kết hợp cùng việc sử dụng tài tình ngôn ngữ Tiếng Việt với các cấu trúc câu
trùng điệp, phối hợp linh hoạt đầy sáng tạo các biện pháp tu từ, tác giả đã làm nổi
bật lên hình tượng con sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội vẻ đẹp
hùng nhưng cũng đầy thơ mộng của thiên nhiên đất nước. Hình tượng thiên nhiên
này cũng chính phông nền cho sự xuất hiện tôn vinh vẻ đẹp của người lao động
trong giai đoạn mới.
Qua đó, nhà văn cũng bộc lộ được sự tài hoa của mình khi liên tục sáng tạo nên những
dáng vẻ biến ảo khôn lường khiến người đọc phải ngạc nhiên, thán phục. Đó sự tài
hoa thiên bẩm cùng với nền tảng một vốn kiến thức uyên bác vcả nghệ thuật lẫn
cuộc đời, sự dày công quan sát, tìm hiểu đối tượng cần tiếp cận, khám phá cũng như
tình cảm man mác sâu nặng, đằm thắm giàu sức sống, đầy tươi trẻ dành cho Tổ
quốc.
Tuỳ bút Người lái đò sông Đà” tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài
hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân . Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ
mộng của thiên nhiên Tây bắc còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị , anh hùng tài hoa
của người dân lao động nơi đây . Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất
nước , niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt Nam.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 11
Tác phẩm Người lái đò sông Đà bút đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong cách độc
đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài hoa, không quản gian
lao vất vả để được những dòng bút ký, đậm cảm giác chân thực, sức liên tưởng
phong phú đem đến cho người đọc người nghe cảm nhận về một tâm hồn khao khát
hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.
Tác phẩm kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn năm 1958-
1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Sông Đà (1960).
Sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước chảy xiết với độ dốc
lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang kỳ vĩ.
Hình ảnh con sông Đà hung bạo trữ tình đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ
của ông lái đò ông lái đò trên dòng Đà giang.
Nguyễn Tuân nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những thành
tựu to lớn trong cả hai thời kỳ trước sau năm 1945. Trước 1945, ông tập “Vang
bóng một thời” gồm mười một truyện rất đặc sắc, có giá trị vô cùng to lớn. Hoà chung
với không khí thời đại trong cuộc kháng chiến chống Pháp Mỹ của dân tộc, phong
cách Nguyễn Tuân vẫn luôn giữ được nét sáng tạo, riêng biệt. Ông là nhà văn suốt đời
đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới bình diện văn hoá thẩm mỹ. Nguyễn Tuân
miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương
của ông cũng trthành những công trình nghệ thuật kỳ vĩ, độc đáo. Người lái đò sông
Đà đoạn trích được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được ông viết năm 1960, trong
một chuyến đi gian nan nhưng đầy hứng khởi về miền Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi
thoả mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông đã không quên
tìm kiếm “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy hiểm nhưng
cũng mang vẻ đẹp hùng thơ mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp của con người nơi
đây được ông như chất vàng mười đã qua thử lửa” họ người dân lao động trí
tuệ, có lòng dũng cảm và sức mạnh chế ngự thiên nhiên.
Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm hình tượng con sông Đà hình
tượng người lái đò trên dòng sông quanh m dữ tợn thách thức với con người. Với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
ngòi bút tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà giang mang hai sắc thái, hai
bình diện tương phản vừa hùng vĩ, hung bạo nhưng cũng cũng không kém phần trữ
tình, thơ mộng.
Nguyễn Tuân dẫn dụ người đọc cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột cùng vừa như đam
mê, thích thú. Bằng sức tưởng tượng phong pcủa mình, lối hành văn nhạy bén độc
đáo của mình con sông Đà hung bạo hiện lên trong lòng người đọc với niềm đam
hãi hùng thích thú vô cùng. Cái hung bạo được nhà văn miêu tả mđầu bằng cảnh
“đá bờ sông dựng vách thành”, nghệ thuật n dụ những khối đá bờ sông được Nguyễn
Tuân ví như những thành trì kiên cố, vững chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe dọa
trực chờ. Nhà văn miêu tả, mặt sông lúc ấy “đúng ngọ” mới mặt trời, vách đá
“chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, quãng tưởng như con ơu, con nai nhảy từ
bờ này qua bờ kia. c liên tưởng tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại
chứa đựng đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỗ sông phải đến tận giữa trưa, khi mặt
trời lên cao nhất mới có ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chẹt” rất biểu cảm xen lẫn
với nghệ thuật so nh “như một cái yết hầu”, hai bên bcon hươu con nai có thể
nhảy qua được. Những hình nh độc đáo được tác giả khéo léo lồng vào, đã tạo cho
người đọc được độ cao của vách đá, độ hẹp của lòng sông. Ngồi trong khoang thuyền
đi qua khúc sông ấy mùa cũng thấy lạnh”, tác giả miêu tả thông qua cảm giác,
mùa hè nóng nực oi bức nhưng khi qua đây, chính cái khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ,
chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên.
Cảnh hung bạo của ng Đà còn được thể hiện mặt ghềnh Hát Loóng. Hàng ngàn
cây số “nước đá, đá sóng, sóng gió”. Một loạt thanh sắc xuất hiện tạo cho ta
cảm giác sóng gió ngày càng mạnh mẽ cao dần. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc
nối tiếp nhau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần. Sức mạnh của thiên nhiên rất
khủng khiếp, rất lạnh lùng, “gùn ghè”, hầm như một con thú hoang hung dữ,
lợm, sẵn sàng thách thức với con người nơi đây.
Những cái “hút nước” khổng lồ trên quãng sông Mường Vát. Xoáy nước như
những cái giếng -tông” được thả xuống làm móng cầu, nước đây “thở kêu như
một cái cống bị sặc”. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm
đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị
dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.
Hình tượng hung bạo, dữ dội của con sông được tác giả khắc họa nét nhất chính
ở khúc thác sông Đà. Tác giả miêu tả con sông bằng những hình ảnh hết sức biểu cảm,
bằng những âm thanh dữ dội nhiều sắc thái, còn xa lắm mới tới thác đã nghe thấy
tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”, tiếng ớc nghe như “oán trách”, như “van
xin”, n“khiêu khích”, nó rống lên từng hồi ghê rợn như tiếng của “một ngàn con
trâu mộng” gầm thét, vật lộn trong lúc rừng cháy, ngọn lửa đỏ rực bốc lên ngùn ngụt.
Những hòn đá sông Đà nhiều kể, tất cả chúng hợp lại thành cả một “chân trời đá”
rộng lớn. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ khác nhau, nhưng hòn hòn nấy mặt trông
cũng rất “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, đây tác giả dùng nhiều tính từ chỉ
con người để miêu tả qua đó người đọc cảm nhận được sự dữ tợn, sbất cần, bướng
bỉnh của hòn đá, chúng như những vật thể sống đứa con của mẹ thiên nhiên tạo
ra. Sông Đà dường n đã giao nhiệm vụ cho từng hòn đá để y ra “thạch trận”
tuyên chiến, thách thức với con người. Vòng thứ nhất “thạch trận” có năm cửa trận, có
“bốn cửa tử”, một cửa sinh” nằm lập lờ i tả ngạn con sông. Vòng thứ hai, thác
sông Đà đã bộc lộ vẻ gian manh cái sự háo thắng của nó, lần này bày ra nhiều cửa
tử hơn để đánh lạc hướng con thuyền đi vào chỗ chết, một cửa sinh được bố trí lệch về
phía hữu ngạn. Vòng thứ ba, vòng quyết định thắng thua cuối cùng, thác sông Đà y
ít cửa hơn nhưng trái phải đều luồng chết”, cửa sông duy nhất lại nằm ngay giữa
bọn đá hậu vệ đang canh gác. Qua phong cách miêu tả độc đáo, sinh động, giàu tưởng
tượng của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên thật hung bạo, dữ tợn, như một “loài
thuỷ quái khổng lồ” tâm địa vừa độc ác, vừa nguy hiểm, kẻ thù số một của con
người trong cuộc chiến không cân sức.
Tuy nhiên cũng lúc con sông Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng của nó.
Vẻ đẹp Đà giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh, không gian
thời gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn lượn, mềm mại như
áng tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp. Dòng sông Đà được nhà văn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bằng những hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn ợng sâu sắc, “tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo
tháng hai cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Màu nước sông Đà biến đổi
theo từng mùa khác nhau, mỗi mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xuân
dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sông như người thiếu nữ
xinh đẹp, mơ mộng đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đôi phần
khó hiểu, thay đổi thất thường.
Sông Đà dịu dàng “như một cố nhân”, cảnh sắc bên bờ thật êm đềm tươi đẹp. Sau
chuyến đi dài ngày, ông nhìn ngắm sông Đà thật gợi cảm, thơ mộng như “màu nắng
tháng ba Đường thi”, bờ sông đầy những chuồn chuồn bươm bướm. Người cố nhân ấy
giờ đây yên ả lạ thường như đang lặng nghe âm thanh của thời gian, thưởng thức cảnh
sắc hai bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang sơ như nhuộm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề
nhựa sống của phù sa bồi đắp. Những nương ngô “nhú lên mấy nnon đầu mùa”,
ngọn cỏ “đang ra những nõn búp”, xa xa vài con hươu nhai cỏ. Sông Đà lúc này
như bờ tiền sử mang bên mình những nỗi niềm cổ tích xa xưa, hoài niệm.
Dòng sông Đà được c giả khắc họa rất nét bằng nhiều vận dụng nghệ thuật độc
đáo: So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, động từ mạnh…, cùng khả năng liên tưởng, sáng tạo
mới mẻ, ông đã viết lên những câu văn thật giàu nhịp điệu, sống động. Dưới ngòi bút
tài hoa của người nghsĩ, Đà giang không còn một con sông tri một
sinh thể có suy nghĩ, có tâm hồn.
Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có thể thiếu đi bóng dáng con người. Thiên
nhiên càng rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì càng làm nổi bật lên vẻ đẹp trí tuệ
tài hoa của con người lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo ra hình ợng “ông
lái đò” đây hình ảnh biểu trưng cho người lao động cần chăm chỉ nhưng cũng
không kém phần mạnh mẽ, can đảm khi sẵn sàng đối đầu với thiên nhiên hung tợn
trong một cuộc chiến không cân sức. Con sông Đà bỗng chốc trở thành kẻ thù số một,
người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Tuy nhiên họ vẫn bộc lộ được sự mưu trí, tài
hoa nghệ sĩ của mình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phẩm chất anh dũng, tài hoa, trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh vượt thác
sông đà. Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyệt bày ra một “thạch trận” với ba ng
thách đấu như muốn tiêu diệt những con thuyền đi qua. Những người anh hùng vẫn
không chút sợ hãi, vẫn rất điềm tĩnh bằng trí tuệ của mình ông lái đò đã lần lượt chinh
phục từng cửa ải. Vòng thứ nhất, với m cửa trận, bốn cửa từ, chmột cửa sinh
duy nhất nằm lập lbên bờ tả ngạn. Thuyền vừa tới, “phối hợp với đá, nước reo
làm thanh viện cho đá” những hòn đá ngỗ nghịch, bệ vệ. hòn đá nhìn nghiêng thì
như “hất hàm” đòi cái thuyền phải “xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, hòn thì
như thách thức ông đò “có giỏi thì tiến vào đây”. Ông đò không chút nao núng tay vẫn
“giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặt ớc reo vang dội, ùa vào như bẻ gãy
cán thuyền, sóng nước như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng
hông thuyền”. Nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa người lái đò ra. Sóng ớc
đánh đến món đòn “hiểm độc nhất”, luồng nước ấy bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Ông đò
đã bị thương mặt méo bệch đi” nhưng không hề đầu hàng trước kẻ thù, ông “cố nén
vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái”, tiếng chỉ huy của ông vẫn vang lên ngắn
gọn, tỉnh táo. Vậy là phá xong cái “trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Không cần nghỉ tay, nghỉ mắt một phút giây nào phải phá luôn vòng vây thứ hai, lần
này ông đò đã đổi chiến thuật. Ông đò đã nắm chắc “binh pháp của thần sông Đà”,
“thuộc quy luật phục kích của đá nơi ải nước hiểm trở này”. Con sông Đà đã lộ
sự gian trá, độc ác của mình khi lần này nó bày ra nhiều cửa tử hơn, cửa sinh nằm lệch
sang một phía hữu ngạn con sông. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh cưỡi lên con
sông Đà phải “cưỡi đến cùng như ỡi hổ”. Nắm được cái bờm sóng đúng luồng
rồi, không phút nao núng, ông đò “ghì chặt cương lái”, bám chặt lấy luồng ớc cố
sức phóng nhanh vào phía cửa sinh, “lái miết một đường chéo về phía cửa ấy”, bỏ lại
sau lưng những cửa tử và những hòn đá vẫn “không ngừng khiêu khích”.
Trùng vây thạch trận cuối rồi, lần này ít cửa ải hơn, “bên phải bên trái đều luồng
chết”, luồng sinh nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Con ng Đà dường như
chưa từ bỏ tham vọng của nó, sự hiếu thắng, muốn nuốt trọn con thuyền trong lần
giao chiến quyết định cuối cùng này. Nhưng người lái đò bao lần vượt thác ghềnh,
ông đã tích lũy biết bao kinh nghiệm, ông cho thuyền phóng thẳng “cứ thế chọc thủng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cửa giữa đó”, thuyền như một mũi tên tre nhọn hoắt, cứ thế lao nhanh “vừa xuyên vừa
tự động lái được lượn được”. Cuối cùng bằng sự gan dạ, tài trí, kinh nghiệm của mình
ông đò đã vượt hết dòng thác một cách an toàn, giành chiến thắng trong cuộc chiến
không khoan nhượng với kẻ thù hung bạo.
Nguyễn Tuân xây dựng hình ợng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiều nghệ
thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ của nhiều lĩnh vực: Binh pháp, thuật, thể
thao, âm nhạc…, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng với nhịp điệu câu văn hài
hoà sinh động. Ông đã khắc hoạ thành công hình ảnh người lái đò sông Đà trí tuệ, tài
hoa bản lĩnh, qua đó ca ngợi con người lao động Tây Bắc mang vẻ đẹp những
phẩm chất cao quý.
Đoạn trích người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân một bài tuỳ bút giá trị
cùng to lớn, tác giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình ợng, khẳng định
và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên cùng với con người miền Tây bắc xa xôi. Đồng thời
thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, sự gắn tha thiết, sâu nặng của Nguyễn Tuân
đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 12
“Người lái đò ng Đà” thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn
Tuân. Đây thành qunghệ thuật đẹp đẽ Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong
chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã hội
sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ trong
ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng ời đã qua thử lửa” của những người lao động
bình dị trên miền ng nước hùng thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên y
bút bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa
hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đò
vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sĩ tài ba trong nghề của mình.
Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các nhân
vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa nghệ sỹ.
Hình ảnh ông i đò cũng không phải một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, ta sẽ ấn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tượng ngay đầu tiên với ngoại hình của ông: “Tay ông lêu nghêu ncái sào, chân
ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng.
Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc
nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”. Sức vóc ông khỏe mạnh
chẳng khác thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi: “Gần bảy mươi tuổi, cái đầu
quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất
mùn… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ trắng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai
không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ
sông” Những dòng y được nhà văn viết ra không chỉ đgiới thiệu ngoại hình của
một con người n để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề chính con người đó. Chỉ
yêu quý nghề, gắn sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong duổi
chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp
như vậy. Đây chính phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu
văn của mình nhiều điều muốn nói, “Hàm lượng thông tin” đó không bao giờ chỉ
một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn
ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.
Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn
chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông một
linh hồn muôn thuở của sông nước y. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một
trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én
sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nh
ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt nhớ tỉ mỉ 73 con thác, như đóng đanh
vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với
ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca ông thuộc lòng đến cả những cái
dấu chấm than chấm câu cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện,
người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền đã nghỉ làm nghề
đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề suy chuyển.
Ông vẫn rất tự tin rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống
ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò khắp mấy châu địa giới loang ra bờ sông Đà,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm
dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.
Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa nét nhất qua trận
thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong tương
quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì chưa đủ, đối
với con sông Đà, ai chế ngự được đòi hỏi phải lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí,
nhanh nhẹn cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đem nhân vật của mình vào
ngay hoàn cảnh khốc liệt đó, tất cả những phẩm chất y được bộc lộ, nếu không
phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính dụng ý của tác giả khi viết
về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên ờng chỉ được bộc lộ
nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Giả sử đặt ông lái đò trong khung
cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở
thành một nghệ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách
mạng. Còn đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ trong thiên sử thi leo
ghềnh vượt thác. Đó chính cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều
hồi, nhiều đợt như một trận đánh đối phương đã hiện ra ngay diện mạo tâm địa
độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu, đá tượng, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn
nham hiểm tạo thành một lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm.
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi.
Trùng vi một 4 cửa tử 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước la
vang dậy vào bẻ gãy cán chèo khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ
chắc mái chèo khỏi bị hất lên. thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến
như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò
lật ngửa mình giữa trận ớc. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao
đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt
lấy cuống lái, mặt móc bệch. Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn tỉnh táo, đầy mưu trí
như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi
thạch trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều
cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật
nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên ra định nhử thuyền vào tập
đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá,
không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng,
ghì ơng lái bám chắc lấy luồng ớc đúng phóng nhanh vào cửa sinh lái miết
một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều luồng chết cả, luồng sông nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một
ông lái đò u tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt
sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, nmột vị tướng lão luyện dày
dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền
vụt qua cổng đá, nh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi ớc, vừa xuyên, vừa tự
động lái được. Thế là kết thúc.
Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái
đò. Một loại những nh động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một
đường, chọc thủng, xuyên nhanh, Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng
thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá một sống, một chết.
Hơn nữa thư pháp nghthuật tương phản được sử dụng triệt để rất độc đáo trong
tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với
một bên con người nhỏ nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm khả năng chinh phục
thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ một mái chèo “Như cái que giữa bạt
ngàn sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.
Với ngòi bút tài hoa sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, thuật,
quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường
ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một nghệ sỹ i đò
trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa dũng sĩ, vừa nghệ tay lái ra
hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công cuộc xây dựng hội
chủ nghĩa. Không chỉ Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình
nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ tầng lớp thanh niên
“Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ xa xôi biết mấy ng lên đường”, cùng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
với họ, ông lái đò sông Đà đã p phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của
người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.
Quả thật, vẻ đẹp "chất vàng mười đã qua thử lửa" trong tâm hồn của con người Tây
Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên ng Đà giang khuất nẻo. Nếu
như thiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân Kẻ thù số một của con
người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn nơi đã tôn vinh giá trị
con người lao động. Quả thật sâu sắc khi nói “Thiên tùy bút bài ca về vẻ đẹp của
con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa hội”. Tác phẩm sẽ mãi
bản trường ca hào hùng đi cùng năm tháng.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 13
Nguyễn Tuân một nhà văn lớn, một cây bút vai trò to lớn trong nền văn học Việt
Nam hiện đại, một nghkhái niệm thẩm mỹ khác biệt suốt đời đi tìm cái đẹp.
Một trong những tác phẩm tùy bút xuất sắc của ông chính Người lái đò sông Đà
được in trong tập Sông Đà (1960) trong chuyến đi thực tế tới miền Tây Bắc rộng lớn
của Tổ quốc. Tác phẩm cho ta thấy một Nguyễn Tuân với diện mạo mới mẻ, khát
khao hòa nhập vào đất trời thiên nhiên, th hiện tình yêu đất nước cuộc đời.
Nguyễn Tuân muốn qua hình ảnh con sông Đà dữ dằn, hung bạo trữ tình, thơ
mộng, người lái đò bình dị, giản đơn trí dũng tài hoa để ca ngợi vẻ đẹp của thiên
con người Tây Bắc của Tổ quốc. Bài thơ cũng chất chứa trọn vẹn phong cách thơ
tài hoa, uyên bác rất độc đáo của Nguyễn Tuân.
Hai hình tượng chính đi xuyên suốt tác phẩm hình tượng sông Đà hình ợng
người lái đò. Một thiên nhiên một con người tưởng chừng nchẳng hợp ấy
vậy tạo nên vẻ đẹp đến bất ngờ. Trước nhất hình tượng sông Đà, không phải
là vật tri giác mà rất hồn, rất có tính, dòng sông này được Nguyễn Tuân
miêu tả như một nhân vật hai tính cách trái ngược vừa hung bạo dữ dằn vừa trữ
tình thơ mộng
biểu tượng về sức mạnh vẻ đẹp hùng của thiên nhiên Tây Bắc lại cái sự
hung bạo, dữ dằn kia. Đá cùng hiểm trở, đá dựng vách thành, chẹt lòng sông như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cái yết hầu làm cho mặt sông chỗ ấy vừa hẹp, vừa tối lại vừa rất lạnh chỉ đúng ngọ
mới mặt trời. Cả một trời đá, mặt hòn nào trông cũng ngngược, nhăn nhúm, méo
đá mai phục dưới lòng sông hàng ngàn m được nhân hóa, nổi hình nổi tướng bệ
vệ, oai phong lẫm liệt, nhổm dậy, vồ lấy thuyền,… khung cảnh choáng ngợp, kvĩ,
chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ hãi, lạnh lẽo nhỏ bé giữa giữa thiên nhiênlà
mùa hè oi bức, nóng nảy.
Sóng, nước cuồng nộ. Quãng mặt ghềnh Hát Loóng, nước đá, đá sóng, sóng
gió… kéo dài hàng y số cuồn cuộn… như thể đòi nợ xuýt người lái đò nào đi qua
quãng ấy. Điệp cấu trúc nối tiếp nhau kết hợp động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều
lần như nhấn mạnh sức mạnh của thiên nhiên rất khủng khiếp đầy lạnh lẽo. Những
hút nước ghê rợn giống như cái giếng tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu… Nước đây thkêu như cửa cống cái bị sặc sẵn sàng nhấn chìm đập tan
chiếc thuyền nào lọt o. Nghệ thuật nhân hóa so sánh khiến hình ảnh trở nên sinh
động tính hấp dẫn hơn diễn tả những chiếc thuyền bị hút xuống, hút thành trồng
ngược cây chuối, bị y hành xác vụt biến đi, đến mươi phút sau mới thấy cái
xác tan tành ở khuỷnh sông dưới.
Thác như đang giận dữ gầm rống dữ tợn. Tác giả miêu tả con sông với từ ngữ
tính gợi cảm, âm thanh tiếng thác từ xa nghe như van xin, oán trách, rồi như khiêu
khích, giọng gằn chế nhạo. Âm thanh đến gần được như những con trâu rống
lên lồng lộn… ghê rợn khủng khiếp. Sông Đà đặc biệt hung bạo khi những yếu tố
trên kết hợp với nhau tạo ra những thạch trận, phòng tuyến với nhiều cửa tử, nhiều
chiến thuật đánh khác nhau, nhiều đón đánh thâm hiểm, như một loài thủy quái
khổng lồ, nham hiểm mang diện mạo tâm địa như một thứ kẻ tsố một của con
người.
Sông Đà chỉ thực sự trtình thơ mộng khi chảy qua chợ Bờ để lại những hòn thác
xa xôi trên thượng nguồn. Tuôn dài như một áng tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc…, tưởng chừng dòng chảy của sông Đà như mái tóc của người thiếu nữ, thiếu
nữ Tây Bắc dưới bầu trời Tây Bắc. Màu nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa lại
một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân thì ớc màu xanh ngọc bích, mỗi độ thu về lại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
chín đỏ như da mặt một người bầm đi ợu bữa… Sông Đà vẻ đẹp rất gợi cảm,
thân thiết nngười tình, khi gặp lại dòng sông như gặp lại cố nhân cảm thấy
mừng vui, xa thì lại nhớ nhung dòng sông gợi vẻ đẹp của một ánh thơ Đường bởi
màu nắng tháng ba… yên hoa tam quyệt. Cảnh vật hai bờ sông vừa hoang nhuốm
màu cổ tích trong những câu chuyện hoàng tử công chúa của những đứa trẻ thơ lại vừa
trù phú, tràn trề nhựa sống, tự do, tự tại của một chế độ mới. Qua hình tượng sông Đà,
Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông thiên
nhiên cũng là tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà,
Nguyễn Tuân đã chứng tỏ cách nhìn khác biệt của bản thân: hài hoa, uyên bác lịch
lãm. Sông Đà một phông nền nổi bật đầy, đẹp đẽ nhưng không hề làm lu mờ đi
còn làm bật lên vẻ đẹp người lao động trong chế độ mới.
Nguyễn Tuân đã ng tạo ra đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, tưởng tượng ra
cuộc chiến đấu ác liệt của ông lái đò với bầy thủy quái sông Đà, để từ đó làm nổi bật
hình ảnh người lái đò, một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Ông như
một vị tướng chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí: biết bọn đá mai phục bày thạch
trận… Ông nắm chắc binh pháp của thần ng thần đá, thuộc quy luật phục kích của
chúng nên linh hoạt thay đổi chiến thuật để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến kẻ thù.
Người lái đò người từng trải, giàu kinh nghiệm hiểu biết sâu sắc về luồn lách sông
Đà cũng dũng cảm đối đầu trong cuộc chiến không cân sức với sông Đà. Sông Đà
thiên nhiên lớn lao, dữ dội hiểm độc với sức mạnh được nâng lên hàng thần
thánh sóng nước reo quyết vật ngửa mình thuyền, đá ngàn năm mai phục,
bày thạch trận trên sông, thác gầm rống, reo làm thanh viện cho đó, sóng nước như
thể quân liều mạng đánh những đòn hiểm độc… Ông đò chỉ một con người nhỏ,
không phép màu, khí chỉ chiếc cán chèo thô trên một cái thuyền đơn độc
hết chỗ lùi, nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục mọi cửa tử, cửa sinh,
vượt qua trận thủy chiến đầy ác liệt với đá nổi đá chìm với những trùng vi thạch trận
những phòng tuyến đầy nguy hiểm để chiến thắng thiên nhiên. Hình tượng người
lái đò lúc này là một người lao động trí dũng.
Người nghệ tài hoa là hình tượng của người lái đò được hiện lên tiếp theo. Để vượt
thác, tâm tình phải thực sự bình tĩnh, chỉ một chút thiếu chính hay lơ là thì phải trả giá
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bằng chính tính mạng của mình. Ấy vậy mà, ông lái đò đã đối đầu với ghềnh thác
cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung của người nghệ sĩ; đã bình tĩnh vượt thác một cách
tài tình, khôn ngoan. Với “tay lái hoa” ông đã điều khiển con thuyền vượt qua ba
trùng vi thạch trận sông Đà. ng Đà trùng vi thạch trận thứ nhất năm cửa trận,
trong đó tận bốn cửa tử nhưng chmột cửa sinh nằm lập lờ chẳng phía tả
ngạn. Bọn đá đứa thì hất hàm, đứa thì thách thức, khiêu chiến, nước thác reo m
thanh viện cho đá, mặt nước la ùa vào bẻ gãy cán chè, sóng nước đá trái, thúc gối
vào bụng vào hông thuyền, đánh những đòn hiểm độc vào ông lái đò. Ông lái đò đã bị
thương những vẫn cố nén chịu nỗi đau thể xác, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt
méo bệch nhưng tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn, tỉnh táo đưa thuyền ợt qua khỏi nguy
hiểm. trùng vi thạch trận thứ hai, cửa tử lại tăng thêm nhưng cửa sinh vẫn chỉ có
một nằm phía hữu ngạn. Dòng thác thồng hộc tế lên như hùm beo họng nuốt
xuống con thuyền. Ông lão chủ động đổi chiến thuật: nắm lấy bờm sóng… cưỡi lên
thác sông Đà như cưỡi hổ. Bọn đá ra, định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử,
nhưng ông nhớ mặt bọn này, chỗ thì ông bơi, chỗ đè rồi sấn tới, chỗ chặt đôi ra để mở
đường tiến. Bọn đá chỉ còn biết thất vọng, tiu nghiu cái mặt xanh nhìn ông lão đưa
con thuyền lọt o cửa sinh an toàn. trùng vi thạch trận thứ ba, sông Đà bên phải,
bên trái đều luồng chết, luồng sống duy nhất nằm giữa lòng sông do bọn đá hậu vệ
trấn giữ. Ông lái kiên cường không mảy may lơ là, quyết đoán giữ vững tinh thần, n
hòa với con thuyền làm một, phóng thẳng đến cửa sinh an toàn, vượt qua mọi vòng
vây . Thế hết. Thánh thần thiên nhiên cuối cùng ng không ngăn được sự tiến lên
của con người, sự hung bạo của dòng sông cũng không ngăn được chiếc thuyền độc
mộc ông o. Sự ngoan cường, sự quyết tâm cùng sự dũng cảm chính yếu t
quyết định cho sự chiến thắng đặc biệt kinh nghiệm vùng sông nước của ông lái
đò.
Sau khi đọ trí, thi tài với con sông, vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy khó khăn, nguy
hiểm, ông lại ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam say a nói về
các loài không hề bàn thêm một lời nào về chuyện vượt thác. Dường như
chuyện vượt qua thác nước chẳng động lại trong ông một cái gọi sợ hãi hay lo
lắng, ổng vẫn cứ mặc đời kệ người lạc quan, thư thái thật giản dị, lãng mạn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân m thấy một hình ảnh của một con người mới, con người đáng được ca
ngợi, trân trọng không phải anh hùng đánh giặc trận chỉ một con người
lao động bình thường con người Tây Bắc.
Chỉ một người lái đò một thác nước, Nguyễn Tuân lại viết n như thể là một
thước phim hành động điện ảnh cận cảnh. Hồi hộp có, kịch tính có, kích thích có, vỡ
có, âm thanh đặc sắc, hành động đẹp mắt. Để viết được như vậy phải trí tưởng
tượng thật phong phú, một cách nhìn khác biệt, cảm nhận đa chiều… cũng đủ thấy
Nguyễn Tuân vốn tri thức rộng lớn thế nào, suy nghĩ độc đáo thế nào một ngh
tài hoa như thế nào. Qua đây, nhà văn còn muốn phát biểu quan niệm, người anh
hùng không chỉ trong chiến đấu con trong cuộc sống lao động thường ngày,
ví dụ như người lái đò kia.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 14
Nguyễn Tuân một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam
thế kỉ 20. Ông cây bút tài hoa uyên bác, phong cách nghệ thuật độc đáo, tình
cảm thiết tha với cuộc đời truyền thống dân tộc. Nguyễn Tuân suốt đời đi tìm cái
đẹp đem ngòi bút phục vụ cho cái đẹp đích thực trong cuộc đời này. Tùy bút
Sông Đà thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật ấy của Nguyễn Tuân.
Hình ợng con sông Đà với những nét đối lập gay gắt: Tác giả nhân hoá con sông
Đà: như một sinh thể hồn, hoạt động, tâm trạng và hai nét tính cách đối
lập. Hình ảnh một con sông Đà hung bạo: Cái đáng sợ nhất của sông đà những
ghềnh thác. Sông nào thượng nguồn cũng ghềnh thác nhưng thác nước của sông
Đà quê thật quái đáng sợ bậc nhất. Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ miêu tả từng cái thác
một như thể điểm mặt chỉ tên chúng.
Trước hết cái ghềnh Hát Loóng, dài ng cây số nước đá, đá sóng, sóng
gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt tay lái thì
cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra. Lại như quãng ờng Vát phía dưới Sơn La.
bình thường như những cái thác khác.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đâu chỉ dòng nước. trong còn những cái hút nước giống như cái giếng
tông thả xuống sông để chuẩn bị m móng cầu. Nước đây thở kêu như cửa cống
cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn
thật đáng sợ. Những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
Nó nguy hiểm đến mức không có thuyền bè nào dám lại gần cái hút nước ấy. Nhiều bè
gỗ rừng đi nghênh ngang ý những cái giếng hút ấy lôi tuột xuống. những
thuyền đã bị cái hút hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi,
bị dìm đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác khuỷnh sông
dưới.
Tiếng nước réo gầm âm thanh ấn tượng nhất của núi rừng hoang vu Tây Bắc. Còn
xa lắm mới đến cái thác dưới nhưng người lái đò đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại
réo to mãi lên. Tiếng nước được hình tượng hóa nghe như oán trách gì, rồi lại như
là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
Thế rồi rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu
rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da
cháy bùng bùng. Bọt nước tung trắng xóa cả quảng sông dưới. Rồi đá bày binh bố trận
dàn hàng đàn ra chỉ chực vỡ nát hoặc nuốt chửng những con thuyền qua lại nơi đây.
Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành
chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên
kia vách. quãng con nai con hổ đã lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng
một cái ngõ ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy
nào vừa tắt phụt đèn điện.
Cách miêu tả chân thực, chút phóng đại với lối liên tưởng tài tình gây ấn tượng
mạnh mẽ về độ cao hun hút. Với thác nước thành vách đá, một con sông đầy đá
nổi, đá chìm và thác dữ khiến sông Đà lộ rõ tâm địa một kẻ thù số một. Với nghệ thuật
miêu tả tài hoa, ngôn ngữ tạo hình đặc sắc, cấu trúc trùng điệp, giọng văn mạnh mẽ,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học như địa lí, điện ảnh để làm nên hàng loạt
so sánh, liên tưởng lạ, bất ngờ, Nguyễn Tuân đã tái tạo lại hình tượng con sông Đà
hung bạo, dữ dội và đầy hiểm trở trên nhiều dáng vẻ.
Bên trong sự hung bạo đó, con sông Đà cũng nổi bật n như một biểu tượng về sức
mạnh dữ dội vẻ đẹp hùng của thiên nhiên Tây Bắc đất nước. Nguyễn Tuân
một bậc tài trong việc sử dụng ngôn từ, ông đã tận dụng mọi cơ hội có thể phát huy
đến tận cùng thế mạnh của mình, để buộc sự hung tợn của sông đà phải sống
dạy, phải hiện hình và phải gào thét lên trên những hàng chữ viết.
Nguyễn Tuân đã làm cho những trang văn của mình lung linh lên nhờ những vẻ đẹp
ông mượn các ngành, các bộ n trong ngoài nghệ thuật để làm nên hàng
loạt so sánh, liên tưởng, tưởng tượng rất lạ, không thể nào đoán trước: Người đọc
phải ngạc nhiên khi nghe “tiếng nước đây thở kêu như cửa cống trái bị sặc”, lại
“ặc ặc lên như vừa mới rót dầu sôi vào”.
Sự tưởng tượng xuất thần của nhà văn về lia ngược chiếc máy quay “thành giếng
xây toàn bằng nước sông xanh với một áng thuỷ tinh khối đúc dày…sắp vỡ tan ụp vào
cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Kinh ngạc thán phục hơn nữa khi
ông dám can đảm dùng lửa để tả nước, lấy hình ảnh “ô sang số ấn ga” trên “quãng
đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” để von với cách chèo thuyền. Để có được những
hình ảnh hấp dẫn như vậy, chứng tỏ nhà văn đã không quản ngại công phu quan
sát,tìm hiểu kĩ càng để nhận ra thật đúng sự hung bạo đó.
Hình ảnh một con sông Đà trữ tình, thơ mộng: Thế nhưng, bên cạnh một con sông Đà
hung bạo, dữ dằn ấy, còn một con sông Đà hết sức đẹp đẽ, thơ mộng. Đó một
phát hiện lớn của Nguyễn Tuân về con sông của đất nước. Ông biết nhìn nó ở mọi góc
độ, mọi khía cạnh, mọi thời điểm để tìm kiếm vẻ đẹp ẩn chứa trong rất khó nhận
thấy hoặc không hội nhận thấy. Như ông viết trong tác phẩm: “Tôi bay tạt
ngang qua Sông Đà mấy lần, thấy đó cũng thêm cho mình một góc độ nhìn một
cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của sông Đà phải một độ cao đặc biệt, một điểm nhìn
đặc biệt mới thấy rõ hết. Phải trên cao nhìn xuống. Phải vượt lên trên cái hung
dữ của để thấy cũng hiền hòa, cũng duyên dáng để yêu mến say mê nó.
Phải từ trên cao mới thấy: “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va
cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Đó là vẻ đẹp nét đẹp duyên dáng, mềm mại
thơ mộng đất trời đã phú cho dòng sông ấy. phải bằng ánh mắt nhìn của
người hết lòng yêu mới nó mới thấy nó đẹp kì diệu đến thế.
Phải nhìn nhiều lần, nhiều thời điểm nhìn lắm, Nguyễn Tuân mới phát hiện:
“mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến
của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ một người bất mãn bực bội mỗi độ
thu về”. Cách so sánh về màu sắc, làm cho dòng sông hiện rõ vẻ đẹp riêng của mỗi
mùa.
Có lẽ, Nguyễn Tuân phải đi lại và ngắm nhìn rất nhiều lần mới kết luận: “con Sông Đà
gợi cảm” như một nhận định không thsai được. Ông còn nói: “đối với mỗi người,
Sông Đà lại gợi một ch“. Ông không hề biện minh cho cách nhìn của mình. Ông cứ
nhìn thẳng, nói thật những gì ông đã thấy, đã cảm nhận được.
Sông Đà ới mắt nhìn của Nguyễn Tuân lóng lánh ánh bạc phản chiếu. Cái gương
sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi. Rồi gặp lại sông Đà thấy đằm đằm ấm
ấm như gặp lại cố nhân, lưu luyến mãi không thôi. Đó toàn bộ ng Đà khi nhìn từ
trên cao. Còn khi đi trên thuyền, sông Đà hiện ra gần gũi thân mật. Lúc thuyền đến
quảng êm mới thấy “cảnh ven sông ở đây lặng tờ” chứ không ồn ào nữa.
Rồi “một ơng ngô nhú lên mấy ngô non đầu mùa” hiện ra trước mắt. Tiếp đến
“cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm” thật yên bình như chốn này chưa từng dấu chân người đến. Cuối
cùng, Tác giả khẳng định chắc chắn: “bờ ng hoang dại như một btiền sử. Bờ sông
hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Biện pháp so sánh có sức khêu gợi sâu xa khắc hoạ vẻ đẹp hoang sơ và dấu ấn văn hoá
ngàn xưa của cha ông. Dường như một dòng chảy bất tận từ ngàn năm cổ tích
xuyên suốt về tới tận ngày nay. Lời văn Nguyễn Tuân cổ kính, đĩnh đạc nghiêm trang
và hiện đại là thế.
Với những so sánh độc đáo gợi tả, gợi cảm, ấn tượng, giọng văn nhẹ nhàng, câu văn
trải dài,mềm mại, âm điệu êm đềm, hình ảnh con sông hiện lên thật trữ tình thơ
mộng. Thành công đó chính là kết quả của những công phu tìm tòi khó nhọc, công sức
lao động nghiêm túc, cần cù, kiên nhẫn của nhà văn.
Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp, vĩ, hào hùng, trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, ca ngợi
cái chất vàng mười của thiên nhiên. Qua đó bộc lộ tình yêu tha thiết, say đắm của nhà
văn đối với quê hương đất nước nói chung và thiên nhiên Tây Bắc nói riêng. Từng câu
văn vừa đường nét, hình khối màu sắc, vừa sự so sánh cảm nhận, lại như
hát lên trong giọng điệu.
Lúc đầu âm vực cao, trường độ nhanh, càng về cuối như hạ thấp dần chậm lại,
kéo dài ra, lan tỏa trong không gian bất tận. Không phải y bút văn xuôi nào cũng
làm được như Nguyễn Tuân, tạo dựng nên cả một không gian trữ tình đủ sức khiến
người đọc say đắm, ngây ngất, để thêm yêu cuộc đời này đến thế. Nvăn đã một
sự chuyển đổi trong cách viết của mình khi miêu tả hai nét tính cách đối lập của con
sông này. Đó cũng mục đích của nvăn dựng lại hình ảnh con sông đà hùng vĩ,
thơ mộng trữ tình.
Không chỉ chú trọng tái hiện hình ảnh dòng sông Đà, Nguyễn Tuân còn miêu tả kỹ
lưỡng hình ảnh người lái đò già thường qua lại trên quãng sông ấy trong trận chiến
kịch liệt với dòng ng. Ông lái đò hiện lên với ngoại hình thật ấn tượng. Hai tay ông
dài lêu nghêu như cái sào. hai chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp một
cái đó hình. ràng, công việc ng ngày đã tạc khác vào hình dáng của ông
đến nỗi không thể rời bỏ hoặc thay đổi được. Hình ảnh ấy cũng hình ảnh đặc trưng
của những người xuôi ngược đò hàng như ông ở vùng đất dữ dội này.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Ông lái đò còn nhãn giới phi thường. Nhìn mặt nước ông biết ngay đang ẩn
giấu cái bên dưới. không thể nào lừa ông được. Tiếng nói của ông cũng ào ào
lũ. Đầu quắc thước như một người bước ra từ trong sử thi. Trên ngực ông một vết
sẹo lớn mà ông rất tự hào về nó. Cuộc sống trên sông nước in dấu lên từng chi tiết trên
thể ông. Những gian nan, cực nhọc hiểm nguy in hằn lên mồn một trong tâm trí
ông.
Hàng chục năm xuôi ngược trên sông Đà, ông đò vẫn “nhtỉ mỉ như đóng đanh vào
lòng tất cả những luồng ớc, của tất cả những con thác hiểm trở” nên ông rất tự tin.
Ông còn người tài nghệ leo ghềnh, vượt thác. Qua miêu tả của Nguyễn Tuân, ông
lái đò hiện ra giống như một hiệp sĩ của núi rừng. Cả thế tâm thế đều đứng trên
hoàn cảnh. Với lối miêu tả ấy, người đọc nhận ra ông lái đò đủ sức mạnh dũng
khí để khuất phục và thuần hóa con sông dữ tợn và bướng bỉnh kia.
Hình ảnh ông lái đò hiện lên trực tiếp qua lời giới thiệu của tác giả trong cuộc chiến
sinh tử với dòng sông Đà. Ông đã từng trải trăm lần chứ không phải là lần đầu thử sức
với dòng sông. Ông rèn luyện trí nhớ cao độ không cho phép mình sai lầm. Trường
thiên anh hùng ca ông thuộc cả dấu chấm. Ông cũng không thích xuôi đò những
đoạn nước êm. Những gì dữ dội và hiểm nguy luôn làm ông hứng thú.
Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên
nhiên chỉ “để dành sự sống từ tay nó về tay mình” Trong cuộc chiến ấy, ông nắm chắc
binh pháp của thần sông, thần đá. Ông thuộc quy luật phục kích của đá nơi i nước
hiểm trở này nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà. Dòng sông ấy
dù có ẩn giấu cái gì trong mình nó đi chăng nữa ông đều thấu rõ hết.
Bằng việc khắc tạc tỉ mỉ, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên bức chân dung ông lái đò
từng trải, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp, một con người trí nhớ cao độ. Cách so
sánh hấp dẫn thể hiện tài năng quan sát sự am hiểu đối tượng của ông lái đò cùng
sự tự tin, bình thản nhưng không hề tự kiêu.
Qua miêu tả của Nguyễn Tuân, ta có thể thấy, sự đối lập giữa ông lái đò và dòng sông
Đà là quá lớn. Ông lái đò với con người nhỏ bé, không có phép màu, không vũ khí.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Ông chỉ một cán chèo mỏng manh, đứng trên con đò đơn độc lao đi trên dòng
nước đầy cạm bẫy. Còn thiên nhiên Tây Bắc quá lớn lao. Dòng nước dữ dội hiểm
độc với sức mạnh được nâng hàng thần thánh. đủ mọi thứ khí, mưu chước
và binh pháp vô cùng lợi hại.
Nếu nhìn vào sự chênh lệch đó, quả thực, ông lái đò đang phải đối diện với một sức
mạnh thần thánh, không hội nào đchiến thắng. Đó cũng điều Nguyễn
Tuân muốn gợi ra trong tâm trí người đọc để sau đó ông bất ngờ phô bày sự lợi hại phi
thường của lái đò già dặn ấy trong cuộc vượt thác diễn ra ngay sau đó.
Bắt đầu cuộc vượt thác, tác giả đoạn miêu tả con thác. Đầu tiên tiếng thác gầm
réo với mọi âm điệu grợn. Điều đó không khỏi khiến cho những đầu óc tỉnh táo
quả cảm nhất cảm thấy run sợ: “còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy
tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như oán trách gì,
rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo. Thế rồi
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng”.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, thác nước sông Đà như một con quái thú cổ xưa
hung tợn và kì quái. Nó chỉ chực nuốt chửng tất cả những gì dám mon men lại gần nó.
đói khát cùng cực không thể làm cho thôi dữ dội. Càng đến gần càng
thấy kinh hãi. Dòng sông không chỉ làm ra vẻ đáng sợ thực sự chứa đựng
những nguy hiểm chết người.
Ngầm sâu dưới những cơn “sóng bọt đã trắng xóa” “cả một chân trời đá”. Không
chỉ đá ngầm, đá tảng chúng còn “mai phục hết trong lòng sông” . Mỗi lần có chiếc
nào nhô vào đường ngoặt sông một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy đâm thủng,
xé nát những con thuyền gỗ mỏng manh.
Hình ảnh những hòn đá tinh quái hiện lên trong rất ngỗ ngược khiêu khích. Nhìn
vào, hòn nào cũng nhăn nhúm méo n cả cái mặt ớc chỗ này. Chúng đứng
ngồi hay nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé. Bởi cái trật tự bề bộn tùy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tiện ấy, chúng làm cho mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập.
Mặt sông trắng xóa ng làm bật lên những hòn những tảng mới trong tưởng như
nó.
Thế nhưng không phải vậy. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với một trật tự nhất
định. Mới thấy rằng đây bày thạch trận trên sông. Đám tang đám hòn chia làm
ba hàng chắn ngang trên sông. Hàng tiền vệ, hai hòn canh một cửa đá. Hai đứa giữ
vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa. Rồi đến tuyến hai
nước sóng luồng giữa vật thuyền.
Thuyền vào đây rồi khó quay trở lại. Con nước cứ đẩy thuyền đi tới, quật,
lắc, mà thúc, tránh bên nào cũng gặp đá nhọn, đá sắc tuyến ba như một pháo đài nổi
sẵn sàng tiêu diệt con thuyền ngay chân thác. Bằng nhãn quan của, ông lái đò
phân tích thạch trận, nhìn rõ cửa sinh, cửa tử mà tiến tới. Mỗi lần vượt thác là một trận
chiến sinh tử thực sự. Sơ hở một cái nguy hiểm ập đến ngay lập tức. Con huyền tiến
vào. Trận chiến chính thức bắt đầu.
Vòng 1: Con thác dữ đón con thuyền hết sức long trọng bằng thạch trận đá nước.
Thạch trận dàn bài vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo
làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Chúng kiêu ngạo, chế
nhạo, thách thức người lái đò. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi
cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến.
Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền giỏi thì tiến gần vào. Thế
nhưng điều ấy không làm ông lái đò quan m. Chúng chỉ bọn lính nhằm y mất
tập trung thôi. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình. Mặt ớc la vang dậy quanh mình, ùa vào bẻ gãy cán
chèo võ khí trên cánh tay mình.
Con thuyền lắc vụt tới. Sóng nước như thể quân liều mạng cứ thức, giật, lắc hòng
vật ngửa con thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Không những thế, nước bám lấy
thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
thanh la não bạt. Chúng không những hung tợn còn hết sức thâm hiểm, không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
chừa bất kì mưu chước hay đòn đánh nào. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò.
Nhưng ông đò cố nén vết thương, tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo, hai chân vẫn
kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn
tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất.
Trận thứ nhất mở n thôi đã quyết liệt đến kinh hoàng. K tầm thường thật
không thể vượt qua được con thuyền sớm bị xé nát tại đây. Thế nhưng, với tài năng
bản lĩnh của ông lái đò, con thuyền lướt tới vô sự. Người lái đò hiện lên như một viên
tướng tả xung, hữu đột, bình tĩnh, gan góc và tự tin, chiến đấu và chiến thắng.
Vòng 2: Vừa hết vòng một đến ngay vòng hai. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt,
phải phá luôn vòng vây thứ hai đổi luôn chiến thuật. vòng vây này cả một
thạch trận tổ chức cùng biến ảo. Mỗi hòn đá một mối hiểm ghê gớm. Chúng
xoay chuyển chứ không hề nằm yên được che phủ, hỗ trợ bởi mặt nước nên càng
thêm lợi hại.
Thế nhưng, ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy
luật phục ch của đá nơi ải nước hiểm trở này. Nếu vòng đầu vừa rồi, mra
năm cửa trận, bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông thì
vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền o. Cửa sinh lại bố
trí lệch qua phía bhữu ngạn. Con thuyền không thể lùi lại bất cứ do gì. Ông lái
nhận định “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Không thắng nổi con thuyền vòng một, dòng sông tức giận cùng. Chúng hồng
học tế mạnh đuổi theo. Ông lái mặc kệ chúng. Nắm chặt lấy được i bờm sóng đúng
luồng rồi, ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng phóng nhanh vào
cửa sinh, lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Tuy cửa sinh lập lờ biến
ảo nhưng với kinh nghiệm bao năm vượt thác của mình, ong cảm nhận nó đang nằm
hướng ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên ra cảnh níu thuyền
lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này. Chúng quá quen thuộc ông
gặp chúng từng ngày.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đến đây, ông lái thể hiện tài năng và sức mạnh chinh phục của mình. Đứa nào ở xa thì
ông tránh rảo bơi chèo lên. Đứa nào sáp lại gần thì ông đè sấn lên chặt đôi ra
để mở đường tiến. Bọn đá không làm được ông trở mặt nhăn nhó, gườm ghe thách
thức.
Cuối cùng, những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng của
sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng
đứng chiến cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh thất vọng thua cái thuyền đã đánh
trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Con thuyền vượt qua vòng hai bình an. Chỉ là vượt qua
vùng đá cạn nhưng đó lại là vùng nguy hiểm nhất vì đá ẩn mình trong nước. Không
kinh nghiệm, không từng trải, từng nhiều lần bị đánh trúng, đánh trúng thì không thể
thuộc lòng dòng sông đến thế.
Với trí tưởng tượng vốn từ phong phú đặc biệt kiến thức về quân sự: cách bài
binh bố trận, Nguyễn Tuân tạo dựng được đoạn văn mang đầy không khí trận mạc,
sinh động.
Vòng 3: Còn một trùng vây thứ ba nữa. Vòng ba ít cửa hơn, bên phải bên trái đều
luồng chết cả. Nhưng ông lái biết các luồng sống chặng ba này lại ngay giữa bọn
đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thế nhưng,
không đơn giản đến thế. Chúng đâu để người lái đò để tiến vào nơi ấy. Chúng tạo ra
nhiều cửa hơn nữa, dụ dỗ con thuyền hết mức.
Không để bị chúng dụ dỗ, ông lái điều khiển con thuyền vút qua cổng đá cánh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên
tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Con thuyền
thoát ra ngoài. Ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Vòng ba này chỉ diễn ra có mấy giây đồng
hồ. Đến đây rồi hở thì cũng thất bại nthuyền. Thất bại cửa nào trong cuộc
vượt thác ấy đều dẫn đến hậu quả ghê gớm. Thế nhưng, nếu thất bại cửa ba lại
một điều nhục nhã đối với bất kì tay đò nào.
Một hệ thống từ ngữ tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh, câu văn ngắt ra
nhiều để diễn tả các động tác trong cùng một khoảng thời gian của người lái đò.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân như đã vắt hết sinh lực của mình để diễn đạt thành ng tính chất mạo
hiểm tinh thần dũng cảm, ý chí thuần thục, giỏi giang trong nghề leo ghềnh,vượt
thác của ông lái đò. Ông lái đò chính biểu tượng tài hoa của người nghệ như
Nguyễn Tuân đã quan niệm: bất cứ nghề nào, con người bộc lộ tài năng, khéo léo,
điêu luyện trong nghề nghiệp, người đó là nghệ sĩ.
Với nghệ thuật miêu tả giàu tính tạo hình, kết hợp nhiều yếu tố điện ảnh, lối kể chuyện
hồi hộp giàu kịch tính, cái nhìn của nđịa chính xác, nhà quân sự tài ba, nhà
văn đã làm nổi bật cuộc chiến đầy dữ dội nhưng cuối cùng con người đã chiến thắng
sức mạnh thần thánh của tự nhiên. Đó tích lao động của con người. quyết làm
nên chiến thắng của con người không hề bí ẩn.
Đó chính sự ngoan cường, chí quyết tâm nhất kinh nghiệm đò giang sông
nước đã giúp con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Bí quyết đó chính
là những yếu tố làm nên chất “vàng mười” của nhân dân Tây Bắc của những người
lao động nói chung. Qua đó nhà văn ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động
vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng.
Trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người
Tây Bắc mới thật xứng đáng “vàng mười” của đất nước ta. “Vàng mười” để gọi
tên vẻ đẹp giá trị qbáu của con người lao động. Con người được với khối
vàng mười quý báu lại chỉ những ông lái đò nghèo khổ, những người trên hình hài
còn in hằn những dấu vết khắc nghiệt của công việc chèo thuyền quá đỗi gian nan, cực
nhọc, hiểm nguy.
Tất cả những người lái đò trong tùy bút này, không trừ một ai, đều làm lụng âm thầm,
giản dị, tuyệt đối vô danh, vì tác giả nhất định không chịu nêu tên họ. Song những con
người danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên họ
trở nên lớn lao, kì vĩ.
Người lái đò Sông Đà một áng n đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm
thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa vĩ, o
hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, nhất là của con người lao động bình dị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
miền Tây Bắc. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng
sự tài hoa, uyên bác của người nghệ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái
tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động của con người.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 15
Nguyễn Tuân một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện
đại. Mỗi tác phẩm của ông một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với
tưởng, tình cảm gắn quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về
phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. "Người lái đò Sông Đà", đó là
một bài tùy bút, cũng một bài thơ bằng văn xuôi thể hiện nhất những nét tiêu
biểu về phong cách đó.
"Người lái đò sông Đà" trước hết một tác phẩm viết về một con người con sông.
Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông thì mọi cảnh vật thiên nhiên đều
trở thành những công trình thuật, con người đều trở thành những nghệ điêu
luyện của mình.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ khả năng tả cùng với một kho chữ nghĩa cùng phong
phú chuẩn xác của Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động,
những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến trong tác phẩm một ông già
70 tuổi đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông Đà. Đó một người
lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh
tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy
hiểm và gian khổ này.
Đây một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, đã đạt
đến trình độ “bằng cách lấy mắtnhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những
luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm
phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường
thiên anh hùng ca ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu cả
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
những đoạn xuống dòng”. Thật một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị
cũng “rất là Nguyễn Tuân”.
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to
gọn quánh như chất sừng, chất mùn” những cánh tay vẫn cánh tay của một
“chàng trai”, “trẻ trắng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng đã
đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm,
những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một
chân trời đá. Đá đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi
lần chiếc thuyền nào xuất hiện quảng ầm ầm quạnh hiu này, mỗi lần chiếc
nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Một nh một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: "... hai tay giữ mái chèo
khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước la vang dậy
quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, khí trên cánh tay mình”, sóng nước
“thúc vào gối bụng hông thuyền. lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy
thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
thanh la não bạt”. lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông... Các
miêu tả chân thực táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ
đối với con người, chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút phải trả giá bằng sinh mạng của
mình.
Nhưng chỉ dũng cảm và gan dạ chưa đủ, cái quan trọng hơn i nghệ của người
cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái
đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe
còn phanh chân, phanh tay, tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền lao xuống
thác thì chả cái phanh nào cả, chỉ lao đi chứ không i lại, không lao trúng tim
luồng nước thì thuyền quay ngang ụp, chkhông lùi cả...” vẫn bằng phương
pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến
vạn hóa, mỗi chỗ như một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải
một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn
hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng o một cái nắp ấm nước đang sôi khổng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại những “hút nước" xoáy sâu như
lòng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”...
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ông
lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo
bệch đi” những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe tiếng
chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự ddội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm
đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến
thắng đại của ông i đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến
bến bình yên, không phải chỉ một lần, ng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái
thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống
thanh bình: “thế hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát hang lạnh
(...). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống m
lam...”
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho
đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó một bài ca về lao động, về con
người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đò, kể cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực
người lái đò vẫn còn bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng cái
hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 16
Người lái đò sông Đà là một bài trích trong tập Sông Đà. Đây là kết quả của chuyến đi
thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Ông sông với bộ đội, thanh niên xung phong,
công nhân cầu đường đồng bào các dân tộc Tây Bắc từ Lai Châu về Sơn La. Thực
tiễn xây dựng lại bản làng sau 1954, phong cảnh, con người Tây Bắc đã đi vào trang
sách với một nỗi vui sống bao trùm n tất cả chen lẫn những cảm tưởng kỳ về đất
nước và Con người cũng như những xúc cảm trữ tình trước cái đẹp lạ lùng và hấp dẫn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Người lái đò sông Đà là một bài tiêu biểu. Lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của
câu chuyện về con người sông Đà, nhưng thực chất cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát,
nghiền ngẫm sáng tạo của Nguyễn Tuân. Thành thử mượn lời ông lái đò gnhưng
chính tác giả miêu tả con ng từ nhiều c độ khác nhau, bộc lộ tâm tình cảm
đối với con sông đại biểu này, nghĩa với lối viết của Nguyễn Tuân, con sông Đà đã
trở thành con sông của Nguyễn Tuân.
Sông Đà cả địa lí và lịch sử. “Nó khai sinh huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam bên
Trung Quốc lấy tên Li Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin
nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên đến ngã ba Trung thì chan hòa
vào sông Hồng”.
Con sông nghe như con người, nào khai sinh, nào xin nhập quốc tịch, nào trưởng
thành... Ngôn ngữ học bảo đó nhân hóa, thực đó nghệ thuật hóa, con sông
đời sống, tính chất rất vững, rất độc đáo. Thời xưa, nhà Trần lấy sông Đà đặt tên
cho một trong 15 lộ của cả nước: Đà Giang lộ. Chính vì vậy Truyền kỳ mạn lục có
truyện Đà Giang dạ ẩm thuộc bối cảnh đời Hồ cuối đời Trần.
Đà Giang lộ vùng đất từ ng Hóa trở lên. Bây giờ ta gọi đó vùng Tây Bắc, từ
Lai Châu xuôi về Hòa Bình, nối nhau bằng sợi dây thừng (chữ của Nguyễn Tuân)
khổng lồ sông Đà, nhìn từ trên máy bay xuống. Sông Đà lịch struyền thống
cách mạng. Lịch sử biến thiên, con sông Đà vẫn là của người dân xứ Tây Bắc nước
Việt. Nó dữ, nó hiền là một chuyện, nhưng con người vẫn ăn ở đời với nó.
Không nói chuyện quá xưa, Chỉ gom lại hồi Tây mới sang cướp nước ta, con người xứ
Thái này đã cùng nhà yêu nước Cần Vương Nguyễn Quang Bích, ông Hoàng giáp
tuần phủ ng Hóa ấy chiến đấu đến cùng trong thơ nhật nh quân của ông đã
bao nhiêu tên đất nước thuộc vùng sông Đà. Tiếp theo đó thời thằng Tây cai trị
với đủ bọn lang đạo, địa chủ gian tham độc ác. “Con sông bị chúa đất từng vũng đem
cắt ngang ra thành khúc nhỏ làm cho con ng ác thêm! Đế quốc đóng đồn bốt ven
sông, tính dữ ác con sông lại tăng thêm mấy lần.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Tuy vậy, người xứ Thái không chịu rời sông. Hơn hai mươi năm sau, công trình thủy
điện Hòa Bình đã sắp xong. Con sông Đà đã được chặn lại để làm n điện và nên hồ.
Hồ dài hàng trăm kilômét cảnh du lịch, nơi nuôi cá, đường giao thông thuận
lợi, tàu bè lên xuống nhẹ nhàng, không còn cảnh lên thác xuống ghềnh nguy hiểm mặc
dù rất nên thơ, hào hùng như thuở xưa.
Mặt khác, chúng ta còn thấy sông Đà dữ, sông Đà anh hùng ca. Tạo được môi trường
anh hùng ca phải cái dữ dội, nguy hiểm cao độ, khắc phục được phải thiên tài,
tối thiểu tài ba hiếm có, phải kiên trì, khi cả lều ng vào chỗ chết để
giành lấy cái sống, cố nhiên cuối cùng phải chiến thắng vẻ vang. Sông Đà quả
một môi trường nthế. Bản chất đã vậy. Tài hoa của nhà văn càng làm cho bản
chất ấy sắc nhọn thêm, dữ dội, nguy hiểm thêm bội phần.
Cây cối, cỏ hoa hai n bờ, ánh sáng trời trăng, nhà của, làng bản ven sông nằm
trong cảnh quan của sông, nhưng những cái đó thường hiền hòa, chưa nói tươi đẹp,
ấm vui, hoặc không nói hoặc để lùi ra sau. Trước hết nói cái ruột nhất của sông. Cát là
vật bình thường nhất chứ gì? Cát trên sông có hại chăng là khi nó thành gò làm thuyền
bị mắc cạn. mấy ai nghĩ rằng thứ hạt nhám nhám ấy của sông Đà làm loét cả da
nếu chỉ đóng khố chứ đừng nói bận quần, chui vào bẹn ăn luôn cả da, còn
truồng lội nước thì “nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt đục thủng
đáy và mạn dưới các thuyền gỗ”.
Thế cát dữ. Bờ cũng chẳng hiền. nơi “nó dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy
đúng Ngọ mới mặt trời. vách đá vách chẹt lòng sông như một cái yết hầu.
quãng con nai con hổ đã lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứngmột cái ngõ
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào tcái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn
điện”. Gió cũng đáng sợ.
quảng ghềnh Hát Loóng một vương quốc của gió phối hợp với nước, với đá, với
sóng thành những cơn xoáy: nước đá, đá sóng, sóng gió cuồn cuộn từng
luồng từng luồng cứ gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” (nợ xuýt: nợ
không cũng đòi), không đòi được bằng tiền thì bắt người lái đò lại “lật ngửa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bụng thuyền ra”. Cát, vách đá, gió đều đáng sợ cả, nhưng không đáng sợ bằng “cát
hút nước”.
Chắc cái tên này không phải của tác giả đặt ra mà là của đồng bào sở tại, ít ra là từ các
vị lái đò trên sông này. chỗ nước xoáy, dòng nước đương xối êm thấm, bỗng
dưng không thấy vướng một vật nào nổi trên mặt nước cả mà dòng nước tới đó cứ
xoáy tròn vo thành vòng rất đẹp để trũng xuống một cái lõm ncái lúm đồng tiền
trên một đôi xinh xinh. Ai ngờ đó chỗ nguy hiểm nhất cho thuyền đi trên dòng
nước.
Nước đó ặc ặc lên nvừa rót dầu sôi vào. Tiếng nước ặc ặc ấy, có lẽ sông Đà mới
có. Còn “những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột
xuống. Vừa đáng sợ vừa buồn cười là thuyền mà lạc vào đó thì thuyền trồng cây chuối
ngược rồi vụt biến đi, bị dìm đi ngầm dưới lòng sông đến mười phút sau mới thấy
tan xác ở dưới khuỷu sông dưới”.
Cái đáng sợ nhất của sông Đà chưa phải những cái đó đá thác, thác đá
thành Thạch Trận, hay nói đúng hơn, Thạch Thủy Trận. Nguyễn Tuân dụng ý trình
bày một thứ trận chiến như kiểu Bát trận đồ của Khổng Minh theo binh pháp Tôn Ngô
Khổng Minh sáng tạo lại. Cố nhiên pha chút hiện đại. Không Long trận
nhưng Thạch Trận. Thạch Trận cũng đủ cửa tử, cửa sinh. Không đủ Bát Trận
nhưng trận trước trận sau, trận trên trận dưới, nhiều lớp nhiều tuyến, tiên phong
dự bị... Không ớng trấn cửa, Nhưng Nguy Diên, Siêu, Quang ng,
Trương Bào nhưng có những tướng đá và quân nước.
Đá thì “ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, thuyền xuất hiện một số
hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy... Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cùng
nhãn nhúm, méo mó”... Tưởng như chúng nằm ngồi rải rác tùy tiện, nhưng không
phải. “Hình như sông đã giao việc cho mỗi hòn, sông y Thạch Trận”, Thạch Thủy
Trận. Đá được phân công hẳn hoi. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang
trên sông.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
“Hai hòn canh một cửa đá giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương vào tận tuyến giữa rồi
nước sông luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại”. Thuyền không chịu chìm cứ
tiến lên thì một thế trận khác lại đã sẵn bày. Tướng đây oai phong lẫm liệt. Có vẻ
như các tướng trên sân khấu tuồng. Sân khấu thì hất râu, đá giáp, múa tít cây thương
hay cây mâu, còn đây thì một tướng đá như “đang hất m hỏi cái thuyền phải
xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Một tướng đá khác “lùi lại một chút và thách thức
cái thuyền có giỏi thì tiến lại gần nào”.
Nhưng các tuyến của Thạch Trận đều lần ợt bị chọc thủng. Các cửa tử đều chẳng
nhử được thuyền. Cuối cùng, “cái thằng đá tướng đứng chắn cửa vào đã tiu nghỉu
cái mặt xanh thất vọng”. Tưởng đâu như sáp bị khép vào tội trong binh pháp: quân
thua chém ớng. Hết đá đến nước, quân nước. Đá dưới nước thì đâu cũng không
hiền. Nước vốn êm dịu. Nhưng kết thân với đá, với gió, nước trở nên hung dữ. Nước
sông Đà vào loại đó, tính từ Chợ Bờ trở ngược. Chỉ lắng nghe tiếng kêu của ớc
cũng đã thấy ghê ghê. “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới.
Nhưng đã thấy tiếng nước réo, gần lại to mãi lên”. Đâu réo một giọng. “Lúc nghe
như oán trách, rồi lại như van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gầm mà chế nhạo”.
Bỗng dưng, không biết chuyện gì, “nó rống lên tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn da cháy giữa rừng vầu rừng tre bốc lửa. Tới giữa thác thì một đằng đá
chặn, một đằng nước sóng luồng nhằm thuyền mà đánh vu hồi”, đồng thời “reo hò làm
thành viện".
lúc reo nđun sôi lên một trăm độ muốn hất cái thuyền đang phải đóng vai
một cái nắp ấm, một m nước sôi khổng lồ”. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ
như những cái hút, đó “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tiếng ớc đã
ghê, sức nước còn đáng sợ hơn. Đừng nghĩ chỉ trên đường bộ, đường không.
Mặt sông cũng có ổ gà. “Đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống, bị dồn lên.
Nước lại theo luồn. Cho thác, sông nhiều luồng. Có luồng đi lầm vào thì chết ngay,
thì cũng vẫn thể thập tử nhất sinh như thường”. Lúc khác, thể “đội thuyền
lên, bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng lái đò đòi lật ngửa” ông ái cho phơi bụng
“giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Nước đã thành thực thụ. “đánh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
đến miếng đòn hiểm độc nhất: bóp chặt hạ bộ người lái đò, hạt sinh dục vụt muốn thốt
lên cổ.
Bây giờ thì con ngựa bất kham. đang tế mạnh trên sông Đà”. Thế ông lái
“nắm chặt bờm ng, ghì cương lái, phóng nhanh vào cửa sinh”. đành chịu
thua. Nhưng đến chỗ cái hút, rình sẵn, thuyền nào t luôn tận đá, chết
không kịp ngáp. Chẳng khác gì dân gian đồn Hà Bá lên lấy gỗ. Sông Đà quả không sai
với tiếng đồn. Nó rất dơ. Cát dữ, bờ dữ, gió dữ, hút nước dữ, tập trung cái dữ là những
Thạch Trận, đá và nước hùa nhau bắt người vào chỗ chết.
Tác giả đã dùng ngòi bút trăm màu cặp mắt nhiều con ngươi của mình để hàng
tràng những hình ảnh khác nhau luôn luôn đặc sắc, vừa tính trí tuệ vừa có chất
tạo hình, vượt lên trên cả thủ pháp quen gọi nhân hóa đi vào bản chất sâu xa
nhất, độc đáo nhất của sự vật thành những trang viết biến hóa khôn ờng Bên cạnh
cái dữ, chúng ta còn cảm nhận được sông Đà đẹp, sông Đà trữ tình. Lên thác phải
chống băng sào.
Cái hút nước cái đáng sợ vậy tưởng tượng cứ chui xuống đáy nước rồi lia máy
quay phim ngược lên “cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve
một áng thủy tỉnh khối đúc dày...” thì cái hút ghê gớm kia lại trở thành cảnh đẹp
không ngờ. Nhìn từ trên máy bay, sông Đà trông như cái dây thừng ngoằn ngoèo chứ
không ai nghĩ rằng nó đã bao đời làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc.
Cũng từ trên không ấy nhìn thì lúc lại thấy sông Đà như “một áng tóc trữ tình,
đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nước sông Đà màu đẹp. “Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh canh hến của sông Gấm, ng Lô.
Mùa thì nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi ợu bữa”. Màu nọ
màu kia hoàn toàn chính xác, điều đó không nói làm gì, nhưng cái áng tóc kia sao lại
là áng tóc trữ tình?
nhiên đó phải cái nhìn từ trên trời nhìn xuống nhìn khắp lượt những từ chân
tóc tới đầu tóc, buông thả, nó uốn quanh, nó trải, co - thiếu một mùi thơm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
của nước ướp hoa bưởi của tuổi xuân - con sông sao nói bao nhiêu
điều cho khách nhìn? Nó lại ẩn hiện chập chờn trong khói đốt nương (điều ấy rất nguy
cho núi rừng) mây trời bung nở trắng xóa hoa ban, đỏ hồng hoa gạo. Tạm coi
những điều trên đây cái nhìn. Còn đây cái cảm. Tác giả nói ngay: “Con sông Đà
gợi cảm”. Mỗi người mỗi khác.
Với tác giả, lần ông nhìn như một cố nhân, một người thân, người thương cũ,
lâu ngày mới gặp lại. Cố nhân ấy đã xuất hiện đột ngột sau một chỗ ngoặt khỏi núi
thành một vết loang loáng rồi một màu nắng tháng ba Đường thi yên ba tam nguyệt
Dương Châu” (thơ Bạch trong bài Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng). Ôi,
cái nắng tháng ba trên sông vừa khô vừa nước sáng loáng, mùa xuân đang lại, nhựa
sống lên cành lên thân, lên xem, nó đẹp, nó ấm áp làm sao!
Ông bạn thơ của Bạch ra đi vào cái thời tiết hoa khói ấy thấy dồn lên trong từng
thớ thịt chất men xuân không thì chưa rõ, nhưng tác giả đoạn văn này thì ông như
trộn lẫn người mình vào đám hội xuân của chuồn chuồn, bươm bướm, của nắng giòn
tan trên sông, của đá ngầm xanh vọt lên mặt nước như bạc rơi thoi, của đàn hươu cúi
đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm, của sông Đà thơ mộng theo hồn Tản Đà “Dải
sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của cả những nương
ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa...
Sông nước, bến bờ, tịnh không một ng người. Bsông hoang dại như một bờ tiền
sử, gần nhất cùng thời Trần. Đẩy cảm nglên ngược thời gian xưa sơ, bỗng dưng
tác giả lại thèm một tiếng còi súp lê của một chuyến xe lửa Yên Bái - Lai Châu để cho
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa trở màu thành hiện đại cho cảm nghĩ gồm đủ hai chiều kim
cổ.
Cuối đoạn văn trữ tình này, lại một khoảng không gian khoáng đạt của dòng nước
êm đang nhcác bạn đá ghềnh, của giọng người miền xuôi thoáng rộng, êm êm, của
những cánh buồm mrộng tha hồ đón gió tứ phương trên những con thuyền mình nở
chứ không phải là thuyền then đuôi én, khiến cho cảm xúc tràn ra mênh mang, bất tận.
Sông Đà dữ thật nhưng sông Đà cũng rất trữ tình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đặc biệt, sông Đà n tạo ra những con người cho mình. đó ông lái đò sông Đà.
Ông sinh bên bờ sông Đà, uống nước sông Đà từ thuở để chỏm. Chắc chắn ông cũng
đã hụp lặn trong lòng sông. Bây giờ nghỉ đò đã vài chục năm sau mười năm lên ngược
xuống xuôi, cầm lái u chục phần, trăm phen đi về từ Lai Châu tận Nội, bên nào,
đá nào, luồng nào mà ông không thuộc.
Từ hình dáng bên ngoài: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng
khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào
như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông i vọi như lúc nào cũng mong
một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Cuộc sống sông ớc đã rèn cho ông một
“thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun”. Cũng cái nghề ấy đã biến tất
thảy những lái đò sông Đà chỉ khỏe có đôi tay còn chân rất yếu, chạy rất kém.
Cử chỉ của ông cũng đều theo dáng lái thuyền: ngắt lời người khác, “ông nhanh như
một tay lái rẽ ngang sông miết theo luồng thác bắt chéo”. Từ hình dáng đến hiểu biết.
Lái đò, ông biết con đò. Tại sao thuyền Tây Bắc chỉ mình thon chứ không nở? Không
phải vì xứ này thiếu gỗ trái lại, cũng không phải vì không biết thuyền mình nở tchở
được nhiều hàng. Phải đóng thuyền then đuôi én thì mới qua được các cửa luồng đã
họp lại còn rất hẹp. Cả chuyện cái buồm cũng vậy. Lái đò sông Đà miền cao thì cần
sào chống, chèo bơi, cần nữa thì dây kéo, ít khi dùng buồm.
Về dưới xuôi, cần buồm thì “căng hai cây o lại thành cột buồm và căng cái mui ra
làm buồm mà treo lên. Có điều chân trời Tây Bắc và sông Đà thường là vướng núi, cái
buồm di động trên ờn núi, vốn không phải hình ảnh quen mắt của người hai bờ
sông Tây Bắc”. Đến con sông thì coi như ông thuộc tựa lòng bàn tay. Sông Đà, đối
với ông, chỉ có ý vị đậm đà từ Chợ Bờ trở ngược.
Đời người lái đò sông Đà một đời chiến đấu thực thụ. Cứ nghe thuật một chuyến
xuống thác đủ biết. c đó, thiên nhiên sông Đà kẻ thù số một. Nhìn nó, thấy nó
không “thơ đời Đường” nhàn hạ một cuộc đấu tranh để giành sự sống từ tay
về mình.Đá bày trận như thế nào, nước reo, nước rồng, nước ạc ào ra sao, nguồn nước
sinh đá canh giữ cắn mật, luồng ớc tử đá dụ vào, c luồng tay trái, lúc
luồng tay phải, mặt mày thằng tướng đá nào như thế, khi nào tđè lên đầu luồng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tiến, khi nào thì tóm lấy bờm sóng nước vượt, vững tay lái ra sao khi chung
quanh tiếng sóng nước reo hò vang lừng để thanh viện...
Hỗn chiến với đá với nước đến cật lực, hết hơi, tưởng như rời vậy qua xong
thác, khi làn “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, sóng nước lại thanh bình thì chả ai
bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải đủ tướng dữ quân tợn
vừa rồi”. Hết thác, sông lại thanh bình thì lòng lái đò cũng bình yên. Chiến đấu gay go
kể, nhưng vẫn chuyện thường ngày, không đáng hồi hộp, đáng nhớ, Sông
Đà, đối với ông lái đò, quả “một trường thiên anh hùng ca ông đã thuộc đến cả
những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
Bản thân ông cũng sống một đời hào hùng, điều sự hào hùng ấy chuyện hằng
ngày nên ông chẳng coi có gì đặc biệt. Ông đã khôn người ông vào trong khổ của sông
Đà sông Đà đã rèn ông theo mẫu của nh. Cũng như anh hàng thịt heo; bởi
không có cái gì thuộc về sông Đàông không biết. Ngược lại không có cái ở ông
mà không là hình ảnh sông Đà.
Tóm lại, đọc văn Nguyễn Tuân, nhất tùy bút, người đã cho như soi trong kính
thiên sắc (Thiên sắc kính đồ chơi trẻ con), chỉ mấy màu lắc n bên này thì một
thế giới màu, lắc bên kia lại một thế giới màu khác. Ngòi bút ông lại không chỉ bảy
màu trăm màu. Cứ từng câu, từng chữ đã thấy thú vị, nếu người đọc chịu chú ý
đến từng câu từng chữ, và nhìn thấy giá trị công sức đã bỏ ra thường là đến bạc tóc
như người xưa nói, để có được chữ ấy, câu ấy.
Đọc Người lái đò sông Đà thấy chủ trương của tác giả về viết n. Từ ngữ phong
phú, tìm tòi hẳn hoi, câu vặn vẹo đôi khi nhưng vẫn Việt Nam nhân dân, hình
ảnh von luôn bất ngờ, độc đáo chính xác, cũng không tránh những hiện thực
không thanh nhã, nhưng vẫn đắc địa.
Chi tiết tùy bút này đã hay, chỉnh thể của bài văn càng cho thấy sự hiểu biết khoa học
đến cặn kẽ, trội n tất cả một tấm lòng yêu thương con người, đất nước, yêu cái
gian khổ đã vượt qua như một bản anh hùng ca, nên càng quý cái mong ước cho tương
lai tươi sáng, hạnh phúc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 17
Nguyễn Tuân người nghệ suốt một đời đi tìm cái đẹp trăn trở về cái đẹp. Nếu
như trước cách mạng ông thoát li thực tại, tìm cái đẹp thời còn vang bóng, thì sau
cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này,
những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò sông Đà được trích từ tập bút
Sông Đà những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc,
vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.
Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân
lên mảnh đất y Bắc vào những năm 1958-1960. Đây thời kỳ miền Bắc sau ngày
giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang
đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh
tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung ởng của tác
phẩm, chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, lộ tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ
đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay,
tiếng hát trên dòng sông”, đây câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan
mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ thể câu hát của những người chèo đò, o
thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng thể
sự ngợi ca của chính nhà văn trước thế làm chủ thiên nhiên của con người trong
cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích:
“Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã mở cho người đọc
thấy, mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, duy sông Đà chảy theo hướng Bắc.
Câu thơ đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của
Nguyễn Tuân nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.
Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trên nhiều phương
diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ nh. Vẻ
đẹp hung bạo của ng sông được Nguyễn Tuân thể hiện cảnh đá bờ sông dựng
vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được
độ cao diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ vậy “vách đá
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy
gợi ra lưu tốc rất lớn nhất vào mùa nước với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với
trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những
vách đá lạnh lẽo, tăm tối, khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng
ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng một cái ngõ
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên c tầng nhà thứ mấy o vừa tắt phụt đèn
điện”.
Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này,
Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó kẻ đi đòi nợ thuê,
với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc
được vận dụng liên tiếp (nước đá, đá sóng, sóng gió) kết hợp với các thanh
trắc liên tiếp đã tạo n âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa
đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy
dữ dằn, tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà
khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Sự hung bạo còn được thể hiện những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên
khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự
khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay nhiều chiều
kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên
xuống mặt nước sông “giống như cái giếng tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu”; từ dưới ng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng nước sông
xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”.
để giúp người đọc cảm nhận được n, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm
nhận khác nhau, với người quay phim thì như “ngồi o một cái thuyền thúng tròn
vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với
người xem phim lại thấy “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép
một chiếc rừng bị vứt vào một cái cốc pha nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy
đánh phèn…”. Với những trải nghiệm góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho
người đọc cảm nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là
những cái hút nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Cuối cùng sự hung bạo của ng Đà được khắc họa các trùng vi thạch trận khác
nhau. Với trùng vi thạch trận thứ nhật “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá
còn bày binh btrận, như cố tình nhấn chìm con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai
tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để đánh lừa con thuyền chỉ duy
nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng
đứng chiến cửa vào”, phối hợp với đá dòng thác như m beo như chực vồ
nhấn mình con thuyền xuống đáy sông. trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào,
“bên phải bên trái đều luồng chết cả”, chỉ một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ của con thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều cùng hiểm ác, với mục
đích duy nhất là làm cho con thuyền mất sức, bỏ mạng.
Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn đối
lập, đó chính vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con
sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt giống như
mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc n hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ,
với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng
sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm thêm cho nhan sắc
miều. Không chỉ vậy những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng:
Mùa xuân, ớc Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, ơi sáng, trong trẻo, lấp lánh;
Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi rượu bữa,
lừ lừ cái màu đỏ giận dữ một người bất mãn bực bội mỗi độ thu về”. Không chỉ
vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra tmiền cổ tích xa xôi, với những bãi bờ
hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm ớm trên
sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp
lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật hình tượng con sông Đà, để điểm tô,
hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần sự xuất hiện của con người, thật đẹp đẽ, chân
dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, nét. Người lái đò không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai Châu. Để làm bật vẻ đẹp
người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương quan với dòng sông Đà. Nghệ
thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên
bạo liệt, hung tàn, sức mạnh song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một
bên con người nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc khí trong tay chỉ
những chiếc cán chèo. Nhưng sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người
lái đò lại kiên cường bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ
ba, ông lái đò đã thể hiện tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng,
thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được lượn được”để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn thế hết thác” như một
tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh phía sau lưng.
Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ sự ngoan ờng, lòng dũng cảm, ý chí
quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây đồng thời cũng
chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.
Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được Nguyễn
Tuân khắc họa vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa khi con người đạt tới trình độ điêu
luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ thể sáng tạo được, thể vươn
tới tự do. Chính vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái
băng băng trên ng thác sông Đà một cách ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc
chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng. Và phong thái nghệ của ông lái đò thể
hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi
dòng sông vặn mình hết thác cũng khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí
nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về anh vũ,
dầm xanh, “về những cái hầmhàng cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá
rồi cái ứa ra tràn đầy ruộng”.
Bằng ngòi t cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp
cả về hình thức tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình u quê hương đất nước
sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng của quê hương đất nước còn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những con người bình thường trong
hành trình chinh phục thiên nhiên.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 18
Nguyễn Tuân sinh m 1910, mất năm 1987 một nhà nghệ lớn của dân tộc Việt
Nam. Vốn một người tri thức giàu lòng yêu nước lại am hiểu sâu rộng nền văn hoá
dân tộc, ông viết nên những tác phẩm rất mực uyên bác giàu giá trị. Nếu như trước
cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến ng người bởi vđẹp i hoa của
những con người "một thời vang bóng" như Huấn Cao thì sau cách mạng, Nguyễn
Tuân khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế tài năng trong việc vẽ nên những nét
đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị với thiên nhiên đời sống con người. Tuỳ bút
"Người lái đò sông Đà" là một thành công tiêu biểu cho phong cách văn học ấy.
Trong tùy bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp, dịu
dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả ng sông trên nhiều góc độ, nhiều phương
diện nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu. Không tĩnh lặng soi
bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét tư lự trong từng hơi thể khi màn đêm
buông xuống sông Đà hiện lên vô cùng sống động, dữ dội mãnh liệt. Nó như
được xem "kẻ thù số một của con người". Những con thác lớn dữ dội, những gạn
nước từ Vạn Yên về xuôi thật mênh mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách
hiểm trở khôn cùng. Nước sóng chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày tất
cả vẻ dữ tợn, oai hùng của mình: "Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái
yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con
hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn
những hút nước như những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành những tiếng ghê rợn,
khi thì kêu lên như những cái giếng đang bị sặc ớc, khi lại ằng ặc như tiếng dầu
sôi”. Tất cả dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở đầy rẫy những thách thức, nguy
hiểm ai đi qua cũng phải đối mặt. Sông với thế hùng dũng phần bạo
ngược của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước từng con
con sông, không làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng ng. Bởi vậy khiến
bao con thuyền đi qua phải chừng, hoảng sợ, cố tránh những cạm bẫy sông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đà bố trí sẵn: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào
cũng trèo nhanh để ớt quãng sông”, biết bao nhiêu gỗ đã phải chịu trận trước
những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu con thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới
lòng sông.
Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những ngôn từ
mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng mang dáng
dấp đẹp đẽ, dịu dàng thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của người thiếu nữ chốn
núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật tmộng, tình yêu như đang tràn
với bao cảm xúc nồng nàn khó tả: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn i như một áng tóc
trữ tình...cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân". Vẻ đẹp của dòng sông thật
yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng người đến với những rung cảm trong m
hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời qđỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng những cảm
xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn
được thể hiện giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy
bất cứ lúc nào cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tôi đã nhìn say a
làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám y mùa thu nhìn
xuống dòng ớc sông Đà”. Không chỉ vậy, sông Đà n khiến người ta thích thú bởi
sắc ớc đổi thay theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, ch nước Sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ
lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Bờ sông Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của hoa, của bướm, của chuồn
chuồn, của những bãi ngô non đầu mùa hay những giành vàng nõn búp. Đó đây
những đàn hươu đang thong thả gặm những bãi cỏ non ướt đẫm sương đêm, mọi
vật như đang hòa mình trong nét tuyệt diệu của dòng sông, điểm nên một vẻ đẹp
gọi mời khiến lòng người thổn thức: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ
sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không
chớp mắt như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông
Đà, phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Sông Đà như một "người
cố nhân" lại như một" người nghệ tài hoa". Qua cách miêu tả thật độc đáo với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
những cảm xúc chân thành, sự trân trọng, ng niu từ những điều bình dị, nhỏ nhặt,
Nguyễn Tuân như khắc hoạ nên một bức tranh thủy mặc của sông Đà say đắm lòng
người với vẻ tuyệt vời, thân thương.
Cùng với hình tượng sông Đà tính, đến với tác phẩm ta n cảm nhận được hình
ảnh người lái đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dòng sông. Người lái đò y không
phải là một chàng thanh niên trai tráng với thân hình vạm vỡ mà là một ông già đã gần
bảy mươi tuổi: “Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính
tay giữ lái độ sáu chục lần". Phải chăng những kinh nghiệm qua bao cuộc hành trình
suốt mười m làm việc đã giúp ông trở nên thuần thục, bản lĩnh kiên trường đến
như vậy: "Ông nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cnhững luồng nước của tất
cả những con thác hiểm trở". Người lái đò như một thứ "vàng mười" đã qua thử lửa:
Cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng,
chất mùn", con người ông con người của chốn sông nước hùng vĩ, trên ngực ông là
những "củ khoai nâu" in dấu những trận chiến vật với con sông Đà dữ dội, với tác
giả dường như đó là những tấm huy chương cao quý mình chứng cho sức lao động của
con người trong công việc của mình. Đứng trước những đợt sóng kinh hoàng, những
thạch trận hiểm nguy, ông không hề ssệt trái lại càng bản nh thích thú hơn:
"Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá... Và một mình
một thuyền ông đã giao chiến như một vị dũng đầy tài ba. Trải qua ba thạch trận
bằng dũng cảm, mưu tcả mình, người lái đò đã chiến thắng , trở về với cảnh lao
động và cuộc sống bình yên: "Thế hết thác... Sông nước lại thành bình. Đêm ấy nhà
đò đốt lửa trong hàng đá, nướng ống cơm lam...".
Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác cùng độc đáo,
một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa. Khép lại những trang văn của
tùy bút “Người lái đò sông Đà”, em vẫn không nguôi cảm xúc lâng lâng trong tâm hồn
mình, chăng, đó những điều đẹp đẽ nhất văn học đã mang lại, khơi gợi trong
lòng mình những cảm xúc thẩm mỹ cùng lớn. Thật cảm ơn Nguyễn Tuân, một
người nghệ suốt đời đi tìm cái đẹp để nâng niu những giá trị vững bền của đời sống
lao động và của dân tộc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 19
Nguyễn Tuân được biết đến một cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say tìm kiếm
vẻ đẹp của cuộc sống. Ông sở trường về thể loại tubút. Một trong những ng tác
tiêu biểu của ông tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm ờng như đã khắc
họa vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò
giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” đã được in trong tập y bút “Sông Đà” (1960),
gồm có 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời
xây dựng Chủ nghĩa hội miền Bắc. Đó chính kết quả của chuyến đi thực tế
của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt chuyến đi thực tế
năm 1958. Nguyễn Tuân đã đi đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội,
công nhân đồng bào các dân tộc. Thực tiễn công cuộc xây dựng cuộc sống mới
vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận.
thể nói ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng tuyệt vời thơ mộng,
Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi
là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”
Qua tác phẩm đặc sắc “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với một tấm lòng tự hào
của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên
đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo nhưng lúc lại hết sức trữ tình. Đồng
thời, nhà văn dường như cũng phát hiện ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của
con người lao động mới đó chính là chất vàngời đã qua thử lửa của đất nước trong
xây dựng chủ nghĩa hội thông qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà
văn đã ca ngợi con ng Đà vừa hung dữ nhưng cũng lúc trữ nh, núi rừng Tây
Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử và cũng
rất tài hoa.
Người lái đò dường n đã hiện lên trước hết một người lao động từng trải,
nhiều kinh nghiệm đò giang. n nữa lại lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh
nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân thật tài tình khi đã đưa nhân vật của mình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ. nếu
không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. lẽ nhà văn gọi đây cuộc
chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ
chiến ở mặt trận sông Đà. Đó còn chính là một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm đến tính
mạng, diễn ra nhiều hồi, cũng rất nhiều đợt như một trận đánh đó dường như
đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
Dường như “Đá đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần
có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm quạnh hiu này” có thể thấy rằng mỗi
lần chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông ngay lập tức một số hòn bèn nhổm
cả dậy để vồ lấy thuyền”. thể nói Nguyễn Tuân như đã dùng rất đắt cho việc sử
dụng ngôn ngữ của mình bằng cách tả những hòn đá. Ông tả mặt của hòn đá nào
dường như cũng trông ngỗ ngược, hòn nào ng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt
nước chỗ này…”. Con sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. khi đi tới đây mới thấy
rằng đây bày thạch trận trên sông. Đám tảng n chia làm ba hàng chắn ngang
trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Và việc một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi
đâu để tránh khỏi ra được một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn phía trước.
Dường như trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi con sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc
nhất đó chính dùng nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa
mình ra giữa trận ớc vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng,
dường như vẫn giữ được sự bình tĩnh, đầy mưu trí. Lúc này đây người lái đò bỗng như
một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. ngay cả khi người lái đò bị
thương, thì ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo
bệch như cái luồng sóng đánh hồi ng, rồi cả đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ
hiểm nữa. Nhưng khi người lái đò “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”,
không quản mệt nhọc thì ngay lập tức người lái đò đã lại “phá luôn vòng vây thứ hai”.
Ông lão lái đò dường ncũng đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. cho
đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều luồng chết cả, nhưng dường như
lúc này người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa
giữa đó. Thuyền đã vun vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút cửa ngoài rồi lại cả cửa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Và dường như trong cuộc chiến không cân sức
ấy, người lái đò chỉ một cán chèo, một con thuyền không đường lùi còn dòng
sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên thật hung dữ của loài thuỷ quái. Tuy
nhiên, thể nói rằng chính những cái kết cục cuối thì với người lái đò vẫn chiến
thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh vì phải chịu thua một con
thuyền nhỏ bé.
Người lái đò hiển hiện trong tác phẩm chính một người lao động danh, làm lụng
âm thầm, giản dị, nhlao động chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao,
vĩ và người lái đò trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động chân chính đã
chiến thắng thiên nhiên là nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức
mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân
dân Tây Bắc.
thể nhận thấy nổi bật nhất, độc đáo nhất người lái đò sông Đà phong thái của
một nghệ tài hoa. Dường như khái niệm i hoa, nghệ trong ng tác của Nguyễn
Tuân nghĩa rộng, không cứ những người làm thơ, viết n cả những người
làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi nghệ sĩ, nếu việc làm
của họ dường như đã đạt đến trình độ tinh vi siêu phàm. Trong Người lái đò sông
Đà, tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn
trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật được sử dụng đặc sắc ở đây là phải am hiểu
và nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật trên con sông Đà thứ quy luật khắc nghiệt. Nếu như chỉ cần một chút
thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống.
ngay những khúc sông Đà không thác lại ddại tay dại chân buồn ngủ
ngay. Chung quy lại, thì bất cứ nơi nào ng hiểm nguy. Ông lão lái đò dường như
vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá. Có lẽ chính vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo,
bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. ờng như mọi giác quan của ông lão đều
hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo o tan ra trong trí nhớ.
Sông nước lại thanh nh. trong đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống
cơm lam toàn bàn về anh vũ, dầm xanh, về những cái hầm hang ca mùa
khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi a ra đầy tràn ruộng. Cũng như chả thấy
ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đtướng dữ quân
tợn vừa rồi cả. Như những nghệ chân chính, thì sau khi đã vắt kiệt sức mình để thai
nghén nên tác phẩm đđời thì không mấy ai tự tán dương về ng sức của mình,
chính nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét rằng “Cuộc sống của họ ngày
nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những
cái thác, nên cũng không hồi hộp, đáng nhớ”. Chính thế họ ngthế
lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái
đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân mà thôi.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” còn chính tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm đặc sắc này không chỉ
ngợi ca vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc ờng như còn ca ngợi vẻ
đẹp bình dị, anh hùng tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn
Nguyễn Tuân đã thể bộc lộ tình yêu đất ớc, niềm tự hào hứng khởi, gắn tha
thiết với non sông Việt
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 20
Nguyễn Tuân một ntuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú đạt
được sự cân bằng giữa hai thời kỳ lịch sử trước sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Qua cái mốc ấy, tưởng phong cách của ông tất nhiên những biến đổi nhất
định. Nhưng biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất
Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say đi tìm diễn
tả cái đẹp. Người i đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà - một trong những tác
phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất khí.
Nghĩa liệu rất phong phú, bề bộn, nhất liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học.
Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những liệu ấy trở thành hình tượng sống động,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
thành những sinh thể, những nhân vật linh hồn. vậy bài tuỳ bút không chỉ
một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải thiên nhiên tri,
giác, một sinh thể hoạt động, tính cách, tính, tâm trạng hẳn hoi
khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác giả nói - "hung
bạo trữ tình". Lúc trở mặt hung bạo, cnhư "kẻ thù số một" của con người.
Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một
người tình, một "cố nhân" gặp thì mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.
Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân - một
cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm.
Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió,
về bão, về thác nước dữ dội, nếu không phải về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của
người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ
tiên nở đúng đêm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng
nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì từ xa a ông cha
ta đã diễn tả bằng biểuợng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh: "Núi cao sông hãy còn dài - m
năm báo oán đời đời đánh ghen".
Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những
bức tranh chân thực vnhững cảnh tượng hùng dữ dội của con sông Đà khiến
người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy nđứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra
biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp sức diễn tả mãnh liệt để quyết một
phen thi tài với Tạo hoá.
Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa
hai vách đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". đây nữa,
ông tả cái hút nước ghê gớm "giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị
làm móng cầu. Nước đây thở kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy
tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn [...]. Nhiều gỗ rừng đi nghênh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút
hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm đi ngầm
dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác khuỷnh sông dưới". Dùng thủ
pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng
thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy,
ngồi vào một cái thuyền thúng cho hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả
người lẫn máy thu hình: "Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít,
cái máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng thành giếng xây toàn
bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha xanh như sắp vỡ
tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được
trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy
gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê
nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn".
Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật đã được đẩy lên đến mức khu,
quái do cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng
lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: "tiếng nước réo
gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như oán trách gì, rồi lại như là van
xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo". Khi đến gần, tiếng bỗng
"rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng
bùng".
Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với
ông lái đò, đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn
hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào u
thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái,
thúc gối, túm thắt ng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,... Vừa đánh vừa la vang trời
dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông ớc lại trở nên rất đỗi êm thanh bình.
Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. ng Đà lúc này lại như
một tiên nữ giáng trần. Nó "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn
những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa:
mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say
rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy "lai láng
thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước". Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe,
từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét
thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của
ngôn ngữ thơ, nghĩa nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy cái ông
gọi "màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt ơng Châu" - thoáng
hiện lên trên sóng nước sông Đà; ấy cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững
lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây
Bắc. một cái tựa như nỗi thương nhớ mênh mang hồ của thi Tản Đà gửi
"một người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu
cảnh bấy nhiêu tình".
Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường
đậm đà màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông đây lặng tờ.
Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tđến thế thôi.
Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy ngô non đầu mùa. tịnh không
một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn
búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình một
tiếng còi xúp của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - n Bái - Lai
Châu. Con ơu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ
lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng
cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, phải ông cũng vừa
nghe thấy một tiếng i sương ?". Có thể gọi đấy những dòng thơ văn xuôi của nhà
tuỳ bút.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên lừng lững hình
tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn
với một con thác dữ, nghĩa cái phía hung bạo của sông Đà. Giả sử tác giả đặt ông
ta trong khung cảnh khác - khung cảnh thơ mộng trữ tình - chắc hẳn ông sẽ trở thành
một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ ch. Nhưng đây, đối đầu với con sông
dữ, với một loài thuỷ quái, ông lái đò nhất thiết phải trở thành một dũng kiên cường
- một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác..
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 21
Tây Bắc một mảnh đất nhiều duyên nợ với nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi nhà văn,
nhà thơ lại tái hiện khắc họa hình ảnh Tây Bắc những góc độ khác nhau. Trong
đó, Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây, nhận thấy được “chất
vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” chính
món quà đầy ý nghĩa mà ông dành cho mảnh đất Tây Bắc.
Qua tài năng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên không còn một con sông
tri vô giác nữa mà trở thành một sinh thcó hồn, một nhân vật tính cách, tâm trạng
và là tuyệt mĩ của tạo hóa.
Trước hết, con sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo đáng sợ. Đá bờ sông “dựng
vách thành”, “có chỗ vách đá chẹt lòng ng Đà như một cái yết hầu”, “ngồi trong
khoang đò quãng ấy, đang mùa mà cũng thấy lạnh”. Bờ sông Đà thật hùng vĩ, hiểm
trở, lòng sông hẹp kéo theo dòng nước chảy xiết. Những ghềnh ng hiện lên với sự
dữ dội, hung hãn nước đá, đá sóng, ng gió”. Tác giả sử dụng câu văn
sự trùng điệp nhịp văn ngắn để diễn tả sự hung dữ của ghềnh sông. Nó giống như một
mụ phù thủy quái ác “gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò nào qua quãng ấy”. Đáng shơn những cái hút nước của sông Đà. Những hút
nước này có độ xoáy rất sâu và lớn như cái giếng bê tông thả xuống sông để làm móng
cầu “xoáy tít đáy”. Nơi đây tiềm ẩn sự nguy hiểm nơi trú ngụ của tử thần.
những chiếc thuyền bị lôi xuống, ”thuyền đi ngầm dưới lòng sông đến ơi phút sau
mới thấy tan xác khuỷu sông dưới”. Tác giả đã sử dụng những tri thức điện ảnh để
đem đến cho người đọc sự hình dung rõ hơn về những cái hút nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Sự hung bạo của sông Đà còn được thể hiện thác nước trận địa danh của Đà
giang. Thác nước đây thật khủng khiếp “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…. da cháy bùng bùng”. Câu
của Nguyễn Tuân đã tác động mạnh mẽ vào thị giác thính giác của người đọc,
lột tả sự giận dữ, ghê gớm của những con thác sông Đà. Tác giả tiếp tục chi tiết của
những trận địa con sông Đà. Đặc biệt cuộc chiến với ông lái đò. Đà giang hiện lên
không khác gì một con thủy quái dữ tợn và khát máu. Nó đưa ra mọi thủ đoạn sử dụng
mọi chiêu thức sử dụng mọi đòn đánh để hạ gục ông lái đò. Thông qua sự khắc họa
của Nguyễn Tuân, người đọc dịp chứng kiến được sự hung bạo, ngỗ nghịch bất trị
của bà mẹ thiên nhiên.
Trái với vẻ hung bạo và dữ tợn thì cũng có lúc con sông sông Đà hiện lên thật trữ tình.
Con thủy quái ấy đã rủ mình vứt bỏ sự gớm ghiếc để trở thành một thiếu nữ kiều
diễm. Nét trữ tình của con sông Đà được thể hiện hình dáng con sông. Dòng sông
Đà mềm mại “từng nét trải ra trên đại dương đá lờ đờ bóng mây”. Dòng sông Đà được
Nguyễn Tuân với mái tóc thướt tha của người con gái đang độ thanh xuân. “Con
sông Đà tuôn dài, tuôn dài…đốt nương xuân”. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống
mang nét nên thơ, mờ ảo giữa mây trời khói núi. u sắc sông Đà thay đổi theo mùa
và mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng.
Vẻ đẹp con sông Đà còn được điểm bởi cảnh ven sông cảnh trên sông. Khung
cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông đây lặng tờ”, một
nương ngô…”, Thật là một bức tranh dạt dào nguồn nhựa sống, làm đắm hồn
người.” Bờ sông hoang dại…cổ tích tuổi xưa”. Với hình ảnh so sánh tài hoa, độc đáo
của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc trở về thuở bình yên của sông Đà từ ngàn năm
trước.
Nói tóm lại, Nguyễn Tuân đã khắc họa rất thành công hình tượng con sông Đà với hai
tính cách: hung bạo đến đáng sợ trữ tình đến tuyệt mĩ. Nhà văn đã cho chúng ta
thấy được sự tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong những liên tưởng táo bạo,
bất ngờ, những so sánh mang dấu ấn cá nhân của Nguyễn Tuân trên những trang văn.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 22
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình những xúc
cảm riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá chờ mong. Dường như dưới đôi bàn tay tài hoa
nghệ sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được sống những phút giây thực
sự với thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính cái tài sử dụng ngôn ngữ của ông.
Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” tài năng đó càng được bộc lộ nét
hơn.
Cả cuộc đời của Nguyễn Tuân chăng được gói gọn trong chữ “độc đáo”. Bản thân
người độc đáo, khác thường nên đối tượng nghệ thuật của ông cũng phải một
không hai. Dưới bút lực dồi dào của nh Nguyễn Tuân đã phô diễn cho bạn đọc thấy
hình ảnh của một dòng sông Đà vừa hung bạo, nhưng cũng rất đỗi trữ tình. Bên cạnh
đó là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh phục và làm chủ thiên nhiên.
Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai phương diện:
hung bạo trữ tình. Chất hung bạo chính điểm nổi bật đầu tiên của Nguyễn Tuân
đề cập đến. Vẻ đẹp hung dữ, bạo tàn của con sông ở những đoạn thác dốc như một sức
mạnh hình thu hút ông. Đây cũng lãnh địa tạo cho ông cơ hội thỏa sức tung
hoành trí tưởng tượng của bản thân. Ông cực kỳ phấn khích khi chuẩn bị đến thác
cuối, khi chuẩn bị được tận mắt chứng kiến sự hung bạo của sông Đà: “… Còn xa lắm
mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại rót mãi n. Tiếng
nước thác nghe như oán trách gì, rồi lại nvan xin, rồi lại nkhiêu khích,
giọng gằn chế nhạo. Thể rồi rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mưa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. thể thấy trong
đoạn văn giọng điệu hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan cùng thính nhạy của
Nguyễn Tuân. Ông nắm bắt từng chuyển động của thiên nhiên để thể cảm nhận
được vẻ đẹp hung bạo của từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so nh thác nước như
những con trâu lồng lộn, rống lên cũng cực đặc sắc, diễn tả tiếng thác nước ầm ào
chảy, vừa hứng thú, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.
đến đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao nhiêu hào
hứng ông dồn cả vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của ng Đà. Những thạch trận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
liên tiếp được bày ra, dụ con thuyền đến để nuốt gọn vào lòng: “Thạch trận dàn bày
vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo làm thanh viện cho
đá, những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt. Mỗi hòn ấy trông nghiêng thì y như
đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi
lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa,
cùng trí tưởng ợng phong phú Nguyễn Tuân đã khiến cho những hòn đá tri
gương mặt, tâm trạng thân phận riêng. Nhưng tựu chung lại thể thấy chúng sự
ngông ngạo, tự phụ, ỷ thế mà chèn ép người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng
đá tướng.
Nhưng sự tự phụ của chúng chẳng được bao lâu, mới dưới sự uy dũng, kinh nghiệm
của người lái đò sông đã nhanh chóng vượt qua chúng. Đoạn y ngòi bút ng mạn
của ông càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương bướng, bày ra thạch trận
ba vòng, với những lắt léo khác nhau cũng không thể cản bước ông lão đò. Ông cưỡi
lên từng con sóng, từng đợt nước vượt qua: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
mạnh trên sông Đà. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì
cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng phóng nhanh o cửa sinh, lái miết
một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái
liên ra định u thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa
thì ông tránh rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mở đường tiến.
Những luồng tử đã bỏ hết lại sâu thuyền”. Những câu văn kia miêu tông lái đò mới
sảng khoái sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên.
Đồng thời những lời miêu tả chân thực, sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái
thuyền tài ba, sự dày dặn kinh nghiệm, ng cảm những yếu tố giúp ông lái đò
của thể vượt qua mọi cửa tử để đi đến được một cửa sinh duy nhất.
Không chỉ niềm say mê, hứng tđặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm đôi
mắt tinh tế của Nguyễn Tuân còn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mộng, trữ tình của
con sông Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà quả như đối cực với sự hung bạo của
chúng. Nếu như bên trên con sông Đà bạo liệt, hung hãn bao nhiêu, thì đến đây lại
mộng, hiền hòa bao nhiêu. Đoạn văn thấm đẫm màu sắc văn chương và hội họa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sông Đà, chẳng ai thể biết
được, nhưng toát lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mộng quá đỗi. Sông Đà giờ đây
không còn hoang dại, tựa như một gái sơn cước miền Tây Bắc cùng yểu
điệu, thục nữ, lại đôi nét mờ màng: Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời y Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai cuồn cuộn mù khói mèo đốt nương xuân”. Đọc câu văn ngỡ như
ta đang đọc một câu thơ của Nguyễn Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật,
ngập đầy trong từng câu chữ. Chỉ trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ
đẹp trữ tình của con sông mà Nguyễn Tuân đã hai lần phải thốt lên “chao ôi”. Vì được
chiêm ngưỡng cảnh đẹp, được gặp lại người bạn nhân bao ngày xa cách. Đó
sự vui mừng, cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính cnhân của
Nguyễn Tuân. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến công một đoạn văn đầy xúc
cảm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm ớm trên sống Đà. Chao ôi
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao
đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra ng Đà, đúng thế, đằm đằm ấm ấm như
gặp lại cố nhân”. Không chỉ cảm nhận sông Đà người bạn, người cố nhân gặp lại
sau nhiều ngày xa cách ông còn cảm nhận được cái không khí cổ xưa, như bờ tiền
sử hoang dại sông Đà. Quả thực, lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh
tế của mình mới thể cảm nhận trọn vẹn được vẻ đẹp của ng Đà mọi chiều kích
không gian và thời gian như vậy.
Với i bút Sông Đà nói chung Người lái đò sông Đà nói riêng ta không chỉ
thấy được vẻ đẹp của một người nghệ tài năng, với bút lực dồi dào. bên cạnh đó
còn thấy được tấm lòng của một con người yêu ớc, dành trọn cuộc đời mình khám
phá, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao động trong cuộc sống mới.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 23
Nguyễn Tuân - người được mệnh danh “Người đi tìm cái đẹp, cái thật trong đời”
không chỉ một trí thức yêu nước ông còn một nhà n tài hoa, uyên bác. Ông
đã để lại nhiều tác phẩm lớn, nổi bật hơn cả là tùy bút “ Người lái đò sông Đà” (1960).
Tác phẩm thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
của nhà văn sau Cách mạng tháng 8.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” lấy ông lái đò làm nhân vật trung tâm nhưng thực
chất mượn hình ảnh ông lái đò để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, dữ dội thơ
mộng của con sông Đà. Tất cả hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa chân
thực, vừa sống động.
Trước hết, Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp của con sông Đà được nhân hóa như con
người, nó mang linh hồn độc đáo vừa có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng, lại vừa mang tính
cách hung bạo, trữ tình. Con sông được giới thiệu:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
Ý nói mọi con sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ sông Đà chảy theo hướng Bắc.
Đây là một cách giới thiệu ấn tượng, đập thẳng vào nhãn quan người đọc sông Đà hiện
lên như một thể rất hồn. Sông Đà khai sinh huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam.
mang hai tính cách. Đầu tiên tính cách hung bạo trữ tình, được thể hiện
khía cạnh: Nguyễn Tuân miêu tả cảnh đá bờ sông “đá dựng vách thành lòng sông
hẹp, quãng con hươu con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ
dưới lên nnhìn n cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện”. Đặc biệt đoạn mặt
ghềnh dài hàng ngàn cây số thì “nước xô đá, đá sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy”. Thật nguy hiểm,
rùng rợn. Đâu chỉ vậy, Cái hút nước giống như cái giếng tông, nước thở kêu
như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng
cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy”. Hay đến thác nước với những âm
thanh dữ dội như càng xoáy vào lòng người nhiều hiểm ngay đang rình rập chỉ chờ
chực sẵn con mồi “tiếng nước réo”, “tiếng nước thác nghe như oán trách… van
xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng…”. Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn. Đáng sợ hơn tất cả hình ảnh đá
lòng như như đang bày binh bố trận địa thác đá với 3 trùng vi. Trùng vi thạch trận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
thứ 1: “mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn”. Sang đến trùng vi thạch trận thứ 2 đã tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con
thuyền vào, cửa sinh lại bố trí qua phía bờ hữu ngạn. trùng vi thạch trận thứ 3
cả bên trái lẫn bên phải đều luồng chết cả. Cái luồng sống chặng ba này lại ngay
giữa bọn đá hậu vệ.. Việc bày binh bố trận vừa theo một quy luật trật tự nhất định để
ngăn cản những ng viên rắn chắc chèo chống về phía đích. Họ như những cầu th
chuyên nghiệp trên sân cỏ đang lao mình ra để bảo vệ cầu môn, không cho quân địch
hay kẻ ngoài này le lói gần khung thành. Bằng lối viết tài hoa, một kiến thức sâu rộng
uyên bác, Nguyễn Tuân đã viết nên những câu văn theo kiểu móc xích, cấu trúc câu
trùng điệp, sử dụng xen kẽ biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh rõ rệt để làm nổi bật hình
ảnh con sông Đà cuồng nộ, như muốn nh là vua của cả thế giới. Con ng ấy hung
bạo, hiểm trở, là kẻ thù số 1 của con người.
Trái với vẻ ngoài dữ tợn ấy, sông Đà còn hiện lên một vẻ trữ tình đằm thắm dưới ngòi
bút bậc thầy lão luyện của Nguyễn Tuân. Đi từ thượng nguồn đến hạ nguồn, ta đều bắt
gặp hình dáng con sông rất thơ mộng như một thiếu nữ đôi mươi kiều diễm, trẻ
trung, duyên dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ nh”, “Sông Đà như một
áng tóc mun, dài ngàn ngàn vạn vạn sải”. u ớc sông Đà cũng thay đổi theo mùa
rất đẹp và quyến rũ, mùa xuân, dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt người bầm đi rượu bữa. Sự thay đổi sắc màu tạo cho sông Đà mang
một vẻ đẹp huyền bí, quý phái. Nhà văn còn miêu tả hai bên bờ sông Đà cũng tươi
mới không kém. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà, con sông chứng
kiến biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nó là chứng nhân lịch sửđại cũng là một
con sông đẹp kiều diễm n thơ. Con sông ấy gợi trong lòng nhà văn nhiều cảm
xúc, như một “cố nhân”.
Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá một con sông Đà
mang nhiều trạng thái cung bậc, khi thì dữ dội, khi lại nên thơ trữ tình. Con sông ấy
dưới ngòi bút điêu luyện của ông được coi nmột khám phá lớn, một công trình
nghệ thuật vĩ đại mà tạo hóa ban tặng cho Tây Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Song song với hình tượng con sông Đà hình ảnh người lái đò sông Đà - một tay lái
ra hoa với trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân đã miêu tả ngoại hình của ông rất độc
đáo: “tay lêu nghêu ncái sào, chân khuỳnh khuỳnh”. Ông quê ngã sông,
người từng trải, ông làm nghề lái đò đã được mười năm liền. Ông với con sông Đà gắn
mật thiết với nhau, như người bạn tri kỉ của mình. Với kinh nghiệm chinh chiến
trên con sông ấy đã nhiều năm, ông nắm chắc từng luồng lạch, từng ngọn thác đặc
biệt, ông nắm rất vững quy luật của “thần sông thần đá” trên con sông Đà. ông am
hiểu con sông ấy một cách tường tận, thấu đáo nên ông rất thích vượt thác, đối mặt với
con sông ấy. Chỉ với vài nét khắc họa đơn giản, Nguyễn Tuân đã phác họa được một
người lái đò yêu nghề, yêu thiên nhiên, thích hòa mình rượt đuổi cùng thiên nhiên.
Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn miêu tả rất chi tiết qua những lần ông vượt thác.
Tay lái ra hoa ấy càng khiến người đọc thêm khâm phục phần nào về tài năng, bản
lĩnh dám đương đầu với thử thách. Trên con sông hùng nguy hiểm ấy, ông i đò
hiện lên với thế hiên ngang của một dũng tướng chỉ huy chiến trận. Ông chỉ huy
con thuyền mình luồn lách tới đích vượt qua các chướng ngại vật với phong thái của
một nghệ tài hoa. vòng vây thứ nhất, ông hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Hai chân ông vẫn kẹp chặt lấy cuống lái.
Đến vòng vây thứ hai, không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải pluôn vòng vây thứ
hai đổi luôn chiến thuật. Ông cưỡi lên thác sông Đà, nắm bờm sóng, ghì cương lái,
bám lấy luồng nước đúng phòng nhanh vào cửa sinh. vòng cuối, ông phóng
thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tđộng lái được lượn được. Cuộc vượt thác thành công. Mặc
lúc ông gặp khó khăn bị thương nhưng ông vẫn bình tình, dũng cảm đối mặt sau
cùng nếm vị ngọt thành quả: “đốt lửa trong hang đá, bàn n về anh vũ”. Cuộc
chiến khốc liệt kết thúc thắng lợi vẻ vang.
Qua đây, ta mới thấy được ông lái đò người rất am hiểu binh pháp của thần sông,
thần đá, một hình tượng nhân vật mới Nguyễn Tuân đang ớng tới - một bức
chân dung người lao động vừa hiên ngang, khí phách, ngang tàng lại rất giản dị.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Tóm lại, “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút uyên thâm cùng kiến thức tổng hợp phong
phú, ông đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật người i đò hùng dũng, hiên
ngang và hình ảnh con sông Đà với hai tính cách trái ngược nhưng rất đỗi đẹp đẽ. Tùy
bút” Người lái đò sông Đà” luôn sống mãi trong lòng người đọc trường tồn theo
thời gian.
Người lái đò sông Đà phân tích - Mẫu 24
Nguyễn Tuân bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những
tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình yêu tha thiết. “Người lái đò sông
Đà” bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình ảnh con sông Đà được
nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc
đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng sông
Đà bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm phong phú.
Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi
chốc lại bản tính gắt gỏng thác ngay đấy”. thể nói phải thật tinh tế khéo
léo mới có thể nhận ra sự chuyển đổi của sông đà như vậy.
Sông đà hiện lên dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy theo
khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông đà được tác giả viết “đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới mặt trời. vách đá
thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách. quãng con nai con hổ đã lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Chỉ
với vài chi tiết phác họa con sông đà hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy
hiểm khôn ờng. Tác giả đã diễn tả cảm c khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng
một cái ngõ ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất
vừa vụt tắt điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo cũng không kém phần tinh
tế. Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Chưa dừng lại đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa khi miêu tả
sự hùng vĩ, hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loong, dài hàng cây số nước đá, đá
sóng, sóng gió, cuồn cuộn luồng gió n ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Sông Đà hiện lên như một kẻ
bất chấp hết, thể lấy đi tính mạng của những ai tình đi qua đây. Thật o bạo,
mãnh liệt và mạnh mẽ.
Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc cảm tưởng như đang đứng
trước sông đà hùngchiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là oán trách gì, rồi lại
như là van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo. tiếng thác rống như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những
câu văn với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm xúc. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy
hiểm cùng. Một ch so sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân
thực sự là bậc thầy của ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như
biết nói, biết rung động.
Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận chiến, người lái đò muốn vượt qua dòng
chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này. Với giọng văn dồn
dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất “mặt
nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân
liều mạng vào sát ch…” Sang đến trận thứ hai “tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa
con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua bên phía bờ hữu ngạn”. Sang đến trận
thứ ba ờng như ít cửa hơn nhưng lại quyết liệt mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên
không khác o một con thủy quái đang đòi nuốt chửng người lái đò chiếc thuyền
bất cứ lúc nào thể. Con sống chính “kẻ thù số một” của người lái đò, với tất cả
đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất.
Tuy nhiên bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn hiện lên thật
nên thơ trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sông đà
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đốt nương xuân”. Thật
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tài hoa thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây
bắc. Đặc biệt khi c giả miêu tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời thi vị biết
bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông đà không xanh màu canh hến
của sông Gâm sông . Mùa thu ớc sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ một người bất mãn bực bội mỗi độ thu
về”. Những từ ngữ ợt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm của một dòng sông
tưởng chừng chỉ có giận dỗi và hung dữ.
Sông Đà những lúc buồn mênh mang hoang đến lạ kỳ “Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích a”. Thật một vẻ
đẹp nhẹ nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu.
Người lái đò sông Đà phân tích - Mẫu 25
Người lái đò Sông Đà kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt
là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 bài tùy bút của Nguyễn Tuân in
trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960. Lần xuất bản đầu tiên, bài này tên Sông
Đà, năm 1982 khi cho in lại trong tập 2 bộ Tuyển tập Nguyễn Tuân, tác giả sửa đổi
tên bài thành Người lái đò Sông Đà.
Viết về sông Đà, Nguyễn Tuân nhiều phát hiện. Hai nét tiêu biểu nhất của sông Đà
là hung bạo và trữ tình. Để làm nổi bật tính chất hung bạo và trữ tình của con sông, tác
giả đã vận dụng kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật.
Trước hết phải kể đến biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Đá trên thác sông Đà mai phục,
hung dữ bày thạch trận để tiêu diệt bất cứ con thuyền nào dám vượt thác. Nước cũng
vậy, chúng thở, kêu rống lên. Nước cũng o hùa với đá để đánh những miếng đòn
“hiểm độc nhất”. Nguyễn Tuân còn sử dụng thủ pháp so sánh, tưởng ợng, huy động
vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, địa lí, quân sự, điện ảnh,… để miêu tả sông Đà.
Hình ợng người lái đò sông Đà một người lao động, nhưng nghệ trong lao
động, hơn nữa một dũng tướng trong cuộc thủy chiến thường xuyên với thác nước
sông Đà. Đó một con người bình thường, hiền lành với những nét phác họa: “cái
đầu bạc… cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
sừng chất mun”, “tay ông lêu nghêu như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh
khuỳnh lại…”. Đó một con người dũng cảm, say sông nước, say những
cảm giác mạnh. Ông luôn bình tĩnh, ung dung đối đầu với những khó khăn nguy hiểm.
Ông khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh đưa con thuyền về đích an
toàn. Khi chở đò, ông nghệ sĩ, dũng tướng tài ba. Kết thúc công việc, ông lại
một người bình thường, làm công việc bình thường là chở đò trên sông.
Đặc điểm nổi bật của tùy bút Nguyễn Tuân uyên bác và tài hoa. Để nói về con sông
Đà, Nguyễn Tuân dẫn thơ cổ, dẫn thơ Bạch, thơ B--ni-ép-xki (Ba Lan). Ông vận
dụng kiến thức lịch sử, địa lý, hội họa, điện nh, quân sự, thể thao để viết về con sông
hung dữ thơ mộng. Ông luôn cảm hứng đặc biệt trước những hiện tượng phi
thường, gây cảm giác mạnh. Bao giờ ông cũng say khám phá thưởng thức cái
đẹp. Vẻ đẹp hung dữ thơ mộng của sông Đà, vẻ đẹp của ông lái đò bình dị nhưng
khi vượt thác thì như một viên tướng tài ba, điêu luyện đã đem cảm hứng sáng tạo cho
Nguyễn Tuân. Đúng nhà văn nhìn cảnh vật con người thiên về phương diện
thuật và tài hoa.
Bài văn Người lái đò sông Đà - Mẫu 26
Cái nhìn và điểm nhìn nghệ thuật trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một
trong những phương diện nổi bật. Trong bài ký sắc sảo và ấn tượng này, Nguyễn Tuân
thể hiện cái nhìn vđối tượng phản ánh người lái đò sông Đà tgóc nhìn của cái
đẹp, và con sông Đà từ những sự tham chiếu mang tính tổng hợp thẩm mỹ của địa lý
lịch sử – văn hóa.
Về con sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện hai điểm nhìn chính hùng vĩ, hung bạo
thơ mộng, trữ tình. Hai điểm nhìn này có tác dụng bổ sung cho nhau để dựng nên hình
tượng con sông Đà độc đáo thú vị. Nếu thiếu một trong hai điểm nhìn thì hình
tượng con sông không còn nguyên giá trị, mất sức hấp dẫn, lôi cuốn: Thiếu điểm nhìn
về đặc tính hùng vĩ, hung bạo chỉ còn trtình thì con sông thiếu tính biệt,
tính và chỉ con sông bình thường; thiếu điểm nhìn về đặc tính thơ mộng, trữ tình thì
con sông chỉ còn lại đặc điểm địa lý, con người sẽ cảm thấy sợ hãi, lánh xa. Do vậy,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
hai điểm nhìn trên tương tác lẫn nhau để vừa tạo nên tính chân thực, vừa tạo nên sức
hấp dẫn riêng, độc đáo có một không hai trong cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Trong cả hai điểm nhìn, các sắc thái của đối tượng được miêu tả, phẩm bình, đánh giá
luôn phong phú, đa dạng, linh hoạt trong cách dùng từ ngữ giàu chất thơ, cách von
so sánh mới lạ của nhà văn. Chẳng hạn, miêu tả con sông ở khúc hẹp thì như chiếc yết
hầu bị đá bờ sông chẹt cứng, khi khúc rộng thì mênh mông hàng cây số của một thế
giới đầy gió gùn ghè; khi thì mặt thác với dòng nước như hùm beo lồng lộn, khi thì
những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu…
Điểm nhìn không chỉ dừng lại hình hài ng sông hay bờ sông đoạn hoang dại
như một bờ tiền sử cả ở âm thanh của con sông cũng được thơ hóa đa dạng, phong
phú: oán trách nỉ non, khiêu khích chế nhạo, đột ngột rống lên, thét gầm lên, ặc ặc lên,
thở kêu như cửa cái cống bị sặc… Điểm nhìn trữ tình trước hết thể hiện cách
von tính hình nhưng sống động về con sông như một áng tóc trữ tình huyền
diệu với đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây.
Mặt khác khi không gian của điểm nhìn di chuyển về khúc sông êm đềm, yên ả như
đoạn chảy qua chợ Bờ thì nước dòng sônglúc xanh như ngọc bích, có lúc lại đỏ lừ;
ấn tượng về dòng sông như với cố nhân, lúc lại mang màu huyền ảo sương khói
như trong một cảnh thơ Đường tuyệt bút của Bạch. Thiên nhiên cây cỏ cũng gợi
tình, lãng mạn: nương ngô nhú lên mấy ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp, một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm…
Về người lái đò trên sông Đà, cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện các
điểm nhìn về ngoại hình, về lòng dũng cảm, về tài năng lái đò trên con sông, về tình
yêu lao động và tất cả toát lên vẻ đẹp trong cách miêu tả và thể hiện của tác giả. Trong
cái nhìn của thiên tùy bút giàu chất nghệ thuật sáng tạo này, người lái đò sông Đà
hiển hiện một cách tự nhiên thuyết phục từ tính tổng hợp thẩm mỹ của mọi đặc
điểm, giá trị. Tính ơng tác của hình tượng người lái đò với con sông Đà trong các
điểm nhìn của nhà văn tạo nên những giá trị mới mẻ cho cả hai. Cũng từ đó, tạo nên
những ấn tượng độc đáo sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước con người Việt
Nam qua thiên tùy bút đẹp như một bài thơ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Giữa hai đối tượng miêu tả con sông Đà người lái đò sông Đà luôn mối quan
hệ gắn khăng khít mật thiết trong ch nhìn thể hiện của tác giả. Vẻ đẹp
sức hấp dẫn của mỗi đối tượng miêu tả có được là nhờ sự tương tác giữa chúng, từ đó,
tạo nên hiệu quả thẩm mỹ của bài tuyệt bút này. Với người lái đò, con sông Đà vừa
đối tượng của cuộc chiến cần phải chinh phục để mưu sinh, khi khó khăn đến
mức nhiều lúc trông thành ra diện mạo tâm địa một thứ kẻ thù số một (…)
thấy chính một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay về
minh.
Nhưng cũng chính với những đặc điểm hung bạo của con sông đà, người lái đó mới có
điều kiện để thử thách, ợt lên thể hiện những phẩm chất chiến sỹ trận mạc
nghệ sỹ của mình: Ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt
méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ
hiểm. Tăng thêm i lên tiếng hỗn chiến của nước, của đá thác. Nhưng trên cái
thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái.
Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất…
Người lái đò dũng cảm mưu lược trong mọi tình huống của các vòng thạch trận,
ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Do vậy, lúc thì cưỡi lên thác
sông Đà, lúc thì nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng, ghì ơng lái.. linh
hoạt ứng phó một cách bản lĩnh tài nghệ: Đối với bọn thủy quân sông Đà, ông đò
nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh rảo bơi chèo, đứa tông đè sấn lên chặt
đôi ra để mở đường tiến… trong cuộc chiến với người lái đò như thế, các vẻ đẹp
và hấp dẫn trong nét tính cách hung bạo của con sông Đà cũng có điều kiện để hiển lộ.
Nghĩa là, con sông không chỉ một hiện tượng tự nhiên một hình tượng nghệ
thuật, một nhân vật thực thụ có hồn vía, thần thái, tính cách.
Như vậy, thi pháp kết cấu hình tượng của Người lái đò sông Đà có sự ơng tác giữa
các đối tượng thẩm mỹ. Chính mối quan hệ giữa các yếu ttrong một hệ thống nghệ
thuật thống nhất ấy đã tạo nên tính ởng thẩm mỹ, góp phần đáng klàm nên
sức hấp dẫn độc đáo của hình tượng vừa giàu chất thơ, chất phiêu lưu, lãng mạn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
nhưng cũng hết sức hiện thực luôn thấm đẫm tình yêu thiên nhiên con người của
nhà văn Nguyễn Tuân.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 27
Nhà văn người dẫn đường cho người đọc đến với xứ sở của cái đẹp, bằng ngòi bút
tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dẫn người đọc đến xứ sở của cái đẹp nơi Tây Bắc,
ông đến để tìm chất thơ trong thiên nhiên chất vàng mười trong tâm hồn người dân lao
động nơi đây.
Trước hết, đó vẻ đẹp vừa hùng cũng rất đỗi nên thơ, dịu dàng của thiên nhiên
Tây Bắc, của con sông Đà. Cái hùng dữ dội của sông Đà trước hết đá dựng
vách thành. Ngay chỗ này, cách dùng từ của Nguyễn như đã yểm linh hồn cho cảnh
vật. Từ “vách thành” gợi cái gì đó âm u, thâm sâu, bí hiểm giống như thành xưa quách
cũ, hầm cao hào sâu, giống như một thành trì kiên cố bất khả xâm phạm. Tiếp theo đó,
những so sánh ví von gắn với thực tế về cảm giác lạnh khi ngồi dưới khoang thuyền đi
khiến cho thiên nhiên, không gian nơi đây tuy hùng vĩ, nhưng lại đầy hoang lạnh,
hiểm cùng. Hùng của sông Đà còn tiếng gầm của thác: “hàng cây số nước
đá, đá sóng, sóng gió, cuồn cuộn luồng gió gầm ghè suốt năm”, giọng nghe
“vừa oán trách, vừa van xin” rồi lại khiêu khích “giọng gằn chế nhạo”. Đặc biệt
những hút ớc như cống tông, đầy nguy hiểm rình rập. Con sông Đà hùng vĩ, dữ
dội, hung bạo, i nét hùng hung bạo ấy của Sông Đà khác hẳn con sông Hương
trong văn Hoàng Phủ, sông Hương hùng vĩ, dữ dội nhưng mang nét đẹp mãnh liệt,
phóng khoáng như một bản trường ca của rừng già, còn con sông Đà lại mang tâm địa
của một loài thủy quái. Để thuần phục nó, chế ngự trên trang văn của mình,
Nguyễn đã chơi ngông dùng “nước để tả lửa, lấy rừng để tả sông”, từ đó thấy được
sức mạnh, cũng như sự ghê gớm, ác liệt của con sông Đà. Nét đẹp dữ dội, hùng
của nó cũng đẹp theo một cách rất riêng.
Nhưng bên cạnh vẻ đẹp hùng dữ dội, con sông Đà còn mang trong vẻ đẹp thơ
mộng, trữ tình: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời tây Bắc, bung nở như hoa ban hoa gạo tháng hai, cuồn cuộn
mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Chỉ một chữ áng tóc, ta đã thấy được hết cái tài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
hoa màng lọc tâm hồn tinh tế của Nguyễn Tuân, ông luôn nhìn svật dưới góc độ
văn hóa nghệ thuật, đây chính minh chứng cho điều đó. Xưa nay người ta chỉ nói
áng thơ, áng văn, mái tóc, mấy ai gọi áng tóc bao giờ? Vậy dưới ngòi bút Nguyễn
Tuân, con sông Đà bỗng mang trong phẩm giá cốt cách của một tác phẩm nghệ
thuật, không chỉ đẹp còn duyên dáng, mềm mại, tràn đầy sức sống, sức xanh,
nhựa sống như đang bừng nở trên mảnh đất của tổ quốc này. Nét trữ tình, thơ mộng
ấy, tất cả tài hoa nội lực của ngòi bút Nguyễn Tuân dồn lên trang giấy, để từ đó
dẫn đường cho người đọc đến xứ sở của cái đẹp.
Nếu trên kia là vẻ đẹp của con sông Đà, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, thì
bên cạnh đó Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà” còn đào sâu để tìm kiếm chất
vàng mười trong tâm hồn con người Tây Bắc, đây thể thấy nhất người
lái đò. Con sông Đà nhiều khi dữ dằn như muốn ăn tươi, nuốt sống những người chèo
đò qua đây, y thế nhưng, ông lái Đò ấy vẫn bằng tất cả sức mạnh của mình để chế
ngự nó. Ông lái Đò vừa khéo léo, lại cùng dũng cảm, đầy mưu lược, tài hoa đã
vượt qua được các của tử của con thủy quái này. Ấy thế nhưng, ngay khi vừa ngừng
tay chèo, ông lại trở về với cuộc sống giản dị, bình đạm, không hề khoe khoang hay tự
hào về chiến tích của mình. Hình ảnh ông lái Đò tay lái ra hoa ấy, qua đó phần nào thể
hiện sự vận động trong cách nhìn của Nguyễn Tuân về con người. Trước đó, ông chỉ
nhìn thấy cái đẹp ở những con người đặc tuyển, bây giờ ông thấy cả vẻ đẹp bình dị mà
lấp lánh của người dân lao động trong cuộc sống mưu sinh, ông đã đi từ chốn tháp ngà
nghệ thuật để gần gũi hơn với cuộc sống của nhân dân lao động, hòa nhập với hơi thở
cuộc sống mới. Đó cũng do văn Nguyễn Tuân trong “người lái đò sông Đà”
làm ấm lòng nhiều bạn đọc.
“Người lái đò sông Đà” một kiệt tác của Nguyễn Tuân, một trang hoa tờ hoa bất
ngủ trong dòng chảy văn học Việt Nam, qua đó một lần nữa đóng một dấu triện riêng
của Nguyễn vào lịch sử văn học nước nhà.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 28
Nguyễn Tuân là một người con của đất thủ đô Hà Nội, sinh ra và lớn lên trong một gia
đình truyền thống Nho học. Con người ông ưa thích “chủ nghĩa dịch”, với lối
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
sống, lối viết phóng khoáng, vượt ra khỏi khuôn khổ của thời đại, quan niệm “đời
một trường du hí”, ông viết văn trước hết đkhẳng định cái tôi bản ngã của mình.
Trong sáng tác, Nguyễn Tuân cho rằng lao động một hình thức nghệ thuật, nghiêm
túc thậm chí người viết phải chịu “khổ hạnh” mới có thể cho ra đời những tác phẩm có
giá trị, lẽ quan điểm đặc sắc y người ta cho rằng: “Cái tôi của Nguyễn
Tuân chính một định nghĩa đích thực về nghệ sĩ”. Nói đến đặc điểm của nhà văn
này người ta vẫn thường khắc ghi mấy chữ tài hoa, uyên bác, ông không chỉ có biệt tài
văn chương, bậc kỳ tài trong thể loại bút còn người am hiểu sâu rộng về
nhiều lĩnh vực, từ đó đem đến cho tác phẩm của mình những góc nhìn mới mẻ và toàn
diện khiến độc giả không khỏi trầm trồ kinh ngạc cách sử dụng câu từ điệu nghệ
vốn tri thức phong phú của ông. Nguyên Tuân nhiều sáng tác phân chia ra làm hai
giai đoạn, trong đó các tác phẩm sau cách mạng tháng tám nổi bật nhất chính tùy
bút Sông Đà (1960), được viết trong chuyến thực địa về miền Tây Bắc xa xôi của tác
giả. Người lái đò sông Đà đoạn trích được ợc trong tập tùy bút này với hai hình
tượng trung tâm là dòng sông Đà và người lái đò trên sông.
Lời đề từ Nguyễn Tuân cũng tỉ mỉ soi xét, mượn của Phan Huy Chú câu “Chúng thủy
giai đông tẩu/Đà giang độc bắc u”, để nói về cái quái tính của con sông này, bao
dòng sông khác chọn xuôi về ớng đông, chriêng sông Đà chọn cho mình lối chảy
ngược ngạo, khác thường về phương Bắc. lẽ chính cái tính thích độc lai độc
vãng, riêng mình ta một lối này đó tương đồng với cái tôi đậm chất “ngông” của
Nguyễn Tuân thế n khi viết ta cảm giác Nguyễn Tuân rành rọt thiết tha với
con sông này lắm. ợn thơ của Phan Huy Chú chưa đủ, nhà văn còn mượn thêm
một dòng thơ của thi người y Ban Nha rằng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng
sông” gợi ra cái vẻ đẹp phóng khoáng thơ mộng của Đà giang bên cạnh cái vẻ ngang
tàng, hùng vĩ vốn có bao đời nay của một dòng sông miền rừng núi Tây Bắc.
Sông Đà đã hiện lên trong tác phẩm với một dáng vẻ rất sống động, tựa một sinh thể,
cũng linh hồn, nội tâm cả cuộc đời, với xuất xứ từ tận Trung Quốc xa xôi,
chảy qua hơn 400km với tìm về được biên giới nước ta, rồi nhập tịch tại Mường Tè,
Lai Châu, mang tên độc một chữ “Đà”. Bỗng người ta cái liên ởng về cuộc đời
đầy sóng gió của một kiếp nhân sinh, thế nên khi đến dải đất hình chữ S này, sông Đà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
mới bộc lộ cái bản tính khó hiểu, đỏng đảnh làm mình làm mẩy với cả vùng Tây Bắc,
lúc thì hung bạo, dữ dội như đang giận dỗi gì, lúc lại dịu dàng, nên thơ lãng mạn vô
cùng. Đầu tiên ấy i quái tính hung bạo, hùng vĩ, một dòng sông, đổ dọc Tây Bắc
cái nhiều nhất ở khúc thượng nguồn có lẽ là ghềnh và thác, Nguyễn Tuân có chuyến đi
thực nghiệm dài và cũng lại là người ưa cái “khổ hạnh” tìm tòi khai thác, thế nên sông
Đà trong tác phẩm mới có được những cảnh đắt giá, khiến người ta chỉ đọc thôi nhưng
cũng đủ thấy cái tầm vóc, cảm giác rét lạnh giữa lòng ng. Nguyễn Tuân miêu tả
khúc sông này với những hình ảnh rất hấp dẫn “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, rồi
thì “đúng ngọ mới mặt trời”, chlại “chẹt lòng sông như yết hầu”, sinh động với
những “con nai con hổ đã lần vọt qua bờ bên kia”, tạo cảm giác”đang màu
cũng cảm thấy lạnh”. Tất cả những hình ảnh ấy, khiến độc giả nghĩ dòng sông tựa như
một nhân vật hiểm, lạnh lùng, đang ng đôi mắt sắc bén ng i khí thế âm u để
quan sát, nghiên cứu tất cả những con người bước vào giữa lòng sông, mang đến áp
lực hình khó ờng. Nhưng đó mới chỉ khúc dạo đầu cho cái quái tính ghê
gớm của con sông này, người ta phải thực sự thấy nó khủng khiếp và hung tợn khi đọc
những âm thanh Nguyễn Tuân đã vắt kiệt vốn từ Việt của mình để chế ra. Quãng
mặt ghềnh Hát Loóng cảnh “dài hàng cây số ớc đá, đá sóng, sóng gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò sông Đà nào m được qua đấy”. Rồi quãng ờng Vát dưới Sơn La thì lại
cảnh nước “thở kêu như cửa cống cái bsặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào”. Hoặc khúc quái dị, với điệu bộ “nghe như oán trách gì, rồi lại như van
xin, rồi lại nhưkhiêu khích, giọng gằnchế nhạo”, khiến người ta phải dè chừng,
khiếp sợ nắm chắc tay chèo hơn nữa. Đến chỗ đổ thác ờng như dòng sông biến
thành một loài quái thú, ớc chỗ ấy “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”. Làm người ta ờng tượng ra
cảnh một con thủy quái đang quẫy mình sôi nổi, giận dữ, hoặc đói mồi hoặc kẻ
nào đã lỡ tay chọc vào chiếc vảy ngược mới khiến lồng lộn cả lên như thế. Chung quy
lại tiếng nước trong miêu tả của Nguyễn Tuân quả thực là hấp dẫn thu hút vô cùng,
nó làm nổi bật hẳn lên cái vẻ hầm hố, khó chịu của con sông khúc thượng nguồn này.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
nhiên diện mạo hung bạo, hùng của sông Đà không chỉ dừng lại bấy nhiêu ấy
mà còn ấn tượng hơn với hình ảnh những cái hút nước “đặc sản” của những dòng sông
độ dốc lớn như sông Đà. Trong lăng kính của Nguyễn Tuân những hút ớc ấy
được miêu tả bằng nhiều hình ảnh gợi sự liên tưởng sâu rộng cho người đọc tỉ như
những hình ảnh rất độc lạ “giống ncái giếng tông thả xuống sông để chuẩn bị
làm móng cầu”, hay mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh
khối đúc dày, khối pha xanh”, rồi lại tựa “Cốc pha nước khổng lồ”, rồi thì “Từ
đáy hút ớc nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước
cao đến vài sải”,... Qua những hình ảnh gợi cảm ấy người ta thấy sông Đà những
cái xoáy nước rất mỹ lệ, rất đẹp trong trẻo, xanh ngắt thế nhưng cũng ẩn chứa hàng
vạn mối nguy hiểm cho kẻ o lỡ may sảy chân rơi vào đấy tchỉ tan xác. Thật
ứng với câu “càng đẹp càng độc” của cổ nhân bao đời. lẽ tác giả sẵn máu
điện ảnh trong người, thế nên ông lại càng muốn tác phẩm của mình thêm nổi bật
độc giả được góc nhìn độc đáo bằng việc vẽ ra viễn cảnh một anh quay phim liều
mạng nào đó đặt cả mình cả máy vào xoáy nước được bắt trọn cái khoảnh khắc quay
tít như chiếc gậy đánh phèn của cái hút nước. Quả thực khiến người đọc phải rùng
mình và không khỏi thán phục về cái cách Nguyễn Tuân đưa điện ảnh vào văn của
mình.
Cái diện mạo của dòng sông Đà cáu bẳn, khó tính này lẽ được thể hiện sinh động
hơn cả trong những hình ảnh về đánhững cái “trùng vi thạch trận” mà binh pháp
“thần sông thần đá” đã bày ra để nuốt chửng bất kỳ kẻ nào dám khiêu khích. Với
những hình ảnh sinh động của thứ đá Nguyễn Tuân nói rằng đã mai phục đây
hàng nghìn năm, trực chờ tên liều mạng nào đi qua với bộ dạng sốt sắng nhổm c
dậy” để vồ lấy thuyền, rồi thì dáng vẻ “ngỗ ngược”, diện mạo nhăn nhúm”, méo
mó”, tư thế đứng, ngồi, nằm, nghiêng,... đều đủ cả, khiến người ta phải kiêng trước
cái khí thế chúng tỏa ra. Thêm nữa đá đây đâu dễ dàng cho ai lọt lưới, chúng
chọn cho nh riêng một nhiệm vụ, đứa thì dàn hàng ngang, đứa thì đòi đánh giáp
cà, lại cả đứa giả bộ lộ sở, để những đứa còn lại phục kích đánh úp cho thuyền
không kịp trở tay. Thế mới thấy đá này ghê gớm thế nào, chúng không chỉ
dàn trận còn bày cả “trùng vi thạch trận” tới 3 lớp, lớp sau càng nhiều cửa tử, ít
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cửa sinh, luồng sống hẹp, luồng chết dày, ờng như không để cho kẻ địch một
hội sống còn nào cả. Không biết dòng ng này khó ở, thích trêu ngươi hay đã
mang thù hằn truyền kiếp với con người đây lại mang một diện mạo khủng
khiếp, người sống ta chết như vậy.
Thế nhưng, khác hẳn với cái vẻ hung dữ, thô lỗ, cục cằn nơi thượng nguồn thì vùng hạ
lưu người ta lại phải nhìn sông Đà bằng một đôi mắt khác. Dòng sông hiện lên với
dáng vẻ hiền hòa, từ điểm nhìn cao xa trên tàu bay, dòng chảy như một sợi dây
thừng ngoằn ngoèo, mềm mại trải khắp ng Tây Bắc. Nhìn gần hơn thì lại mang
dáng vẻ của một mỹ nhân xinh đẹp, yêu kiều với dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
Ban, hoa Gạo tháng hai cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, quyến
hấp dẫn cùng. Bên cạnh vẻ mềm mại dịu dàng người ta còn thấy một sông Đà với
nhiều dáng vẻ với những gam màu nổi bật, lãng mạn theo mùa, như “Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm
Sông Lô”, còn “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn
Tuân yêu gắn với quê hương đất nước, đặc biệt với con sông Đà ngu ngạo,
khó chiều này, ông xem dòng sông ấy như một “cố nhân” để liên tưởng đến “màu
nắng tháng ba Đường thi” trong t Bạch với câu thơ nổi tiếng “Yên hoa tam
nguyệt ơng Châu”, tức màu hoa nở rực rỡ mùa xuân gắn với sương khói mặt
sông khiến người ta không khỏi thổn thức một nỗi niềm thân thuộc. Ấy rồi có lúc sông
Đà lại như “người tình chưa quen biết” trong cái cảnh nương ngô, đàn ơu, bờ
sông hoang dại với nỗi niềm cổ tích thuở xa xưa,... khiến lữ khách xuôi dòng xúc
động.
Đó dòng sông, nhưng trong trích đoạn Người lái đò sông Đà, nh tượng chính yếu
nổi bật nhất phải hình ảnh ông lái đò mới đúng. Nguyễn Tuân khúc này chắc cũng
có nhiều phần tương tự đại thi hào Nguyễn Du, sông Đà là Thúy Vân còn người lái đò
chính Thúy Kiều, lấy cái dữ dội, hùng của dòng sông để làm nổi bật lên dáng vẻ
hùng dũng trong lao động của con người. Ông lái đò quả thật xứng đáng khi nhận
danh xưng “chất vàng ời Tây Bắc”, ông không tên, không rõ diện mạo, người ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
chỉ có thể nhận định ông thông qua công việc lái đò đầy nặng nhọc và vất vả, cái công
việc mà theo như Nguyễn Tuân nhận xét ông đã làm đạt đến tầm của một nghệ sĩ, một
nghệ trong công cuộc vượt thác sông Đà. Người đàn ông ấy, đã tầm cái tuổi thất
thập cổ lai hi, nhưng vẫn miệt mài với công cuộc lao động, giống nNguyễn Khoa
Điềm đã nói “không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng họ vẫn sống đóng góp cho đất
nước từng ngày. Ông lão hiện lên với dáng vẻ đậm mùi sông nước mênh mông, vẻ
khắc khổ,“tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái
tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một
bến xa nào đó,…”.
Nói ông lái đò một nghệ mang chất vàng mười của Tây Bắc bởi lẽ ông lão ấy
không đơn thuần chỉ một người lao độngnh thường, người đàn ông này còn
hiện lên hai vẻ đẹp nổi bật ấy vẻ đẹp của một chiến binh dũng cảm trên chiến
trường sông nước, ngày ngày chiến đấu giành giật miếng cơm manh áo vẻ đẹp của
một người nghệ tài hoa hăng say trong lao động, bậc thầy trong nghệ thuật chèo
đò ngày ngày viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động không
ngừng nghỉ. Người ta cũng phần nào mò, sao hình ảnh Nguyễn Tuân để ý lại
một ông lão không phải một thanh niên trai trẻ. Thế nhưng câu “Lửa thử
vàng gian nan thử sức”, biết bao kinh nghiệm chinh chiến trên con sông khó chiều,
hung hiểm này đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, bằng trải nghiệm bằng cả cuộc đời
của ông lão, để ngày hôm nay dẫu già cả nhưng ông lại thực sự trở thành một tay
chèo đò lão luyện, nhà nghề thứ mà chẳng có thanh niên nào có được. Hơn thế nữa, vẻ
đẹp của ông lão còn đến từ sự liều lĩnh, dám nghĩ dám làm, ông bảo đã trên dưới
trăm lần ngược xuôi khúc sông này, trên 60 lần cầm lái chính, thử hỏi mấy ai đã
đủ dũng khí để đương đầu với sóng nước như ông? Rồi thêm vào đó cái chất vàng,
chất nghệ của ông lão còn nằm lòng hăng say, niềm đam trong ng việc
lao động, ông làm không chỉ vì mưu sinh nó là tất yếu mà quan trọng hơn cả vẫn là
ông thực sự niềm đam mạo hiểm, thích cảm giác mạnh. Ông nói: “Chạy thuyền
trên khúc sông không thác dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ” thế mới thấy ông lão
cũng người nhiệt thành, dũng cảm, tâm hồn tươi trẻ, sôi động chẳng thua kém
ai bao giờ. Dẫu rằng cái bản tính hiếu chiến, đam khám phá, chinh phục gian nan
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
thử thách ấy nhiều lần khiến ông phải lao đao cái tính cáu bẳn của sông Đà,
người đầy vết “củ u”, thế nhưng ông cũng chẳng bao giờ i bước, hay lấy đó làm
sợ hãi ngày càng trở nên kiên gan lợm hơn cả. Nguyễn Tuân thấu hiểu cái
tính tính này của ông lái đò, bởi chính bản thân tác giả cũng người tính như
vậy thế nên ông rất trân trọng von những vết tích “củ nâu” y những “huân
chương lao động siêu hạng”.
Hình ảnh ông lái đò trong lao động thực sự nổi bật khi Nguyễn Tuân cất công miêu tả
cảnh chèo đò vượt thác của ông lão quả thực đó một trận chiến không khoan
nhượng khi “cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày
với thiên nhiên, một ththiên nhiên Tây Bắc nhiều lúc trông thành ra diện mạo
và tâm địa của một kẻ thù số một”. Ở đây người ta thấy cái chất nghệ sĩ trong tâm hồn
của ông lão chèo đò hiện lên một ch rệt, hết sức nghiêm túc, tỉ mẩn, miệt mài
kiên nhẫn với công việc. Dòng sông Đà trong lòng ông đã trở thành một bản trường ca
đại người nghệ dành hết tâm của cả một đời chỉ để nghiên cứu, tập dượt,
sao cho nhuần nhuyễn, điệu nghệ đến mức nằm lòng “từng dấu chấm câu, dấu chấm
than, cả những đoạn xuống dòng”, khắc sâu vào tâm khảm như “đóng đanh vào lòng”
từng nhịp từng pháp, không thiếu đến nửa dấu. Đồng thời dòng sông cũng lại trở
thành một chiến trường quen thuộc với vị ớng đã dành cả cuộc đời để chinh phạt,
nơi đó ông được phép thi triển hết bao tài ng, tâm huyết, cả thứ binh pháp ông vẫn
hằng tâm niệm nhằm đối đầu với đá, với những cái hút nước kinh người. Ông lão
xông pha chiến trường với tinh thần mạnh mẽ, hiên ngang, mái chèo thay đao, chiếc
đò duy nhất thay cho chiến mã, dẫu đơn độc thế nhưng khí thế oai hùng của người lái
đò cũng chẳng kém cạnh so với sự ghê gớm, dữ dội của con sông Đà. Đối mặt với
những “trùng vi thạch trận” giăng mắc, ông lão cũng chẳng ngại ngần nắm chặt
mái chèo vượt qua sự thách thức, uy hiếp của đá khó nhằn. Chinh chiến thì sau
tránh khỏi thương tích những lúc sông Đà tung đòn hiểm, người lái đò “mặt méo
bệch đi” thế nhưng ông vẫn cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái” “lên
tiếng chỉ huy ngắn gọn” cho những tay lái phụ an toàn vượt qua trùng vi thạch trận thứ
nhất. Rồi lập tức ớc vào ải thứ hai, cuộc chiến giữa người sông tựa như một bộ
phim hành động càng về hồi sau càng trở nên gay cấn, hồi hộp. Ải này cửa tử lại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
càng nhiều hơn, cửa sinh thì lệch hẳn về bên hữu ngạn, thế nhưng với ông lái đò thì đã
quen thuộc, “ông đã nắm chắc cái bình pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải này”, thế nên ông lão tự tin lấn lướt “ghì cương lái” vọt
vào cửa sinh trước vẻ mặt xanh lè tức giận của lũ đá dàn trận. Còn cửa ải cuối, cùng
cửa khó nhằn nhất, toàn cửa tử, cửa sinh nằm giữa, ông lão chỉ việc ngắm thẳng mũi
đò phóng vào đó xong ải thứ ba, rồi khải hoàn trở về xuôi xuống vùng hạ u. Qua
ba cửa ải sinh tử ấy, người ta thấy ông lão hiện lên với bản chất dũng mãnh, lòng kiên
cường đã tôi luyện cả cuộc đời của một người lính chiến, và lòng hăng say lao động,
chinh phục thiên nhiên của một người nghệ sĩ điêu luyện có “bàn tay lái ra hoa”.
Người lái đò sông Đà quả một trích đoạn xuất sắc trong tập tùy bút Sông Đà, tác
phẩm tiêu biểu nhất trong trong văn đàn Việt Nam thể loại tùy bút, cũng như
trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. đó người ta thấy hiện lên hai hình ảnh
cùng ấn tượng y hình ảnh con ng Đà với vẻ hùng vĩ, dữ dội kiêu ngạo,
đồng thời cũng mang trong mình những t uyển chuyển, mềm mại, lãng mạn. Từ
hình ảnh con sông, thì hình ợng người lái đò đã hiện lên một cách sống động, nét
và nổi bật với ba vai trò kéo, người lao động bình thường, người chiến dũng cảm
người nghệ sĩ với tài năng điêu luyện bậc thầy.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 29
Nhc v các tác gi ln của văn hc Việt Nam, đọng li trong bn nhng ai? Phi
chăng bn ấn tượng, say trưc những ng thơ tình đắm say của ông hoàng thơ
tình Xuân Diu, hay xúc cảm trưc ngòi bút cái gai góc, lnh lùng ca Nam Cao
khi viết v ngưi nông dân. rt nhiu tác gi chn cho mình một đề tài để sáng tác
ta gọi đó sở trưng tr thành du n ca riêng tác gi. Nhưng khi nói đến
Nguyn Tuân, Nguyễn Đình Thi đã nhn xét rằng:” Đây nhà văn suốt đời đi tìm cái
đẹp, cái thật. người sinh ra để tôn th ngh thuật. người sinh ra để tôn th ngh
thut vi hai ch viết hoa”. Nguyễn Tuân đưc biết đến mt cây bút tài hoa, uyên
bác, c đời khao khát, say mê tìm kiếm v đẹp, cái tht ca cuc sng. Lối văn chương
ca ông t do, phóng túng, ý thc sâu sc v cái tôi cá nhân. Mt trong nhng sáng tác
tiêu biu của ông tùy bút Người lái đò sông Đà”, thiên tùy bút rút trong tp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
“Sông Đà” (1960). Đây thành qu ngh thuật đẹp đẽ Nguyễn Tuân đã thu hoạch
được trong chuyến đi thực tế đến y Bắc năm 1958, gian khhào hng. Hình nh
con sông Đà hiện lên tht to lớn, hùng vĩ, dữ di khiến ta thy bn thân tht nh
trưc thiên nhiên.
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành mt "nhân vt" mt sut t đầu đến cui
thiên tùy bút, to nên mt giá tr cùng đặc sc cho tác phẩm này. Dưới ngòi bút
uyên bác i hoa ca Nguyễn Tuân, sông Đà đã trở thành mt vt sng tính,
tâm trng, hoạt động ch không phi tri, giác. Con sông hiện lên trước mt ông
như là mt s hùng vĩ của thiên nhiên. Tác gi đã cho người đọc như đưc chng kiến
tn mt khung cảnh sông Đà, thỉnh thong li dng li nhng pha "cn cnh" tht tiêu
biu v s d dằn này. Trước hết là cảnh đá b sông “dựng vách thành”, hình ảnh hin
lên to ln, sng sng, khiến cho người ngi trên thuyn rn ngp, s hãi. Ch khi nào
đến giữa trưa đúng gi ng, mt tri rọi đúng đỉnh đầu, ch y mới được đón nắng,
lúc này đây ta ch thy mt ng hp, lòng ng chy b thu hẹp đến mc đứng b
bên này nh tay ném hòn là đã có th qua đến b bên kia, hẹp đến mc con h, con nai
nhy nh đã thể vt t b bên này sang b bên kia không h tn nhiu chút
sc lc, cm giác rn ngp, lnh lẽo, tăm ti. Cách so nh trên ca tác gi đã gây
được mt ấn tượng sâu đậm trong trí óc người đọc v s thẳng đứng của vách đá với
độ cao ngút tri. ch vách đá thành chẹt lòng ng Đà như mt cái yết hu. Ngi
trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa nóng bức cũng cảm thy lnh run
người, như đứng mt cái ngõ ngóng vng lên mt khung ca s nào t cái
tng nhà th my nào va phụt đèn điện. Nhà văn đã kết hp hài hòa gia các giác
quan khác nhau đ th so sánh, nhân hóa, liên ng phong phú làm ni bt lên v
đẹp của vách đá thật mi m, táo bo. Vách thành dựng đứng gi lên s him tr,
hùng đầy n, s hãi như đang tham gia tchơi mạo him, ng sông li hp gi
lên đưc những dòng nước chy vi vn tc ghê gm, d dn của thác lũ.
Tính cht hung bo của dòng sông còn đưc tác gi th hin qua cái d dn ca ghnh
sông vi hp sc ca gió, ca sóng của đá. Dường như chúng những mnh ghép
hoàn ho phi hp với nhau đầy ăn ý đ ng thêm sự đe dọa, uy hiếp tính mng ca
những con người đi qua đây: quãng mt ghềnh Hát Loong, “dài hàng cây số”, nước xô
đá, đá sóng, sóng gió, em cun lung gió gùn ghè suốt năm như lúc nào ng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
chc ly mng bt k người lấy đò nào đi ngang qua đây. Người lái đò đi qua đon
này phi hết sức khéo léo, cao độ kinh nghim. ch s dng t láy cun cun
và động t mnh gùn ghè th cho thy s chn lc t nghĩ tinh tế ca tác gi. Ngh
thut nhân hóa kết hp với động t mạnh đ làm ni bt nhng con sóng mnh, ln,
d tợn, luôn luôn đe da và gây nguy hiểm cho người lái đò. đây, một phần câu văn
như bị ngắt đứt ra thành tng khúc ngn, gn, điệp cu trúc tăng tiến, to s thúc
đẩy dn nén, gấp gáp thúc đẩy s hi hộp, tò mò trong lòng người đc.
Những cái hút c khng khiếp làm cho sông Đà thêm hung bo phn nào: trên sông
bng những cái hút c giống như cái giếng tông th xuống sông để chun b
làm móng cầu. “Trên mặt thì hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ t nhng cánh qu
đàn”, câu văn cho ta thấy hình nh hết sc gin d by qu đi ăn bay vòng tròn, con
người thì li dng sức nước gn cánh qut li dng sức nước đ sn xuất điện.
nước b hút quá mnh nên xoáy thành tng vòng, phát ra nhng âm thanh hãi hùng
được tác gi nhân cách hóa như tiếng th của ớc kêu như ca cng cái b sc do
nước rt rợn người. Người lái đò nếu muốn vượt qua phải chèo nhanh lướt quãng
sông”, rất nguy hiểm cho người lái đò, nên khi muốn qua đoạn này người lái đò phải
tht s tài ba, giàu kinh nghim thì mi gi được mạng. Để làm gia tăng thêm s him
nguy mà cái hút nước tạo ra, nhà văn đã kết hp hài hòa gia "t" "k". đây, yếu
t t s góp phn quan trng kích thích, m mang trí tưởng tượng đy phong phú ca
người đc.
Nói đến s n bo, d tn của sông Đà tất không th thiếu đến s d dn ca nhng
con thác. Nhiều thác ớc như bày sẵn thế trn, sẵn sàng đánh trả, cướp ly mng
sng của người lái đò, lái mảng, đặc bit vi nhng người nào xuôi dòng, những nơi
này, sông Đà được tác gi miêu t như c mt by thu quái xung quanh vừa độc
ác, hung bo, xo quyệt. Lúc thì thác nước chế nho, khiêu khích, khi thì li gm rú,
gào thét như tiếng mt con trâu mộng đang lồng ln gia rng vu tre na n la,
đang phá luống rng. Âm thanh rùng rn, khng khiếp, bng bin pháp so sánh và liên
ng làm ta nh đến cảnh động đt thi tin s.
Cái hung bo ca con sông Đà không nhng ch đưc th hin qua s hung bo ca
nhng con thác, còn quang cnh bao la, rng ln vi v đẹp ẩn đầy hoang
ca dòng sông chy gia núi rng Vit Bắc cũng góp phần không nh vào th hin
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
điều này. Thác nước như được nhân đôi sức mnh, sức tàn phá, tăng thêm s nguy
hiểm đối vi s sng của người lái đò sự góp mt thêm ca hàng ngàn tảng đá, to
nh khác nhau. Mỗi hòn đá được khc họa như mt quái vt t ngàn năm vẫn kiên trì
phục kích nơi này đ bày thch trn trong lòng sông. Mi ln thy mt con thuyn nào
đi ngang qua chúng lập tc v ly thuyn.Thoạt nhìn qua đã thấy mt sông trng
xóa c mt chân trời đá. Những n, tảng tưởng như đứng ngồi đầy t nhiên.
Nhưng quả thc không phi vy, chúng đã đưc bày binh b trn mục đích nhằm ly
mng những con người đi ngang qua đây. Chúng giàn ba vòng vây cc k nguy him.
Mi vòng vây, chúng li m rt nhiu ca t nhưng lại ch duy nht mt ca sinh.
Cửa sinh đó lại được b trí cùng him tr đầy lt léo, lúc bên phi, lúc bên trái, khi
thì giữa. Vòng đầu, nó t ra v ch quan, d tính đầy hở để d nhng con thuyn
tiến vào sâu bên trong sau đó tung ra đòn chí mạng đánh khuýp qut vu hi. Khi
con thuyền đã bị sp bẫy, đá thác sông c nht t xông lên, cùng tác chiến, đánh
hội đồng. Chúng đánh ti tp, dn dp, liên tc những đòn hiểm độc. Chúng âm mưu
phá tan tt c thuyn trưng thy th ngay chân thác. Qua trí tưởng ng
cùng phong phú ca Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên nguyên hình con thy quái khng
l xo quyt, hung dữ, đầy tâm đc ác. C thế, s him ác của sông Đà - k thù s
1 ca những con người nơi Tây Bắc c nhân lên gp vạn trong liên tưởng của người
đọc. Đọc những trang văn ca Nguyễn Tuân ta như lạc vào nhng trận địa thiên la
địa võng. Tác gi nhân cách hóa và thi s sng vào cho những hòn đá tri, vô giác,
gợi cho người đọc tưởng tượng ra đưc v thô bo, táo tn của chúng như một giặc
khát máu điên cuồng. Nguyn Tuân còn s dng ngôn ng ca nhiu lĩnh vực như
điện nh, quân s “giáp cà…”, th thao “hàng tin v…”, thuật “đánh khuýp
qut vu hồi’.
Bng ngòi bút tài hoa uyên bác, cách s dng ngôn ng sống động, tng hp trên
nhiu vn tri thc, vốn văn hóa về nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sng, t hi ha,
điện ảnh đến quân sự, tình yêu thiên nhiên, đất c. Ngh thut viết tùy bút bc thy
khiến con sông đà hung bạo, độc hiểm ng phải hin hình nét trên trang giy ca
Nguyn Tuân.
Tóm lại, khi ta đến vi tác phẩm “Sông Đà” thấy tr ợng cái đẹp, chất vàng mười
của đất nước con người Vit Nam trong cuc sng qu nhiu kể”, Phan Thị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nhài. Qua vic nhìn nhn, khám phá, miêu t thiên nhiên Sông Đà. Nguyễn Tuân đã
khẳng định tài năng uyên bác ngòi bút tài hoa của mình. “Người Lái Đò Sông Đà”
một áng văn đẹp được làm nên t tình yêu đất nước say đắm, thiết tha ca mt con
người muốn dùng văn chương để ca ngi v đẹp vừa vĩ, hào hùng, vừa tr nh, t
mng ca thiên nhiên, và nht là ca con người lao đng bình d min Tây Bc.
| 1/130

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà Dàn ý số 1 I. Mở bài:
● Giới thiệu tác giả: Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
● Giới thiệu tác phẩm: “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một
trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám. II. Thân bài: * Khái quát chung
- Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất
vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.
* Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông + Bờ sông
● “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng.
● Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”.
● “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”.
● Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào
mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
→ hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để
bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi. + Ghềnh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
● ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn
luồng gió gùn ghè suốt năm…”.
● Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình
ảnh khủng khiếp của nơi đây.
● Được miêu tả như những kẻ sẵn sàng đòi nợ
→ Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được. + Hút nước
● Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô
gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.
● Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
● “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.
→ Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem
một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ. + Thác nước
● Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.
● “Thế rồi nó rống lên”,so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
→ sự giữ dội của nước sông. + Đá
● “cả một chân trời đá” → đá sông Đà nhiều vô kể.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
● từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.
● Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
→ sông Đà giống như kẻ thù số một của con người
* Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
● Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
● Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước: mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
● Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”.
● So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
→ Những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ. * Đánh giá
- Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo → đưa người đọc đi hết từ
sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà. III. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị của tác phẩm. Dàn ý số 2 I. Mở bài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của thế kỉ XX. Nền văn xuôi luôn in hằn những dấu vết
nghiêm túc và đầy sáng tạo trong lao động nghệ thuật của ông.
- Tác phẩm Người lái đò sông Đà là thi phẩm tiêu biểu, thành công đánh dấu hướng đi,
suy nghĩ của ông sau cách mạng tháng tám. II, Thân bài
1. Hình ảnh con sông Đà
Theo Nguyễn Tuân con sông Đà như nhân vật có hình thù, cá tính với hai tính cách cơ
bản: hung bạo và trữ tình.
*Tính cách hung bạo và nét hùng vĩ của sông Đà
• “Ở khoảng sông hẹp, bờ sông chẹt lại như một cái yết hầu, hai bờ đá đứng
thành vách, mặt sông đoạn ấy rất sâu, tối, đúng ngọ mới thấy mặt trời…” “đi
giữa thuyền hè vẫn thấy lạnh, nhìn lên chỉ thấy một ô sáng như cửa sổ có đèn…”
• Ngôn ngữ được sử dụng rất giàu chất tạo hình, kĩ thuật điện ảnh để miêu tả
từng đường nét, ánh sáng, quan sát ở nhiều góc độ nên nhà văn mới tạo dựng
nên cảnh bờ sông một cách động, toát lên vẻ hùng vĩ, dữ dội mà hiểm trở, nhiều cảm giác.
• “Những cái hút nước ở Tà Mường Vát như những cái giếng bê tông khổng lồ
đang xoáy tít đáy mà mặt giếng, thành giếng xây toàn nước sông xanh ve như
một áng thủy tinh khối đúc dày…” “Nước sôi lên ằng ặc… Nếu ngồi trong
thuyền thúng dưới đáy cái hút nước ấy mà lia ống kính ngược lên thì sẽ truyền
cho người xem trong rạp một cảm giác quay cuồng…”
• Ngôn ngữ vô cùng sắc cạnh, hình ảnh lạ, đầy nguy hiểm được miêu tả rõ nét,
chân thật, làm toát lên vẻ dữ dội, ghê gớm của máy hút nước trên sông, hiện lên
khuôn mặt dữ dằn của dòng sông.
• Đoạn ghềnh sông “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” tiếp đến là những thác
nước, từ xa nghe tiếng như là oán trách, rồi lại van xin, sau đó lại rống lên như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn mắc kẹt giữa rừng tre nổi lửa… mặt
sông rung lên tung bọt trắng xóa…
• Vốn từ phong phú, ngôn ngữ giàu sức tạo hình, câu văn phóng túng, nghệ thuật
vừa nhân hóa vừa so sánh làm hình ảnh con sông hiện lên có hình thù và tâm
tính rõ nét. Âm thanh phát ra cuồng nộ, cơn giận dữ cho thấy bản tính hung hãn.
• Trận thủy chiến trên sông với bày trí thạch trận, nhiều vòng vây với lực lượng
phối hợp của đá tảng, con sóng ngầm hò la vang động núi trời…
• Qua việc miêu tả cận cảnh, chi tiết, sử dụng từ ngữ giàu sức tạo hình, gợi tả, tác
giả đã làm hiện lên hình ảnh sông Đà hung bạo, cuồng nộ khi vặn mình đau
đớn qua những tảng đá. Qua đó cho thấy sự uyên bác trong trang văn, sự hóm
hỉnh, linh hoạt trong sáng tạo của tác giả.
*Tính cách trữ tình
• Chảy qua vùng bình nguyên hoặc khi đứng từ trên nhìn xuống, sông Đà trở nên
hiền hòa đến lạ, tưởng như một người bạn của con người.
• Từ trên máy bay nhìn xuống, “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ
tình… ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung hoa ban hoa gạo”: qua cái nhìn say
đắm, chìm sâu của tác giả sông Đà trở nên quyến rũ, màu sắc đa dạng, lấp lánh
• Hình ảnh thơ mộng, phép so sánh giàu giá trị biểu cảm, ngôn từ linh hoạt, mềm
mại làm nổi bật sông Đà có vẻ đẹp dịu dàng, hiền hòa, mộng mơ.
• “Từ trên dốc nhìn xuống thấy mặt sông lấp lánh như đứa trẻ nghịch chiếu
gương… sáng lên một màu nắng tháng ba Đường Thi”
• Một phép so sánh độc đáo, mới lạ, giọng văn nhẹ nhàng cho thấy vẻ hồn nhiên,
thanh bình của sông “sông vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng… đằm thắm
ấm ấm như gặp lại cố nhân…”
• Tác giả nhìn ra khía cạnh chiều sâu của sông, một vẻ đẹp thân thiện, dễ mến,
hơi ấm của tình người trong dòng sông. Hơn nữa, dòng sông trở thành người
bạn hiền dịu, cởi mở, niềm nở chờ đợi người phương xa trở về.
• Dưới thuyền nhìn lên thấy “bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn
nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa..”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
• Một phép so sánh độc lạ, từ không gian liên tưởng về thời gian, có sự mở rộng
biên độ làm cho con sông mang nét hoang dã, cổ xưa nhưng thuần khiết
• Trên đồi cỏ non “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương ngơ
ngác…” như đang hỏi thăm ông khách sang sông. Tiếng cá đập nước, con lững lờ trôi nhớ thương…
• Biện pháp nhân hóa giàu chất thơ khiến dòng sông trở nên hồn nhiên, hoang sơ,
tinh khiết hiện ra đẹp như tranh vẽ ở mọi góc nhìn. Vẻ đẹp hiền hòa, yên bình
của sông góp phần tô điểm cho cảnh quang non sông đất nước.
• Miêu tả sông Đà như một kí sự bằng ngôn từ linh hoạt, phong phú, giàu sức
gợi, như thế mới thấy Nguyễn Tuân tài năng, đằng sau sự say mê miêu tả dòng
sông còn là tình yêu tổ quốc, nâng niu tiếng mẹ đẻ…
2. Hình ảnh ông lái đò
*Ngoại hình, giọng nói
• “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại
như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, đầu bạc quắc thước, thân hình cao
to và gọn quánh như chất sừng mun, đôi cánh tay trẻ tráng quá…”
• “giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi
như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó…”
• Ngôn từ giàu chất tạo hình, từ láy cùng các biện pháp so sánh tác giả đã khắc
họa thể lực cường tráng, khỏe mạnh, rắn rỏi. Cách liên miêu tả của Nguyễn
Tuân liên tưởng ngoại hình của ông lái đò có dấu ấn nghề nghiệp
*Niềm say mê lao động
• Ông lái đò là một người anh hùng vô danh, bình dị thầm lặng mà quang vinh.
Ông luôn tâm huyết với nghề, mãi không thay lòng, ngày ngày chèo lái, chế
ngự con thuyền vượt qua sự hung hãn của sông một cách đáng tự hào.
• Hình ảnh người lao động mới yêu nghề, tự tin, tự do làm chủ cuộc đời, chinh
phục thiên nhiên, sẵn lòng cống hiến, xây dựng quê hương.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân *Tính cách
• Qua cách ông chiến đấu với con sông có thể thấy ông là một người có tri thức, năng lực.
• Ông đóng đanh tất cả dòng nước, những con thác hiểm trở, thuộc làu dòng sông…
• Nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá… • Có tài chỉ huy.
• Ông là người mưu trí, tài ba, có mưu lược và làm chủ cuộc đời, phong thái ung dung.
• Khi ra trận ông bộc lộ vẻ đẹp anh hùng vàn nghệ sĩ
• Ông bình tĩnh đưa con thuyền vào trận chiến thiên la địa võng, sẵn sàng vật lộn
với con thủy quái. Lao vào trận địa như viên tướng tả xung hữu đột,,,
• Ông lái đò là người vẻ đẹp tiêu biểu yêu nghề, có tinh thần làm chủ, vừa mang
dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân III. Kết bài
Người lái đò sông Đà không chỉ miêu tả con sông Đà mà còn khắc họa vẻ đẹp của
người lao động. Qua đó cho thấy sự tri thức, hiểu biết của tác giả mang lại một tác phẩm văn học uyên bác. Dàn ý số 3 I. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà. (Nguyễn Tuân là
một tác giả lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học của Việt Nam). II. Thân bài
1. Hình tượng con sông Đà
a. Con sông Đà hung bạo
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp:
• Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.
• Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con
hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.
• Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.
→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.
- Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:
• Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn
ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà...
• Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp
gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.
- Cảnh ở quãng Tà Mường Vát:
• Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống
dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.
• Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc
ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
• Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.
→ Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về
những mối nguy hiểm của sông Đà.
- Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò:
• Một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm
địa một thứ kẻ thù số một.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
• Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo...rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
• Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám
hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền
vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai
trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,....
• Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ
oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.
• Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa
trận nước vang trời thanh la não bạt.
• Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá...
→ Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo,
dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.
Sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô
giác mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng, không chỉ
hung hãn mà nó còn rất xảo huyệt, mưu ma để lừa người lá đò vào thế trận đã bày sẵn
và hướng người ta vào cửa tử.
Hình tượng con sông Đà hiện lên thật kì vĩ, hiểm trở, dữ dội và rất hung bạo… Sông
Đà biểu tượng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.
b. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình
Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc,
chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo"
"Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến".
Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
→ Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì
gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi
áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt:
Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.
→ Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng
một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông
đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.
2. Hình ảnh người lái đò
- Về lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.
- Ngoại hình: “tay lêu nghêu... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.
-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.. -Tài năng và tâm hồn:
• Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông
xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”...
• Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ
“nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...”, “nắm chắc binh pháp của
thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng,
phóng thẳng thuyền vào giữa thác...”
• Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái
đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường. III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Người lái đò sông Đà phân tích - Mẫu 1
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông là cây bút
uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác cảm giác và liên tưởng
phong phú, bộn bề nhằm tìm ra những nghĩa xác đáng nhất. Người lái đò sông Đà là
một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
Trong bài tùy bút này, Nguyễn Tuân ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên con người Tây Bắc.
Đến với “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ được chiêm ngưỡng những vẻ đẹp khác
nhau của hình tượng sông Đà.
Sông đà là một hình ảnh trung tâm của tác phẩm được tác giả xây dựng rất thành công.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân sông Đà không chỉ tiêu biểu cho thiên nhiên Tây Bắc
mà còn trở thành một sinh thể có tâm hồn có tính cách. Đó là một dòng sông rất hung
bạo dữ dội và thơ mộng trữ tình. Không để cho người đọc phải chờ đợi lâu, ngay trong
lời đề từ của tác phẩm Nguyễn Tuân đã tạo dấu ấn trong lòng người đọc về sự lạ
thường của con sông đà. Nhà văn đã mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích để giới thiệu:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu”
Việc sử dụng những câu thơ chữ Hán đã tăng thêm tính trang trọng, cổ kính cho hình
tượng sông Đà. Từ “độc” trong lời thơ được sử dụng vô cùng hiệu quả thể hiện sự độc
nhất, không lặp lại, sự khác biệt khác thường của sông Đà. Sau lời đề từ, Nguyễn
Tuân đã tỉ mỉ liệt kê tên của 73 con thác của sông Đà, nhưng sự hùng vĩ của nó không
chỉ có thác mà còn ở vách đá. Bờ sông Đà không trôi giữa hai bờ cát trắng phẳng lì
thơ mộng trữ tình như Sông Đuống của Hoàng Cầm mà chảy sữa hai vách đá dựng
đứng hun hút. Từ điểm nhìn bao quát, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc hình dung về
sự hiểm trở của sông Đà. Cảnh quan bờ sông “dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy đứng
ngọ mới thấy mặt trời”. Những từ ngữ chính xác và chi tiết cụ thể đã giúp người đọc
hình dung về sự hiểm trở của vách đá đó.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Không chỉ vậy, bằng cách sử dụng nghệ thuật so sánh tài tình “cách đá thành chét lòng
sông Đà như một cái yết hầu”, cùng sự liên tưởng độc đáo vừa chính xác kinh tế vừa
bất ngờ lạ lùng “ngồi trong quãng đó…” lấy phố phường để ví von với sông nước, hai
sự vật vốn không có điểm tương đồng nay lại có thể dùng để liên tưởng với nhau.
Cách liên tưởng ấy đã truyền cho người đọc một cảm giác ớn lạnh rùng mình rất chân
thực, có thể làm kinh động hồn trí người đọc khi nghĩ đến quãng sông ấy.
Con sông Đà không chỉ có những vách đá dựng đứng mà ở quãng Hát Loong còn:
“dài hàng dài cây số nước và đá, nước xô đá, đá xô sóng, sóng lại xô gió” như một
vòng tuần hoàn. Nguyễn Tuân tập trung miêu tả cảnh mặt ghềnh Hát Loóng để khắc
họa sự hung bạo ở diện mạo của con sông. Tác giả nhắc đến địa danh Hát Loóng
nhằm gợi sự xa xôi hoang sơ nguy hiểm. Thêm vào đó sự kết hợp nghệ thuật liệt kê
“nước, đá, sóng, gió” cùng điệp từ “xô” đã gợi ra những hoạt động liên tiếp nối nhau
cùng va đập, xô đẩy, gào thét tạo âm thanh kinh hãi vang động kéo dài cả hàng cây số.
Từ láy “cuồn cuộn” cùng thủ pháp so sánh, nhân hóa “như đòi nợ xuýt”, “gùn ghè”
vừa nhấn mạnh dòng chảy cuộn xiết, dữ dội cùng tiếng gió rít rùng rợn, quăng quật,
gào rú thách thức con người vừa hé mở hành động tâm địa nham hiểm độc ác của con
sông. Từ đó nhà văn làm nổi bật sự hung hãn lì lợm cuồng bạo của Đà Giang ngày
đêm hăm dọa uy hiếp con người.
Đến quãng Tà Mường, ta lại bắt gặp “trên sông có những cái hút nước giống như cái
giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu…”. Từ “bỗng” gợi cảm giác
bất ngờ, hoang mang trước sự xuất hiện đột ngột của hút nước. Nghệ thuật so sánh
“như cái giếng bê tông” đã vẽ ra hình dáng to lớn, đen ngòm, sâu hoắm, tối tăm, hình
dung như miệng của con thủy quái khổng lồ đang chực nuốt mọi thứ đi qua nó. Tất cả
đã cụ thể tiếng kêu ghê sợ, rùng rợn, hoang dã, đủ thấy sự bạo liệt hiểm độc của xoáy
nước Đà Giang. Không chỉ vậy, nhà văn còn tô đậm sức mạnh khủng khiếp ghê gớm
của hút nước sông Đà “những bè gỗ lớn nghênh ngang bị lôi tuột xuống đáy, rồi bị hút
xuống khiến nó trồng cây chuối ngược vụt biến đi và tan xác ở khuỷnh sông dưới”, nó
gây nguy hiểm cho tất cả thuyền bè đi qua quãng ấy. Như vậy Nguyễn Tuân đã khắc
sâu sự dữ dội nguy hiểm cũng như cảm giác rùng mình nghẹt thở hãi hùng trước sức
mạnh của những xoáy nước trên sông.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Không chỉ dừng lại ở những hình ảnh vách đá dựng đứng, những cái hút nước sâu hút
hay hơi thở ừng ực của dòng nước cuồn cuộn, con sông Đà còn phối hợp hài hòa với
âm thanh réo rắt của những thác nước. Tưởng chừng như tác giả là một nhạc trưởng
đang chìm đắm điều khiển dàn nhạc giao hưởng hùng tráng của sông Đà với bài ca
của sóng hòa với gió xô nước lên những vách đá. “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới,
nhưng đã thấy tiếng nước réo gần... cùng gầm thét với đàn trâu ra cháy bùng bùng”.
Như thế sông Đà phô trương thanh thế hù dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất
hiện. Khi giáp mặt, âm thanh gào thét rùng rợn của thác nước lại khiến con người
choáng váng. Bằng những liên tưởng độc đáo. nhà văn đem đến ấn tượng mạnh mẽ về
một sông Đà hung bạo khủng khiếp nhằm uy hiếp đến mức mất tinh thần hồn siêu
phách lạc với những người lái đò non kinh nghiệm yếu tay lái.
Con sông Đà hiện lên dữ dằn, hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con
người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ
thuật tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân- ngòi bút số một về thể loại tùy bút Việt
Nam. Nhưng con sông Đà hiện lên không chỉ trông hung bạo, dữ tợn như vậy mà đôi
khi nó cũng có vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng trữ tình. Dòng sông Đà không chỉ có những
“dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy
mặc vương vấn lòng người.
Với góc nhìn từ trên tàu bay nhìn xuống “Mùa nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da
mặt … ”. Tác giả sử dụng từ láy “ngoằn ngoèo” kết hợp với phép so sánh “như cái
dây thừng” gợi đường nét uốn lượn quanh co gấp khúc khi sông Đà chảy giữa núi đồi
Tây Bắc. Cách so sánh liên tưởng giản dị khiến sông Đà thật gần gũi, trong phút chốc
người đọc quên đi ấn tượng về một dòng sông hung hãn nguy hiểm, luôn tìm cách để
mưu hại con người. Từ trên cao nhìn xuống sông Đà xinh đẹp như một người con gái
kiều diễm với hình ảnh “thuôn dài thuôn dài như một áng tóc trữ tình”. Bằng sự quan
sát đầy tinh tế, Nguyễn Tuân nhận ra mùa xuân nước sông có “màu xanh ngọc bích”,
đến mùa thu nước sông Đà: “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu”, với
cái nhìn đầy mê đắm Nguyễn Tuân nhận ra vẻ đẹp bí ẩn sống động ở diện mạo khiến
sông đà như cô gái đẹp nhưng đỏng đảnh thất thường đầy cá tính.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Từ trong rừng nhìn ra, con sông đà gợi cảm như một cố nhân : “bờ sông Đà, bãi sông
Đà, …, nó đằm đằm, ấm áp như gặp lại cố nhân”. Bằng thị giác nhà văn đã phát hiện
vẻ đẹp quyến rũ cuốn hút riêng mà thiên nhiên sông Đà mang lại. Từ “cố nhân” khắc
sâu bề dày kỷ niệm với sông Đà cũng như tình cảm gắn bó sâu nặng của Nguyễn Tuân
dành cho dòng sông này. Với tác giả, vẻ đẹp gợi cảm của Sông Đà được khắc sâu qua
chính cảm xúc của ông trong ngày tái ngộ. Bằng sự gợi cảm của mình, sông đà đã
thực sự trở thành một cố nhân, một tình nhân dẫu trái tính vẫn hấp dẫn mê hoặc lòng người.
Cuối cùng Nguyễn Tuân tập trung miêu tả vẻ đẹp hoang sơ trù phú của đôi bờ khi ông
đi thuyền trên sông Đà: “Cảnh ven sông ở đây lặng từ… Và con sông như đang trôi
những con đò đuôi én thắp mình dây cổ điển”. Thi vị nhất là không gian tĩnh lặng trên
dòng sông Đà, tác giả liên tưởng đến dòng sông chảy xa xăm trong lịch sử “đời Lý,
đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”, vừa làm nổi bật sự cổ
kính tĩnh lặng của không gian vừa gợi cái thăm thẳm xa xăm của thời gian. Không chỉ
vậy, cảnh bờ sông tiếp tục được miêu tả qua những so sánh độc đáo “bờ sông hoang
dại như một bờ tiền sử…”, sự liên tưởng mới lạ của ông đã tô đậm vẻ đẹp cổ kính
hoang sơ mà vẫn trong trẻo êm đềm tĩnh lặng của dòng sông đã có từ rất xa xưa. Ẩn
sau vẻ đẹp bình yên tĩnh mịch sông Đà còn mang vẻ đẹp hữu hình trù phú, được nhà
văn phát hiện qua các hình ảnh “cỏ danh đang ra những nõn mút, búp cỏ danh đẫm
sương đêm, mấy lá ngô non đầu mùa, áng cỏ sương”. Tất cả đã làm nổi bật khung
cảnh yên bình thơ mộng sự sống tràn trề đã tạo nên diện mạo mới cho sông Đà nơi hạ
lưu. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân sông Đà còn rất nặng tình nặng nghĩa.
Vẻ đẹp của sông Đà được khắc họa thành công bởi tác giả đã vận dụng linh hoạt các
biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, sử dụng ngôn ngữ có giá trị tạo hình cao, dùng
nhiều câu liên tưởng độc đáo bất ngờ, câu văn đa dạng giàu nhịp điệu. Qua góc nhìn
tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà vô tri vô giác đã trở thành người tình nhân chưa
quen biết đang chia tay với thượng nguồn để về với mảnh đất mới con người mới. Qua
đó ông bày tỏ niềm ngưỡng mộ tự hào cũng như tình yêu tha thiết quê hương đất nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Với phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của mình Nguyễn Tuân đã làm nổi bật vẻ
đẹp hung bạo, hùng vĩ và thơ mộng trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc. Từ đó khơi dậy
trong mỗi chúng ta tình yêu và niềm tự hào về thiên nhiên đất nước trong công cuộc
xây dựng tổ quốc.
Phân tích Người lái đò sông Đà học sinh giỏi - Mẫu 2
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của văn học hiện đại Việt Nam thế kỉ XX. Trước
cách mạng tháng 8 tên tuổi của ông được biết đến thông qua tác phẩm “Vang bóng
một thời”, “Một chuyến đi”,…Sau cách mạng tháng 8, ông chuyển sang thể loại tùy
bút và thành công nhất ở thể loại này chính là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác
phẩm đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc không chỉ ở hình tượng con
sông Đà “hung bạo, trữ tình” mà còn bởi hình tượng người lái đò hiên ngang trên thác dữ.
Người lái đò sông Đà là một thiên tùy bút xuất sắc được in trong tập Sông Đà (1960)
của Nguyễn Tuân. Đó là kết quả của nhiều dịp đi và viết về Tây Bắc trong thời kì
kháng chiến chống Pháp của ông. Tác phẩm là một thiên tùy bút mang đậm phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Người nghệ sĩ tài hoa đã dùng cây bút của mình để
khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người lao động Việt Nam.
Mở đầu thiên tùy bút, Nguyễn Tuân đã dẫn hai câu thơ làm đề từ: “đẹp vây thay tiếng
hát trên dòng sông” và “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”. Như vậy
nhà văn đã ngầm thông báo với bạn đọc về hai đặc điểm của con sông với nét tính
cách đối nghịch: dữ dội, hiểm ác – kiều diễm, thơ mộng. Dưới con mắt của bậc du tử
luôn khát tìm sự lạ hóa, thiên nhiên sông Đà như một bản thể có tâm tính phức tạp.
Thoạt tiên ta có thể nhận thấy tính chất hùng vĩ, dữ dội hiểm ác của con sông Đà.
Theo Nguyễn Tuân có lẽ đây là con sông lắm thác ghềnh, vực xoáy, vô cùng nguy
hiểm cho con người. Mùa lũ đến, nó “ác như người dì ghẻ”, dữ dằn như con quái vật,
trở thành “kẻ thù số một” của con người. Chất hùng vĩ của con sông Đà được hiện lên
trước hết ở cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành. Những bức thành vách đá chẹt lấy
lòng sông hẹp. Độ hẹp của lòng sông được nhà văn xoay ngắm đủ các giác độ: “mặt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông Đà như một cái yết
hầu”,…thật thú vị. Một sức hút bình thường làm sao có nổi sự so sánh vừa chính xác,
vừa tinh tế vừa phong phú, vừa bất ngờ và lạ lùng đến thế. Nguyễn Tuân luôn lục lọi
đến kiệt cùng cái khó ngôn ngữ muôn màu sắc để đem đến cho người đọc không chỉ
cảm nhận bằng thị giác, cảm giác mà cả những tưởng tượng thú vị. Cái khủng khiếp,
dữ dội và hiểm ác của con sông Đà tiếp tục được Nguyễn Tuân đặc tả ở những quãng
mặt ghềnh Hát Loong: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn,..rồi tiếp đến là
những hút xoáy nước “Hút nước xoáy nước tít đáy lừ lừ như cánh quạ đàn…sâu như
tiếng bê tông thả xuống”, “Tiếng nước thở và kêu như cống cái bị sặc”. Chưa dừng lại
ở đó Nguyễn Tuân tiếp tục tìm cho ra cảnh tượng gây được ấn tượng mạnh cho đọc
giả. Đó là cảnh thác nước: “Tiếng thác nước nghe gần mãi lại réo to mãi lên,…nghe
như oán trách rồi lại như van xin…Thế rồi nó bỗng rống lên như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre, nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa,
rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bừng bừng,..”. Nếu như ở đoạn trên nhà
văn dùng ngôn ngữ điện ảnh để diễn tả sự khủng khiếp mà đầy lý thú của những xoáy
hút nước thì ở đoạn này ta nghe như có âm thanh của bản nhạc giao hưởng, dạo đầu
bằng những tiếng nỉ non của dòng thác, rồi nghe như oán trách, van xin, rồi lại như
chế nhạo, khiêu khích. Thế rồi bỗng phóng to hết cỡ dồn dập, bừng bừng gào thét hỗn
độn tất cả các loại âm thanh của núi rừng, thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của cơn phấn
khích dữ dội, man dại và cuồng loạn bởi những âm thanh đập ầm ầm vào đá. Để nói
cho tận cùng tình dữ dội, hiểm ác của con sông, Nguyễn Tuân tiếp tục đưa người đọc
đến khúc ngoặt của sông và chân trời đá: “đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết
trong lòng sông”. Chúng ngỗ ngược, đứng, ngồi, nằm tùy sở thích. Dường như từ
ngàn xưa, sông đã giao việc cho chúng phải bày binh bố trận, có hàng tiền vệ, tuyết
giữa và hậu vệ, có cửa sinh, cửa tử, biết dụ biết lừa, biết đánh, biết đá, biết hỏi và biết
cả thách thức. Phối hợp với đá là thác nước, chúng hò la vang động làm thanh viện
cho đá, có khi liều mạng sóng nước ùa vào làm “bẻ gãy cán chèo, đá trái, thúc gối,
túm thắt lưng lật ngửa đánh đòn hiểm…”. Nguyễn Tuân đã sử dụng ngôn ngữ của
nhiều ngành khác nhau: võ thuật, thể thao, quân sự để làm sống dậy một con sông.
Nhà văn xoay ngắm ở nhiều chiều, nhiều bề: cao – rộng, trên bề mặt – dưới lòng sâu,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
đào xới đến tận cùng bản chất dữ dằn, hiểm ác để chứng tỏ sông Đà – con thủy quái –
kẻ thù số một của con người.
Sông Đà làm một bản thể chính vì vậy mà bên cạnh sự hùng vĩ, dữ dằn của con sông,
sông Đà còn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình.
Viết về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà, Nguyễn Tuân không bằng lòng
với những tri thức hời hợt, quen nhàm mà luôn dồn hết tâm huyết, dựng công khó
nhọc tìm tòi mang đến cho người đọc sự hiểu biết phong phú, toàn diện về một con
sông, một vùng đất giàu giá trị vàng với những trang văn dạt dào cảm xúc. Đây là
đoạn văn không còn sự hiện diện của thác, ghềnh, đá, sông Đà ở đoạn này hiền hòa và
thơ mộng. Lời văn của Nguyễn Tuân bỗng đổi giọng dạt dào, tha thiết, ngôn ngữ giàu
chất thơ, chất nhạc, chất họa. Người đọc có cảm giác như đang được cùng Nguyễn
Tuân bồng bềnh trên máy bay rà “từng nét sông tã ra trên đại dương đá lờ lờ bóng
mây dưới chân mình”, thấy Tổ quốc thật bao la. Để từ đó bậc du tử vảy bút vẽ một
bức tranh thủy mặc chỉ trong một câu văn: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng
hai và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Thật không còn so sánh nào đẹp
hơn dòng chảy của sông Đà với áng tóc của một mĩ nữ.
Trữ tình và đáng yêu hơn nữa là màu sắc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã
nhận ra những sắc màu khác nhau của sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng
“mùa xuân dòng xanh màu xanh ngọc bích”, qua ánh nắng mùa thu “sông Đà lừ lừ
chín đỏ như da mặt người bần đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này cho thấy
sự tài hoa của bậc du tử khi miêu tả sắc nước sông Đà.
Là cây bút suốt đời tìm kiếm và khám phá cái đẹp, Nguyễn Tuân cùng với các đồng
nghiệp của mình không quản khó khăn gian khổ băng đèo, lội suối đến với miền Tây
Bắc xa xôi của Tổ quốc để tìm cho ra “cái thứ vàng mười” của núi sông Tây Bắc.
Trên sông Đà, người lái đò xuôi ngược cả trăm lần. Dòng sông đối với ông “như một
trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than, chấm câu và
những đoạn xuống dòng”. Ông hiểu quy luật của dòng nước, đóng đinh vào trí nhớ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
của mình từng con thác, xoáy nước, luồng lành, luồng dữ, luồng tử luồng sinh, thông
minh gan dạ, hoạt bát tự tin như một dũng tướng trong trận đồ bát quái. Vẻ đẹp ngoại
hình của người lái đò được Nguyễn Tuân khắc họa đã ngoài bảy mươi, đầu tóc bạc
trắng, thân hình như một pho tượng được tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất
sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “lêu nghêu như cái sào”. Cặp mắt tinh anh
với nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực nổi lên một số thương tích trên “chiến trường
Sông Đà” mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi đó là “thứ Huân chương lao động siêu
hạng”. Ông lái đò là một “tay lái tài hoa” từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao
phong sinh tử với “lũ đá nơi ải nước”. Ông là một nhân vật không tên bởi ông là đại
diện cho bao con người trên khắp đất nước Việt Nam ngày đêm âm thầm cần mẫn
trong lao động, không ngừng đối mặt với những thiên tai, địch họa để giành lấy sự
sống và bảo vệ quê hương đất nước. Chính bởi vậy mà hình tượng người lái đò càng
trở lên lớn lao và kì vĩ.
Vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa trong ba lần
thủy chiến. Cuộc giao tranh giữa một bên là chiếc thuyền con én cùng một con người
nhỏ bé, mong manh đơn độc với một bên là gần trăm con thác dữ lớn nhỏ được ví như
con quái vật khổng lồ tâm địa hiểm ác đại diện cho sức mạnh kỳ vĩ, dữ dội của thiên
nhiên. Cuộc chiến diễn ra không cân sức nhưng hình ảnh người lái đò tay vẫn giữ chặt
mái chèo, chân kẹp chặt cuống lái, hiên ngang, ngoan cường, bình tâm xử lí tình
huống một cách dũng cảm, mưu trí, quyết liệt, táo bạo trước con quái vật nanh ác và
giành được chiến thắng. Để miêu tả cuộc giao tranh đầy cam go, quyết liệt giữa người
lái đò và con sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân đã tung ra vốn kiến thức uyên bác về
địa lí, lịch sử và vốn ngôn ngữ thuộc các lĩnh vực thể thao, võ thuật, quân sự kết hợp
với các thủ pháp nhân hóa, so sánh liên tưởng khôn lường, bất ngờ để cống hiến cho
người đọc những trang văn, những bức tranh thủy chiến, những cảnh quay sống động
bằng nghệ thuật ngôn từ đầy tài hoa, kì thú và hấp dẫn.
Cuộc giao chiến lần một sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo quyệt, đó là
chân trời đá. Đá ở con thác này mai phục hàng ngàn năm, chúng ngỗ ngược đứng,
nằm, ngồi tùy sở thích, biết bày binh bố trận như binh pháp Tôn Tử. Gồm 5 cửa trận,
trong đó có 4 cửa tử, một cửa sinh chia làm ba tuyến: tiến, trung, hậu vệ…đòi ăn chết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
con thuyền đơn độc nhưng ông lái vẫn nhớ mặt từng đứa. Khi thạch trận bày xong, có
sự phối hợp của nước thác, sóng thác. Nước hò la vang dậy làm thanh viện cho đá. Đá
oai phong lẫm liệt, tiến lùi thách thức. Sóng nước như quân liều mạng đá trái, thúc gối
vào bụng, vào hông thuyền, lại như đòi túm lấy thắt lưng ông lái dò mà lật ngửa mình
ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt đánh đòn hiểm độc nhất. Song ông lái đò
vẫn giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất tung ra khỏi trận địa sóng. Sóng đánh hồi lùng,
đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vô cùng thâm hiểm nhưng ông đò cố nén những vết thương,
kiên cường vượt qua cơn hỗn chiến.
Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ truyền hồn sống vào từng khối
đá, biến chúng thành bày thạch tinh hung hãn trong cuộc giao chiến với con người.
Miêu tả thiên nhiên dữ dội nguy hiểm chẳng qua là để tôn vinh sức mạnh, lòng quả
cảm của con người trong cuộc chinh phục thiên nhiên. Đoạn văn thật đặc sắc, đem lại
cho người đọc những cảm xúc thẩm mĩ mới mẻ, lo âu và đầy kiêu hãnh như chính
mình là người trong cuộc.
Để tô đậm hình ảnh người lái đò tài hoa, trí dũng, Nguyễn Tuân tiếp tục miêu tả cuộc
giao tranh lần hai. Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục được dựng
dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và xảo quyệt hơn.
Khúc sông này nhiều cửa tử chỉ có một cửa sinh. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế
mạnh trên sông đá. Ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên con sông như cưỡi trên
lưng hổ, ông nắm chắc bờm sóng, ghì cương bám chắc vào dòng nước, phóng nhanh
vào cửa sinh, lái miết. Bốn năm bọn thủ quân cửa ải nước liên xô ra định níu thuyền
vào cửa tử. Dòng sông như con thú hoang lồng lộn đòi ăn chết con thuyền. Nó là hiện
thân của sức mạnh thiên nhiên khó chế ngự. Ông lái đò nắm chắc quy luật của thần
sông thần đá, không hề nao núng, luôn tỉnh táo, sáng tạo, thay đổi chiến thuật, ứng
phó kịp thời. Mặc cho Đà giang hung dữ, hiểm ác ông vẫn bám chặt dòng nước, ghì
cương lái như bám chặt vào sự sống. Nguyễn Tuân thật tài hoa trong cách dùng từ,
ông không dùng “ghì tay lái” mà “ghì cương lái” khiến dòng sông như con hổ, dòng
thác là hùm beo và con thuyền là chiến mã, còn ông lái vụt lớn cao như kị sĩ anh hùng
điều khiển con chiến mã tung hoành trên chiến trận sông Đà. Để chiến thắng, ông lái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
đò không chỉ dũng cảm mà còn mưu trí trong cách đối phó. Thông qua nghệ thuật
ngôn từ của Nguyễn Tuân hình ảnh con người hiện lên thật oanh liệt, hào hùng.
Cuộc giao tranh thứ ba kịch tính được đẩy lên đỉnh điểm. Ngòi bút của Nguyễn Tuân
trở nên bay bổng, linh hoạt bởi nhiều liên tưởng tạt ngang đầy thú vị. Trong trùng vi
thạch trận thứ ba này, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội hơn, ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều là cửa tử. Cái luồng sống ở ngay giữa bọn đá hậu nên sự sống của
ông đò càng hết sức mong manh. Chính giữa ranh giới của sự sống và cái chết, người
đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác thật tuyệt của ông lái. Ông cứ phóng thẳng,
chọc thủng, vút qua cổng đá để rồi chiến thắng vinh quang. Thác dữ không chặn bắt
được con thuyền, cuối cùng vẫn là con người chiến thắng. Sức mạnh thần thánh của tự
nhiên cũng phải cúi đầu. Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp
khác trùng vi thạch trận, biểu lộ sức mạnh phi thường trong quá trình thuần phục sự
hung hãn của dòng sông. Ngôn ngữ miêu tả nhanh, gọn mà nhẹ nhàng như chính ông
lái đò đang lướt đi trên băng khiến người đọc vô cùng cảm phục những con người lao
độ động bình thường giản dị mà rất đỗi phi thường.
Con sông Đà hung dữ là vậy ông lái đò chỉ coi nó như một chiếc lá thu. Ông đến với
nó như đến với một người lắm chứng nhiều tật nhưng đằm thắm như một cố nhân.
Ông hiểu nó, lắng nghe âm vang của nó, thủy chung với nó. Qua mỗi lần chinh phục,
mọi nguy hiểm đều tan biến: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Họ lại đốt lửa
nướng cơm lam, bàn chuyện về cá anh vũ, cá dầm xanh như không hề có chuyện gì
xảy ra, mặc dù ngày nào họ cũng phải vật lộn, đối mặt với thác dữ. Đó thực là vẻ đẹp
của một tâm hồn nghệ sĩ.
Có thể nói, thiên tùy bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm mang đậm phong cách
nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Độc đáo, tài hoa, uyên bác trong cách tiếp cận
và khai thác đối tượng từ nhiều khía cạnh, phương diện thẩm mĩ, văn hóa. Dòng sông
được miêu tả như một công trình mĩ thuật tuyệt vời của tạo hóa, người lái đò được
khắc họa với tư chất trí dũng tài hoa, nghệ sĩ. Tác giả vận dụng ngôn ngữ điêu luyện
của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh, điêu
khắc,…huy động kiến thức nhiều lĩnh vực: địa lí, lịch sử, thể thao, võ thuật,..Tất cả đã
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tổng hợp, tựu chung lại làm nổi bật vẻ đẹp một dòng sông Đà hùng vĩ, dữ dội và thơ
mộng cùng với đó là vẻ đẹp hình tượng người lao động rất đỗi bình dị mà kì vĩ, lớn lao.
Khép lại tùy bút sông Đà, Nguyễn Tuân đã đem đến cho độc giả bức tranh về thiên
nhiên sông nước hùng vĩ, dội nhưng cũng không kém phần thơ mộng trữ tình. Hiện
lên trong bức tranh đó là hình ảnh con người lao động trí dũng tài hoa của thời đại mới
– thời đại Hồ Chí Minh.
Người lái đò sông Đà phân tích - Mẫu 3
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt
Nam. Trước năm 1945, ông ghi đậm dấu ấn trong lòng đọc giả với tập "Vang bóng
một thời" và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ông vẫn có những tác phẩm
mới mang những nét sáng tạo của chính mình. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu cái
đẹp, ông luôn khám phá ra mọi góc cạnh của vẻ đẹp trên thế giới này. Con người và
cảnh vật thiên nhiên khi vào văn chương của ông như hoá thành những công trình
nghệ thuật độc đáo mà kì vĩ.
Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được ông sáng
tác vào năm 1960. Tác phẩm này là kết quả của một chuyến đi đầy gian nan mà vô
cùng hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình
ảnh con sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn dọc những triền núi. Sông Đà có những
dòng nước chảy xiết cùng độ dốc lớn. Chính cái nét khác biệt ấy đã tạo nên cho nó
một vẻ đẹp hoang sơ mà hùng vĩ. Bởi cái sự hung bạo nhưng trữ tình ấy, sông Đà lại
làm bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.
Ngay từ những câu mở đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác sợ hãi
nhưng đê mê, vui thú với bức tranh một con sông Đà hung dữ, bạo tợn hiện lên. Điều
ấy đã hiện rõ ngay trong những dòng miêu tả đầu tiên như "đá bờ sông dựng vách
thành". Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả những vách đá nơi bờ sông ấy
giống như những thành trì vững trãi, kiên cố, ẩn giấu trong đó biết bao nhiêu bí mật và
sự nguy hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dòng văn của ông thì độc giả lại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
càng cảm thấy thích thú với những cách ví von và dùng từ miêu tả về dòng sông Đà.
Nhà văn đã dùng ngôn từ để vẽ ra con sông ấy, mặt sông thường "đúng ngọ" mới có
mặt trời. Và khi đó thì các vách đá như "chẹt lòng sông như một cái yết hầu", rồi "có
quãng tưởng như cn hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia". Tác giả đã thể hiện
những liên của mình tưởng chừng như vô ý, tưởng chừng như ngẫu nhiên hiện ra thế
nhưng nó lại rất hợp lý, đấy là cái tài tình của ông. Ví như động từ "chẹt", nó giống
như từ dùng trong ngôn ngữ văn nói thế nhưng khi đặt với hình ảnh "như một cái yết
hầu" thì lại vô cùng ăn khớp và không có từ nào có thể thay thế được. Vẻ đẹp hùng vĩ,
dữ dội của dòng Đà giang còn được thể hiện ở cái cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi
đi qua vào mùa hè. Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí nơi đây, vừa tạo ra một
khung cảnh đầy tráng lệ, hùng vĩ với các vách đá dựng đứng khiến con người cảm
thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.
Chính cái sự hung bạo của dòng sông Đà ấy đã làm nền để tôn vinh lên vẻ đẹp trữ tình
và hình tượng của người lái đò. Cảnh hung bạo của dòng sông được khắc họa đậm nét
ở mặt ghềnh Hát Loóng. Ông đã miêu tả dòng sông phải có đến hàng ngàn cây số là
"nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió". Chỉ một câu nhưng từ "xô" được lặp lại tới ba
lần và một loạt từ với thanh sắc, điều này khiến độc giả cảm thấy cảm giác như sóng,
gió và nước đang tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, một mạnh và liên hồi hơn.
Qua đây, chúng ta cảm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sức mạnh của thiên nhiên sao
mà khủng khiếp, lạnh lùng đến vậy. Nó "gùn ghè", hầm hè y như những con thú
hoang bạo tợn, đầy hung dữ. Nó đang giơ nanh vuốt như sẵn sàng thách thức với con người.
Vẻ đẹp hung bạo ấy còn được thể hiện ở nhưng cái "hút nước" khổng lồ ở quãng sông
Tà Mường Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tuân, xoáy nước giống "như
những cái giếng bê tông" được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông dùng biện pháp
nhân hoá, biến cái xoáy nước ấy thành con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như
một cái cống bị sặc thật sinh động, hấp dẫn. Hình như chưa có một nhà văn nào lại có
thể tưởng tượng và so sánh những hình tượng này với nhau một cách độc đáo như
Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói nhờ ông mà dù nhiều người chưa từng được tận mắt
nhìn thấy con sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được ở khúc sông đó hiểm nguy đến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
nhường nào. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không có một con thuyền nào dám tới
gần nếu như không muốn bị hút và dìm xuống dòng sông.
Đặc biệt ở nơi khúc thác sông Đà, cái vẻ dữ dội, đầy hiểm ác ấy đã được tác giả vạch
trần một cách rõ nét. Ông đã miêu tả bằng những âm thanh vô cùng mạnh mẽ, quyết
liệt như tiếng "réo gần mãi lên, réo to mãi lên". Ông nghe tiếng nước như có lúc đang
"oán trách", có khi lại "van xin" hay lại đầy "khiêu khích". Có lúc nó lại rống lên như
"một ngàn con trâu mộng" đang vật lộn trong lúc rừng cháy. Không những vậy, đá
trên sông Đà như hợp lại thành "chân trời đá" mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ
khác nhau như "ngỗ nghịch", "nhăn nhúm", "méo mó"... Tác giả đã dùng nhiều tính từ
tả người để miêu tả khiến cho những hòn đá vô tri ấy trở nên có tâm hồn. Bởi thế mà
độc giả cũng cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Đến đây chúng ta thấy
được bằng trí tưởng tượng phong phú của mình thì tác giả đã biến sông Đà thành một
"loài thuỷ quái khổng lồ" đầy độc ác, nguy hiểm.
Dòng sông Đà ấy không chỉ mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội mà nó còn
mang trong mình vẻ đẹp trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thuỳ mị như
thiếu nữ mới lớn ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở
những không gian và thời gian khác nhau. Với ông, dòng sông Đà từ trên cao nhìn
xuống uốn lượn như áng tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều
diễm "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân".
Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo từng mùa
của dòng sông như mùa xuân dòng sông "xanh ngọc bích", mùa thu "lừ lừ chín đỏ".
Không những thế trong trí tưởng của ông thì có lúc sông Đà nhẹ nhàng "như một cố
nhâ". Ông còn thấy được dòng sông mang "màu nắng tháng ba Đường thi" với bờ
sông đầy những chuồn chuồn và bươm bướm bay lượn. Tác giả đã không quên mô tả
hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích, miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi
tiết. Cả dòng Đà giang giờ đây còn mang trong mình những nỗi niềm hoài niệm xưa cũ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bên cạnh hình ảnh con sông Đà là hình ảnh nhân vật người lái đò. Nếu như thiên
nhiên càng dữ dội bao nhiêu, càng bao la thì lại càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa, đức độ và
trí tuệ của người lái đò. Người lái đò ấy là đại diện cho những con người lao động
chăm chỉ, cần cù, kiên trì mạnh mẽ và can đảm. Phẩm chất tốt đẹp của người lái đò ấy
đã được khắc họa một cách rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước cái
dòng sông đầy nguy hiểm ấy, người lái đò phải giữ sự tỉnh táo và vững tâm mới có thể
vượt qua được ma trận với những vòng thách đấu với dòng sông. Trước cái "thạch
trận" ấy, ông lái đò vẫn chẳng hề có sự nao núng. Ông vẫn "giữ lấy mái chèo cho khỏi
bị hất lên". Mặc dù mặt nước có hò reo, hùa nhau để bẻ gãy cán thuyền còn sóng nước
thì như những "quân liều mạng" lao vào "đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền".
Mặc dù nước bám lấy như "đô vật" muốn vật ngửa ông ra, còn sóng thì như bóp chặt
lấy hạ bộ ông đò. Và rồi dù có bị thương đến mức "mặt méo bệch đi" thì ông vẫn
cương quyết không đầu hàng. Ông "cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng
lái" và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi "trùng vi thạch trận".
Qua truyện ngắn "Người lái đò sông Đà" tác giả đã xây dựng hình tượng của nhân vật
người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc,
võ thuật, thể thao... Đồng thời bằng các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, cùng câu
văn ngắn gọn, súc tích đã khắc hoạ thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền
thoại. "Người lái đò sông Đà" thực sự là một tác phẩm vô giá. Nó đã thôi thúc mọi độc
giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới thám hiểm vùng Tây Bắc, để
được thu trọn vào tầm mắt cái vẻ đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng lại trữ tình của dòng
sông này. Đồng thời, chúng ta có thể cảm nhận được ông lái đò để thêm yêu, thêm
hiểu những con người gan dạ nơi đây.
Phân tích Người lái đò sông Đà ngắn gọn - Mẫu 4
“Người lái đò sông Đà” là một bút ký đặc sắc đầy sáng tạo và tiêu biểu cho phong
cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám. Một nhà văn tài hoa, uyên
bác, không quản ngại gian lao vất vả để có được những dòng bút ký, đậm cảm giác
chân thực, có sức liên tưởng phong phú khiến cho người đọc người nghe muốn được
hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Có thể nói trong nghệ thuật, đến với Nguyễn Tuân đó là đến với sự tìm tòi, khám phá
và sáng tạo, bởi chính ông là người sáng tạo lại thế giới. Nguyễn Tuân sợ mình của
ngày hôm nay cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm
thường, giản đơn. Cho nên ông đi theo “chủ nghĩa xê dịch” và lấy nó làm đề tài cho
các tác phẩm của mình, phải đi thì mới có thể viết lên những tác phẩm có giá trị được.
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của cuộc hành trình ngược về miền Tây
Bắc trong giai đoạn năm 1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả và được in lần
đầu trong tập tùy bút Sông Đà (1960). Dòng sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các
triền núi, dòng nước thì chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm này đã tạo cho con
sông một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo, dữ
dằn mà trữ tình, thơ mộng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, đầy nghệ sĩ của ông lái đò trên dòng Đà giang.
Trên thực tế, hình ảnh con sông Đà cũng đã được nhiều nhà văn, nhà thơ chọn làm đề
tài và khắc họa lên vẻ đẹp của nó, nhưng phải đến với Nguyễn Tuân thì con sông Đà
ấy mới hiện ra chân thực và đầy những điều mới mẻ mà chưa từng có ở bất kỳ một tác
phẩm nào. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên với vẻ vừa hung bạo, dữ
dội nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang một tâm địa
xảo quyệt, mưu mô của thứ kẻ thù số một, tất cả như muốn cướp đi mạng sống của bất
cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” mà chúng bày ra. Không dừng lại ở đó, nước
ở con sông Đà này cũng “ reo như đun sôi lên một trăm độ… vẫn mai phục hết trong
lòng sông ”. Nguyễn Tuân còn miêu tả một cách sống động rằng có khi thấy chiếc
thuyền nào nhô vào thì chúng lại “ nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng ngay sau đó,
khi sự hung hãn, dữ tợn kinh người trôi qua, nó lại hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ
mộng đến khó tin. Tác giả còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông lúc ở
những đoạn xuôi dòng, không những thế ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng bỗng trở lên
mềm mại, uyển chuyển và mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “ Con sông Đà tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung
nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Với việc so sánh dòng sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, tác giả đã phác họa dòng
sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm, thướt tha của một người phụ nữ. Thông thường
người ta sẽ dùng chữ “áng” để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn
Tuân lại dùng nó để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, con
sông Đà ấy giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.
Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình, ngay cả ở màu nước cũng mang một vẻ đẹp riêng.
Tác giả đã quan sát dòng sông ở những thời điểm và không gian khác nhau. Vào mùa
xuân thì dòng nước xanh như ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Nhưng khi thu
sang nước sông lại chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả
cụ thể từng chi tiết với những so sánh độc đáo con sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa
dạng và qua đó mới thấy được sự hiểu biết sâu rộng cùng khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.
Cũng chính trong cái vẻ hung tợn, dữ dằn và cái đẹp đầy trữ tình, thơ mộng ấy của đất
trời thiên nhiên, thì hình ảnh ông lái đò xuất hiện thật dữ dội, phi thường giống như
một người nghệ sĩ. Khi đứng trong một cuộc chiến đấu cam go “một mất, một còn”
với những cái thác nước hung dữ, lúc này Nguyễn Tuân cũng đã cho ta thấy được cái
tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển
con thuyền của mình một cách chủ động và thuần thục giống như một người nghệ sĩ.
Với đoạn văn miêu tả cận cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp, thật oai hùng: “ Nắm
chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng
nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá
ấy ”. Nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện lại khung cảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền
cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng, du dương không chệch một nốt.
Hình ảnh của người lái đò ấy dường như cũng chính là sự hiện thân của tác giả. Với
Nguyễn Tuân thì ông không thích những thứ cũ mèm, tầm thường, giản dị thì với
người lái đò cũng vậy, ông cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm,
đầy kịch tích với thác nước dữ dội mà chẳng ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả, bình lặng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Thành công của Nguyễn Tuân đó là sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng
khi miêu tả hai trạng thái đối lập trong cùng một sự vật, điều này là một sự mới mẻ
đầy sáng tạo. Con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, nó là một kẻ thù nhưng đồng
thời cũng chính là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tài hoa của tác giả, con sông
không chết cứng mà nó vẫn vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ,
câu văn gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan của người đọc. Sự
xuất hiện của ông lái đò cũng thế, hiện lên một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo. Đối
với Nguyễn Tuân mà nói thì “ đã là văn thì trước hết phải là văn ”. Đã là văn thì đầu
tiên là phải đẹp, phải trau chuốt. Và cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả như
đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh thiên nhiên và con người lúc này đây đều được
khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu thông qua ngòi
bút tài ba của Nguyễn Tuân.
Có thể nói tác phẩm tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển mình lớn
trong phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, ông luôn đi tìm đề
tài cho tác phẩm của mình bằng cách quay về với quá khứ, ông luôn viết, tìm hiểu về
một thời vang bóng đã qua. Qua đó, người đọc có thể dễ dàng nhìn thấy được nhân vật
của Nguyễn Tuân đó là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang mang khí phách
của kẻ “ nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” ấy là
những vị anh hùng ngang dọc, họ đều là những khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau
cách mạng, Nguyễn Tuân lại tìm thấy cái chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao
động hết sức bình dị, gần gũi, thân thuộc ở ngay chính những công việc bình thường mà họ đang làm.
Với “Người lái đò sông Đà” thì ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như một người
nghệ sĩ tài hoa, trí dũng song toàn. Qua đó, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân
trọng, sự cảm phục, lòng biết ơn những con người đã góp phần vào công cuộc xây
dựng Tổ quốc. Chính trong việc phác họa lại vẻ đẹp của sông núi Tây Bắc cùng với
hình ảnh của người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp những hiểu biết, những kiến thức
của mình từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện
ảnh, … Tất cả mọi cảnh vật, mọi sự việc như hiện lên trước mắt ta sừng sững và sinh
động biết bao nhiêu. Tác giả đã miêu tả chi tiết, sinh động, cụ thể đến mức khiến cho
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
người đọc cảm tưởng như mình đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với
thác nước, với dòng sông quái ác, đồng thời cũng thấy được từng đoạn sông dữ tợn,
lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và hình ảnh một con sông êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta gọi Nguyễn Tuân là nhà văn của sự tài hoa và
uyên bác. Vì ông là một người có vốn cũng như nguồn tri thức về lịch sử, khoa học,
địa lí, sinh học… khổng lồ. Tất cả các kiến thức này cũng thường được thể hiện, tuôn
trào dào dạt trong những tác phẩm của ông, và qua “Người lái đò sông Đà” ta lại càng
thấy rõ hơn về điều này.
Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú, đa dạng. Mỗi
từ ngữ, mỗi câu văn khi đưa vào các trang viết dường như đã được chắt lọc, gọt giũa
một cách cẩn thận. Ông cũng khéo léo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo,
chính điều này đã đóng góp vào sự đa dạng ngôn ngữ Việt Nam. Giọng văn của
Nguyễn Tuân đôi khi mang vẻ thô kệch, đời thường, mộc mạc nhưng lại hết sức cô
đúc và tự nhiên. Ông không chỉ viết lên những trang văn tài hoa, những tác phẩm đặc
sắc mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được những âm hưởng trong mỗi đoạn văn.
Nguyễn Tuân đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một miền quê hương
của Tổ quốc. Qua đó, ông đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết, sự trân quý
đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Thực
sự chính những tác phẩm văn chương đặc sắc này của ông đã mang đến cho chúng ta
một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 5
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Hoàn cảnh lịch sử diễn ra đó là khi cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của
“tâm hồn Tây Bắc” để có thể xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc. Lúc bấy giờ có
biết bao nhà văn, nhà thơ lúc này đây dường như cũng đã thực hiện quá trình lột xác
để đến với cách mạng. Trong đó không thể không nhắc đến người nghệ sĩ yêu nước
Nguyễn Tuân được ví như một cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam. Nhà
văn Nguyễn Tuân đã sáng tác ra tác phẩm “Người lái đò sông Đà” để có thể thể hiện
được rõ nét và vô cùng sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Có thể nói khi đến với nghệ thuật, thì chính đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi
và sáng tạo, bởi vì chính nhà văn là người sáng tạo lại thế giới. Tác giả Nguyễn Tuân
sợ mình của ngày hôm nay dường như cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông
như sợ sự trùng lặp tầm thường. Cho nên ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài
cho tác phẩm, phải đi thì mới có thể viết lên các tác phẩm có giá trị được.
Hình ảnh con sông Đà cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ khắc họa, nhưng phải đến
với Nguyễn Tuân thì con sông Đà mới hiện ra chân thực và vô cùng cảm động. Với
ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình
biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một,
tất cả như cũng có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch
trận”…” không dừng lại ở đó thì nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở
đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Nguyễn Tuân còn miêu tả có khi
thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng chính
cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Nhà văn
còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông ở những đoạn xuôi dòng, không
những thế thì ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, thật uyển chuyển, mang
đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Chính trên con sông ấy, hình ảnh ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Khi đứng
trong một cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với những cái thác nước, tác giả
Nguyễn Tuân lúc này cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
ông lái đò. Hình ảnh của người lái đò sông Đà cũng chính là một hiện thân của tác giả,
ông như cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội
mà dường như cũng không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…
Sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của
cùng một sự vật là một thành công của Nguyễn Tuân. Hình ảnh con sông Đà vừa trữ
tình vừa hung bạo, đồng thời con sông Đà cũng chính là một kẻ thù nhưng lại là một
cố nhân. Chính dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một
cách mạnh mẽ, thêm với đó có một sự sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tất cả
như đã tác động mạnh vào giác quan người đọc. Hình ảnh của ông lái đò cũng thế
cũng xuất hiện một cách sinh động, thể hiện một sự rõ nét và sắc sảo… Đối với nhà
văn Nguyễn Tuân thì “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Đầu tiên đã là văn phải đẹp,
phải trau chuốt. Và đối với cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả Nguyễn Tuân
như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh con người và sự vật lúc này đây cũng lại
thông qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài
hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu.
Qua bài tùy bút thì nét đẹp sông Đà được đánh giá chính là một công trình dày công
sáng tạo của tạo hóa. Con sông Đà như cũng vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng
dấp đến màu sắc, với những câu văn miêu tả dòng nước, tốc độ chảy của con sông Đà
mới đẹp làm sao. Đó cũng chính là nguồn cảm hứng của bao nhiêu văn, nghệ sĩ. Nước
của con sông Đà khi đến mùa xuân dòng xanh ngọc bích, còn với mùa thu thì nước
sông Đà dường như cứ lừ lừ chín đỏ giống như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Hình ảnh con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên
mà nó cũng thật gợi cảm. Con sông Đà như cũng đã gây nên nỗi nhớ da diết cho
những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Khi gặp lại sông Đà, tác giả Nguyễn
Tuân như cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân mà phải
thốt lên: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui
như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Cũng chính trong cái đẹp đẽ, một cái đẹp như thật thơ mộng của đất trời thiên nhiên,
hình ảnh con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đò sông Đà điêu luyện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục nhất giống như một người
nghệ sĩ. Hình ảnh ông lái đò bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng
phải quy hàng. Với đoạn văn miêu tả cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp: “Nắm chặt
lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”.
Nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một
nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng không chệch một nốt.
Có thể nói tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong
cách Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân lúc đó cũng thường đi
tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ. Nguyễn Tuân luôn viết, tìm
hiểu với một thời vang bóng đã qua. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy được nhân
vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang tâm trạng của kẻ
có phí phách “nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” là
những vị anh hùng ngang dọc, họ đều khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng
thì nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động
hết sức bình dị, gần gũi nhất ở ngay chính trong các công việc bình thường mà họ đang làm.
Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” thì người lái xuất hiện trước mắt chúng ta như
những người nghệ sĩ tài hoa có một trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân cũng đã miêu tả
hình ảnh người đời thường lái đò, Thêm với đó là Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng
trân trọng, sự cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
Chính trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và thêm với đó là hình ảnh
của người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành
nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của chính mình như: hội họa, điêu khắc, điện
ảnh, âm nhạc… Tất cả mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh
động biết bao nhiêu. Miêu tả đoạn “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa
cả một chân trời đá”. Con sông Đà còn có âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền
thế rồi những con sóng dậy lên thành thác núi. Đọc tác phẩm độc giả giống như đang
tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, đồng thời cũng lại chứng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông
êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại coi Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà
văn của sự tài hoa và uyên bác. Vì vốn cũng như nguồn tri thức khổng lồ của ông về
lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thật lớn. Tất cả các kiến thức này cũng thường
được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm của ông. Thể hiện rất rõ trong tùy bút “Người
lái đò sông Đà” thì Nguyễn Tuân cũng đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ
quốc. Vị trí sông Đà, rồi lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những
trang viết đầy tính uyên bác, tài hoa.
Nói riêng về khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Tuân thật phong
phú. Cứ mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn
thận. Nguyễn Tuân như cũng đã khéo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo.
Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi có vẻ thô kệch, nó dường như cũng đã dàn trải
nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Tác giả không chỉ viết lên những trang văn tài
hoa mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được âm hưởng trong mỗi đoạn văn.
Tác giả đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một vùng quê hương Tổ
quốc thì nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối
với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước. Thực sự chính
văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 6
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác
phẩm của ông là mỗi bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng,
tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa,
cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải
nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký
đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của sông Đà cũng như thiên
nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Giữa thiên nhiên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bao la rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nối bật lên là hình ảnh người lái đò sông Đà can
trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà.
Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà được trích từ tập “Sông Đà” được sáng tác năm 1960,
là thành nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian
khổ và hào hứng tới miền Tây Vắc rộng lớn, xa xôi của Tổ Quốc không chỉ để thỏa
mãn tìm những miền đất lãn mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng
“thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động nơi đây.
“Người lái đò sông Đà” là một tuỳ bút viết về thiên nhiên và con người lao động vùng
Tây Bắc. Nổi bật giữa thiên nhiên núi rừng Tây Bắc là hình ảnh con người, hình ảnh
người lái đò dùng cảm, can trường. Với phong cách nghệ thuật rất riêng của mình,
khai thác mọi vấn đề dưới con mắt nghệ thuật, đối với Nguyễn tuân, khi đó, lái đò là
một nghệ thuật và người lái đò là một người nghệ sĩ.
Người lái đò trên sông đà trong tác phẩm là một ông lão đã hơn 70 tuổi và đã lái đò
trên dòng sông đà này đã hơn 15 năm. Có lẽ chính bởi ông đã dành phần lớn thời gian
của của mình cho nghề lái đò trên sông nước mà bản thân ông đã trở thành một người
lái đò lão luyện “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh
tay giữ lái độ sáu chục lần…”.
Nhân vật người lái đò là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề
lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng
đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Không dừng lại ở
đó, Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với ông: “Sông Đà, với
ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu
chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.
Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và mang đậm phong cách nghệ
thuật của Nguyễn tuân. Hình ảnh người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên
một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là
cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của thiên nhiên
khắc nghiệt như những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông
lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai
phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm
ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn
bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Và một mình một thuyền, ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái
chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang
dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng
nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền.
Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông
đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như
ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Từng chi tiết được tác giả miêu tả chân
thực và táo bạo cho thấy sự dữ dội ghê gớm của dòng thác đối với con người và chỉ
cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm
lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Đối với tác giả Nguyễn Tuân,
người lái đò chính là một người nghệ sĩ.
Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất
nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn
như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không
lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có mùi gì cả…”.
Rồi lại vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả
đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi
hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như
đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp
ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…Thật là một dòng sông đầy hiểm trở, và gian
nan cho con người. Thế nhưng, “người lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt
lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái
thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”…
Qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân đã ca ngợi sự
dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt
bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một
lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà.
Cuộc đọ sức giữa thiên nhiên dữ dội và con người nhỏ bé, trong cuộc chiến đó, con
người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “Sông nước lại thanh bình. Đêm
ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”
Từ đây, cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo
cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Với tác giả, thiên nhiên là chất
vàng của tây Bắc còn con người là chất vàng mười đã qua thử lửa. Trong suy nghĩ của
Nguyễn Tuân, con người đẹp hơn tất cả, quý hơn tất cả.
“Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say
đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ
hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhân và nhất là con người lao động bình dị
ở miền Tây Bắc. Hình ảnh người lái đò sông Đã là tiêu biểu cho con người lao động
vùng Tây Bắc, dũng cảm, gan dạ, quật cường, luôn kiên trì và hết mình với công việc.
Nổi bật nền trên thiên nhiên bao la hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc chính là con người lao động nơi đây.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 7
Nhà văn Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Trước 1945, ông ghi dấu trong lòng độc giả với tập “Vang bóng một
thời” . Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, những sáng tác của ông vẫn giữ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
được những nét sáng tạo độc đáo riêng. Nguyễn Tuân được biết đến như là một nhà
văn tôn sùng cái đẹp. Ông luôn tìm kiếm khám phá mọi góc cạnh đẹp đẽ của thế giới
trên văn hoá và thẩm mỹ. Con người và thiên nhiên xuất hiện trong văn chương của
ông như những công trình nghệ thuật độc đáo và kỳ vĩ.
Người lái đò sông Đà được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà mà ông sáng tác năm 1960
độc giả sẽ cảm nhận rõ hơn điều đó. Tác phẩm là kết quả sau một chuyến đi “phượt”
gian nan nhưng đầy hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong
đoạn trích, hình ảnh sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn chảy dọc qua các triền núi.
Sông Đà có dòng nước chảy xiết với độ dốc vô cùng lớn. Chính những nét khác biệt
đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp hoang sơ nhưng vô cùng kỳ vĩ. Vì chính sự hung
bạo mà trữ tình của dòng sông Đà lại là cơ sở làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.
Ngay từ những lời kể đầu tiên, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác vừa sợ
hãi tột độ nhưng vừa đê mê, vui thú với hình ảnh dòng sông Đà đầy hung bạo và dữ
tợn. Điều đó hiện rõ ngay từ những miêu tả đầu tiên như “đá bờ sông dựng vách
thành”. Ở đây, nhà văn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để mô phỏng những khối đá bờ sông
như những thành trì vững chãi, kiên cố, ẩn giấu nhiều bí mật và đe dọa nhiều nguy
hiểm. Càng đọc, độc giả càng thích thú với những ví von và cách dùng từ miêu tả
dòng sông khác lạ và đặc sắc của ông. Ông vẽ bằng ngôn từ rằng, mặt sông thường
“đúng ngọ” mới có mặt trời. Và khi đó, các vách đá như “chẹt lòng sông như một cái
yết hầu”, rồi “có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia” . Nhà
văn thể hiện các liên tưởng tưởng chừng chỉ vô tình, ngẫu nhiên bân quơ, ấy thế
nhưng lại chứa đầy dụng ý nghệ thuật. Cái tài của Nguyễn Tuân là ở đó. Ông nói mà
như không nói và ông làm mà như không làm. Các hình ảnh, ngôn từ cứ tự nhiên sắp
đặt đâu vào đấy một cách hợp tình ý đến độ không ai nghĩ là ông cố tình. Ví như động
từ “chẹt”. Nó giống như là từ dùng trong ngôn ngữ nói hơn là văn viết ấy thế nhưng
khi xuất hiện với hình ảnh “như một cái yết hầu” thì lại vô cùng ăn khớp và không có
từ nào có thể thay thế.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Vẻ đẹp dữ dội của Đà giang còn thể hiện ở cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua
vào mùa hè Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí trong lành nơi đây vừa tạo ra
khung cảnh đầy kỳ vỹ, với những vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy thật
nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.
Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông, bởi nó là tiền đề làm tôn lên vẻ đẹp trữ tình và hình
tượng người lái đò sau này. Cảnh hung bạo của dòng sông còn được khắc họa đậm nét
ở mặt ghềnh Hát Loóng. Tác giả viết dòng sông phải có đến hàng ngàn cây số là
“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Chỉ một câu nhưng được lặp lại từ “xô” ba lần
và một loạt thanh sắc xuất hiện, khiến độc giả cũng có cảm giác như đang bị sóng, gió
và nước tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, mạnh hơn và liên hồi hơn. Qua đây,
chúng ta thấy rõ sức mạnh của thiên nhiên thật khủng khiếp và lạnh lùng. Nó “gùn
ghè”, hầm hè y hệt thú hoang bạo tợn, lì lợm và hung dữ. Nó sẵn sàng giơ nanh vuốt,
thách thức với con người.
Tiếp đến, vẻ đẹp hung bạo ấy còn thể hiện ở những cái “hút nước” khổng lồ ở quãng
sông Tà Mường Vát. Dưới con mắt của Nguyễn Tuân, xoáy nước “như những cái
giếng bê-tông” được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông nhân hóa xoáy nước thành
con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như một cái cống bị sặc thật sinh động và
hấp dẫn. Chắc có lẽ, chưa nhà văn nào lại có thể tưởng tượng và so sánh các hình
tượng với nhau độc đáo như cách Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói, nhờ Nguyễn Tuân
mà dù nhiều người chưa thấy mặt mũi dòng sông Đà ra sao nhưng vẫn cảm nhận được
khúc sông ở đây vô cùng hiểm nguy. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không có một
con thuyền nào dám tới gần, nếu không sẽ bị hút rồi dìm xuống dòng sông. Thật đáng sợ!
Đặc biệt ở khúc thác sông Đà, vẻ dữ dội, hiểm ác của dòng sông được tác giả “vạch
trần” rõ nét. Ông miêu tả bằng những âm thanh, sắc thái vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt
như tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”. Ông nghe tiếng nước có lúc như “oán
trách”, có khi lại “van xin”, hay là đầy “khiêu khích”. Có lúc nó lại rống lên như “một
ngàn con trâu mộng” đang vật lộn trong lúc rừng cháy, Không những thế, đá ở sông
Đà như hợp lại thành cả một “chân trời đá” mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
khác nhau như “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Nhà văn dùng nhiều tính từ tả
người để khiến cho những hòn đá vô tri trở nên có tâm hồn. Nhớ thế, độc giả dễ dàng
cảm nhận rõ sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Tới đây, chúng ta có đủ cơ sở để khẳng
định, bằng trí tưởng tượng phong phú của mình, nhà văn đã hô biến dòng sông Đà
bình thường thành một “loài thuỷ quái khổng lồ” với tâm địa độc ác, nguy hiểm. Đó là
lí do mà người dân nơi đây coi nó là kẻ thù số một.
Qua quá trình phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà, các bạn có thể thấy, bên cạnh
vẻ đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội, dòng sông còn mang trong mình vẻ trữ tình thơ
mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thùy mị như thiếu nữ ấy được tác giả cảm nhận qua
nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở không gian và thời gian khác nhau. Với Nguyễn Tuân,
sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc của người con gái vùng Tây Bắc
xinh đẹp, diễm lệ “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Ông không quên miêu tả chi tiết màu nước biến đổi theo mùa của dòng sông như mùa
xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Không những thế, trong
trí tưởng tượng của nhà văn, có lúc sông Đà nhẹ nhàng “như một cố nhân”. Ông thấy
dòng sông còn mang “màu nắng tháng ba Đường thi” với bờ sông đầy những chuồn
chuồn và bươm bướm bay lượn. Từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết, tác giả không
quên mô tả hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích. Cả dòng sông còn mang trong
mình những nỗi niềm hoài niệm xa xưa.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà không thể không nói tới nhân vật người lái
đò. Nếu như thiên nhiên càng bao la, dữ dội bao nhiêu thì càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa,
đức độ và trí tuệ của người lái đò bấy nhiêu. Người lái đò ở đây cũng chính là người
lao động chăm chỉ, cần cù kiên trì mạnh mẽ và can đảm.
Phẩm chất đẹp đẽ ấy của người lái đò được khắc họa rõ nét qua khung cảnh vượt thác
sông Đà. Trước con sông đầy mưu kế và nhiều đòn hiểm nguy, người lái đò phải hết
sức tỉnh táo và vững tâm mới có thể xuyên qua ma trận với ba vòng thách đấu của
dòng sông. Trước “thạch trận” đầy căng go, ông lái vẫn không hề nao núng. Ông vẫn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
“giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Dù cho mặt nước hò reo hùa nhau bẻ gãy cán
thuyền còn sóng nước thì như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và
hông thuyền”. Mặc cho nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa ông ra, còn sóng
thì như bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Và dù cho đã bị thương “mặt méo bệch đi” thì ông
vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt
buồng lái” và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi “trùng vi thạch trận”.
Qua đây ta thấy rõ, tác giả đã xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò bằng nhiều
nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao…,
Đồng thời với các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích
đã khắc hoạt thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền thoại.
Đoạn trích người lái đò Sông Đà thực sự là một tùy bút vô giá. Nó thôi thúc mọi độc
giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi đến Tây Bắc để được tận mắt
chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vị, đầy bạo tàn và trữ tình của dòng sông độc đáo này.
Đồng thời có thể trò chuyện với ông lái đò để thêm yêu, thêm hiểu những con người quả cảm nơi đây.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 8
Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là bút ký đặc sắc, là kết quả của chuyến thâm
nhập thực tế vùng sông Đà 1958 – 1960 của nhà văn, in trong tập bút ký Sông Đà.
Cảm hứng gắn bó với mảnh đất và con người Tây Bắc đã in đậm trong hình ảnh người
lái đò nghệ sĩ và con sông Đà vừa hùng vĩ vừa nên thơ.
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc.
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu.”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Trong những ngày tháng cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây
Bắc” để xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc, có biết bao nhà văn, nhà thơ đã thực
hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Một trong những nhà nghệ sĩ yêu nước
ấy là Nguyễn Tuân – cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam, người đã mang
lại những tờ hoa thơm thảo cho đời. Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc qua tùy bút Người
lái đò sông Đà – một tác phẩm thể hiện rõ nét và sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Đến với nghệ thuật, đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì
“nhà văn là người sáng tạo lại thế giới”. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay
giống với mình của ngày hôm qua, sợ sự trùng lặp tầm thường. Chính vì thế, ông đã
lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, làm mục đích cho cuộc đời mình.
Sống là để đi, để tìm hiểu những điều mới lạ.
Trước cách mạng, một mình với chiếc vali, Nguyễn Tuân đã bôn ba trên nhiều miền
quê đất nước nhưng với tâm trạng của kẻ “thiếu quê hương”, bất mãn với cuộc đời.
Đó cũng là tâm trạng chung của thời đại. Sau cách mạng, ông cũng xuôi ngược nhiều
nơi nhưng với tinh thần của người yêu quê hương xứ sở, muốn góp phần vào công
cuộc xây dựng Tổ quốc.
Chính nhà văn đã từng nói đến Tây Bắc là để “đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc
song núi Tây Bắc, và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những
con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm
sáng sủa tươi vui và bền vững”. Với tình yêu quê hương sâu nặng và bầu nhiệt huyết
sôi nổi ấy, Nguyễn Tuân đã sử dụng uyển chuyển, tinh vi vốn ngôn ngữ phong phú
của mình để viết nên những tờ hoa thơm thảo về con người và thiên nhiên của miền sông núi này…
Tác giả hay đi tìm cảm giác mạnh cho các giác quan. Vì vậy, những trang văn của ông
thường mang theo âm điệu của những trận cuồng phong, bão tố. Nhưng không vì thế
mà chúng mất đi nét dịu hiền, thơ mộng. Qua ngòi bút Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên
vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình. Nó mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số
một, có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…”Nước
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết
trong lòng sông” và khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”…
Nhưng cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà.
Miêu tả con sông ở những đoạn xuôi dòng, ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm
mại, uyển chuyển, mang đậm chất thơ. “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ
tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng
hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Trên con sông ấy, ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Trong cuộc chiến đấu
“một mất, một còn” với thác nước, tác giả cho ta thấy được cái tài hoa, trí dũng tuyệt
vời của ông lái. Người lái đò sông Đà là hiện thân của tác giả, chỉ thích lao vào những
cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…
Giọng văn Nguyễn Tuân thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập
của cùng một sự vật. Sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, vừa là “kẻ thù , vừa là “cố
nhân”. Dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh
mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tác động mạnh vào giác quan người đọc.
Ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo… Đối với
Nguyễn Tuân, “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cái
đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả trên toàn bộ tác phẩm. Con người và sự vật,
qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ.
Nét đẹp sông Đà là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Nó vừa hùng vĩ vừa
nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc. Cái áng tóc trữ tình của người thiếu nữ ấy
là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ, nhà văn. Nước sông Đà cũng thế. “Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích”, “Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó
thật gợi cảm. Nó gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại
đi xa. Gặp lại sông Đà, tác giả cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố
nhân. “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Và trong cái đẹp đẽ, thơ mộng của đất trời thiên nhiên, con người xuất hiện như một
nghệ sĩ tài hoa. Ông lái điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục. Ông
bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải quy hàng. “Nắm chặt lấy
được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước
đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”.
Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon.
“Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân.
Trước cách mạng, nhà văn thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với
quá khứ, với một thời vang bóng đã qua. Nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn
Cao, quản ngục mang tâm trạng của kẻ “nào biết trên đầu có ai”. Nhân vật “vang bóng
một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, “khinh bạc đến điều”. Nhưng sau cách
mạng, Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi.
Huấn Cao giờ đây đã lùi vào dĩ vãng chỉ còn đây một ông lái đò cả đời gắn bó với
công việc, với cuộc sống. Hình ảnh ông lái lênh đênh trên sóng nước, chiến đấu với tử
thần bằng cây sào bé nhỏ gây xiết bao xúc động trong lòng người đọc. Nguyễn Tuân
đã trao tặng ông chiếc huy chương anh hùng lao động trên ngực như một niềm hãnh
diện thiêng liêng. Ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài
hoa trí dũng song toàn. Miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Nguyễn Tuân đã thể
hiện tấm lòng trân trọng, cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc.
Trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và người lái đò, Nguyễn Tuân đã
kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật: hội họa, điêu khắc, điện ảnh,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
âm nhạc… Mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động. “Ngoặt
khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Âm thanh sóng vỗ
vào đá, vào mạn thuyền, sóng dậy lên thành thác núi, “một anh bạn quay phim táo
tợn…đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròng trành” rồi lao xuống “đáy hút
sông Đà” để quay phim…
Tất cả những gì nhà văn viết ra, những gì nhà văn tưởng tượng và sáng tạo nên đều
như được dựng lại trước người đọc. Tiếp xúc với tác phẩm Người lái đò sông Đà của
Nguyễn Tuân, ta như đang đứng trước con sông ấy, chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông
lái với thác nước, chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá
nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình.
Trong đoạn văn, Nguyễn Tuân dùng cả những kiến thức về quân sự, võ học… Cuộc
chiến đấu giữa người lái với thạch trận sông Đà diễn ra thật hấp dẫn, li kì: “Mặt nước
hò la”, sóng nước “đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Nó “bám lấy thuyền
như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”… Tất cả những từ ngữ và hình
ảnh mang đậm nét “quân sự, võ thuật” ấy như gợi lại trước mắt ta quan cảnh một cuộc
hỗn chiến nguy hiểm, đầy hồi hộp hấp dẫn.
Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Nguồn tri
thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thường được tuôn trào
dào dạt trong tác phẩm. Với Người lái đò sông Đà, tác giả đã đưa ta đến với một miền
quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu
bằng những trang viết đầy tính “uyên bác”. Nhiều địa danh được tác giả nhắc đến
trong tác phẩm như Tà Mường Vát, Sơn La, Hát Loóng… Tất cả, tất cả chứng tỏ sự
hiểu biết rất rộng và rất sâu của tác giả khi viết về sông Đà…
Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú. Mỗi từ ngữ khi
đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Ông đã sáng tạo nên
nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn đôi khi có vẻ thô kệch, dàn trải nhưng lại hết
sức cô đúc và tự nhiên. Nguyễn Tuân không những viết nên những trang văn đầy tài
hoa và lịch lãm mà ông còn sáng tạo nên những trang thơ cho đời. Đọc những dòng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
viết về con sông Đà trữ tình, ta không khỏi ngỡ ngàng, ngạc nhiên trước giọng văn êm
ái, dịu dàng như thơ của Nguyễn Tuân.
Viết về người lái đò sông Đà, viết về một vùng quê hương Tổ quốc, Nguyễn Tuân đã
thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thiên nhiên đất
nước. Sông Đà càng đẹp, càng sinh động, ông lái càng anh dũng, ngoan cường trong
công việc ta càng thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn – Người lao động trong tác phẩm .
Nguyễn Tuân thật bình dị từ công việc đến hình dáng, cách ăn nói. Nhưng ông ta lại là
người anh hùng trước mắt Nguyễn Tuân. Nhà văn đã phát hiện ra trong con người
bình dị ấy chất nghệ sĩ tài hoa, dám đương đầu với sóng to gió lớn để chèo chống con
thuyền qua sông. Ông lái hiện lên trong tác phẩm là người lao động hăng hái, quên mình vì công việc.
Cuộc sống quanh ta vốn dĩ rất tầm thường, cũ kĩ. Ngày lại qua ngày, mây vẫn bay và
gió vẫn thổi…nhưng chính nhà văn là người mang lại cho ta một thế giới mới, tinh
khôi, kì diệu. Nguyễn Tuân cũng là một nhà văn, một người góp phần sáng tạo lại thế
giới. Văn chương của Nguyễn Tuân đã mang đến cho chúng ta một chân trời huyền bí
riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp, của sự tài hoa và uyên bác…
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 9
Nói đến Nguyễn Tuân là người ta nghĩ ngay đến một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
Cái đẹp trong các tác phẩm của ông phải là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ.
Sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân đạt được rất nhiều thành tựu kể cả trước và sau
cách mạng. “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những
sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng
thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Ngay ở những câu văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ sự hung bạo của sông
Đà. Dòng sông không trôi giữa đôi bờ “cát trắng phẳng lì” thơ mộng mà bờ sông
“dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng. Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ
có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”. “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt
trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”, cái lạnh của từng lớp da
thịt, của sự sợ hãi trước thiên nhiên nơi đây. Khi đi qua quãng này, người ta cảm
tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên cái
tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng một loạt hình ảnh miêu tả, Nguyễn
Tuân đã đẩy người đọc từ phố xá đô thị về khung cảnh hoang sơ đến đáng sợ của thiên
nhiên sông nước. Người ta thấy hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa
hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.
Đi qua bảy mươi ba cái ghềnh, có thể kể tên đến năm mươi cái ghềnh nhưng sợ hãi
nhất là ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn
cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Kết cấu trùng điệp, nhịp văn nhanh mạnh khiến
người đọc không khỏi hãi hùng trước những âm thanh của sóng, gió, nước, đá. Các từ
láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng
khiếp của nơi đây. Sông Đà được miêu tả như những kẻ sẵn sàng “đòi nợ xuýt” những
người trên sông. Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.
Nhiêu đó vẫn chưa kể hết những sự đáng sợ của sông Đà. Nguyễn Tuân đã sử dụng
một loạt thủ pháp nghệ thuật khác nhau để lột tả hết cái vẻ hung bạo của hút nước
sông Đà. Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên
má cô gái nhưng nó lại không hề duyên dáng, dễ thương, thay vào đó nó có thể lôi
tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác. Không chỉ vậy, Nguyễn
Tuân còn so sánh những cái hút nước với những cái giếng bê tông thả xuống sông để
chuẩn bị làm móng cầu. Hình ảnh so sánh này vừa gợi độ sâu hun hút của những cái
xoáy nước vừa khiến người đọc khiếp sợ khi hình dung ra nó. Càng sợ hãi hơn khi đọc
những câu văn miêu tả âm thanh của những cái hút nước. “Nước ở đây thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc”. Nước không chỉ dồn về nhiều và nhanh mà còn ặc ặc lên như
mới rót dầu sôi vào. Từ láy “ặc ặc” gợi cảm giác sông Đà giống như một loài thuỷ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
quái bị bóp chặt yết hầu đang quằn quại giãy giụa. Sự hung bạo này khiến nhà văn
liên tưởng đến hình ảnh một anh quay phim táo tợn nào đó mang máy quay ngồi trên
thuyền thúng xuống tận cái hút sông Đà rồi từ đó lia ngược ống kính để ghi lại cảnh
tượng ghê sợ: một cái giếng như xanh toàn bằng thuỷ tinh như sắp vỡ tan đổ ụp xuống
cả người, cả máy quay phim. Con thuyền xoáy tít, những thước phim màu cũng quay
tít. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem
một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.
Sự hung bạo của sông Đà còn được miêu tả qua những cái thác nước. Nhà văn hướng
người đọc chú ý vào âm thanh của chúng và miêu tả lần lượt theo trình tự từ xa đến
gần. “Còn xa lắm mới đến cái thác” nhưng tâm địa và diện mạo thứ “kẻ thù số một
của con người” đã dần hiện ra. Chúng vẳng tới bằng âm thanh “réo gần mãi lại réo to
mãi lên”. Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”,
giọng gằn mà “chế nhạo”. Cách kết hợp khéo léo giữa so sánh và nhân hoá này đã
khiến sông Đà hiện lên với một tâm địa phức tạp. “Thế rồi nó rống lên”, âm thanh
được phóng to hết cỡ giống như đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích man dại.
Nguyễn Tuân còn so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
Và để tăng thêm sự hung dữ của sông Đà, Nguyễn Tuân còn hướng ngòi bút của mình
vào miêu tả đá sông. Hình ảnh ẩn dụ “cả một chân trời đá” gợi cảm giác đá sông Đà
nhiều vô kể. Những tảng Đá sông Đà đã được Nguyễn Tuân thổi hồn vào đó với từng
tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”. Rồi chúng
còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, con sông hung bạo này chẳng khác gì kẻ thù số một
của con người. Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung bạo trôi qua, nó lại hiện lên với cả
vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin.
Từ trên máy bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”. Với việc so sánh sông Đà “như một
áng tóc trữ tình”, nhà văn đã khiến dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm của một
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ thấy chữ “áng” hay được dùng để chỉ những
tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân đã dùng để chỉ sông Đà. Có thể thấy
trong suy nghĩ của tác giả, sông Đà giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.
Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước. Tác giả đã quan sát
dòng sông ở những không gian và thời gian khác nhau. Mùa xuân dòng xanh ngọc
bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm
đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả chi tiết, cụ thể cùng những so sánh độc đáo sông Đà
hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đây ta cũng thấy được sự hiểu biết sâu rộng
cũng như khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.
Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm sông Đà”. Câu văn ngắt thành nhiều đoạn đã tạo nên nhịp văn hối hả, mau lẹ.
Rồi khi nhìn từ trên thuyền xuống, sông Đà mang dáng vẻ “lặng tờ”, tĩnh lặng tuyệt
đối. Sự tĩnh lặng của dòng sông ẩn chứa trong đó là một sức sống dạt dào. Nhà văn
còn dùng những so sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn
đã sử dụng những khái niệm trừu tượng để miêu tả vẻ đẹp cụ thể của sông Đà khiến
sông Đà hiện ra không chỉ là dòng không của không gian mà còn là dòng sông của
thời gian. Câu văn “thuyền tôi trôi trên sông Đà” đã gợi ra cái vẻ tĩnh lặng của sông
Đà và sự thanh thản trong tâm hồn con người. Giữa cái khung cảnh thơ mộng ấy nhà
văn nghe thấy một tiếng còi sương - tiếng còi xúp lê của một chuyến tàu đường sắt
Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu, đó là âm thanh của một cuộc sống hiện đại, đủ đầy.
Có thể thấy những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một
đoạn văn giàu chất thơ. Chất thơ ở cảnh sắc sông Đà, chất thơ của tâm hồn con người.
Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo của mình, Nguyễn Tuân đã
đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo
và trữ tình của sông Đà.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đọc “Người lái đò sông Đà” người ta càng hiểu hơn lý do vì sao cái đẹp trong văn của
Nguyễn Tuân được gọi là cái đẹp đạt đến độ hoàn thiện, hoàn mỹ. Tác phẩm một lần
nữa khẳng định tài năng bậc thầy của Nguyễn Tuân trong việc sử dụng ngôn từ vừa
giúp người đọc thấy được tình yêu quê hương, đất nước mà ông gửi gắm trong các tác phẩm của mình.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 10
Với bài kì nổi tiếng “người lái đò sông Đà” – rút từ tập “tùy bút sông Đà” xuất bản
năm 1960, Nguyễn Tuân muốn xưng tụng ông lái đò tài hoa trì dựng trên sông thiên
nhiên bạo liệt, và ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như
một ông tài bậc thầy lèo lái con thuyền chữ trên dòng sông Thi không kém thác ghềnh.
Chính từ áng kỳ này, người nghệ sĩ vốn nổi tiếng tài hoa uyên bác từ trước cách mạng
tháng 8 nay lại có dịp trổ ra một phong cách nghệ thuật đầy góc cạnh thú vị trước 1
cuộc sống đã đổi thay. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ
tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của dân tộc, một nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm, và
tôn vinh cái đẹp. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với văn học hiện
đại: thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú
thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách
nổi bật, tài hoa và độc đáo.
Với chất tài hoa tài tử sẵn có trong một tâm hồn nghệ sĩ yêu cái đẹp, một bộ óc uyên
bác và lối hành văn cầu kì, độc đáo, Nguyễn Tuân gây ấn tượng với người đọc bởi
những tác phẩm cực đẹp. Đối với ông, đã đẹp là phải đẹp đến toàn mĩ, đã dữ dội là
phải dữ dội đến khác thường, đến tột đỉnh. Và trong một chuyến đi gian khổ và đầy
hào hứng đến vùng Tây Bắc rộng lớn, xa xôi, ông đã tìm thấy cho mình một “nàng
thơ” hoàn mĩ: sông Đà với hai “thái cực” mâu thuẫn đến mê hoặc: hung bạo, dữ dội
mà trữ tình, đẹp đẽ.
Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong
tác phẩm. Viết về Đà giang, ngòi bút của Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bởi “Người lái đò sông Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một
nhà quay phim lão luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía
viễn cảnh. Từ trên cao, Nguyễn Tuân nhìn thấy con sông Đà dài ngoằn ngoèo như một sợi dây thừng.
Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt
từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá bờ
sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” Thậm chí
có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này
bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.
Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ấn tượng hơn nữa là
việc “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy
mình như đang ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cảnh cửa sổ nhà nào ở
tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện. Và phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân còn
được thể hiện qua góc nhìn điện ảnh được sử dụng để cảm nhận, tạo cho người đọc
một ấn tượng về vẻ đẹp của sự hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại.
Những quãng ghềnh thác hãy còn đáng sợ ở cái dữ dằn của gió – nước: quãng mặt
ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, gió phối hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên
những cơn xoáy thật kinh hãi: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm suốt tháng như lúc nào cũng đòi nợ xuýt”. Cái dữ dội, hung bạo
của ghềnh thác được mô tả thành công và sinh động như đang hiện hữu trước mắt
người đọc bởi nghệ thuật tài tình của Nguyễn Tuân với hàng loạt các động từ mạnh,
câu văn nhiều dấu phẩy liên tiếp tạo nên sự liệt kê trùng điệp của hành động “sô” và
phần nào dựng nên nhịp điệu hối hả, dồn dập vừa như cái dữ dội, mạnh bạo của dòng
nước mà còn như tiếng tim đập của người đi trên sông.
Như vậy rõ ràng ở nơi ấy lòng sông rất hẹp, độ dốc của con thác rất cao, nhiều luồng
chết, vực xoáy. Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất
ngắn, huy động chủ yếu kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của
dòng nước. Ông cũng cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tượng của độc giả bạn đọc. Bởi vậy, con sông Đà hiện lên là một nhân vật có tính cách và cả ngôn ngữ.
Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang ở những
hút nước với cách liên tưởng vô cùng táo bạo. Ở những cái hút nước giống như những
cái giếng bê tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu: “trên những cái hút
nước ấy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”. Nước ở đó cứ “thở và kêu như
cửa cống cái bị sặc”, có lúc lại nghe rờn rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Sông Đà không
khác gì một loài thú dữ đầy ranh mãnh, chực chờ vồ lấy những chiếc thuyền mỏng
manh. “Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy…
Bè gỗ nghênh ngang qua đây vô ý là bị hút nước đó lôi tuột xuống, có chiếc thuyền bị
nó giồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm dưới lòng sông đến mười phút
sau, mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những so sánh, ví von “như cửa cống bị
sặc”, “như cái giếng bê tông”… đầy gợi hình, gợi cảm của tác giả gây cảm giác rất
mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy cận cảnh cái hung dữ của sông Đà
mà thót tim lại. Thế nhưng, giống như đang cùng người đọc ngồi cùng một chiếc
thuyền qua sông, Nguyễn tuân lại đưa người đọc đến những cái ghê rợn hơn nữa của dòng sông Đà.
Trước hết là những âm thanh của tiếng thác gào rùng rợn, hoang dã: con sông Đà đã
trở thành một loại thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm: “Tiếng nước thác nghe như
là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu, rừng tre nứa nổ lau, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn
trâu da cháy bừng bừng”. Ở đoạn văn này, tác giả đã huy động rất nhiều biện pháp
nghệ thuật như nhân hóa, liên tưởng, so sánh, sử dụng hàng loạt động từ mạnh khiến
hình ảnh sông Đà thật ghê rợn như một nhân vật mang tâm địa hiểm ác với cái kiểu khôn khéo, ranh ma.
Tiếp đến là sự hung bạo, dữ dằn của đá sông Đà, đó là những cửa tử đang mai phục ẩn
nấp để gieo rắc kinh hoàng cho người lái đò. Bằng tri thức sâu rộng về quân sự, võ
thuật, thể dục, thể thao và điện ảnh, Nguyễn Tuân đã phác họa nên một cuộc chiến đầy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
gay cấn như một quyển binh pháp về đánh trận trên sông Đà. Đá ở đây được chia
thành ba tuyến và năm cửa, bốn cửa tử và duy nhất chỉ một cửa sinh.
Lòng sông thì trắng xóa làm nổi bật những tảng đá đang bày thế trận, tảng nào, hòn
nào “trông cũng ngỗ nghịch và như những vị tướng”, “có vị trông oai phong lẫm liệt”,
“có vị thì như đang hất hàm bắt cái thuyền phải xưng tên xưng tuổi trước khi giao
chiến”. Có vị “lại lùi về một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.
Con thác khúc sông này mới độc áo, xảo quyệt làm sao! Nó như đang mai phục để rồi
đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt, khi thì nó lại tỏ ra sơ
hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh quật vu hồi. Khi đánh giáp lá cà tì
nó đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gãy cán chèo, rồi đá trái thúc gối vào bụng, giở
đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông lái đò trên trận nước.
Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu.
Đồng thời, khi viết về dòng sông, Nguyễn Tuân đã bộc lộ rõ mình là một nhà văn với
tình yêu quê hương đất nước tha thiết bởi trong văn chương nghệ thuật, viết về sông
núi là viết về giang sơn mà viết về giang sơn là viết về Tổ quốc. Đây là tình yêu nhất
quán trong cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trước cách mạng, tình yêu quê hương Tổ
quốc của Nguyễn Tuân được bộc lộ một cách thầm kín thông qua tác phẩm “Thiếu quê hương”.
Không chỉ dừng lại ở đó, ngòi bút của Nguyễn Tuân còn tập trung vào để miêu tả cái
vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng của dòng sông Đà, nhất là đoạn sông ở phần hạ lưu. Người
yêu văn nhận thấy Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng
mạn, trữ tình, vô cùng kiều diễm.
Nếu ở đoạn văn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung bạo với những kiến
thức nền chủ yếu là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ,
nhiều thanh trắc thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến thức du
lịch, kiến thức lịch sử, kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo khoan
thai của thuyền tôi trôi trên sông Đà. Nếu để ý, người yêu văn hẳn sẽ nhận thấy có đến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
mười bốn câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm mại.
Cái đẹp của sông Đà, mà cũng có lẽ cũng là nét đẹp trong tâm hồn Nguyễn Tuân, hiện
lên mỗi khác qua mỗi góc nhìn khác nhau. Khi nhà văn bay tạt ngang sông Đà, từ trên
cao nhìn xuống con sông, điều đầu tiên nhìn thấy lại chính là hình dáng như “cái dây
thừng ngoằn ngoèo”, sau đó là “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây”
rất tinh tế và ngưng đọng lại hình ảnh “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Và những lần sau nữa, khi Nguyễn Tuân “nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên
sông Đà” hoặc lúc xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”,
ông thấy dòng sông hiện lên như một mỹ nhân hiền dịu đầy xuân sắc với bao màu sắc
biến đổi diệu kì: “mùa xuân dòng xanh ngọc bích”, “mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”. Con sông tươi đẹp, sinh động biết bao
chứ không phải là con sông đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực
Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu”.
Và con sông Đà lại đẹp một kiểu khác nữa, khi Nguyễn Tuân dẫn người đọc đi xuyên
rừng đến. Ông đã gọi sông Đà đến ba lần tiếng “cố nhân”. Nguyễn Tuân ấn tượng với
cái màu loang loáng của mặt nước như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi
bỏ chạy”. Và ông bất chợt phát hiện trong cái lấp lánh ấy “sáng lóe lên một màu nắng
tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ bãi sông Đà rập rờn
bay bao chuồn chuồn bươm bướm.
Nhà văn vui sướng đắm say khi hội ngộ cùng con sông. Nỗi niềm ấy được ông ví von
như niềm vui khi thấy cái “nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “như nối lại chiêm bao đứt
quãng” – cái nắng sưởi ấm tình cảm thân thương, gần gũi của tác giả trong cảm giác
“đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”.
Một lần nữa khi thuyền trôi ven bờ, tác giả đã phát hiện được thêm bao nhiêu vẻ đẹp
gợi cảm của con sông. Gây ấn tượng đầu tiên với người nghệ sĩ là sự tĩnh lặng nhẹ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
nhàng: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà
thôi”. Con sông bây giờ không hẳn chỉ là của hiện tại, nó trôi ngược về quá khứ xa
xưa với sự so sánh, liên tưởng đầy bất ngờ của tác giả: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Càng đọc, ta càng có cảm giác
như tác giả đã nhập thân làm một với cỏ cây sông nước, như say sưa mê đắm với
không gian nơi đây để cho hiện dần lên trước ống kính bao vẻ đẹp sinh động: đó là
“nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, là “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn
búp”, là “một đàn hươu vùi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Đằng sau những
dáng vẻ, những thực thể, màu sắc ấy, người ta còn thấy một sức sống ngồn ngộn, tươi
mới, trẻ trung đang ẩn nấp, đang ngầm sinh sôi, chuyển động.
Kì ảo hơn nữa là khi nhà văn như đã nghe được tiếng nói của chú hươu: “thơ ngộ
ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” cũng như dòng sông “đang lắng nghe những
giọng nói êm êm của người xuôi”. Và từ hiện tại, ông mơ ước đến tương lai nghe một
“tiếng còi sương” hoặc “thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến
xe lửa đầu tiên” hòa nhập cùng dòng sông “lững lờ như nhớ thương”.
Có thể nói tâm hồn nhà văn như vỗ cánh cùng ước mơ sông Đà đẹp tươi hơn trong
ngày mới dựng xây. Càng về cuối bức tranh, sông Đà càng đẹp và sống động với “áng
cỏ sương”, rồi “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi”
và “tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”. Cảnh thiên nhiên cứ mở
rộng dần bằng vẻ đẹp vừa hiện thực vừa biến ảo trong cái nhìn đắm mình trong thơ mộng của nhà văn.
Ta còn thấy hai nghệ thuật nhân hóa và so sánh được Nguyễn Tuân sử dụng một cách
rất nhuần nhụy. Ông cảm nhận con sông Đà và so sánh nó, ví von nó như một áng tóc
của người thiếu nữ vô cùng lãng mạn, trữ tình, mĩ lệ: “như một áng tóc trữ tình”…
Đây được xem như đoạn thơ đẹp nhất trong tùy bút “Sông Đà”. Đọc xong “Người lái
đò sông Đà”, gấp lại trang sách đã lâu nhưng những câu văn đẹp như những vần thơ
ấy vẫn giăng mắc, ở trọ mãi trong tâm hồn của mỗi người yêu văn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên
nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hòa vào cùng cảnh vật, để chiêm
ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông. Ngòi bút nhà văn đến lúc này mới
thật sự tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn
với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà.
Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính
dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy
điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự
cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế
độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà.
Với sự quan sát tinh tường, trí tưởng tượng phong phú và tư duy liên tưởng so sánh
bất ngờ kết hợp cùng việc sử dụng tài tình ngôn ngữ Tiếng Việt với các cấu trúc câu
trùng điệp, phối hợp linh hoạt và đầy sáng tạo các biện pháp tu từ, tác giả đã làm nổi
bật lên hình tượng con sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp
hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng của thiên nhiên đất nước. Hình tượng thiên nhiên
này cũng chính là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động trong giai đoạn mới.
Qua đó, nhà văn cũng bộc lộ được sự tài hoa của mình khi liên tục sáng tạo nên những
dáng vẻ biến ảo khôn lường khiến người đọc phải ngạc nhiên, thán phục. Đó là sự tài
hoa thiên bẩm cùng với nền tảng là một vốn kiến thức uyên bác về cả nghệ thuật lẫn
cuộc đời, sự dày công quan sát, tìm hiểu đối tượng cần tiếp cận, khám phá cũng như
tình cảm man mác sâu nặng, đằm thắm và giàu sức sống, đầy tươi trẻ dành cho Tổ quốc.
Tuỳ bút “ Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài
hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân . Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ
mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị , anh hùng mà tài hoa
của người dân lao động nơi đây . Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất
nước , niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt Nam.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 11
Tác phẩm Người lái đò sông Đà là bút ký đầy sáng tạo, tiêu biểu cho phong cách độc
đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám: Uyên bác, tài hoa, không quản gian
lao vất vả để có được những dòng bút ký, đậm cảm giác chân thực, sức liên tưởng
phong phú đem đến cho người đọc người nghe cảm nhận về một tâm hồn khao khát
hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.
Tác phẩm là kết quả của cuộc hành trình ngược miền Tây Bắc giai đoạn năm 1958-
1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả, được in lần đầu trong tập Sông Đà (1960).
Sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước chảy xiết với độ dốc
lớn. Chính đặc điểm đó đã tạo cho Đà giang một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ.
Hình ảnh con sông Đà hung bạo mà trữ tình đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ
của ông lái đò ông lái đò trên dòng Đà giang.
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có những thành
tựu to lớn trong cả hai thời kỳ trước và sau năm 1945. Trước 1945, ông có tập “Vang
bóng một thời” gồm mười một truyện rất đặc sắc, có giá trị vô cùng to lớn. Hoà chung
với không khí thời đại trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ của dân tộc, phong
cách Nguyễn Tuân vẫn luôn giữ được nét sáng tạo, riêng biệt. Ông là nhà văn suốt đời
đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hoá và thẩm mỹ. Nguyễn Tuân
miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ. Thiên nhiên hiện lên trong văn chương
của ông cũng trở thành những công trình nghệ thuật kỳ vĩ, độc đáo. Người lái đò sông
Đà là đoạn trích được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được ông viết năm 1960, trong
một chuyến đi gian nan nhưng đầy hứng khởi về miền Tây Bắc hiểm trở. Chuyến đi
thoả mãn cái khát khao “xê dịch” của nhà văn, trong chuyến đi ấy ông đã không quên
tìm kiếm “chất vàng” của cảnh sắc thiên nhiên nơi đây, rất hiểm trở nguy hiểm nhưng
cũng mang vẻ đẹp hùng vĩ thơ mộng say đắm lòng người. Vẻ đẹp của con người nơi
đây được ông ví như “chất vàng mười đã qua thử lửa” họ là người dân lao động có trí
tuệ, có lòng dũng cảm và sức mạnh chế ngự thiên nhiên.
Hai hình tượng bao trùm, xuyên suốt tác phẩm là hình tượng con sông Đà và hình
tượng người lái đò trên dòng sông quanh năm dữ tợn thách thức với con người. Với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
ngòi bút tài hoa của mình ông đã tạo nên hình tượng Đà giang mang hai sắc thái, hai
bình diện tương phản vừa hùng vĩ, hung bạo nhưng cũng cũng không kém phần trữ tình, thơ mộng.
Nguyễn Tuân dẫn dụ người đọc cuốn theo cảm giác vừa sợ hãi tột cùng vừa như đam
mê, thích thú. Bằng sức tưởng tượng phong phú của mình, lối hành văn nhạy bén độc
đáo của mình con sông Đà hung bạo hiện lên trong lòng người đọc với niềm đam mê
hãi hùng và thích thú vô cùng. Cái hung bạo được nhà văn miêu tả mở đầu bằng cảnh
“đá bờ sông dựng vách thành”, nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được Nguyễn
Tuân ví như những thành trì kiên cố, vững chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe dọa
trực chờ. Nhà văn miêu tả, mặt sông lúc ấy “đúng ngọ” mới có mặt trời, có vách đá
“chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, có quãng tưởng như con hươu, con nai nhảy từ
bờ này qua bờ kia. Các liên tưởng tưởng chừng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại
chứa đựng đầy dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỗ sông phải đến tận giữa trưa, khi mặt
trời lên cao nhất mới có ánh nắng chiếu vào, động từ mạnh “chẹt” rất biểu cảm xen lẫn
với nghệ thuật so sánh “như một cái yết hầu”, hai bên bờ con hươu con nai có thể
nhảy qua được. Những hình ảnh độc đáo được tác giả khéo léo lồng vào, đã tạo cho
người đọc được độ cao của vách đá, độ hẹp của lòng sông. Ngồi trong khoang thuyền
đi qua khúc sông ấy “mùa hè cũng thấy lạnh”, tác giả miêu tả thông qua cảm giác,
mùa hè nóng nực oi bức nhưng khi qua đây, chính cái khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ,
chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ hãi và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên.
Cảnh hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở mặt ghềnh Hát Loóng. Hàng ngàn
cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Một loạt thanh sắc xuất hiện tạo cho ta
cảm giác sóng gió ngày càng mạnh mẽ và cao dần. Nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc
nối tiếp nhau, động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều lần. Sức mạnh của thiên nhiên rất
khủng khiếp, rất lạnh lùng, nó “gùn ghè”, hầm hè như một con thú hoang hung dữ, lì
lợm, sẵn sàng thách thức với con người nơi đây.
Những cái “hút nước” khổng lồ trên quãng sông Tà Mường Vát. Xoáy nước “như
những cái giếng bê-tông” được thả xuống làm móng cầu, nước ở đây “thở và kêu như
một cái cống bị sặc”. Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm
đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị
dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.
Hình tượng hung bạo, dữ dội của con sông được tác giả khắc họa rõ nét nhất chính là
ở khúc thác sông Đà. Tác giả miêu tả con sông bằng những hình ảnh hết sức biểu cảm,
bằng những âm thanh dữ dội nhiều sắc thái, còn xa lắm mới tới thác mà đã nghe thấy
tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”, tiếng nước nghe như “oán trách”, như “van
xin”, như là “khiêu khích”, nó rống lên từng hồi ghê rợn như tiếng của “một ngàn con
trâu mộng” gầm thét, vật lộn trong lúc rừng cháy, ngọn lửa đỏ rực bốc lên ngùn ngụt.
Những hòn đá sông Đà nhiều vô kể, tất cả chúng hợp lại thành cả một “chân trời đá”
rộng lớn. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ khác nhau, nhưng hòn hòn nấy mặt trông
cũng rất “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”, ở đây tác giả dùng nhiều tính từ chỉ
con người để miêu tả qua đó người đọc cảm nhận được sự dữ tợn, sự bất cần, bướng
bỉnh của hòn đá, chúng như những vật thể sống và là đứa con của mẹ thiên nhiên tạo
ra. Sông Đà dường như đã giao nhiệm vụ cho từng hòn đá để bày ra “thạch trận”
tuyên chiến, thách thức với con người. Vòng thứ nhất “thạch trận” có năm cửa trận, có
“bốn cửa tử”, “một cửa sinh” nằm lập lờ nơi tả ngạn con sông. Vòng thứ hai, thác
sông Đà đã bộc lộ vẻ gian manh cái sự háo thắng của nó, lần này có bày ra nhiều cửa
tử hơn để đánh lạc hướng con thuyền đi vào chỗ chết, một cửa sinh được bố trí lệch về
phía hữu ngạn. Vòng thứ ba, vòng quyết định thắng thua cuối cùng, thác sông Đà bày
ít cửa hơn nhưng trái phải đều là “luồng chết”, cửa sông duy nhất lại nằm ngay giữa
bọn đá hậu vệ đang canh gác. Qua phong cách miêu tả độc đáo, sinh động, giàu tưởng
tượng của Nguyễn Tuân con sông Đà hiện lên thật hung bạo, dữ tợn, nó như một “loài
thuỷ quái khổng lồ” tâm địa vừa độc ác, vừa nguy hiểm, là kẻ thù số một của con
người trong cuộc chiến không cân sức.
Tuy nhiên cũng có lúc con sông Đà trở về với vẻ dịu dàng, trữ tình thơ mộng của nó.
Vẻ đẹp Đà giang được miêu tả qua nhiều điểm nhìn, nhiều góc cạnh, không gian và
thời gian khác nhau. Từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà uốn lượn, mềm mại như
áng tóc của người con gái Tây Bắc kiều diễm, xinh đẹp. Dòng sông Đà được nhà văn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bằng những hình ảnh rất biểu cảm, gây ấn tượng sâu sắc, “tuôn dài như một áng tóc
trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo
tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Màu nước sông Đà biến đổi
theo từng mùa khác nhau, mỗi mùa mang một vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt: Mùa xuân
dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Con sông như người thiếu nữ
xinh đẹp, mơ mộng đang tuổi xuân thì tràn đầy niềm kiêu hãnh nên tính cách đôi phần
khó hiểu, thay đổi thất thường.
Sông Đà dịu dàng “như một cố nhân”, cảnh sắc bên bờ thật êm đềm tươi đẹp. Sau
chuyến đi dài ngày, ông nhìn ngắm sông Đà thật gợi cảm, thơ mộng như “màu nắng
tháng ba Đường thi”, bờ sông đầy những chuồn chuồn bươm bướm. Người cố nhân ấy
giờ đây yên ả lạ thường như đang lặng nghe âm thanh của thời gian, thưởng thức cảnh
sắc hai bên bờ sông. Bờ sông Đà hoang sơ như nhuộm màu cổ tích vừa trù phú tràn trề
nhựa sống của phù sa bồi đắp. Những nương ngô “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”,
ngọn cỏ “đang ra những nõn búp”, xa xa là vài con hươu nhai cỏ. Sông Đà lúc này
như bờ tiền sử mang bên mình những nỗi niềm cổ tích xa xưa, hoài niệm.
Dòng sông Đà được tác giả khắc họa rất rõ nét bằng nhiều vận dụng nghệ thuật độc
đáo: So sánh, ẩn dụ, nhân hoá, động từ mạnh…, cùng khả năng liên tưởng, sáng tạo
mới mẻ, ông đã viết lên những câu văn thật giàu nhịp điệu, sống động. Dưới ngòi bút
tài hoa của người nghệ sĩ, Đà giang không còn là một con sông vô tri mà nó là một
sinh thể có suy nghĩ, có tâm hồn.
Trong tác phẩm của Nguyễn Tuân làm sao có thể thiếu đi bóng dáng con người. Thiên
nhiên càng rộng lớn, hùng vĩ, dữ dội bao nhiêu thì càng làm nổi bật lên vẻ đẹp trí tuệ
tài hoa của con người lao động. Trong bài văn, tác giả đã sáng tạo ra hình tượng “ông
lái đò” đây là hình ảnh biểu trưng cho người lao động cần cù chăm chỉ nhưng cũng
không kém phần mạnh mẽ, can đảm khi sẵn sàng đối đầu với thiên nhiên hung tợn
trong một cuộc chiến không cân sức. Con sông Đà bỗng chốc trở thành kẻ thù số một,
người lái đò thật nhỏ bé giữa thiên nhiên. Tuy nhiên họ vẫn bộc lộ được sự mưu trí, tài hoa nghệ sĩ của mình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phẩm chất anh dũng, tài hoa, trí tuệ của người lái đò được thể hiện qua cảnh vượt thác
sông đà. Tại đây, con sông mưu mô, xảo quyệt bày ra một “thạch trận” với ba vòng
thách đấu như muốn tiêu diệt những con thuyền đi qua. Những người anh hùng vẫn
không chút sợ hãi, vẫn rất điềm tĩnh bằng trí tuệ của mình ông lái đò đã lần lượt chinh
phục từng cửa ải. Vòng thứ nhất, với năm cửa trận, bốn cửa từ, chỉ có một cửa sinh
duy nhất nằm lập lờ bên bờ tả ngạn. Thuyền vừa tới, “phối hợp với đá, nước reo hò
làm thanh viện cho đá” những hòn đá ngỗ nghịch, bệ vệ. Có hòn đá nhìn nghiêng thì
như “hất hàm” đòi cái thuyền phải “xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, có hòn thì
như thách thức ông đò “có giỏi thì tiến vào đây”. Ông đò không chút nao núng tay vẫn
“giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặt nước hò reo vang dội, ùa vào như bẻ gãy
cán thuyền, sóng nước như “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và
hông thuyền”. Nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa người lái đò ra. Sóng nước
đánh đến món đòn “hiểm độc nhất”, luồng nước ấy bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Ông đò
đã bị thương “mặt méo bệch đi” nhưng không hề đầu hàng trước kẻ thù, ông “cố nén
vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái”, tiếng chỉ huy của ông vẫn vang lên ngắn
gọn, tỉnh táo. Vậy là phá xong cái “trùng vi thạch trận thứ nhất”.
Không cần nghỉ tay, nghỉ mắt một phút giây nào phải phá luôn vòng vây thứ hai, lần
này ông đò đã đổi chiến thuật. Ông đò đã nắm chắc “binh pháp của thần sông Đà”,
“thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Con sông Đà đã lộ rõ
sự gian trá, độc ác của mình khi lần này nó bày ra nhiều cửa tử hơn, cửa sinh nằm lệch
sang một phía hữu ngạn con sông. Tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh cưỡi lên con
sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Nắm được cái bờm sóng đúng luồng
rồi, không phút nao núng, ông đò “ghì chặt cương lái”, bám chặt lấy luồng nước cố
sức phóng nhanh vào phía cửa sinh, “lái miết một đường chéo về phía cửa ấy”, bỏ lại
sau lưng những cửa tử và những hòn đá vẫn “không ngừng khiêu khích”.
Trùng vây thạch trận cuối rồi, lần này ít cửa ải hơn, “bên phải bên trái đều là luồng
chết”, luồng sinh nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Con sông Đà dường như
chưa từ bỏ tham vọng của nó, sự hiếu thắng, nó muốn nuốt trọn con thuyền trong lần
giao chiến quyết định cuối cùng này. Nhưng người lái đò bao lần vượt thác ghềnh,
ông đã tích lũy biết bao kinh nghiệm, ông cho thuyền phóng thẳng “cứ thế chọc thủng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cửa giữa đó”, thuyền như một mũi tên tre nhọn hoắt, cứ thế lao nhanh “vừa xuyên vừa
tự động lái được lượn được”. Cuối cùng bằng sự gan dạ, tài trí, kinh nghiệm của mình
ông đò đã vượt hết dòng thác một cách an toàn, giành chiến thắng trong cuộc chiến
không khoan nhượng với kẻ thù hung bạo.
Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà bằng nhiều nghệ
thuật đặc sắc. Tác giả sử dụng từ ngữ của nhiều lĩnh vực: Binh pháp, võ thuật, thể
thao, âm nhạc…, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hoá cùng với nhịp điệu câu văn hài
hoà sinh động. Ông đã khắc hoạ thành công hình ảnh người lái đò sông Đà trí tuệ, tài
hoa và bản lĩnh, qua đó ca ngợi con người lao động Tây Bắc mang vẻ đẹp và những phẩm chất cao quý.
Đoạn trích người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân là một bài tuỳ bút có giá trị vô
cùng to lớn, tác giả đã thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng, khẳng định
và ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên cùng với con người miền Tây bắc xa xôi. Đồng thời
thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng, sự gắn bó tha thiết, sâu nặng của Nguyễn Tuân
đối với quê hương, đất nước, con người Việt Nam.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 12
“Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút rút trong tập “Sông Đà” (1960) của Nguyễn
Tuân. Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong
chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958. Trong chuyến đi này, tác giả đã có cơ hội
sống với những khoảnh khắc thân thuộc nhất, hào hứng nhất của người nghệ sĩ trong
ông. Ông cảm nhận được “thứ vàng mười đã qua thử lửa” của những người lao động
bình dị trên miền sông nước hùng vĩ và thơ mộng. Thật đúng khi cho rằng “thiên tùy
bút là bài ca về vẻ đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội”, mà điển hình, dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, là hình tượng người lái đò
vừa là người anh hùng, vừa là người nghệ sĩ tài ba trong nghề của mình.
Trong các tác phẩm của mình dù viết trước hay sau cách mạng tháng Tám thì các nhân
vật chính luôn được ông xây dựng thành những con người đặc biệt, tài hoa nghệ sỹ.
Hình ảnh ông lái đò cũng không phải là một ngoại lệ. Khi đọc tác phẩm, ta sẽ ấn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tượng ngay đầu tiên với ngoại hình của ông: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân
ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng.
Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc
nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù…”. Sức vóc ông khỏe mạnh
chẳng khác gì thanh niên trai tráng mười tám đôi mươi: “Gần bảy mươi tuổi, cái đầu
quắc thước của ông đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất
mùn… ông giơ tay lên, đôi cánh tay trẻ trắng quá bịt cái đầu bạc hói đi. Không ai
không lầm tưởng mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ
sông” Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình của
một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó. Chỉ
có yêu quý nghề, gắn bó sâu đậm với nghề, nhiều năm một nắng hai sương dong duổi
chở khách trên con sông Đà hùng vĩ thì ngoại hình mới mang đậm dấu ấn nghề nghiệp
như vậy. Đây chính là phong cách viết độc đáo của Nguyễn Tuân, ông luôn nén câu
văn của mình nhiều điều muốn nói, “Hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở
một tầng hiển ngôn, chỉ khi chuyên chú đọc ta mới khám phá ra được nhiều tầng ẩn
ngôn hàm chứa trong từng câu văn của tác giả.
Nhưng chỉ những nét miêu tả ngoại hình thôi thì chưa đủ. Trong ông lái đò còn ẩn
chứa rất nhiều điều tuyệt vời đặc biệt của một người từng trải thạo nghề. Ông là một
linh hồn muôn thuở của sông nước này. “Trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một
trăm lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu mươi lần cho những chuyến thuyền then đuôi én
sau chèo”. Sự từng trải ấy còn được thể hiện qua trí nhớ siêu phàm của ông. Trí nhớ
ấy được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ 73 con thác, như đóng đanh
vào lòng tất cả những luồng nước của con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với
ông lái đò như một bản trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái
dấu chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Khi được tác giả hỏi chuyện,
người lái đò đã bảy mươi tuổi, làm nghề đó dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề
đôi chục năm nhưng trong ông, bản lĩnh kiên cường dường như không hề suy chuyển.
Ông vẫn rất tự tin mà rằng: “Tôi bỏ nghề đã lâu rồi nhưng nay cho lên thác xuống
ghềnh tôi dám thi đua với bạn đò ở khắp mấy châu có địa giới loang ra bờ sông Đà,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cũng còn cái linh lợi để trở mừng một phái đoàn trung ương vừa lên vừa xuống thăm
dò khảo sát toàn bộ sông Đà cho đến biên giới Trung Quốc”.
Nhưng trên hết tất cả, hình tượng ông lão lái đò được khắc họa rõ nét nhất qua trận
thủy chiến với sông Đà. Vẻ đẹp sức mạnh của ông lái đò được khắc họa trong tương
quan với vẻ đẹp của con sông Đà hung bạo, hùng vĩ. Chỉ từng trải thôi thì chưa đủ, đối
với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí,
nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đã đem nhân vật của mình vào
ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không
phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Đây chính là dụng ý của tác giả khi viết
về hình tượng ông lái đò, phẩm chất dũng cảm, gan dạ, kiên cường chỉ được bộc lộ rõ
nhất khi nhận vật đối mặt với khó khăn, nguy hiểm. Giả sử đặt ông lái đò trong khung
cảnh thi vị, trữ tình của sông Đà thì hình tượng lại phát triển theo một hướng khác, trở
thành một nghệ sĩ đa tình lẫn vào thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân trước Cách
mạng. Còn ở đây, ông lái đò trở thành người anh hùng nghệ sĩ trong thiên sử thi leo
ghềnh vượt thác. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều
hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra ngay diện mạo và tâm địa
độc ác của kẻ thù số một, lực lượng đá hậu, đá tượng, đá tiền vệ với nhiều thủ đoạn
nham hiểm tạo thành một lực lượng hùng hậu, đông đảo, dữ dằn và nham hiểm.
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn chúng giăng sẵn trận đồ bát quái với ba trùng vi.
Trùng vi một có 4 cửa tử và 1 cửa sinh. Sóng trận địa phóng thẳng, mặt nước hò la
vang dậy mà vào bẻ gãy cán chèo vũ khí của ông lái đò nhưng ông vẫn hai tay giữ
chắc mái chèo khỏi bị hất lên. Vì thế sóng nước lại càng dọa dẫm, sấn sổ, hiếu chiến
như thể quân liều mạng. Nước bám lấy thuyền như đồ vật túm lấy thắt lưng ông lái đò
lật ngửa mình giữa trận nước. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất nốc ao
đối phương, ông lái đò cũng chẳng run tay, cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt
lấy cuống lái, mặt móc bệch. Ông chỉ huy hết sức ngắn gọn và tỉnh táo, đầy mưu trí
như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua trùng vi một hiểm trở. Phá xong trùng vi
thạch trận thứ nhất ông lái đò phá luôn vòng vây thứ hai. Trùng vi hai tăng thêm nhiều
cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại được bố trí lệch qua bờ hữu ngạn thật
nham hiểm và xảo quyệt, thiên nhiên hùng mạnh như thú dữ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Bốn, năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra định nhử thuyền vào tập
đoàn cửa tử. Nhưng ông lái đò đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá,
không một chút nghỉ tay nghỉ mắt, ông lái đò nắm chặt lấy cái bờm sóng đúng luồng,
ghì cương lái bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh lái miết
một đường chéo về phía cửa đá. Thật điêu luyện. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên
phải bên trái đều là luồng chết cả, luồng sông nằm ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Một
ông lái đò và sáu tay trèo, tưởng chừng như con người hết sức nhỏ bé, ít ỏi, cạn kiệt
sức lực giữa một thiên nhiên hung dữ. Nhưng không, như một vị tướng lão luyện dày
dặn kinh nghiệm, trận mạc, ông lão phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền
vụt qua cổng đá, cánh mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh cho qua hơi nước, vừa xuyên, vừa tự
động lái được. Thế là kết thúc.
Tác giả đã rất dày công khi miêu tả trận thủy chiến với con sông Đà của ông lão lái
đò. Một loại những hành động nhanh mạnh: Phóng nhanh, phóng thẳng, lái miết một
đường, chọc thủng, xuyên nhanh,… Kết hợp với nhịp văn gấp gáp, hơi văn căng
thẳng, câu văn dồn dập gợi nên một cuộc giao tranh giáp lá cà một sống, một chết.
Hơn nữa thư pháp nghệ thuật tương phản được sử dụng triệt để và rất độc đáo trong
tác phẩm đã xây dựng lên hai phe đối lập: một bên là thiên nhiên hung tàn, bạo liệt với
một bên là con người nhỏ bé nhưng đầy bản lĩnh, sự quả cảm và khả năng chinh phục
thiên nhiên kỳ diệu. Ông lái đò trong tay chỉ có một mái chèo “Như cái que giữa bạt
ngàn sóng thác” như một vị tướng bách chiến bách thắng, phá thành vượt ải.
Với ngòi bút tài hoa và sự uyên bác, am hiểu về mọi lĩnh vực như thể thao, võ thuật,
quân sự… của mình, Nguyễn Tuân đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường
ca hào hùng, biến ông lái đò bình thường thành một anh hùng, một nghệ sỹ lái đò
trong nghệ thuật leo ghềnh vượt thác. Ông vừa là dũng sĩ, vừa là nghệ sĩ – tay lái ra
hoa, ông tiêu biểu cho hình ảnh con người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội
chủ nghĩa. Không chỉ là cô Đào trong truyện ngắn “Mùa lạc” của Nguyễn Khải, tình
nguyện lên Điện Biên xây dựng nông thôn mới, không chỉ là tầng lớp thanh niên
“Tuổi hai mươi khi hướng đời đã thấy/ Là xa xôi biết mấy cũng lên đường”, mà cùng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
với họ, ông lái đò sông Đà đã góp phần làm nổi bật, tôn lên vẻ đẹp, phẩm chất của
người lao động trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội những năm 55 – 60.
Quả thật, vẻ đẹp "chất vàng mười đã qua thử lửa" trong tâm hồn của con người Tây
Bắc đã được Nguyễn Tuân dày công khám phá trên dòng Đà giang khuất nẻo. Nếu
như thiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “Kẻ thù số một của con
người”, thì cũng chính thiên nhiên qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị
con người lao động. Quả thật sâu sắc khi nói “Thiên tùy bút là bài ca về vẻ đẹp của
con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Tác phẩm sẽ mãi là
bản trường ca hào hùng đi cùng năm tháng.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 13
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, một cây bút có vai trò to lớn trong nền văn học Việt
Nam hiện đại, một nghệ sĩ có khái niệm thẩm mỹ khác biệt và suốt đời đi tìm cái đẹp.
Một trong những tác phẩm tùy bút xuất sắc của ông chính là Người lái đò sông Đà
được in trong tập Sông Đà (1960) trong chuyến đi thực tế tới miền Tây Bắc rộng lớn
của Tổ quốc. Tác phẩm cho ta thấy một Nguyễn Tuân với diện mạo mới mẻ, khát
khao hòa nhập vào đất trời thiên nhiên, thể hiện tình yêu đất nước và cuộc đời.
Nguyễn Tuân muốn qua hình ảnh con sông Đà dữ dằn, hung bạo mà trữ tình, thơ
mộng, người lái đò bình dị, giản đơn mà trí dũng tài hoa để ca ngợi vẻ đẹp của thiên
và con người Tây Bắc của Tổ quốc. Bài thơ cũng chất chứa trọn vẹn phong cách thơ
tài hoa, uyên bác rất độc đáo của Nguyễn Tuân.
Hai hình tượng chính đi xuyên suốt tác phẩm là hình tượng sông Đà và hình tượng
người lái đò. Một là thiên nhiên và một là con người tưởng chừng như chẳng hợp ấy
vậy mà là tạo nên vẻ đẹp đến bất ngờ. Trước nhất là hình tượng sông Đà, không phải
là vật vô tri vô giác mà là rất có hồn, rất có cá tính, dòng sông này được Nguyễn Tuân
miêu tả như một nhân vật có hai tính cách trái ngược vừa hung bạo dữ dằn vừa trữ tình thơ mộng
Mà biểu tượng về sức mạnh và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc lại là cái sự
hung bạo, dữ dằn kia. Đá vô cùng hiểm trở, đá dựng vách thành, chẹt lòng sông như
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cái yết hầu làm cho mặt sông chỗ ấy vừa hẹp, vừa tối lại vừa rất lạnh chỉ vì đúng ngọ
mới có mặt trời. Cả một trời đá, mặt hòn nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo
mó đá mai phục dưới lòng sông hàng ngàn năm được nhân hóa, nổi hình nổi tướng bệ
vệ, oai phong lẫm liệt, nhổm dậy, vồ lấy thuyền,… khung cảnh choáng ngợp, kỳ vĩ,
chật hẹp đã làm cho ta cảm thấy sợ hãi, lạnh lẽo và nhỏ bé giữa giữa thiên nhiên dù là
mùa hè oi bức, nóng nảy.
Sóng, nước cuồng nộ. Quãng mặt ghềnh Hát Loóng, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió… kéo dài hàng cây số cuồn cuộn… như thể đòi nợ xuýt người lái đò nào đi qua
quãng ấy. Điệp cấu trúc nối tiếp nhau kết hợp động từ mạnh “xô” được lặp lại nhiều
lần như nhấn mạnh sức mạnh của thiên nhiên rất khủng khiếp và đầy lạnh lẽo. Những
hút nước ghê rợn giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng
cầu… Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc sẵn sàng nhấn chìm và đập tan
chiếc thuyền nào lọt vào. Nghệ thuật nhân hóa và so sánh khiến hình ảnh trở nên sinh
động và tính hấp dẫn hơn diễn tả những chiếc thuyền bị hút xuống, hút thành trồng
ngược cây chuối, bị dày vò hành xác mà vụt biến đi, đến mươi phút sau mới thấy cái
xác tan tành ở khuỷnh sông dưới.
Thác như đang giận dữ mà gầm rống dữ tợn. Tác giả miêu tả con sông với từ ngữ có
tính gợi cảm, âm thanh tiếng thác từ xa nghe như van xin, oán trách, rồi như khiêu
khích, giọng gằn mà chế nhạo. Âm thanh đến gần được ví như những con trâu rống
lên lồng lộn… ghê rợn và khủng khiếp. Sông Đà đặc biệt hung bạo khi những yếu tố
trên kết hợp với nhau tạo ra những thạch trận, phòng tuyến với nhiều cửa tử, nhiều
chiến thuật đánh khác nhau, nhiều đón đánh thâm hiểm, Nó như một loài thủy quái
khổng lồ, nham hiểm mang diện mạo và tâm địa như một thứ kẻ thù số một của con người.
Sông Đà chỉ thực sự trữ tình thơ mộng khi chảy qua chợ Bờ và để lại những hòn thác
xa xôi trên thượng nguồn. Tuôn dài như một áng tóc … ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc…, tưởng chừng dòng chảy của sông Đà như mái tóc của người thiếu nữ, là thiếu
nữ Tây Bắc dưới bầu trời Tây Bắc. Màu nước sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa lại
có một vẻ đẹp riêng. Mùa xuân thì nước có màu xanh ngọc bích, mỗi độ thu về nó lại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa… Sông Đà có vẻ đẹp rất gợi cảm,
thân thiết như người tình, khi gặp lại dòng sông như gặp lại cố nhân mà cảm thấy
mừng vui, xa thì lại nhớ nhung và dòng sông gợi vẻ đẹp của một ánh thơ Đường bởi
màu nắng tháng ba… yên hoa tam quyệt. Cảnh vật hai bờ sông vừa hoang sơ nhuốm
màu cổ tích trong những câu chuyện hoàng tử công chúa của những đứa trẻ thơ lại vừa
trù phú, tràn trề nhựa sống, tự do, tự tại của một chế độ mới. Qua hình tượng sông Đà,
Nguyễn Tuân đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông thiên
nhiên cũng là tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả sông Đà,
Nguyễn Tuân đã chứng tỏ cách nhìn khác biệt của bản thân: hài hoa, uyên bác và lịch
lãm. Sông Đà là một phông nền nổi bật đầy, đẹp đẽ nhưng không hề làm lu mờ đi mà
còn làm bật lên vẻ đẹp người lao động trong chế độ mới.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra đoạn văn tràn đầy không khí trận mạc, tưởng tượng ra
cuộc chiến đấu ác liệt của ông lái đò với bầy thủy quái sông Đà, để từ đó làm nổi bật
hình ảnh người lái đò, một người lao động mới mang vẻ đẹp khác thường. Ông như
một vị tướng chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, tài trí: biết bọn đá mai phục và bày thạch
trận… Ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, thuộc quy luật phục kích của
chúng nên linh hoạt thay đổi chiến thuật để lần lượt vượt qua từng phòng tuyến kẻ thù.
Người lái đò là người từng trải, giàu kinh nghiệm hiểu biết sâu sắc về luồn lách sông
Đà và cũng dũng cảm đối đầu trong cuộc chiến không cân sức với sông Đà. Sông Đà
là thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc với sức mạnh được nâng lên hàng thần
thánh có sóng nước hò reo quyết vật ngửa mình thuyền, có đá ngàn năm mai phục,
bày thạch trận trên sông, thác gầm rống, reo hò làm thanh viện cho đó, sóng nước như
thể quân liều mạng đánh những đòn hiểm độc… Ông đò chỉ là một con người bé nhỏ,
không có phép màu, vũ khí chỉ là chiếc cán chèo thô sơ trên một cái thuyền đơn độc
hết chỗ lùi, nhưng vẫn sẵn sàng đối mặt với thác dữ, chinh phục mọi cửa tử, cửa sinh,
vượt qua trận thủy chiến đầy ác liệt với đá nổi đá chìm với những trùng vi thạch trận
và những phòng tuyến đầy nguy hiểm để chiến thắng thiên nhiên. Hình tượng người
lái đò lúc này là một người lao động trí dũng.
Người nghệ sĩ tài hoa là hình tượng của người lái đò được hiện lên tiếp theo. Để vượt
thác, tâm tình phải thực sự bình tĩnh, chỉ một chút thiếu chính hay lơ là thì phải trả giá
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bằng chính tính mạng của mình. Ấy vậy mà, ông lái đò đã đối đầu với ghềnh thác
cuồng bạo bằng sự tự tin, ung dung của người nghệ sĩ; đã bình tĩnh vượt thác một cách
tài tình, khôn ngoan. Với “tay lái hoa” ông đã điều khiển con thuyền vượt qua ba
trùng vi thạch trận sông Đà. Sông Đà ở trùng vi thạch trận thứ nhất có năm cửa trận,
trong đó có tận bốn cửa tử và nhưng chỉ có một cửa sinh nằm lập lờ chẳng rõ phía tả
ngạn. Bọn đá đứa thì hất hàm, đứa thì thách thức, khiêu chiến, nước thác hò reo làm
thanh viện cho đá, mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chè, sóng nước đá trái, thúc gối
vào bụng vào hông thuyền, đánh những đòn hiểm độc vào ông lái đò. Ông lái đò đã bị
thương những vẫn cố nén chịu nỗi đau thể xác, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt
méo bệch nhưng tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn, tỉnh táo đưa thuyền vượt qua khỏi nguy
hiểm. Ở trùng vi thạch trận thứ hai, cửa tử lại tăng thêm nhưng cửa sinh vẫn chỉ có
một mà nằm ở phía hữu ngạn. Dòng thác thì hồng hộc tế lên như hùm beo họng nuốt
xuống con thuyền. Ông lão chủ động đổi chiến thuật: nắm lấy bờm sóng… cưỡi lên
thác sông Đà như cưỡi hổ. Bọn đá xô ra, định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử,
nhưng ông nhớ mặt bọn này, chỗ thì ông bơi, chỗ đè rồi sấn tới, chỗ chặt đôi ra để mở
đường tiến. Bọn đá chỉ còn biết thất vọng, tiu nghiu cái mặt xanh lè nhìn ông lão đưa
con thuyền lọt vào cửa sinh an toàn. Ở trùng vi thạch trận thứ ba, sông Đà bên phải,
bên trái đều là luồng chết, luồng sống duy nhất nằm giữa lòng sông do bọn đá hậu vệ
trấn giữ. Ông lái kiên cường không mảy may lơ là, quyết đoán giữ vững tinh thần, như
hòa với con thuyền làm một, phóng thẳng đến cửa sinh an toàn, vượt qua mọi vòng
vây . Thế là hết. Thánh thần thiên nhiên cuối cùng cũng không ngăn được sự tiến lên
của con người, sự hung bạo của dòng sông cũng không ngăn được chiếc thuyền độc
mộc và ông lão. Sự ngoan cường, sự quyết tâm cùng sự dũng cảm chính là yếu tố
quyết định cho sự chiến thắng và đặc biệt là kinh nghiệm vùng sông nước của ông lái đò.
Sau khi đọ trí, thi tài với con sông, vượt qua ba trùng vi thạch trận đầy khó khăn, nguy
hiểm, ông lại ung dung đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và say sưa nói về
các loài cá mà không hề bàn thêm một lời nào về chuyện vượt thác. Dường như
chuyện vượt qua thác nước chẳng động lại trong ông một cái gì gọi là sợ hãi hay lo
lắng, ổng vẫn cứ mặc đời kệ người mà lạc quan, thư thái thật giản dị, lãng mạn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân tìm thấy một hình ảnh của một con người mới, con người đáng được ca
ngợi, trân trọng mà không phải là anh hùng đánh giặc trận mà chỉ là một con người
lao động bình thường – con người Tây Bắc.
Chỉ là một người lái đò và một thác nước, Nguyễn Tuân lại viết nên như thể là một
thước phim hành động điện ảnh cận cảnh. Hồi hộp có, kịch tính có, kích thích có, vỡ
oà có, âm thanh đặc sắc, hành động đẹp mắt. Để viết được như vậy phải có trí tưởng
tượng thật phong phú, một cách nhìn khác biệt, có cảm nhận đa chiều… cũng đủ thấy
Nguyễn Tuân có vốn tri thức rộng lớn thế nào, suy nghĩ độc đáo thế nào và một nghệ
sĩ tài hoa như thế nào. Qua đây, nhà văn còn muốn phát biểu quan niệm, người anh
hùng không chỉ có trong chiến đấu mà con có trong cuộc sống lao động thường ngày,
ví dụ như người lái đò kia.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 14
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam
thế kỉ 20. Ông là cây bút tài hoa uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, có tình
cảm thiết tha với cuộc đời và truyền thống dân tộc. Nguyễn Tuân suốt đời đi tìm cái
đẹp và đem ngòi bút phục vụ cho cái đẹp đích thực có trong cuộc đời này. Tùy bút
Sông Đà thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật ấy của Nguyễn Tuân.
Hình tượng con sông Đà với những nét đối lập gay gắt: Tác giả nhân hoá con sông
Đà: như một sinh thể có hồn, có hoạt động, có tâm trạng và có hai nét tính cách đối
lập. Hình ảnh một con sông Đà hung bạo: Cái đáng sợ nhất của sông đà là những
ghềnh thác. Sông nào ở thượng nguồn cũng có ghềnh thác nhưng thác nước của sông
Đà quê thật kì quái và đáng sợ bậc nhất. Nguyễn Tuân đã tỉ mỉ miêu tả từng cái thác
một như thể điểm mặt chỉ tên chúng.
Trước hết là cái ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô
gió. Cuốn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt tay lái thì
cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra. Lại như quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La. Nó
bình thường như những cái thác khác.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đâu chỉ là dòng nước. trong nó còn có những cái hút nước giống như cái giếng bê
tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống
cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy; cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn
thật đáng sợ. Những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
Nó nguy hiểm đến mức không có thuyền bè nào dám lại gần cái hút nước ấy. Nhiều bè
gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những
thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi,
bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Tiếng nước réo gầm là âm thanh ấn tượng nhất của núi rừng hoang vu Tây Bắc. Còn
xa lắm mới đến cái thác dưới nhưng người lái đò đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại
réo to mãi lên. Tiếng nước được hình tượng hóa nghe như là oán trách gì, rồi lại như
là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo.
Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu
rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da
cháy bùng bùng. Bọt nước tung trắng xóa cả quảng sông dưới. Rồi đá bày binh bố trận
dàn hàng đàn ra chỉ chực vỡ nát hoặc nuốt chửng những con thuyền qua lại nơi đây.
Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành
chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên
kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở
hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy
nào vừa tắt phụt đèn điện.
Cách miêu tả chân thực, có chút phóng đại với lối liên tưởng tài tình gây ấn tượng
mạnh mẽ về độ cao hun hút. Với thác nước và thành vách đá, một con sông đầy đá
nổi, đá chìm và thác dữ khiến sông Đà lộ rõ tâm địa một kẻ thù số một. Với nghệ thuật
miêu tả tài hoa, ngôn ngữ tạo hình đặc sắc, cấu trúc trùng điệp, giọng văn mạnh mẽ,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
vận dụng tri thức của nhiều ngành khoa học như địa lí, điện ảnh để làm nên hàng loạt
so sánh, liên tưởng kì lạ, bất ngờ, Nguyễn Tuân đã tái tạo lại hình tượng con sông Đà
hung bạo, dữ dội và đầy hiểm trở trên nhiều dáng vẻ.
Bên trong sự hung bạo đó, con sông Đà cũng nổi bật lên như một biểu tượng về sức
mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc và đất nước. Nguyễn Tuân là
một bậc kì tài trong việc sử dụng ngôn từ, ông đã tận dụng mọi cơ hội có thể phát huy
đến tận cùng thế mạnh của mình, để buộc sự hung tợn và kì vĩ của sông đà phải sống
dạy, phải hiện hình và phải gào thét lên trên những hàng chữ viết.
Nguyễn Tuân đã làm cho những trang văn của mình lung linh lên nhờ những vẻ đẹp
mà ông mượn ở các ngành, các bộ môn trong và ngoài nghệ thuật để làm nên hàng
loạt so sánh, liên tưởng, tưởng tượng rất kì lạ, không thể nào đoán trước: Người đọc
phải ngạc nhiên khi nghe “tiếng nước ở đây thở và kêu như cửa cống trái bị sặc”, lại
“ặc ặc lên như vừa mới rót dầu sôi vào”.
Sự tưởng tượng xuất thần của nhà văn về cú lia ngược chiếc máy quay “thành giếng
xây toàn bằng nước sông xanh với một áng thuỷ tinh khối đúc dày…sắp vỡ tan ụp vào
cả máy cả người quay phim cả người đang xem”. Kinh ngạc và thán phục hơn nữa khi
ông dám can đảm dùng lửa để tả nước, lấy hình ảnh “ô tô sang số ấn ga” trên “quãng
đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” để ví von với cách chèo thuyền. Để có được những
hình ảnh hấp dẫn như vậy, chứng tỏ nhà văn đã không quản ngại công phu quan
sát,tìm hiểu kĩ càng để nhận ra thật đúng sự hung bạo đó.
Hình ảnh một con sông Đà trữ tình, thơ mộng: Thế nhưng, bên cạnh một con sông Đà
hung bạo, dữ dằn ấy, còn có một con sông Đà hết sức đẹp đẽ, thơ mộng. Đó là một
phát hiện lớn của Nguyễn Tuân về con sông của đất nước. Ông biết nhìn nó ở mọi góc
độ, mọi khía cạnh, mọi thời điểm để tìm kiếm vẻ đẹp ẩn chứa trong nó rất khó nhận
thấy hoặc không có cơ hội nhận thấy. Như ông viết trong tác phẩm: “Tôi có bay tạt
ngang qua Sông Đà mấy lần, và thấy đó cũng là thêm cho mình một góc độ nhìn một
cách nhìn về con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình của sông Đà phải ở một độ cao đặc biệt, một điểm nhìn
đặc biệt mới thấy rõ hết. Phải ở trên cao mà nhìn xuống. Phải vượt lên trên cái hung
dữ của nó để thấy nó cũng hiền hòa, cũng duyên dáng để mà yêu mến và say mê nó.
Phải từ trên cao mới thấy: “con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai va
cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân”. Đó là vẻ đẹp nét đẹp duyên dáng, mềm mại
thơ mộng mà đất trời đã phú cho dòng sông kì vĩ ấy. Và phải bằng ánh mắt nhìn của
người hết lòng yêu mới nó mới thấy nó đẹp kì diệu đến thế.
Phải nhìn nhiều lần, nhiều thời điểm và nhìn kĩ lắm, Nguyễn Tuân mới phát hiện:
“mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến
của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ
thu về”. Cách so sánh về màu sắc, làm cho dòng sông hiện rõ vẻ đẹp riêng của mỗi mùa.
Có lẽ, Nguyễn Tuân phải đi lại và ngắm nhìn rất nhiều lần mới kết luận: “con Sông Đà
gợi cảm” như một nhận định không thể sai được. Ông còn nói: “đối với mỗi người,
Sông Đà lại gợi một cách“. Ông không hề biện minh cho cách nhìn của mình. Ông cứ
nhìn thẳng, nói thật những gì ông đã thấy, đã cảm nhận được.
Sông Đà dưới mắt nhìn của Nguyễn Tuân lóng lánh ánh bạc phản chiếu. Cái gương
sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi. Rồi gặp lại sông Đà thấy đằm đằm ấm
ấm như gặp lại cố nhân, lưu luyến mãi không thôi. Đó là toàn bộ sông Đà khi nhìn từ
trên cao. Còn khi đi trên thuyền, sông Đà hiện ra gần gũi và thân mật. Lúc thuyền đến
quảng êm mới thấy “cảnh ven sông ở đây lặng tờ” chứ không ồn ào nữa.
Rồi “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” hiện ra trước mắt. Tiếp đến
“cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm” thật yên bình như chốn này chưa từng có dấu chân người đến. Cuối
cùng, Tác giả khẳng định chắc chắn: “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông
hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Biện pháp so sánh có sức khêu gợi sâu xa khắc hoạ vẻ đẹp hoang sơ và dấu ấn văn hoá
ngàn xưa của cha ông. Dường như có một dòng chảy bất tận từ ngàn năm cổ tích
xuyên suốt về tới tận ngày nay. Lời văn Nguyễn Tuân cổ kính, đĩnh đạc nghiêm trang và hiện đại là thế.
Với những so sánh độc đáo gợi tả, gợi cảm, ấn tượng, giọng văn nhẹ nhàng, câu văn
trải dài,mềm mại, âm điệu êm đềm, hình ảnh con sông hiện lên thật trữ tình và thơ
mộng. Thành công đó chính là kết quả của những công phu tìm tòi khó nhọc, công sức
lao động nghiêm túc, cần cù, kiên nhẫn của nhà văn.
Nhà văn ca ngợi vẻ đẹp, kì vĩ, hào hùng, trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, ca ngợi
cái chất vàng mười của thiên nhiên. Qua đó bộc lộ tình yêu tha thiết, say đắm của nhà
văn đối với quê hương đất nước nói chung và thiên nhiên Tây Bắc nói riêng. Từng câu
văn vừa có đường nét, hình khối và màu sắc, vừa có sự so sánh và cảm nhận, lại như
hát lên trong giọng điệu.
Lúc đầu âm vực cao, trường độ nhanh, càng về cuối nó như hạ thấp dần và chậm lại,
kéo dài ra, lan tỏa trong không gian bất tận. Không phải cây bút văn xuôi nào cũng
làm được như Nguyễn Tuân, tạo dựng nên cả một không gian trữ tình đủ sức khiến
người đọc say đắm, ngây ngất, để thêm yêu cuộc đời này đến thế. Nhà văn đã có một
sự chuyển đổi trong cách viết của mình khi miêu tả hai nét tính cách đối lập của con
sông này. Đó cũng là mục đích của nhà văn dựng lại hình ảnh con sông đà hùng vĩ, thơ mộng trữ tình.
Không chỉ chú trọng tái hiện hình ảnh dòng sông Đà, Nguyễn Tuân còn miêu tả kỹ
lưỡng hình ảnh người lái đò già thường qua lại trên quãng sông ấy trong trận chiến
kịch liệt với dòng sông. Ông lái đò hiện lên với ngoại hình thật ấn tượng. Hai tay ông
dài lêu nghêu như cái sào. hai chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như đang kẹp một
cái gì đó vô hình. Rõ ràng, công việc hàng ngày đã tạc khác vào hình dáng của ông
đến nỗi không thể rời bỏ hoặc thay đổi được. Hình ảnh ấy cũng là hình ảnh đặc trưng
của những người xuôi ngược đò hàng như ông ở vùng đất dữ dội này.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Ông lái đò còn có nhãn giới phi thường. Nhìn mặt nước là ông biết ngay nó đang ẩn
giấu cái gì ở bên dưới. Nó không thể nào lừa ông được. Tiếng nói của ông cũng ào ào
lũ. Đầu quắc thước như một người bước ra từ trong sử thi. Trên ngực ông có một vết
sẹo lớn mà ông rất tự hào về nó. Cuộc sống trên sông nước in dấu lên từng chi tiết trên
cơ thể ông. Những gian nan, cực nhọc và hiểm nguy in hằn lên mồn một trong tâm trí ông.
Hàng chục năm xuôi ngược trên sông Đà, ông đò vẫn “nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào
lòng tất cả những luồng nước, của tất cả những con thác hiểm trở” nên ông rất tự tin.
Ông còn là người tài nghệ leo ghềnh, vượt thác. Qua miêu tả của Nguyễn Tuân, ông
lái đò hiện ra giống như một hiệp sĩ của núi rừng. Cả tư thế và tâm thế đều đứng trên
hoàn cảnh. Với lối miêu tả ấy, người đọc nhận ra ông lái đò có đủ sức mạnh và dũng
khí để khuất phục và thuần hóa con sông dữ tợn và bướng bỉnh kia.
Hình ảnh ông lái đò hiện lên trực tiếp qua lời giới thiệu của tác giả trong cuộc chiến
sinh tử với dòng sông Đà. Ông đã từng trải trăm lần chứ không phải là lần đầu thử sức
với dòng sông. Ông rèn luyện trí nhớ cao độ và không cho phép mình sai lầm. Trường
thiên anh hùng ca mà ông thuộc cả dấu chấm. Ông cũng không thích xuôi đò những
đoạn nước êm. Những gì dữ dội và hiểm nguy luôn làm ông hứng thú.
Cuộc sống của người lái đò Sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hàng ngày với thiên
nhiên chỉ “để dành sự sống từ tay nó về tay mình” Trong cuộc chiến ấy, ông nắm chắc
binh pháp của thần sông, thần đá. Ông thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước
hiểm trở này và nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước sông Đà. Dòng sông ấy
dù có ẩn giấu cái gì trong mình nó đi chăng nữa ông đều thấu rõ hết.
Bằng việc khắc tạc tỉ mỉ, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên bức chân dung ông lái đò
từng trải, mang đậm dấu ấn nghề nghiệp, một con người có trí nhớ cao độ. Cách so
sánh hấp dẫn thể hiện tài năng quan sát và sự am hiểu đối tượng của ông lái đò cùng
sự tự tin, bình thản nhưng không hề tự kiêu.
Qua miêu tả của Nguyễn Tuân, ta có thể thấy, sự đối lập giữa ông lái đò và dòng sông
Đà là quá lớn. Ông lái đò với con người nhỏ bé, không có phép màu, không có vũ khí.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Ông chỉ có một cán chèo mỏng manh, đứng trên con đò đơn độc và lao đi trên dòng
nước đầy cạm bẫy. Còn thiên nhiên Tây Bắc quá lớn lao. Dòng nước dữ dội và hiểm
độc với sức mạnh được nâng hàng thần thánh. Nó có đủ mọi thứ vũ khí, mưu chước
và binh pháp vô cùng lợi hại.
Nếu nhìn vào sự chênh lệch đó, quả thực, ông lái đò đang phải đối diện với một sức
mạnh thần thánh, không có cơ hội nào để chiến thắng. Đó cũng là điều mà Nguyễn
Tuân muốn gợi ra trong tâm trí người đọc để sau đó ông bất ngờ phô bày sự lợi hại phi
thường của lái đò già dặn ấy trong cuộc vượt thác diễn ra ngay sau đó.
Bắt đầu cuộc vượt thác, tác giả có đoạn miêu tả con thác. Đầu tiên là tiếng thác gầm
réo với mọi âm điệu ghê rợn. Điều đó không khỏi khiến cho những đầu óc tỉnh táo và
quả cảm nhất cảm thấy run sợ: “còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy
tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì,
rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, thác nước sông Đà như một con quái thú cổ xưa
hung tợn và kì quái. Nó chỉ chực nuốt chửng tất cả những gì dám mon men lại gần nó.
Nó đói khát cùng cực và không gì có thể làm cho nó thôi dữ dội. Càng đến gần càng
thấy kinh hãi. Dòng sông không chỉ làm ra vẻ đáng sợ mà nó thực sự chứa đựng
những nguy hiểm chết người.
Ngầm sâu dưới những cơn “sóng bọt đã trắng xóa” là “cả một chân trời đá”. Không
chỉ đá ngầm, đá tảng mà chúng còn “mai phục hết trong lòng sông” . Mỗi lần có chiếc
nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy đâm thủng,
xé nát những con thuyền gỗ mỏng manh.
Hình ảnh những hòn đá tinh quái hiện lên trong rất ngỗ ngược và khiêu khích. Nhìn
vào, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Chúng đứng
ngồi hay nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé. Bởi cái trật tự bề bộn và tùy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tiện ấy, chúng làm cho mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập.
Mặt sông trắng xóa càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trong tưởng như nó.
Thế nhưng không phải vậy. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn với một trật tự nhất
định. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tang đám hòn chia làm
ba hàng chắn ngang trên sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá. Hai đứa giữ
vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa. Rồi đến tuyến hai
nước sóng luồng giữa vật thuyền.
Thuyền vào đây rồi khó mà quay trở lại. Con nước cứ đẩy thuyền đi tới, mà quật, mà
lắc, mà thúc, tránh bên nào cũng gặp đá nhọn, đá sắc ở tuyến ba như một pháo đài nổi
sẵn sàng tiêu diệt con thuyền ngay ở chân thác. Bằng nhãn quan kì của, ông lái đò
phân tích thạch trận, nhìn rõ cửa sinh, cửa tử mà tiến tới. Mỗi lần vượt thác là một trận
chiến sinh tử thực sự. Sơ hở một cái là nguy hiểm ập đến ngay lập tức. Con huyền tiến
vào. Trận chiến chính thức bắt đầu.
Vòng 1: Con thác dữ đón con thuyền hết sức long trọng bằng thạch trận đá và nước.
Thạch trận dàn bài vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò
làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Chúng kiêu ngạo, chế
nhạo, thách thức người lái đò. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi
cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến.
Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Thế
nhưng điều ấy không làm ông lái đò quan tâm. Chúng chỉ là bọn lính nhằm gây mất
tập trung mà thôi. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa
phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo võ khí trên cánh tay mình.
Con thuyền lắc lư vụt tới. Sóng nước như thể quân liều mạng cứ thức, giật, lắc hòng
vật ngửa con thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Không những thế, nước bám lấy
thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
thanh la não bạt. Chúng không những hung tợn mà còn hết sức thâm hiểm, không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
chừa bất kì mưu chước hay đòn đánh nào. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò.
Nhưng ông đò cố nén vết thương, hô rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo, hai chân vẫn
kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn
tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm.. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất.
Trận thứ nhất mở màn thôi mà đã quyết liệt đến kinh hoàng. Kẻ tầm thường thật
không thể vượt qua được con thuyền sớm bị xé nát tại đây. Thế nhưng, với tài năng và
bản lĩnh của ông lái đò, con thuyền lướt tới vô sự. Người lái đò hiện lên như một viên
tướng tả xung, hữu đột, bình tĩnh, gan góc và tự tin, chiến đấu và chiến thắng.
Vòng 2: Vừa hết vòng một là đến ngay vòng hai. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt,
phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ở vòng vây này là cả một
thạch trận có tổ chức vô cùng biến ảo. Mỗi hòn đá là một mối hiểm ghê gớm. Chúng
xoay chuyển chứ không hề nằm yên và được che phủ, hỗ trợ bởi mặt nước nên càng thêm lợi hại.
Thế nhưng, ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Nếu ở vòng đầu vừa rồi, nó mở ra
năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông thì
vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào. Cửa sinh lại bố
trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Con thuyền không thể lùi lại vì bất cứ lí do gì. Ông lái
nhận định “cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Không thắng nổi con thuyền ở vòng một, dòng sông tức giận vô cùng. Chúng hồng
học tế mạnh đuổi theo. Ông lái mặc kệ chúng. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng
luồng rồi, ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào
cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Tuy cửa sinh lập lờ và biến
ảo nhưng với kinh nghiệm bao năm vượt thác của mình, ong cảm nhận nó đang nằm ở
hướng ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền
lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này. Chúng quá quen thuộc vì ông gặp chúng từng ngày.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đến đây, ông lái thể hiện tài năng và sức mạnh chinh phục của mình. Đứa nào ở xa thì
ông tránh mà rảo bơi chèo lên. Đứa nào sáp lại gần thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra
để mở đường tiến. Bọn đá không làm gì được ông trở mặt nhăn nhó, gườm ghe thách thức.
Cuối cùng, những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền. Chỉ còn vẳng reo tiếng hò của
sóng thác luồng sinh. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng
đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng thua cái thuyền đã đánh
trúng vào cửa sinh nó trấn lấy. Con thuyền vượt qua vòng hai bình an. Chỉ là vượt qua
vùng đá cạn nhưng đó lại là vùng nguy hiểm nhất vì đá ẩn mình trong nước. Không có
kinh nghiệm, không từng trải, từng nhiều lần bị đánh trúng, đánh trúng thì không thể
thuộc lòng dòng sông đến thế.
Với trí tưởng tượng và vốn từ phong phú đặc biệt là kiến thức về quân sự: cách bài
binh bố trận, Nguyễn Tuân tạo dựng được đoạn văn mang đầy không khí trận mạc, sinh động.
Vòng 3: Còn một trùng vây thứ ba nữa. Vòng ba ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là
luồng chết cả. Nhưng ông lái biết các luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ của con thác. Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thế nhưng,
không đơn giản đến thế. Chúng đâu để người lái đò để tiến vào nơi ấy. Chúng tạo ra
nhiều cửa hơn nữa, dụ dỗ con thuyền hết mức.
Không để bị chúng dụ dỗ, ông lái điều khiển con thuyền vút qua cổng đá cánh mở
cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên
tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động lái được lượn được. Con thuyền
thoát ra ngoài. Ai cũng thở phào nhẹ nhõm. Vòng ba này chỉ diễn ra có mấy giây đồng
hồ. Đến đây rồi mà sơ hở thì cũng thất bại như thuyền. Thất bại ở cửa nào trong cuộc
vượt thác ấy đều dẫn đến hậu quả ghê gớm. Thế nhưng, nếu thất bại ở cửa ba lại là
một điều nhục nhã đối với bất kì tay đò nào.
Một hệ thống từ ngữ tượng hình, tượng thanh, nghệ thuật so sánh, câu văn ngắt ra
nhiều để diễn tả các động tác trong cùng một khoảng thời gian của người lái đò.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân như đã vắt hết sinh lực của mình để diễn đạt thành công tính chất mạo
hiểm và tinh thần dũng cảm, ý chí thuần thục, giỏi giang trong nghề leo ghềnh,vượt
thác của ông lái đò. Ông lái đò chính biểu tượng tài hoa của người nghệ sĩ như
Nguyễn Tuân đã quan niệm: Dù bất cứ nghề nào, con người bộc lộ tài năng, khéo léo,
điêu luyện trong nghề nghiệp, người đó là nghệ sĩ.
Với nghệ thuật miêu tả giàu tính tạo hình, kết hợp nhiều yếu tố điện ảnh, lối kể chuyện
hồi hộp giàu kịch tính, có cái nhìn của nhà địa lý chính xác, nhà quân sự tài ba, nhà
văn đã làm nổi bật cuộc chiến đầy dữ dội nhưng cuối cùng con người đã chiến thắng
sức mạnh thần thánh của tự nhiên. Đó là kì tích lao động của con người. Bí quyết làm
nên chiến thắng của con người không hề bí ẩn.
Đó chính là sự ngoan cường, chí quyết tâm và nhất là kinh nghiệm đò giang sông
nước đã giúp con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá. Bí quyết đó chính
là những yếu tố làm nên chất “vàng mười” của nhân dân Tây Bắc và của những người
lao động nói chung. Qua đó nhà văn ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động
vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng.
Trong con mắt Nguyễn Tuân, thiên nhiên Tây Bắc quý như vàng, nhưng con người
Tây Bắc mới thật xứng đáng Là “vàng mười” của đất nước ta. “Vàng mười” là để gọi
tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của con người lao động. Con người được ví với khối
vàng mười quý báu lại chỉ là những ông lái đò nghèo khổ, những người trên hình hài
còn in hằn những dấu vết khắc nghiệt của công việc chèo thuyền quá đỗi gian nan, cực nhọc, hiểm nguy.
Tất cả những người lái đò trong tùy bút này, không trừ một ai, đều làm lụng âm thầm,
giản dị, tuyệt đối vô danh, vì tác giả nhất định không chịu nêu tên họ. Song những con
người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà họ
trở nên lớn lao, kì vĩ.
Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm
thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào
hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, nhất là của con người lao động bình dị ở
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
miền Tây Bắc. Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc, cùng
sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái
tạo những kì công của tạo hoá và những kì tích lao động của con người.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 15
Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện
đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của con người, của cuộc sống với
tư tưởng, tình cảm gắn bó quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về
phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. "Người lái đò Sông Đà", đó là
một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi thể hiện rõ nhất những nét tiêu biểu về phong cách đó.
"Người lái đò sông Đà" trước hết là một tác phẩm viết về một con người và con sông.
Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông thì mọi cảnh vật thiên nhiên đều
trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng phong
phú và chuẩn xác của Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động,
những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân nói đến trong tác phẩm là một ông già
70 tuổi đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông Đà. Đó là một người
lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh
tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt
đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những
luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm
phục của mình đối với con người này: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường
thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
những đoạn xuống dòng”. Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và
cũng “rất là Nguyễn Tuân”.
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to
gọn quánh như chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một
“chàng trai”, “trẻ trắng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng đã
đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm,
những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một
chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi
lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc
nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: "... hai tay giữ mái chèo
khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy
quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước
“thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy
thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông... Các
miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ
đối với con người, chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng chỉ dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người
cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái
đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe
còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống
thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim
luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả...” vẫn bằng phương
pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến
vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có
một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn
hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có những “hút nước" xoáy sâu như
lòng giếng “cái hút nó lút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”...
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ông
lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo
bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng
chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm
đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến
thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến
bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái
thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống
thanh bình: “thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh
(...). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...”
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho
đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đò, kể cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực
người lái đò vẫn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là cái
hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 16
Người lái đò sông Đà là một bài trích trong tập Sông Đà. Đây là kết quả của chuyến đi
thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Ông sông với bộ đội, thanh niên xung phong,
công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc Tây Bắc từ Lai Châu về Sơn La. Thực
tiễn xây dựng lại bản làng sau 1954, phong cảnh, con người Tây Bắc đã đi vào trang
sách với một nỗi vui sống bao trùm lên tất cả chen lẫn những cảm tưởng kỳ vĩ về đất
nước và Con người cũng như những xúc cảm trữ tình trước cái đẹp lạ lùng và hấp dẫn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Người lái đò sông Đà là một bài tiêu biểu. Lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của
câu chuyện về con người sông Đà, nhưng thực chất là cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát,
nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Thành thử mượn lời ông lái đò già nhưng
chính là tác giả miêu tả con sông từ nhiều góc độ khác nhau, bộc lộ tâm tư tình cảm
đối với con sông đại biểu này, nghĩa là với lối viết của Nguyễn Tuân, con sông Đà đã
trở thành con sông của Nguyễn Tuân.
Sông Đà có cả địa lí và lịch sử. “Nó khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam bên
Trung Quốc lấy tên là Li Tiên, đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin
nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thì chan hòa vào sông Hồng”.
Con sông mà nghe như con người, nào khai sinh, nào xin nhập quốc tịch, nào trưởng
thành... Ngôn ngữ học bảo đó là nhân hóa, kì thực đó là nghệ thuật hóa, con sông có
đời sống, có tính chất rất vững, rất độc đáo. Thời xưa, nhà Trần lấy sông Đà đặt tên
cho một trong 15 lộ của cả nước: Đà Giang lộ. Chính vì vậy mà Truyền kỳ mạn lục có
truyện Đà Giang dạ ẩm thuộc bối cảnh đời Hồ cuối đời Trần.
Đà Giang lộ là vùng đất từ Hưng Hóa trở lên. Bây giờ ta gọi đó là vùng Tây Bắc, từ
Lai Châu xuôi về Hòa Bình, nối nhau bằng sợi dây thừng (chữ của Nguyễn Tuân)
khổng lồ là sông Đà, nhìn từ trên máy bay xuống. Sông Đà có lịch sử và truyền thống
cách mạng. Lịch sử dù biến thiên, con sông Đà vẫn là của người dân xứ Tây Bắc nước
Việt. Nó dữ, nó hiền là một chuyện, nhưng con người vẫn ăn ở đời với nó.
Không nói chuyện quá xưa, Chỉ gom lại hồi Tây mới sang cướp nước ta, con người xứ
Thái này đã cùng nhà yêu nước Cần Vương Nguyễn Quang Bích, ông Hoàng giáp
tuần phủ Hưng Hóa ấy chiến đấu đến cùng và trong thơ nhật kí hành quân của ông đã
có bao nhiêu tên đất nước thuộc vùng sông Đà. Tiếp theo đó là thời thằng Tây cai trị
với đủ bọn lang đạo, địa chủ gian tham độc ác. “Con sông bị chúa đất từng vũng đem
cắt ngang ra thành khúc nhỏ làm cho con sông ác thêm! Đế quốc đóng đồn bốt ven
sông, tính dữ ác con sông lại tăng thêm mấy lần.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Tuy vậy, người xứ Thái không chịu rời sông. Hơn hai mươi năm sau, công trình thủy
điện Hòa Bình đã sắp xong. Con sông Đà đã được chặn lại để làm nên điện và nên hồ.
Hồ dài hàng trăm kilômét là cảnh du lịch, là nơi nuôi cá, là đường giao thông thuận
lợi, tàu bè lên xuống nhẹ nhàng, không còn cảnh lên thác xuống ghềnh nguy hiểm mặc
dù rất nên thơ, hào hùng như thuở xưa.
Mặt khác, chúng ta còn thấy sông Đà dữ, sông Đà anh hùng ca. Tạo được môi trường
anh hùng ca phải là cái gì dữ dội, nguy hiểm cao độ, khắc phục được phải là thiên tài,
tối thiểu là tài ba hiếm có, mà phải là kiên trì, có khi cả lều xông vào chỗ chết để
giành lấy cái sống, và cố nhiên cuối cùng phải chiến thắng vẻ vang. Sông Đà quả là
một môi trường như thế. Bản chất nó đã vậy. Tài hoa của nhà văn càng làm cho bản
chất ấy sắc nhọn thêm, dữ dội, nguy hiểm thêm bội phần.
Cây cối, cỏ hoa hai bên bờ, ánh sáng trời trăng, nhà của, làng bản ven sông là nằm
trong cảnh quan của sông, nhưng những cái đó thường hiền hòa, chưa nói tươi đẹp,
ấm vui, hoặc không nói hoặc để lùi ra sau. Trước hết nói cái ruột nhất của sông. Cát là
vật bình thường nhất chứ gì? Cát trên sông có hại chăng là khi nó thành gò làm thuyền
bị mắc cạn. Có mấy ai nghĩ rằng thứ hạt nhám nhám ấy của sông Đà làm loét cả da
nếu chỉ đóng khố chứ đừng nói bận quần, vì nó chui vào bẹn và ăn luôn cả da, còn ở
truồng mà lội nước thì “nó đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt hà đục thủng
đáy và mạn dưới các thuyền gỗ”.
Thế là cát dữ. Bờ cũng chẳng hiền. Có nơi “nó dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy
đúng Ngọ mới có mặt trời. Có vách đá vách chẹt lòng sông như một cái yết hầu. Có
quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua
quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ
mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn
điện”. Gió cũng đáng sợ.
Ở quảng ghềnh Hát Loóng là một vương quốc của gió phối hợp với nước, với đá, với
sóng thành những cơn xoáy: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn từng
luồng từng luồng cứ gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt” (nợ xuýt: nợ
không có cũng đòi), mà không đòi được bằng tiền thì bắt người lái đò lại và “lật ngửa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
bụng thuyền ra”. Cát, vách đá, gió đều đáng sợ cả, nhưng không gì đáng sợ bằng “cát hút nước”.
Chắc cái tên này không phải của tác giả đặt ra mà là của đồng bào sở tại, ít ra là từ các
vị lái đò trên sông này. Nó là chỗ nước xoáy, dòng nước đương xối êm thấm, bỗng
dưng không thấy vướng một vật nào nổi trên mặt nước cả mà dòng nước tới đó cứ
xoáy tròn vo thành vòng rất đẹp để trũng xuống một cái lõm như cái lúm đồng tiền
trên một đôi má xinh xinh. Ai ngờ đó là chỗ nguy hiểm nhất cho thuyền đi trên dòng nước.
Nước ở đó ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Tiếng nước ặc ặc ấy, có lẽ sông Đà mới
có. Còn “những bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột
xuống. Vừa đáng sợ vừa buồn cười là thuyền mà lạc vào đó thì thuyền trồng cây chuối
ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mười phút sau mới thấy
tan xác ở dưới khuỷu sông dưới”.
Cái đáng sợ nhất của sông Đà chưa phải là những cái đó mà là đá và thác, thác và đá
thành Thạch Trận, hay nói đúng hơn, Thạch Thủy Trận. Nguyễn Tuân dụng ý trình
bày một thứ trận chiến như kiểu Bát trận đồ của Khổng Minh theo binh pháp Tôn Ngô
mà Khổng Minh sáng tạo lại. Cố nhiên có pha chút hiện đại. Không có Long Xà trận
nhưng có Thạch Trận. Thạch Trận cũng đủ cửa tử, cửa sinh. Không đủ Bát Trận
nhưng có trận trước trận sau, trận trên trận dưới, nhiều lớp nhiều tuyến, có tiên phong
có dự bị... Không có tướng trấn cửa, Nhưng Nguy Diên, Mã Siêu, Quang Hưng,
Trương Bào nhưng có những tướng đá và quân nước.
Đá thì “ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, có thuyền xuất hiện là một số
hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy... Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cùng
nhãn nhúm, méo mó”... Tưởng như chúng nằm ngồi rải rác tùy tiện, nhưng không
phải. “Hình như sông đã giao việc cho mỗi hòn, sông bày Thạch Trận”, Thạch Thủy
Trận. Đá được phân công hẳn hoi. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
“Hai hòn canh một cửa đá giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương vào tận tuyến giữa rồi
nước sông luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại”. Thuyền không chịu chìm mà cứ
tiến lên thì một thế trận khác lại đã sẵn bày. Tướng tá ở đây oai phong lẫm liệt. Có vẻ
như các tướng trên sân khấu tuồng. Sân khấu thì hất râu, đá giáp, múa tít cây thương
hay cây xà mâu, còn đây thì một tướng đá như “đang hất hàm hỏi cái thuyền phải
xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Một tướng đá khác “lùi lại một chút và thách thức
cái thuyền có giỏi thì tiến lại gần nào”.
Nhưng các tuyến của Thạch Trận đều lần lượt bị chọc thủng. Các cửa tử đều chẳng
nhử được thuyền. Cuối cùng, “cái thằng đá tướng đứng chắn ở cửa vào đã tiu nghỉu
cái mặt xanh lè thất vọng”. Tưởng đâu như sáp bị khép vào tội trong binh pháp: quân
thua chém tướng. Hết đá đến nước, quân nước. Đá dưới nước thì ở đâu cũng không
hiền. Nước vốn êm dịu. Nhưng kết thân với đá, với gió, nước trở nên hung dữ. Nước
sông Đà vào loại đó, tính từ Chợ Bờ trở ngược. Chỉ lắng nghe tiếng kêu của nước
cũng đã thấy ghê ghê. “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới.
Nhưng đã thấy tiếng nước réo, gần lại to mãi lên”. Đâu réo có một giọng. “Lúc nghe
như oán trách, rồi lại như van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gầm mà chế nhạo”.
Bỗng dưng, không biết chuyện gì, “nó rống lên tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn vì da cháy giữa rừng vầu rừng tre bốc lửa. Tới giữa thác thì một đằng đá
chặn, một đằng nước sóng luồng nhằm thuyền mà đánh vu hồi”, đồng thời “reo hò làm thành viện".
Có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất cái thuyền đang phải đóng vai
một cái nắp ấm, một ấm nước sôi khổng lồ”. Nhưng không đâu tiếng nước nghe lạ
như ở những cái hút, ở đó “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Tiếng nước đã
ghê, sức nước còn đáng sợ hơn. Đừng nghĩ ổ gà chỉ có trên đường bộ, đường không.
Mặt sông cũng có ổ gà. “Đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống, bị dồn lên.
Nước lại theo luồn. Cho thác, sông có nhiều luồng. Có luồng đi lầm vào thì chết ngay,
thì cũng vẫn có thể thập tử nhất sinh như thường”. Lúc khác, nó có thể “đội thuyền
lên, bám lấy thuyền như đồ vật túm thắt lưng lái đò đòi lật ngửa” ông ái cho phơi bụng
“giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Nước đã thành võ sĩ thực thụ. Nó “đánh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
đến miếng đòn hiểm độc nhất: bóp chặt hạ bộ người lái đò, hạt sinh dục vụt muốn thốt lên cổ.
Bây giờ thì nó là con ngựa bất kham. Nó đang tế mạnh trên sông Đà”. Thế là ông lái
“nắm chặt cũ bờm sóng, ghì cương lái, phóng nhanh vào cửa sinh”. Nó đành chịu
thua. Nhưng đến chỗ cái hút, nó rình sẵn, thuyền nào lơ mơ là nó rút luôn tận đá, chết
không kịp ngáp. Chẳng khác gì dân gian đồn Hà Bá lên lấy gỗ. Sông Đà quả không sai
với tiếng đồn. Nó rất dơ. Cát dữ, bờ dữ, gió dữ, hút nước dữ, tập trung cái dữ là những
Thạch Trận, đá và nước hùa nhau bắt người vào chỗ chết.
Tác giả đã dùng ngòi bút trăm màu và cặp mắt nhiều con ngươi của mình để có hàng
tràng những hình ảnh khác nhau mà luôn luôn đặc sắc, vừa có tính trí tuệ vừa có chất
tạo hình, vượt lên trên cả thủ pháp quen gọi là nhân hóa mà đi vào bản chất sâu xa
nhất, độc đáo nhất của sự vật thành những trang viết biến hóa khôn lường Bên cạnh
cái dữ, chúng ta còn cảm nhận được sông Đà đẹp, sông Đà trữ tình. Lên thác phải chống băng sào.
Cái hút nước là cái đáng sợ vậy mà tưởng tượng cứ chui xuống đáy nước rồi lia máy
quay phim ngược lên “cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve
một áng thủy tỉnh khối đúc dày...” thì cái hút ghê gớm kia lại trở thành cảnh đẹp
không ngờ. Nhìn từ trên máy bay, sông Đà trông như cái dây thừng ngoằn ngoèo chứ
không ai nghĩ rằng nó đã bao đời làm mình làm mẩy với người dân Tây Bắc.
Cũng từ trên không ấy mà nhìn thì có lúc lại thấy sông Đà như “một áng tóc trữ tình,
đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nước sông Đà màu đẹp. “Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích chứ không xanh màu xanh canh hến của sông Gấm, sông Lô.
Mùa thì nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Màu nọ
màu kia hoàn toàn chính xác, điều đó không nói làm gì, nhưng cái áng tóc kia sao lại là áng tóc trữ tình?
Dĩ nhiên đó phải là cái nhìn từ trên trời nhìn xuống và nhìn khắp lượt những từ chân
tóc tới đầu tóc, nó buông nó thả, nó uốn nó quanh, nó trải, nó co - thiếu một mùi thơm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
của nước ướp hoa bưởi và của tuổi xuân tơ - nó là con sông mà sao nó nói bao nhiêu
điều cho khách nhìn? Nó lại ẩn hiện chập chờn trong khói đốt nương (điều ấy rất nguy
cho núi rừng) và mây trời bung nở trắng xóa hoa ban, đỏ hồng hoa gạo. Tạm coi
những điều trên đây là cái nhìn. Còn đây là cái cảm. Tác giả nói ngay: “Con sông Đà
gợi cảm”. Mỗi người mỗi khác.
Với tác giả, có lần ông nhìn nó như một cố nhân, một người thân, người thương cũ,
lâu ngày mới gặp lại. Cố nhân ấy đã xuất hiện đột ngột sau một chỗ ngoặt khỏi núi
thành một vết loang loáng rồi một màu nắng tháng ba Đường thi “yên ba tam nguyệt
há Dương Châu” (thơ Lí Bạch trong bài Tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng). Ôi,
cái nắng tháng ba trên sông vừa khô vừa nước sáng loáng, mùa xuân đang lại, nhựa
sống lên cành lên thân, lên xem, nó đẹp, nó ấm áp làm sao!
Ông bạn thơ của Lí Bạch ra đi vào cái thời tiết hoa khói ấy có thấy dồn lên trong từng
thớ thịt chất men xuân không thì chưa rõ, nhưng ở tác giả đoạn văn này thì ông như
trộn lẫn người mình vào đám hội xuân của chuồn chuồn, bươm bướm, của nắng giòn
tan trên sông, của đá ngầm xanh vọt lên mặt nước như bạc rơi thoi, của đàn hươu cúi
đầu ngốn búp cỏ tranh đẫm sương đêm, của sông Đà thơ mộng theo hồn Tản Đà “Dải
sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” và của cả những nương
ngô mới nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa...
Sông nước, bến bờ, tịnh không một bóng người. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền
sử, gần nhất cùng thời Lý Trần. Đẩy cảm nghĩ lên ngược thời gian xưa sơ, bỗng dưng
tác giả lại thèm một tiếng còi súp lê của một chuyến xe lửa Yên Bái - Lai Châu để cho
nỗi niềm cổ tích tuổi xưa trở màu thành hiện đại cho cảm nghĩ gồm đủ hai chiều kim cổ.
Cuối đoạn văn trữ tình này, lại là một khoảng không gian khoáng đạt của dòng nước
êm đang nhớ các bạn đá ghềnh, của giọng người miền xuôi thoáng rộng, êm êm, của
những cánh buồm mở rộng tha hồ đón gió tứ phương trên những con thuyền mình nở
chứ không phải là thuyền then đuôi én, khiến cho cảm xúc tràn ra mênh mang, bất tận.
Sông Đà dữ thật nhưng sông Đà cũng rất trữ tình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đặc biệt, sông Đà còn tạo ra những con người cho mình. Ở đó có ông lái đò sông Đà.
Ông sinh bên bờ sông Đà, uống nước sông Đà từ thuở để chỏm. Chắc chắn ông cũng
đã hụp lặn trong lòng sông. Bây giờ nghỉ đò đã vài chục năm sau mười năm lên ngược
xuống xuôi, cầm lái sáu chục phần, trăm phen đi về từ Lai Châu tận Hà Nội, bên nào,
đá nào, luồng nào mà ông không thuộc.
Từ hình dáng bên ngoài: “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng
khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào
như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong
một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Cuộc sống sông nước đã rèn cho ông một
“thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun”. Cũng cái nghề ấy đã biến tất
thảy những lái đò sông Đà chỉ khỏe có đôi tay còn chân rất yếu, chạy rất kém.
Cử chỉ của ông cũng đều theo dáng lái thuyền: ngắt lời người khác, “ông nhanh như
một tay lái rẽ ngang sông miết theo luồng thác bắt chéo”. Từ hình dáng đến hiểu biết.
Lái đò, ông biết con đò. Tại sao thuyền Tây Bắc chỉ mình thon chứ không nở? Không
phải vì xứ này thiếu gỗ trái lại, cũng không phải vì không biết thuyền mình nở thì chở
được nhiều hàng. Phải đóng thuyền then đuôi én thì mới qua được các cửa luồng đã
họp lại còn rất hẹp. Cả chuyện cái buồm cũng vậy. Lái đò sông Đà ở miền cao thì cần
sào chống, chèo bơi, cần nữa thì dây kéo, ít khi dùng buồm.
Về dưới xuôi, cần buồm thì “căng hai cây sào lại thành cột buồm và căng cái mui ra
làm buồm mà treo lên. Có điều chân trời Tây Bắc và sông Đà thường là vướng núi, cái
buồm di động trên sườn núi, vốn không phải là hình ảnh quen mắt của người hai bờ
sông Tây Bắc”. Đến con sông thì coi như ông thuộc tựa lòng bàn tay. Sông Đà, đối
với ông, chỉ có ý vị đậm đà từ Chợ Bờ trở ngược.
Đời người lái đò sông Đà là một đời chiến đấu thực thụ. Cứ nghe thuật một chuyến
xuống thác đủ biết. Lúc đó, thiên nhiên sông Đà là kẻ thù số một. Nhìn nó, thấy nó
không “thơ đời Đường” nhàn hạ mà là một cuộc đấu tranh để giành sự sống từ tay nó
về mình.Đá bày trận như thế nào, nước reo, nước rồng, nước ạc ào ra sao, nguồn nước
sinh có đá canh giữ cắn mật, luồng nước tử có đá dụ vào, lúc luồng ở tay trái, lúc
luồng ở tay phải, mặt mày thằng tướng đá nào như thế, khi nào thì đè lên đầu luồng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
mà tiến, khi nào thì tóm lấy bờm sóng nước mà vượt, vững tay lái ra sao khi chung
quanh tiếng sóng nước reo hò vang lừng để thanh viện...
Hỗn chiến với đá với nước đến cật lực, hết hơi, tưởng như rã rời vậy mà qua xong
thác, khi làn “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, sóng nước lại thanh bình thì chả ai
bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi cửa ải đủ tướng dữ quân tợn
vừa rồi”. Hết thác, sông lại thanh bình thì lòng lái đò cũng bình yên. Chiến đấu gay go
vô kể, nhưng vẫn là chuyện thường ngày, không có gì đáng hồi hộp, đáng nhớ, Sông
Đà, đối với ông lái đò, quả là “một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả
những dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng”.
Bản thân ông cũng sống một đời hào hùng, có điều sự hào hùng ấy là chuyện hằng
ngày nên ông chẳng coi có gì đặc biệt. Ông đã khôn người ông vào trong khổ của sông
Đà và sông Đà đã rèn ông theo mẫu của mình. Cũng như anh hàng thịt heo; bởi vì
không có cái gì thuộc về sông Đà mà ông không biết. Ngược lại không có cái gì ở ông
mà không là hình ảnh sông Đà.
Tóm lại, đọc văn Nguyễn Tuân, nhất là tùy bút, có người đã cho như soi trong kính
thiên sắc (Thiên sắc kính là đồ chơi trẻ con), chỉ mấy màu mà lắc lên bên này thì một
thế giới màu, lắc bên kia lại một thế giới màu khác. Ngòi bút ông lại không chỉ bảy
màu mà trăm màu. Cứ từng câu, từng chữ đã thấy thú vị, nếu người đọc chịu chú ý
đến từng câu từng chữ, và nhìn thấy giá trị và công sức đã bỏ ra thường là đến bạc tóc
như người xưa nói, để có được chữ ấy, câu ấy.
Đọc Người lái đò sông Đà thấy rõ chủ trương của tác giả về viết văn. Từ ngữ phong
phú, tìm tòi hẳn hoi, câu cú vặn vẹo đôi khi nhưng vẫn Việt Nam và nhân dân, hình
ảnh ví von luôn bất ngờ, độc đáo mà chính xác, cũng không tránh những hiện thực
không thanh nhã, nhưng vẫn đắc địa.
Chi tiết tùy bút này đã hay, chỉnh thể của bài văn càng cho thấy sự hiểu biết khoa học
đến cặn kẽ, và trội lên tất cả là một tấm lòng yêu thương con người, đất nước, yêu cái
gian khổ đã vượt qua như một bản anh hùng ca, nên càng quý cái mong ước cho tương
lai tươi sáng, hạnh phúc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 17
Nguyễn Tuân người nghệ sĩ suốt một đời đi tìm cái đẹp và trăn trở về cái đẹp. Nếu
như trước cách mạng ông thoát li thực tại, tìm cái đẹp ở thời còn vang bóng, thì sau
cách mạng cốt cách ấy vẫn duy trì nhưng ông tìm thấy cái đẹp trong cuộc sống này, ở
những con người lao động hết sức bình dị. Người lái đò sông Đà được trích từ tập bút
kí Sông Đà là những nét vẽ chân thực về vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên Tây Bắc, và
vẻ đẹp hào hùng của con người trong lao động.
Tập tùy bút Sông Đà nói chung là kết quả chuyến đi thực tế của nhà văn Nguyễn Tuân
lên mảnh đất Tây Bắc vào những năm 1958-1960. Đây là thời kỳ miền Bắc sau ngày
giải phóng đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo tiếng gọi của Đảng miền Bắc đang
đấy lên phong trào tình nguyện đến những vùng xa xôi của Tổ quốc để khôi phục kinh
tế và hàn gắn vết thương chiến tranh.
Như chúng ta biết rằng, mỗi lời đề từ xuất hiện, thường sẽ tập trung tư tưởng của tác
phẩm, là chìa khóa mở cánh cửa vào tác phẩm, hé lộ tư tưởng, chủ đề, cảm hứng chủ
đạo. Người lái đò sông Đà sử dụng hai lời đề từ: Lời đề từ thứ nhất: “Đẹp vậy thay,
tiếng hát trên dòng sông”, đây là câu thơ nổi tiếng của nhà thơ cách mạng Ba Lan
mang cấu trúc cảm thán. Câu thơ có thể là câu hát của những người chèo đò, kéo
thuyền vượt thác với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, yêu lao động, cũng có thể là
sự ngợi ca của chính nhà văn trước tư thế làm chủ thiên nhiên của con người trong
cuộc sống mới. Câu thơ thứ hai, Nguyễn Tuân mượn câu thơ của Nguyễn Quang Bích:
“Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc bắc lưu”. Câu thơ đã hé mở cho người đọc
thấy, mọi dòng sông đều chảy về hướng đông, duy có sông Đà chảy theo hướng Bắc.
Câu thơ đã khẳng định sự độc đáo của Đà giang đồng thời hé lộ cá tính nghệ thuật của
Nguyễn Tuân – nhà văn của những phong cảnh tuyệt mĩ, cảm giác mãnh liệt.
Trước hết về hình tượng con sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả trên nhiều phương
diện, vừa mang vẻ đẹp hung bạo nhưng đồng thời cũng hết sức nên thơ, trữ tình. Vẻ
đẹp hung bạo của dòng sông được Nguyễn Tuân thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng
vách thành. Lúc ấy “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được
độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông. Không chỉ vậy “vách đá
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy
gợi ra lưu tốc rất lớn nhất là vào mùa nước lũ với bao nhiêu nguy hiểm rình rập. Với
trường liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân tiếp tục khắc họa đậm nét hơn nữa về những
vách đá lạnh lẽo, tăm tối, ở khúc sông nhỏ và hẹp: “ngồi trong khoang đò qua quãng
ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà
ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Không chỉ vậy sự hung bạo còn thể hiện ở “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”, ở đoạn này,
Nguyễn Tuân đã nhân hóa dòng sông như một sinh thể người, đó là kẻ đi đòi nợ thuê,
với gương mặt dữ dằn, tàn bạo. Câu văn với nhịp điệu dồn dập, điệp từ, điệp cấu trúc
được vận dụng liên tiếp (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) kết hợp với các thanh
trắc liên tiếp đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô
đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy
dữ dằn, tạo nên một mối đe dọa thực sự đối với bất kì người lái đò nào “quãng này mà
khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Sự hung bạo còn được thể hiện ở những cái hút nước tàn độc, được giăng mắc trên
khắp khúc sông, như trực lấy mạng của con người bất cứ lúc nào. Để tái hiện sự
khủng khiếp của những cái hút nước, Nguyễn Tuân đã lia máy quay ở nhiều chiều
kích khác nhau, cho người đọc một cái nhìn toàn diện, đầy đủ nhất. Khi nhìn từ trên
xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm
móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng nước sông
xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”.
Và để giúp người đọc cảm nhận được rõ hơn, tác giả còn đưa ra những vị thế cảm
nhận khác nhau, với người quay phim thì như “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn
vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…” ; với
người xem phim lại thấy “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép
một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy
đánh phèn…”. Với những trải nghiệm và góc nhìn phong phú Nguyễn Tuân đã cho
người đọc cảm nhận đầy đủ mức độ nguy hiểm tột cùng của dòng sông Đà mà ở đây là những cái hút nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Cuối cùng sự hung bạo của sông Đà được khắc họa ở các trùng vi thạch trận khác
nhau. Với trùng vi thạch trận thứ nhật là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Đá
còn bày binh bố trận, như cố tình nhấn chìm con thuyền. Trùng vi thạch trận thứ hai
tiếp tục tăng thêm thử thách, cửa tử nhiều hơn để đánh lừa con thuyền và chỉ có duy
nhất một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng
đứng chiến ở cửa vào”, phối hợp với đá là dòng thác như hùm beo như chực vồ và
nhấn mình con thuyền xuống đáy sông. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng ít cửa ra vào,
“bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn
đá hậu vệ của con thác”. Tất cả các trùng vi, thạch trận đều vô cùng hiểm ác, với mục
đích duy nhất là làm cho con thuyền mất sức, bỏ mạng.
Bên cạnh vẻ đẹp hung bạo, sông Đà lại hiện lên một vẻ đẹp rất khác, hoàn toàn đối
lập, đó chính là vẻ đẹp trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con
sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như
mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Dòng sông như một người thiếu nữ,
với mái tóc tuôn dài, tuôn dài, tha thướt, uyển chuyển không ngờ. Vẻ đẹp của dòng
sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ
miều. Không chỉ vậy ở những thời điểm khác nhau sông Đà cũng mang vẻ đẹp riêng:
Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh;
Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa,
lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Không chỉ
vậy, vẻ đẹp sông Đà con như được bước ra từ miền cổ tích xa xôi, với những bãi bờ
hoang dại như thời tiền sử: “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên
sông Đà”. Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp
lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật ở hình tượng con sông Đà, mà để điểm tô,
hoàn thiện vẻ đẹp sông Đà cần có sự xuất hiện của con người, và thật đẹp đẽ, chân
dung người lái đò đã được Nguyễn Tuân thể hiện tài tình, rõ nét. Người lái đò không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
có một tên gọi cụ thể, mà chỉ được gọi tên là người lái đò Lai Châu. Để làm bật vẻ đẹp
người lái đò, chân dung ông luôn được tái hiện tương quan với dòng sông Đà. Nghệ
thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là thiên nhiên
bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm, một
bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là
những chiếc cán chèo. Nhưng dù sông Đà gian ngoan, xảo quyệt bao nhiêu thì người
lái đò lại kiên cường bám trụ bấy nhiêu “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng trận địa phóng thẳng vào mình”. Đặc biệt trong lần vượt trùng vi thạch trận thứ
ba, ông lái đò đã thể hiện rõ tài nghệ của mình. Ông cứ “phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng,
thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang. Câu văn “thế là hết thác” như một
tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết những thác ghềnh ở phía sau lưng.
Chiến thắng của ông trước hết xuất phát từ sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí
quyết tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống. Đây đồng thời cũng là
chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.
Đặc biệt, cũng như những nhân vật khác của mình, người lái đò còn được Nguyễn
Tuân khắc họa ở vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ. Tài hoa là khi con người đạt tới trình độ điêu
luyện, thuần thục trong công việc của mình, đến độ có thể sáng tạo được, có thể vươn
tới tự do. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân đã tập trung bút lực ca ngợi hình ảnh ông lái
băng băng trên dòng thác sông Đà một cách ung dung, bình tĩnh, tự tại trong cuộc
chiến đầy cam go nhưng cũng thật hào hùng. Và phong thái nghệ sĩ của ông lái đò thể
hiện trong cách ông nhìn nhận về công việc của mình, bình thản đến độ lạ lùng. Khi
dòng sông vặn mình hết thác cũng là khoảnh khắc “sóng thác xèo xèo tan trong trí
nhớ”. Những nhà đò dừng chèo, đốt lửa nướng ống cơm lam, bàn về cá anh vũ, cá
dầm xanh, “về những cái hầm cá hàng cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá
rồi cái ứa ra tràn đầy ruộng”.
Bằng ngòi bút vô cùng tài hoa, tinh tế, Nguyễn Tuân đã tạo nên những trang văn đẹp
cả về hình thức và tư tưởng. Tác phẩm được tạo nên từ tình yêu quê hương đất nước
sâu nặng, tha thiết. Không chỉ ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ của quê hương đất nước mà còn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
khẳng định sự lớn lao, sức mạnh phi thường của những con người bình thường trong
hành trình chinh phục thiên nhiên.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 18
Nguyễn Tuân sinh năm 1910, mất năm 1987 là một nhà nghệ sĩ lớn của dân tộc Việt
Nam. Vốn là một người tri thức giàu lòng yêu nước lại am hiểu sâu rộng nền văn hoá
dân tộc, ông viết nên những tác phẩm rất mực uyên bác và giàu giá trị. Nếu như trước
cách mạng, văn học của Nguyễn Tuân chạm đến lòng người bởi vẻ đẹp tài hoa của
những con người "một thời vang bóng" như Huấn Cao thì sau cách mạng, Nguyễn
Tuân khiến người đọc rung cảm bởi sự tinh tế và tài năng trong việc vẽ nên những nét
đẹp gân guốc nhưng gần gũi, bình dị với thiên nhiên và đời sống con người. Tuỳ bút
"Người lái đò sông Đà" là một thành công tiêu biểu cho phong cách văn học ấy.
Trong tùy bút, Sông Đà hiện lên vừa hùng vĩ, kiêu sa, dữ dội lại vừa xinh đẹp, dịu
dàng, thơ mộng. Nguyễn Tuân đã miêu tả dòng sông trên nhiều góc độ, nhiều phương
diện mà nhìn trên phương diện nào cũng thấy thấy đẹp, thấy yêu. Không tĩnh lặng soi
bóng hàng tre mỗi trưa hè, cũng không mang nét tư lự trong từng hơi thể khi màn đêm
buông xuống mà sông Đà hiện lên vô cùng sống động, dữ dội và mãnh liệt. Nó như
được xem là "kẻ thù số một của con người". Những con thác lớn dữ dội, những gạn
nước từ Vạn Yên về xuôi thật mênh mang. Hai bờ sông dựng đá thành những vách
hiểm trở khôn cùng. Nước và sóng xô chồng lên nhau như đang thi nhau phô bày tất
cả vẻ dữ tợn, oai hùng của mình: "Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái
yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con
hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Mặt sông khi nhìn từ trên cao xuống là vô vàn
những hút nước như những trụ bê tông. Dòng nước kêu lên thành những tiếng ghê rợn,
khi thì kêu lên như những cái giếng đang bị sặc nước, khi lại ằng ặc như tiếng dầu
sôi”. Tất cả dựng lên trước mắt ta thế hiểm trở và đầy rẫy những thách thức, nguy
hiểm mà ai đi qua cũng phải đối mặt. Sông với tư thế hùng dũng và có phần bạo
ngược của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái trước từng con
con sông, không làm chủ trên chiến trận chinh phục dòng sông. Bởi vậy mà nó khiến
bao con thuyền đi qua phải dè chừng, hoảng sợ, cố tránh né những cạm bẫy mà sông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đà bố trí sẵn: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào
cũng trèo nhanh để lướt quãng sông”, biết bao nhiêu bè gỗ đã phải chịu trận trước
những hút sâu khổng lồ, biết bao nhiêu con thuyền nghênh ngác phải tan xác dưới lòng sông.
Vốn am hiểu sâu sắc cùng sự trải nghiệm của mình Nguyễn Tuân dùng những ngôn từ
mới lạ, lĩnh hoạt, độc đáo để miêu tả một dòng sông Đà. Sông Đà cũng mang dáng
dấp đẹp đẽ, dịu dàng và thơ mộng, uyển chuyển như vẻ đẹp của người thiếu nữ chốn
núi rừng Tây Bắc vậy. Sông Đà lúc này thật thơ và mơ mộng, tình yêu như đang tràn
với bao cảm xúc nồng nàn khó tả: “Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc
trữ tình...cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Vẻ đẹp của dòng sông thật
yên bình, khơi gợi sự yêu thương, đưa lòng người đến với những rung cảm trong tâm
hồn mình, một sức hấp dẫn tuyệt vời quá đỗi. Đôi lúc, sông Đà cũng có những cảm
xúc, cũng nhớ, cũng thương như bao người vậy. Vẻ đẹp trữ tình của dòng sông còn
được thể hiện giữa thiên nhiên, mây trời tạo nên nét riêng biệt không trộn lẫn, bởi vậy
dù bất cứ lúc nào nó cũng khiến người thưởng thức bị thu hút: "Tôi đã nhìn say sưa
làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn
xuống dòng nước sông Đà”. Không chỉ vậy, sông Đà còn khiến người ta thích thú bởi
sắc nước đổi thay theo mùa: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ
lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Bờ sông Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của hoa, của bướm, của chuồn
chuồn, của những bãi ngô non đầu mùa hay những cô giành vàng nõn búp. Đó đây
những đàn hươu đang thong thả gặm những bãi cỏ non tơ ướt đẫm sương đêm, mọi
vật như đang hòa mình trong nét tuyệt diệu của dòng sông, tô điểm nên một vẻ đẹp
gọi mời khiến lòng người thổn thức: "Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ
sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không
chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông
Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Sông Đà như một "người
cố nhân" lại như một" người nghệ sĩ tài hoa". Qua cách miêu tả thật độc đáo với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
những cảm xúc chân thành, sự trân trọng, nâng niu từ những điều bình dị, nhỏ nhặt,
Nguyễn Tuân như khắc hoạ nên một bức tranh thủy mặc của sông Đà say đắm lòng
người với vẻ tuyệt vời, thân thương.
Cùng với hình tượng sông Đà cá tính, đến với tác phẩm ta còn cảm nhận được hình
ảnh người lái đò tài hoa, nghệ sĩ, điêu luyện trên dòng sông. Người lái đò ấy không
phải là một chàng thanh niên trai tráng với thân hình vạm vỡ mà là một ông già đã gần
bảy mươi tuổi: “Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính
tay giữ lái độ sáu chục lần". Phải chăng những kinh nghiệm qua bao cuộc hành trình
suốt mười năm làm việc đã giúp ông trở nên thuần thục, bản lĩnh và kiên trường đến
như vậy: "Ông nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất
cả những con thác hiểm trở". Người lái đò như một thứ "vàng mười" đã qua thử lửa:
Cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng,
chất mùn", con người ông là con người của chốn sông nước hùng vĩ, trên ngực ông là
những "củ khoai nâu" in dấu những trận chiến vật vã với con sông Đà dữ dội, với tác
giả dường như đó là những tấm huy chương cao quý mình chứng cho sức lao động của
con người trong công việc của mình. Đứng trước những đợt sóng kinh hoàng, những
thạch trận hiểm nguy, ông không hề sợ sệt mà trái lại càng bản lĩnh thích thú hơn:
"Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá... Và một mình
một thuyền ông đã giao chiến như một vị dũng sĩ đầy tài ba. Trải qua ba thạch trận
bằng dũng cảm, mưu trí cả mình, người lái đò đã chiến thắng , trở về với cảnh lao
động và cuộc sống bình yên: "Thế là hết thác... Sông nước lại thành bình. Đêm ấy nhà
đò đốt lửa trong hàng đá, nướng ống cơm lam...".
Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng độc đáo,
một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa. Khép lại những trang văn của
tùy bút “Người lái đò sông Đà”, em vẫn không nguôi cảm xúc lâng lâng trong tâm hồn
mình, có chăng, đó là những điều đẹp đẽ nhất mà văn học đã mang lại, khơi gợi trong
lòng mình những cảm xúc thẩm mỹ vô cùng lớn. Thật cảm ơn Nguyễn Tuân, một
người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp để nâng niu những giá trị vững bền của đời sống
lao động và của dân tộc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 19
Nguyễn Tuân được biết đến là một cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm
vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác
tiêu biểu của ông là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm dường như đã khắc
họa vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò
giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” đã được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), và
gồm có 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời
kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó chính là kết quả của chuyến đi thực tế
của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế
năm 1958. Nguyễn Tuân đã đi đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội,
công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở
vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận.
Có thể nói ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vĩ và tuyệt vời thơ mộng,
Nguyễn Tuân còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi
là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”
Qua tác phẩm đặc sắc “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với một tấm lòng tự hào
của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên
đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo nhưng có lúc lại hết sức trữ tình. Đồng
thời, nhà văn dường như cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của
con người lao động mới đó chính là chất vàng mười đã qua thử lửa của đất nước trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội thông qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó mà nhà
văn đã ca ngợi con sông Đà vừa hung dữ nhưng cũng có lúc trữ tình, núi rừng Tây
Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử và cũng rất tài hoa.
Người lái đò dường như đã hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có
nhiều kinh nghiệm đò giang. Hơn nữa lại có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh
nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân thật tài tình khi đã đưa nhân vật của mình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ. Và nếu
không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Có lẽ nhà văn gọi đây là cuộc
chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ
chiến ở mặt trận sông Đà. Đó còn chính là một cuộc vượt thác đầy nguy hiểm đến tính
mạng, diễn ra nhiều hồi, và cũng rất nhiều đợt như một trận đánh mà ở đó dường như
đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
Dường như “Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần
có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này” có thể thấy rằng mỗi
lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là ngay lập tức có một số hòn bèn nhổm
cả dậy để vồ lấy thuyền”. Có thể nói Nguyễn Tuân như đã dùng rất đắt cho việc sử
dụng ngôn ngữ của mình bằng cách tả những hòn đá. Ông tả mặt của hòn đá nào
dường như cũng trông ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt
nước chỗ này…”. Con sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Và khi đi tới đây mới thấy
rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang
trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Và việc một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi
đâu để tránh khỏi ra được một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn phía trước.
Dường như trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi con sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc
nhất đó chính là dùng nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa
mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, mà
dường như vẫn giữ được sự bình tĩnh, đầy mưu trí. Lúc này đây người lái đò bỗng như
một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Và ngay cả khi người lái đò bị
thương, thì ông vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo
bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, rồi cả đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ
hiểm nữa. Nhưng khi mà người lái đò “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”,
không quản mệt nhọc thì ngay lập tức người lái đò đã lại “phá luôn vòng vây thứ hai”.
Ông lão lái đò dường như cũng đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Và cho
đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng dường như
lúc này người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa
giữa đó. Thuyền đã vun vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút cửa ngoài rồi lại cả cửa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Và dường như trong cuộc chiến không cân sức
ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng
sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên thật hung dữ của loài thuỷ quái. Tuy
nhiên, có thể nói rằng chính những cái kết cục cuối thì với người lái đò vẫn chiến
thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò hiển hiện trong tác phẩm chính là một người lao động vô danh, làm lụng
âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì
vĩ và người lái đò trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động chân chính đã
chiến thắng thiên nhiên là nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức
mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Có thể nhận thấy nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của
một nghệ sĩ tài hoa. Dường như khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn
Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người
làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm
của họ dường như đã đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong Người lái đò sông
Đà, tác giả Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn
trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật được sử dụng đặc sắc ở đây là phải am hiểu
và nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Nếu như chỉ cần có một chút
thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống.
Mà ngay ở những khúc sông Đà không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ
ngay. Chung quy lại, thì ở bất cứ nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò dường như
vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá. Có lẽ chính vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo,
bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Dường như mọi giác quan của ông lão đều
hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ.
Sông nước lại thanh bình. Và trong đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống
cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa
khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng như chả thấy
ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân
tợn vừa rồi cả. Như những nghệ sĩ chân chính, thì sau khi đã vắt kiệt sức mình để thai
nghén nên tác phẩm để đời thì không mấy ai tự tán dương về công sức của mình, và
chính nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét rằng “Cuộc sống của họ là ngày
nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những
cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ”. Chính vì thế mà họ nghĩ thế
lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái
đò tài hoa thì chỉ có Nguyễn Tuân mà thôi.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” còn chính là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ
thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm đặc sắc này không chỉ
ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc mà dường như còn ca ngợi vẻ
đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn
Nguyễn Tuân đã có thể bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha
thiết với non sông Việt
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 20
Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt
được sự cân bằng giữa hai thời kỳ lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945.
Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất
định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất
Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn
tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà - một trong những tác
phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất khí.
Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học.
Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
thành những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có
một nhân vật mà hai nhân vật: người lái đò và con sông Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô
giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và
khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau - như tác giả nói - "hung
bạo và trữ tình". Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là "kẻ thù số một" của con người.
Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một
người tình, một "cố nhân" gặp thì mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến.
Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân - một
cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió,
về bão, về thác nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của
người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ
tiên nở đúng đêm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng
nước của nàng Kiều,... Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha
ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh - Thuỷ Tinh: "Núi cao sông hãy còn dài - Năm
năm báo oán đời đời đánh ghen".
Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những
bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến
người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra
biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một
phen thi tài với Tạo hoá.
Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa
hai vách đá dựng thành cao vút "Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà
cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một
khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện". Và đây nữa,
ông tả cái hút nước ghê gớm "giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị
làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy
tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn [...]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút
nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm
dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới". Dùng thủ
pháp văn học như thế ông vẫn chưa cho là đủ. Nguyễn Tuân còn chuyển sang sử dụng
kĩ thuật đặc tả của điện ảnh. Ông tưởng tượng ra một anh quay phim điên rồ nào đấy,
ngồi vào một cái thuyền thúng cho nó hút xuống đáy cái hút nước khủng khiếp kia cả
người lẫn máy thu hình: "Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít,
cái máy lia ngược contre - plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn
bằng nước sông xanh ve một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ
tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh thu được
trong lòng giếng tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy
gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê
nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn".
Sức tưởng tượng của Nguyễn Tuân đến thế thật là đã được đẩy lên đến mức kì khu, kì
quái do cái động lực bướng bỉnh: không chịu lùi bước trước Tạo hoá.
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng
lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: "tiếng nước réo
gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van
xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo". Khi đến gần, tiếng nó bỗng
"rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa
nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng".
Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nó còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với
ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn
và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu
thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái,
thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,... Vừa đánh vừa hò la vang trời
dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình.
Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như
một tiên nữ giáng trần. Nó "tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo". Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn
những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa:
mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say
rượu... Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy "lai láng
thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước". Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khỏe,
từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét
thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Quả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của
ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông
gọi là "màu nắng tháng ba Đường thi "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" - thoáng
hiện lên trên sóng nước sông Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững
lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây
Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi
"một người tình nhân chưa quen biết" - "Dải sông Đà bọt nước lênh đênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".
Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường
đậm đà màu sắc cổ điển: "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ.
Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi.
Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không
một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn
búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một
tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai
Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ
lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng
cái tiếng nói riêng của con vật lành: "Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa
nghe thấy một tiếng còi sương ?". Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Trên cái nền của con sông vừa "hung bạo" vừa "trữ tình" ấy hiện lên lừng lững hình
tượng người lái đò sông Đà. Thực ra ông lái này chủ yếu xuất hiện trong cuộc vật lộn
với một con thác dữ, nghĩa là ở cái phía hung bạo của sông Đà. Giả sử tác giả đặt ông
ta trong khung cảnh khác - khung cảnh thơ mộng trữ tình - chắc hẳn ông sẽ trở thành
một anh chàng Trương Chi si tình trong cổ tích. Nhưng ở đây, đối đầu với con sông
dữ, với một loài thuỷ quái, ông lái đò nhất thiết phải trở thành một dũng sĩ kiên cường
- một nhân vật sử thi trong thiên trường ca leo ghềnh vượt thác..
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 21
Tây Bắc là một mảnh đất có nhiều duyên nợ với nhiều nhà văn, nhà thơ. Mỗi nhà văn,
nhà thơ lại tái hiện và khắc họa hình ảnh Tây Bắc ở những góc độ khác nhau. Trong
đó, Nguyễn Tuân đã khám phá được vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây, nhận thấy được “chất
vàng 10” trong tâm hồn con người nơi đây. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” chính là
món quà đầy ý nghĩa mà ông dành cho mảnh đất Tây Bắc.
Qua tài năng của Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên không còn là một con sông vô
tri vô giác nữa mà trở thành một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính cách, tâm trạng
và là tuyệt mĩ của tạo hóa.
Trước hết, con sông Đà hiện lên là một con sông hung bạo đáng sợ. Đá bờ sông “dựng
vách thành”, “có chỗ vách đá chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”, “ngồi trong
khoang đò quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh”. Bờ sông Đà thật hùng vĩ, hiểm
trở, lòng sông hẹp kéo theo dòng nước chảy xiết. Những ghềnh sóng hiện lên với sự
dữ dội, hung hãn “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Tác giả sử dụng câu văn có
sự trùng điệp nhịp văn ngắn để diễn tả sự hung dữ của ghềnh sông. Nó giống như một
mụ phù thủy quái ác “gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò nào qua quãng ấy”. Đáng sợ hơn là những cái hút nước của sông Đà. Những hút
nước này có độ xoáy rất sâu và lớn như cái giếng bê tông thả xuống sông để làm móng
cầu “xoáy tít đáy”. Nơi đây tiềm ẩn sự nguy hiểm và là nơi trú ngụ của tử thần. Có
những chiếc thuyền bị lôi xuống, ”thuyền đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau
mới thấy tan xác ở khuỷu sông dưới”. Tác giả đã sử dụng những tri thức điện ảnh để
đem đến cho người đọc sự hình dung rõ hơn về những cái hút nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Sự hung bạo của sông Đà còn được thể hiện ở thác nước và trận địa danh của Đà
giang. Thác nước ở đây nó thật khủng khiếp “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa…. da cháy bùng bùng”. Câu
vă của Nguyễn Tuân đã tác động mạnh mẽ vào thị giác và thính giác của người đọc,
lột tả sự giận dữ, ghê gớm của những con thác ở sông Đà. Tác giả tiếp tục chi tiết của
những trận địa con sông Đà. Đặc biệt là cuộc chiến với ông lái đò. Đà giang hiện lên
không khác gì một con thủy quái dữ tợn và khát máu. Nó đưa ra mọi thủ đoạn sử dụng
mọi chiêu thức sử dụng mọi đòn đánh để hạ gục ông lái đò. Thông qua sự khắc họa
của Nguyễn Tuân, người đọc có dịp chứng kiến được sự hung bạo, ngỗ nghịch bất trị của bà mẹ thiên nhiên.
Trái với vẻ hung bạo và dữ tợn thì cũng có lúc con sông sông Đà hiện lên thật trữ tình.
Con thủy quái ấy đã rủ mình và vứt bỏ sự gớm ghiếc để trở thành một thiếu nữ kiều
diễm. Nét trữ tình của con sông Đà được thể hiện ở hình dáng con sông. Dòng sông
Đà mềm mại “từng nét trải ra trên đại dương đá lờ đờ bóng mây”. Dòng sông Đà được
Nguyễn Tuân ví với mái tóc thướt tha của người con gái đang độ thanh xuân. “Con
sông Đà tuôn dài, tuôn dài…đốt nương xuân”. Đó là một vẻ đẹp đầy sức sống và
mang nét nên thơ, mờ ảo giữa mây trời khói núi. Màu sắc sông Đà thay đổi theo mùa
và mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng.
Vẻ đẹp con sông Đà còn được tô điểm bởi cảnh ven sông và cảnh trên sông. Khung
cảnh thiên nhiên ven sông Đà thật giàu chất thơ. “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ”, “một
nương ngô…”, Thật là một bức tranh dạt dào nguồn nhựa sống, làm mê đắm hồn
người.” Bờ sông hoang dại…cổ tích tuổi xưa”. Với hình ảnh so sánh tài hoa, độc đáo
của Nguyễn Tuân đã kéo người đọc trở về thuở bình yên của sông Đà từ ngàn năm trước.
Nói tóm lại, Nguyễn Tuân đã khắc họa rất thành công hình tượng con sông Đà với hai
tính cách: hung bạo đến đáng sợ và trữ tình đến tuyệt mĩ. Nhà văn đã cho chúng ta
thấy được sự tài hoa trong trí tưởng tượng phong phú, trong những liên tưởng táo bạo,
bất ngờ, những so sánh mang dấu ấn cá nhân của Nguyễn Tuân trên những trang văn.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 22
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Đến với tác phẩm của Nguyễn Tuân mỗi người sẽ tìm cho bản thân mình những xúc
cảm riêng, là sự ngưỡng mộ, khám phá chờ mong. Dường như dưới đôi bàn tay tài hoa
nghệ sĩ, ông đã khiến người đọc như chìm đắm, như được sống những phút giây thực
sự với thiên nhiên khung cảnh nơi đó. Đây chính là cái tài sử dụng ngôn ngữ của ông.
Đặc biệt qua đoạn trích “Người lái đò sông Đà” tài năng đó càng được bộc lộ rõ nét hơn.
Cả cuộc đời của Nguyễn Tuân có chăng được gói gọn trong chữ “độc đáo”. Bản thân
là người độc đáo, khác thường nên đối tượng nghệ thuật của ông cũng phải là có một
không hai. Dưới bút lực dồi dào của mình Nguyễn Tuân đã phô diễn cho bạn đọc thấy
hình ảnh của một dòng sông Đà vừa hung bạo, nhưng cũng rất đỗi trữ tình. Bên cạnh
đó là vẻ đẹp nổi bật của người lao động, chinh phục và làm chủ thiên nhiên.
Trước hết cái độc đáo của sông Đà được Nguyễn Tuân khai thác trên hai phương diện:
hung bạo và trữ tình. Chất hung bạo chính là điểm nổi bật đầu tiên của Nguyễn Tuân
đề cập đến. Vẻ đẹp hung dữ, bạo tàn của con sông ở những đoạn thác dốc như một sức
mạnh vô hình thu hút ông. Đây cũng là lãnh địa tạo cho ông cơ hội thỏa sức tung
hoành trí tưởng tượng của bản thân. Ông cực kỳ phấn khích khi chuẩn bị đến thác
cuối, khi chuẩn bị được tận mắt chứng kiến sự hung bạo của sông Đà: “… Còn xa lắm
mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lại rót mãi lên. Tiếng
nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích,
giọng gằn mà chế nhạo. Thể rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang
lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đáng phá tuông rừng mưa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da đen cháy bùng bùng. Tới cái thác rồi”. Có thể thấy trong
đoạn văn giọng điệu hào hứng, hồ hởi cũng như giác quan vô cùng thính nhạy của
Nguyễn Tuân. Ông nắm bắt từng chuyển động của thiên nhiên để có thể cảm nhận
được vẻ đẹp hung bạo của nó từ phía xa. Đặc biệt hình ảnh so sánh thác nước như
những con trâu lồng lộn, rống lên cũng cực kì đặc sắc, diễn tả tiếng thác nước ầm ào
chảy, vừa hứng thú, kích thích nhưng cũng đầy lo lắng, sợ hãi.
Và đến đoạn thác nước, bút lực của ông mới thực sự được phát lộ hết. Bao nhiêu hào
hứng ông dồn cả vào đoạn văn miêu tả sự hung bạo của sông Đà. Những thạch trận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
liên tiếp được bày ra, dụ con thuyền đến để nuốt gọn vào lòng: “Thạch trận dàn bày
vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho
đá, những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt. Mỗi hòn ấy trông nghiêng thì y như là
đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi
lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gán vào”. Với thủ pháp nhân hóa,
cùng trí tưởng tượng phong phú Nguyễn Tuân đã khiến cho những hòn đá vô tri có
gương mặt, tâm trạng và thân phận riêng. Nhưng tựu chung lại có thể thấy ở chúng sự
ngông ngạo, tự phụ, ỷ thế mà chèn ép người khác, đặc biệt là ỷ vào thế hiểm của thằng đá tướng.
Nhưng sự tự phụ của chúng chẳng được bao lâu, mới dưới sự uy dũng, kinh nghiệm
của người lái đò sông đã nhanh chóng vượt qua chúng. Đoạn này ngòi bút lãng mạn
của ông càng được phát huy cao độ hơn nữa. Con sông ương bướng, bày ra thạch trận
ba vòng, với những lắt léo khác nhau cũng không thể cản bước ông lão đò. Ông cưỡi
lên từng con sóng, từng đợt nước mà vượt qua: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
mạnh trên sông Đà. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì
cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, là lái miết
một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ trái
liên xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa
thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi mở đường tiến.
Những luồng tử đã bỏ hết lại sâu thuyền”. Những câu văn kia miêu tả ông lái đò mới
sảng khoái và sung sướng biết bao khi con người đã vươn lên làm chủ thiên nhiên.
Đồng thời những lời miêu tả chân thực, sinh động đó cũng cho thấy tài nghệ lái
thuyền tài ba, sự dày dặn kinh nghiệm, và dũng cảm là những yếu tố giúp ông lái đò
của thể vượt qua mọi cửa tử để đi đến được một cửa sinh duy nhất.
Không chỉ có niềm say mê, hứng thú đặc biệt với những nơi đầy nguy hiểm mà đôi
mắt tinh tế của Nguyễn Tuân còn đầy tình tứ, phát hiện vẻ đẹp mơ mộng, trữ tình của
con sông Đà. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà quả như là đối cực với sự hung bạo của
chúng. Nếu như bên trên con sông Đà bạo liệt, hung hãn bao nhiêu, thì đến đây lại mơ
mộng, hiền hòa bao nhiêu. Đoạn văn thấm đẫm màu sắc văn chương và hội họa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân hay qua thực cảnh sắc sông Đà, chẳng ai có thể biết
được, nhưng nó toát lên vẻ đẹp của sự trữ tình, mơ mộng quá đỗi. Sông Đà giờ đây
không còn hoang dại, mà tựa như một cô gái sơn cước miền Tây Bắc vô cùng yểu
điệu, thục nữ, lại có đôi nét mờ màng: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng
tóc trữ tình, đầu tóc và chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa
gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đốt nương xuân”. Đọc câu văn mà ngỡ như
ta đang đọc một câu thơ của Nguyễn Tuân vậy. Chất trữ tình thẫm trong cảnh vật,
ngập đầy trong từng câu chữ. Chỉ trong một đoạn văn không quá dài, nhưng trước vẻ
đẹp trữ tình của con sông mà Nguyễn Tuân đã hai lần phải thốt lên “chao ôi”. Vì được
chiêm ngưỡng cảnh đẹp, vì được gặp lại người bạn có nhân bao ngày xa cách. Đó là
sự vui mừng, cuống quýt thấp thỏm, đầy hạnh phúc. Sông Đà chính là cố nhân của
Nguyễn Tuân. Chính tâm trạng vui sướng đó đã khiến công có một đoạn văn đầy xúc
cảm: “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sống Đà. Chao ôi
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao
đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như
gặp lại cố nhân”. Không chỉ cảm nhận sông Đà là người bạn, người cố nhân gặp lại
sau nhiều ngày xa cách mà ông còn cảm nhận được cái không khí cổ xưa, như bờ tiền
sử hoang dại ở sông Đà. Quả thực, có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân với những xúc cảm tinh
tế của mình mới có thể cảm nhận trọn vẹn được vẻ đẹp của sông Đà ở mọi chiều kích
không gian và thời gian như vậy.
Với bài bút ký Sông Đà nói chung và Người lái đò sông Đà nói riêng ta không chỉ
thấy được vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài năng, với bút lực dồi dào. Mà bên cạnh đó
còn thấy được tấm lòng của một con người yêu nước, dành trọn cuộc đời mình khám
phá, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên, vẻ đẹp của con người lao động trong cuộc sống mới.
Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà - Mẫu 23
Nguyễn Tuân - người được mệnh danh là “Người đi tìm cái đẹp, cái thật trong đời”
không chỉ là một trí thức yêu nước mà ông còn là một nhà văn tài hoa, uyên bác. Ông
đã để lại nhiều tác phẩm lớn, nổi bật hơn cả là tùy bút “ Người lái đò sông Đà” (1960).
Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
của nhà văn sau Cách mạng tháng 8.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” lấy ông lái đò làm nhân vật trung tâm nhưng thực
chất là mượn hình ảnh ông lái đò để miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ, dữ dội và thơ
mộng của con sông Đà. Tất cả hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa chân thực, vừa sống động.
Trước hết, Nguyễn Tuân khắc họa vẻ đẹp của con sông Đà được nhân hóa như con
người, nó mang linh hồn độc đáo vừa có nguồn gốc, lai lịch rõ ràng, lại vừa mang tính
cách hung bạo, trữ tình. Con sông được giới thiệu:
“Chúng thủy giai đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu”
Ý nói mọi con sông đều chảy theo hướng Đông, chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc.
Đây là một cách giới thiệu ấn tượng, đập thẳng vào nhãn quan người đọc sông Đà hiện
lên như một cá thể rất có hồn. Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam.
Nó mang hai tính cách. Đầu tiên là tính cách hung bạo và trữ tình, được thể hiện ở
khía cạnh: Nguyễn Tuân miêu tả cảnh đá ở bờ sông “đá dựng vách thành lòng sông
hẹp, có quãng con hươu con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ
dưới lên như nhìn lên cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện”. Đặc biệt ở đoạn mặt
ghềnh dài hàng ngàn cây số thì “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn luồng
gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy”. Thật nguy hiểm,
rùng rợn. Đâu chỉ có vậy, Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu
như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng
mà cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy”. Hay đến thác nước với những âm
thanh dữ dội như càng xoáy vào lòng người nhiều hiểm ngay đang rình rập chỉ chờ
chực sẵn con mồi “tiếng nước “ réo”, “tiếng nước thác nghe như là oán trách… van
xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng…”. Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn. Đáng sợ hơn tất cả hình ảnh đá
ở lòng như như đang bày binh bố trận địa thác đá với 3 trùng vi. Trùng vi thạch trận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
thứ 1: “mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả
ngạn”. Sang đến trùng vi thạch trận thứ 2 đã tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con
thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí qua phía bờ hữu ngạn. Và trùng vi thạch trận thứ 3
cả bên trái lẫn bên phải đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ngay
giữa bọn đá hậu vệ.. Việc bày binh bố trận vừa theo một quy luật trật tự nhất định để
ngăn cản những ứng viên rắn chắc chèo chống về phía đích. Họ như những cầu thủ
chuyên nghiệp trên sân cỏ đang lao mình ra để bảo vệ cầu môn, không cho quân địch
hay kẻ ngoài này le lói gần khung thành. Bằng lối viết tài hoa, một kiến thức sâu rộng
uyên bác, Nguyễn Tuân đã viết nên những câu văn theo kiểu móc xích, cấu trúc câu
trùng điệp, sử dụng xen kẽ biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh rõ rệt để làm nổi bật hình
ảnh con sông Đà cuồng nộ, như muốn mình là vua của cả thế giới. Con sông ấy hung
bạo, hiểm trở, là kẻ thù số 1 của con người.
Trái với vẻ ngoài dữ tợn ấy, sông Đà còn hiện lên một vẻ trữ tình đằm thắm dưới ngòi
bút bậc thầy lão luyện của Nguyễn Tuân. Đi từ thượng nguồn đến hạ nguồn, ta đều bắt
gặp hình dáng con sông rất thơ mộng như một cô thiếu nữ đôi mươi kiều diễm, trẻ
trung, duyên dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, “Sông Đà như một
áng tóc mun, dài ngàn ngàn vạn vạn sải”. Màu nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa
rất đẹp và quyến rũ, mùa xuân, dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín
đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Sự thay đổi sắc màu tạo cho sông Đà mang
một vẻ đẹp huyền bí, quý phái. Nhà văn còn miêu tả hai bên bờ sông Đà cũng tươi
mới không kém. “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”. Sông Đà, con sông chứng
kiến biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử, nó là chứng nhân lịch sử vĩ đại cũng là một
con sông đẹp kiều diễm mà nên thơ. Con sông ấy gợi trong lòng nhà văn nhiều cảm
xúc, như một “cố nhân”.
Bằng tài năng của mình, Nguyễn Tuân đưa người đọc khám phá một con sông Đà
mang nhiều trạng thái cung bậc, khi thì dữ dội, khi lại nên thơ trữ tình. Con sông ấy
dưới ngòi bút điêu luyện của ông được coi như là một khám phá lớn, một công trình
nghệ thuật vĩ đại mà tạo hóa ban tặng cho Tây Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Song song với hình tượng con sông Đà là hình ảnh người lái đò sông Đà - một tay lái
ra hoa với trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân đã miêu tả ngoại hình của ông rất độc
đáo: “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”. Ông quê ở ngã tư sông, là
người từng trải, ông làm nghề lái đò đã được mười năm liền. Ông với con sông Đà gắn
bó mật thiết với nhau, như người bạn tri kỉ của mình. Với kinh nghiệm chinh chiến
trên con sông ấy đã nhiều năm, ông nắm chắc từng luồng lạch, từng ngọn thác và đặc
biệt, ông nắm rất vững quy luật của “thần sông thần đá” trên con sông Đà. Vì ông am
hiểu con sông ấy một cách tường tận, thấu đáo nên ông rất thích vượt thác, đối mặt với
con sông ấy. Chỉ với vài nét khắc họa đơn giản, Nguyễn Tuân đã phác họa được một
người lái đò yêu nghề, yêu thiên nhiên, thích hòa mình rượt đuổi cùng thiên nhiên.
Vẻ đẹp của ông lái đò được nhà văn miêu tả rất chi tiết qua những lần ông vượt thác.
Tay lái ra hoa ấy càng khiến người đọc thêm khâm phục phần nào về tài năng, bản
lĩnh dám đương đầu với thử thách. Trên con sông hùng vĩ nguy hiểm ấy, ông lái đò
hiện lên với tư thế hiên ngang của một dũng tướng chỉ huy chiến trận. Ông chỉ huy
con thuyền mình luồn lách tới đích vượt qua các chướng ngại vật với phong thái của
một nghệ sĩ tài hoa. Ở vòng vây thứ nhất, ông hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Hai chân ông vẫn kẹp chặt lấy cuống lái.
Đến vòng vây thứ hai, không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ
hai và đổi luôn chiến thuật. Ông cưỡi lên thác sông Đà, nắm bờm sóng, ghì cương lái,
bám lấy luồng nước đúng mà phòng nhanh vào cửa sinh. Và ở vòng cuối, ông phóng
thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Cuộc vượt thác thành công. Mặc dù
có lúc ông gặp khó khăn bị thương nhưng ông vẫn bình tình, dũng cảm đối mặt sau
cùng nếm vị ngọt thành quả: “đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ”. Cuộc
chiến khốc liệt kết thúc thắng lợi vẻ vang.
Qua đây, ta mới thấy được ông lái đò là người rất am hiểu binh pháp của thần sông,
thần đá, là một hình tượng nhân vật mới mà Nguyễn Tuân đang hướng tới - một bức
chân dung người lao động vừa hiên ngang, khí phách, ngang tàng lại rất giản dị.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Tóm lại, “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân. Bằng tài năng, ngòi bút uyên thâm cùng kiến thức tổng hợp phong
phú, ông đã rất thành công khi xây dựng được nhân vật người lái đò hùng dũng, hiên
ngang và hình ảnh con sông Đà với hai tính cách trái ngược nhưng rất đỗi đẹp đẽ. Tùy
bút” Người lái đò sông Đà” luôn sống mãi trong lòng người đọc và trường tồn theo thời gian.
Người lái đò sông Đà phân tích - Mẫu 24
Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Những
tác phẩm của ông viết bằng cái “ngông” và bằng tình yêu tha thiết. “Người lái đò sông
Đà” là bài tùy bút lấy cảm hứng từ chuyến đi thực tế. Hình ảnh con sông Đà được
nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc
đáo đối với người đọc. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi xây dựng hình tượng sông
Đà bằng chất liệu ngôn ngữ và tình cảm phong phú.
Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi
chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Có thể nói phải thật tinh tế và khéo
léo mới có thể nhận ra sự chuyển đổi của sông đà như vậy.
Sông đà hiện lên là dòng sông hung bạo, lắm thác ghềnh, ngỗ ngược, không chảy theo
khuôn khổ. Vẻ đẹp hiểm trở, nguy hiểm của sông đà được tác giả viết “đá bờ sông,
dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng giờ ngọ mới có mặt trời. Có vách đá
thành chẹt lòng sông đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá
qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Chỉ
với vài chi tiết phác họa con sông đà hiện lên với nhiều phức tạp, khó khăn, nguy
hiểm khôn lường. Tác giả đã diễn tả cảm xúc khi đi qua đoạn sông này “ngồi trong
khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở
hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mất
vừa vụt tắt điện”. Một lối so sánh độc đáo, đầy táo bạo và cũng không kém phần tinh
tế. Sông Đà đẹp, nhưng đẹp vẻ đẹp hùng vĩ, hoang dại và nguy hiểm.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân còn khiến người đọc bất ngờ hơn nữa khi miêu tả
sự hùng vĩ, hung dữ đó “quãng mặt ghềnh hát loong, dài hàng cây số nước xô đá, đá
xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ
xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Sông Đà hiện lên như một kẻ
bất chấp hết, có thể lấy đi tính mạng của những ai vô tình đi qua đây. Thật táo bạo, mãnh liệt và mạnh mẽ.
Khi Nguyễn Tuân miêu tả tiếng thác réo, người đọc có cảm tưởng như đang đứng
trước sông đà hùng vĩ chiêm ngưỡng vẻ đẹp khó cưỡng đó “Như là oán trách gì, rồi lại
như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. tiếng thác rống như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Những
câu văn với giọng điệu dồn dập, gay cấn, đầy cảm xúc. Một cảnh tượng hùng vĩ, nguy
hiểm vô cùng. Một cách so sánh, tuyệt vời, hiếm thấy trong văn học. Nguyễn Tuân
thực sự là bậc thầy của ngôn ngữ, ông thổi hồn vào những con chữ, khiến con chữ như
biết nói, biết rung động.
Đặc biệt hơn nữa, sông Đà hình thành ba trận chiến, người lái đò muốn vượt qua dòng
chảy này thì phải vượt qua ba trận chiến hiểm trở, táo bạo này. Với giọng văn dồn
dập, tác giả kéo người đọc vào cùng vượt thác với người lái đò. Trận thứ nhất “mặt
nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo. Sóng nước như thể quân
liều mạng vào sát nách…” Sang đến trận thứ hai “tăng thêm nhiều của tử để đánh lừa
con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua bên phía bờ hữu ngạn”. Sang đến trận
thứ ba dường như ít cửa hơn nhưng lại quyết liệt và mãnh liệt hơn. Sông Đà hiện lên
không khác nào một con thủy quái đang đòi nuốt chửng người lái đò và chiếc thuyền
bất cứ lúc nào có thể. Con sống chính là “kẻ thù số một” của người lái đò, với tất cả
đặc tính nham hiểm, thâm độc nhất.
Tuy nhiên bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở, nguy hiểm, sông Đà còn hiện lên thật
nên thơ và trữ tình biết bao nhiêu. Qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Tuân “sông đà
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói mèo đốt nương xuân”. Thật
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
tài hoa và thật trữ tĩnh, một hình ảnh tuyệt đẹp hiện lên giữa rừng núi hiểm trở Tây
bắc. Đặc biệt khi tác giả miêu tả nước của dòng sông mới thật tuyệt vời và thi vị biết
bao “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông đà không xanh màu canh hến
của sông Gâm sông lô. Mùa thu nước sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi vì rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu
về”. Những từ ngữ mượt mà, tươi đẹp đã làm nên vẻ đẹp hiếm có của một dòng sông
tưởng chừng chỉ có giận dỗi và hung dữ.
Sông Đà có những lúc buồn mênh mang và hoang sơ đến lạ kỳ “Bờ sông hoang dại
như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn như như một nỗi niềm cổ tích xưa”. Thật là một vẻ
đẹp nhẹ nhàng, chân chất và tươi mới biết bao nhiêu.
Người lái đò sông Đà phân tích - Mẫu 25
Người lái đò Sông Đà là kết quả của nhiều dịp đến với Tây Bắc của nhà văn, đặc biệt
là chuyến đi thực tế năm 1958. Đây là một trong số 15 bài tùy bút của Nguyễn Tuân in
trong tập Sông Đà xuất bản năm 1960. Lần xuất bản đầu tiên, bài này có tên là Sông
Đà, năm 1982 khi cho in lại trong tập 2 bộ Tuyển tập Nguyễn Tuân, tác giả có sửa đổi
tên bài thành Người lái đò Sông Đà.
Viết về sông Đà, Nguyễn Tuân có nhiều phát hiện. Hai nét tiêu biểu nhất của sông Đà
là hung bạo và trữ tình. Để làm nổi bật tính chất hung bạo và trữ tình của con sông, tác
giả đã vận dụng kết hợp nhiều thủ pháp nghệ thuật.
Trước hết phải kể đến biện pháp nghệ thuật nhân hóa. Đá trên thác sông Đà mai phục,
hung dữ bày thạch trận để tiêu diệt bất cứ con thuyền nào dám vượt thác. Nước cũng
vậy, chúng thở, kêu rống lên. Nước cũng vào hùa với đá để đánh những miếng đòn
“hiểm độc nhất”. Nguyễn Tuân còn sử dụng thủ pháp so sánh, tưởng tượng, huy động
vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, địa lí, quân sự, điện ảnh,… để miêu tả sông Đà.
Hình tượng người lái đò sông Đà là một người lao động, nhưng là nghệ sĩ trong lao
động, hơn nữa là một dũng tướng trong cuộc thủy chiến thường xuyên với thác nước
sông Đà. Đó là một con người bình thường, hiền lành với những nét phác họa: “cái
đầu bạc… cái đầu quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
sừng chất mun”, “tay ông lêu nghêu như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh
khuỳnh gò lại…”. Đó là một con người dũng cảm, say mê sông nước, say mê những
cảm giác mạnh. Ông luôn bình tĩnh, ung dung đối đầu với những khó khăn nguy hiểm.
Ông khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về đích an
toàn. Khi chở đò, ông là nghệ sĩ, là dũng tướng tài ba. Kết thúc công việc, ông lại là
một người bình thường, làm công việc bình thường là chở đò trên sông.
Đặc điểm nổi bật của tùy bút Nguyễn Tuân là uyên bác và tài hoa. Để nói về con sông
Đà, Nguyễn Tuân dẫn thơ cổ, dẫn thơ Lý Bạch, thơ B-rô-ni-ép-xki (Ba Lan). Ông vận
dụng kiến thức lịch sử, địa lý, hội họa, điện ảnh, quân sự, thể thao để viết về con sông
hung dữ và thơ mộng. Ông luôn có cảm hứng đặc biệt trước những hiện tượng phi
thường, gây cảm giác mạnh. Bao giờ ông cũng say mê khám phá và thưởng thức cái
đẹp. Vẻ đẹp hung dữ và thơ mộng của sông Đà, vẻ đẹp của ông lái đò bình dị nhưng
khi vượt thác thì như một viên tướng tài ba, điêu luyện đã đem cảm hứng sáng tạo cho
Nguyễn Tuân. Đúng là nhà văn nhìn cảnh vật và con người thiên về phương diện mĩ thuật và tài hoa.
Bài văn Người lái đò sông Đà - Mẫu 26
Cái nhìn và điểm nhìn nghệ thuật trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một
trong những phương diện nổi bật. Trong bài ký sắc sảo và ấn tượng này, Nguyễn Tuân
thể hiện cái nhìn về đối tượng phản ánh – người lái đò sông Đà – từ góc nhìn của cái
đẹp, và con sông Đà từ những sự tham chiếu mang tính tổng hợp thẩm mỹ của địa lý – lịch sử – văn hóa.
Về con sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện hai điểm nhìn chính là hùng vĩ, hung bạo và
thơ mộng, trữ tình. Hai điểm nhìn này có tác dụng bổ sung cho nhau để dựng nên hình
tượng con sông Đà độc đáo và thú vị. Nếu thiếu một trong hai điểm nhìn thì hình
tượng con sông không còn nguyên giá trị, mất sức hấp dẫn, lôi cuốn: Thiếu điểm nhìn
về đặc tính hùng vĩ, hung bạo mà chỉ còn trữ tình thì con sông thiếu tính cá biệt, cá
tính và chỉ là con sông bình thường; thiếu điểm nhìn về đặc tính thơ mộng, trữ tình thì
con sông chỉ còn lại đặc điểm địa lý, con người sẽ cảm thấy sợ hãi, lánh xa. Do vậy,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
hai điểm nhìn trên tương tác lẫn nhau để vừa tạo nên tính chân thực, vừa tạo nên sức
hấp dẫn riêng, độc đáo có một không hai trong cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Trong cả hai điểm nhìn, các sắc thái của đối tượng được miêu tả, phẩm bình, đánh giá
luôn phong phú, đa dạng, linh hoạt trong cách dùng từ ngữ giàu chất thơ, cách ví von
so sánh mới lạ của nhà văn. Chẳng hạn, miêu tả con sông ở khúc hẹp thì như chiếc yết
hầu bị đá bờ sông chẹt cứng, khi ở khúc rộng thì mênh mông hàng cây số của một thế
giới đầy gió gùn ghè; khi thì mặt thác với dòng nước như hùm beo lồng lộn, khi thì
những cái hút nước xoáy tít lôi tuột mọi vật xuống đáy sâu…
Điểm nhìn không chỉ dừng lại ở hình hài dòng sông hay bờ sông có đoạn hoang dại
như một bờ tiền sử mà cả ở âm thanh của con sông cũng được thơ hóa đa dạng, phong
phú: oán trách nỉ non, khiêu khích chế nhạo, đột ngột rống lên, thét gầm lên, ặc ặc lên,
thở và kêu như cửa cái cống bị sặc… Điểm nhìn trữ tình trước hết thể hiện ở cách ví
von có tính mô hình nhưng sống động về con sông như một áng tóc trữ tình và huyền
diệu với đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây.
Mặt khác là khi không gian của điểm nhìn di chuyển về khúc sông êm đềm, yên ả như
đoạn chảy qua chợ Bờ thì nước dòng sông có lúc xanh như ngọc bích, có lúc lại đỏ lừ;
ấn tượng về dòng sông như với cố nhân, có lúc lại mang màu huyền ảo sương khói
như trong một cảnh thơ Đường tuyệt bút của Lý Bạch. Thiên nhiên cây cỏ cũng gợi
tình, lãng mạn: nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa, cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp, một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm…
Về người lái đò trên sông Đà, cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Tuân thể hiện ở các
điểm nhìn về ngoại hình, về lòng dũng cảm, về tài năng lái đò trên con sông, về tình
yêu lao động và tất cả toát lên vẻ đẹp trong cách miêu tả và thể hiện của tác giả. Trong
cái nhìn của thiên tùy bút giàu chất nghệ thuật và sáng tạo này, người lái đò sông Đà
hiển hiện một cách tự nhiên và thuyết phục từ tính tổng hợp thẩm mỹ của mọi đặc
điểm, giá trị. Tính tương tác của hình tượng người lái đò với con sông Đà trong các
điểm nhìn của nhà văn tạo nên những giá trị mới mẻ cho cả hai. Cũng từ đó, tạo nên
những ấn tượng độc đáo và sâu sắc về tình yêu quê hương đất nước và con người Việt
Nam qua thiên tùy bút đẹp như một bài thơ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Giữa hai đối tượng miêu tả là con sông Đà và người lái đò sông Đà luôn có mối quan
hệ gắn bó khăng khít và mật thiết trong cách nhìn và thể hiện của tác giả. Vẻ đẹp và
sức hấp dẫn của mỗi đối tượng miêu tả có được là nhờ sự tương tác giữa chúng, từ đó,
tạo nên hiệu quả thẩm mỹ của bài ký tuyệt bút này. Với người lái đò, con sông Đà vừa
là đối tượng của cuộc chiến cần và phải chinh phục để mưu sinh, có khi khó khăn đến
mức có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một (…)
thấy nó chính là một cuộc đấu tranh với thiên nhiên để giành sự sống từ tay nó về minh.
Nhưng cũng chính với những đặc điểm hung bạo của con sông đà, người lái đó mới có
điều kiện để thử thách, vượt lên và thể hiện những phẩm chất chiến sỹ trận mạc và
nghệ sỹ của mình: Ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt
méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ
hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước, của đá thác. Nhưng trên cái
thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái.
Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất…
Người lái đò dũng cảm và mưu lược trong mọi tình huống của các vòng thạch trận, vì
ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Do vậy, lúc thì cưỡi lên thác
sông Đà, lúc thì nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng, ghì cương lái.. và linh
hoạt ứng phó một cách bản lĩnh và tài nghệ: Đối với bọn thủy quân sông Đà, ông đò
nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt
đôi ra để mở đường tiến… Và trong cuộc chiến với người lái đò như thế, các vẻ đẹp
và hấp dẫn trong nét tính cách hung bạo của con sông Đà cũng có điều kiện để hiển lộ.
Nghĩa là, con sông không chỉ là một hiện tượng tự nhiên mà là một hình tượng nghệ
thuật, một nhân vật thực thụ có hồn vía, thần thái, tính cách.
Như vậy, thi pháp kết cấu hình tượng của Người lái đò sông Đà có sự tương tác giữa
các đối tượng thẩm mỹ. Chính mối quan hệ giữa các yếu tố trong một hệ thống nghệ
thuật thống nhất ấy đã tạo nên tính tư tưởng và thẩm mỹ, góp phần đáng kể làm nên
sức hấp dẫn độc đáo của hình tượng vừa giàu chất thơ, chất phiêu lưu, lãng mạn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
nhưng cũng hết sức hiện thực luôn thấm đẫm tình yêu thiên nhiên và con người của nhà văn Nguyễn Tuân.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 27
Nhà văn là người dẫn đường cho người đọc đến với xứ sở của cái đẹp, bằng ngòi bút
tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dẫn người đọc đến xứ sở của cái đẹp nơi Tây Bắc,
ông đến để tìm chất thơ trong thiên nhiên chất vàng mười trong tâm hồn người dân lao động nơi đây.
Trước hết, đó là vẻ đẹp vừa hùng vĩ mà cũng rất đỗi nên thơ, dịu dàng của thiên nhiên
Tây Bắc, của con sông Đà. Cái hùng vĩ dữ dội của sông Đà trước hết là ở đá dựng
vách thành. Ngay chỗ này, cách dùng từ của Nguyễn như đã yểm linh hồn cho cảnh
vật. Từ “vách thành” gợi cái gì đó âm u, thâm sâu, bí hiểm giống như thành xưa quách
cũ, hầm cao hào sâu, giống như một thành trì kiên cố bất khả xâm phạm. Tiếp theo đó,
những so sánh ví von gắn với thực tế về cảm giác lạnh khi ngồi dưới khoang thuyền đi
khiến cho thiên nhiên, không gian nơi đây tuy hùng vĩ, nhưng lại đầy hoang lạnh, bí
hiểm vô cùng. Hùng vĩ của sông Đà còn ở tiếng gầm của thác: “hàng cây số nước xô
đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gầm ghè suốt năm”, giọng nghe
“vừa oán trách, vừa van xin” rồi lại khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Đặc biệt là
những hút nước như cống bê tông, đầy nguy hiểm rình rập. Con sông Đà hùng vĩ, dữ
dội, hung bạo, cái nét hùng vĩ hung bạo ấy của Sông Đà khác hẳn con sông Hương
trong văn Hoàng Phủ, sông Hương hùng vĩ, dữ dội nhưng mang nét đẹp mãnh liệt,
phóng khoáng như một bản trường ca của rừng già, còn con sông Đà lại mang tâm địa
của một loài thủy quái. Để thuần phục nó, chế ngự nó trên trang văn của mình,
Nguyễn đã chơi ngông dùng “nước để tả lửa, lấy rừng để tả sông”, từ đó thấy được
sức mạnh, cũng như sự ghê gớm, ác liệt của con sông Đà. Nét đẹp dù dữ dội, hùng vĩ
của nó cũng đẹp theo một cách rất riêng.
Nhưng bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội, con sông Đà còn mang trong nó vẻ đẹp thơ
mộng, trữ tình: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời tây Bắc, bung nở như hoa ban hoa gạo tháng hai, cuồn cuộn
mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Chỉ một chữ áng tóc, ta đã thấy được hết cái tài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
hoa và màng lọc tâm hồn tinh tế của Nguyễn Tuân, ông luôn nhìn sự vật dưới góc độ
văn hóa nghệ thuật, đây chính là minh chứng cho điều đó. Xưa nay người ta chỉ nói
áng thơ, áng văn, mái tóc, mấy ai gọi áng tóc bao giờ? Vậy là dưới ngòi bút Nguyễn
Tuân, con sông Đà bỗng mang trong nó phẩm giá và cốt cách của một tác phẩm nghệ
thuật, không chỉ đẹp mà còn duyên dáng, mềm mại, tràn đầy sức sống, sức xanh, và
nhựa sống như đang bừng nở trên mảnh đất của tổ quốc này. Nét trữ tình, thơ mộng
ấy, là tất cả tài hoa và nội lực của ngòi bút Nguyễn Tuân dồn lên trang giấy, để từ đó
dẫn đường cho người đọc đến xứ sở của cái đẹp.
Nếu trên kia là vẻ đẹp của con sông Đà, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, thì
bên cạnh đó Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà” còn đào sâu để tìm kiếm chất
vàng mười trong tâm hồn con người Tây Bắc, mà ở đây có thể thấy rõ nhất là người
lái đò. Con sông Đà nhiều khi dữ dằn như muốn ăn tươi, nuốt sống những người chèo
đò qua đây, ấy thế nhưng, ông lái Đò ấy vẫn bằng tất cả sức mạnh của mình để chế
ngự nó. Ông lái Đò vừa khéo léo, lại vô cùng dũng cảm, đầy mưu lược, tài hoa đã
vượt qua được các của tử của con thủy quái này. Ấy thế nhưng, ngay khi vừa ngừng
tay chèo, ông lại trở về với cuộc sống giản dị, bình đạm, không hề khoe khoang hay tự
hào về chiến tích của mình. Hình ảnh ông lái Đò tay lái ra hoa ấy, qua đó phần nào thể
hiện sự vận động trong cách nhìn của Nguyễn Tuân về con người. Trước đó, ông chỉ
nhìn thấy cái đẹp ở những con người đặc tuyển, bây giờ ông thấy cả vẻ đẹp bình dị mà
lấp lánh của người dân lao động trong cuộc sống mưu sinh, ông đã đi từ chốn tháp ngà
nghệ thuật để gần gũi hơn với cuộc sống của nhân dân lao động, hòa nhập với hơi thở
cuộc sống mới. Đó cũng là lí do mà văn Nguyễn Tuân trong “người lái đò sông Đà”
làm ấm lòng nhiều bạn đọc.
“Người lái đò sông Đà” là một kiệt tác của Nguyễn Tuân, một trang hoa tờ hoa bất
ngủ trong dòng chảy văn học Việt Nam, qua đó một lần nữa đóng một dấu triện riêng
của Nguyễn vào lịch sử văn học nước nhà.
Phân tích Người lái đò sông Đà - Mẫu 28
Nguyễn Tuân là một người con của đất thủ đô Hà Nội, sinh ra và lớn lên trong một gia
đình có truyền thống Nho học. Con người ông ưa thích “chủ nghĩa xê dịch”, với lối
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
sống, lối viết phóng khoáng, vượt ra khỏi khuôn khổ của thời đại, quan niệm “đời là
một trường du hí”, ông viết văn trước hết là để khẳng định cái tôi bản ngã của mình.
Trong sáng tác, Nguyễn Tuân cho rằng lao động là một hình thức nghệ thuật, nghiêm
túc thậm chí người viết phải chịu “khổ hạnh” mới có thể cho ra đời những tác phẩm có
giá trị, có lẽ vì quan điểm đặc sắc này mà người ta cho rằng: “Cái tôi của Nguyễn
Tuân chính là một định nghĩa đích thực về nghệ sĩ”. Nói đến đặc điểm của nhà văn
này người ta vẫn thường khắc ghi mấy chữ tài hoa, uyên bác, ông không chỉ có biệt tài
văn chương, bậc kỳ tài trong thể loại bút ký mà còn là người có am hiểu sâu rộng về
nhiều lĩnh vực, từ đó đem đến cho tác phẩm của mình những góc nhìn mới mẻ và toàn
diện khiến độc giả không khỏi trầm trồ kinh ngạc vì cách sử dụng câu từ điệu nghệ và
vốn tri thức phong phú của ông. Nguyên Tuân có nhiều sáng tác phân chia ra làm hai
giai đoạn, trong đó các tác phẩm sau cách mạng tháng tám nổi bật nhất chính là tùy
bút Sông Đà (1960), được viết trong chuyến thực địa về miền Tây Bắc xa xôi của tác
giả. Người lái đò sông Đà là đoạn trích được lược trong tập tùy bút này với hai hình
tượng trung tâm là dòng sông Đà và người lái đò trên sông.
Lời đề từ Nguyễn Tuân cũng tỉ mỉ soi xét, mượn của Phan Huy Chú câu “Chúng thủy
giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”, để nói về cái quái tính của con sông này, bao
dòng sông khác chọn xuôi về hướng đông, chỉ riêng sông Đà chọn cho mình lối chảy
ngược ngạo, khác thường về phương Bắc. Có lẽ chính cái cá tính thích độc lai độc
vãng, riêng mình ta một lối này có gì đó tương đồng với cái tôi đậm chất “ngông” của
Nguyễn Tuân thế nên khi viết ta có cảm giác Nguyễn Tuân rành rọt và thiết tha với
con sông này lắm. Mượn thơ của Phan Huy Chú chưa đủ, nhà văn còn mượn thêm
một dòng thơ của thi sĩ người Tây Ban Nha rằng: “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng
sông” gợi ra cái vẻ đẹp phóng khoáng thơ mộng của Đà giang bên cạnh cái vẻ ngang
tàng, hùng vĩ vốn có bao đời nay của một dòng sông miền rừng núi Tây Bắc.
Sông Đà đã hiện lên trong tác phẩm với một dáng vẻ rất sống động, tựa một sinh thể,
cũng có linh hồn, có nội tâm có cả cuộc đời, với xuất xứ từ tận Trung Quốc xa xôi,
chảy qua hơn 400km với tìm về được biên giới nước ta, rồi nhập tịch tại Mường Tè,
Lai Châu, mang tên độc một chữ “Đà”. Bỗng người ta có cái liên tưởng về cuộc đời
đầy sóng gió của một kiếp nhân sinh, thế nên khi đến dải đất hình chữ S này, sông Đà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
mới bộc lộ cái bản tính khó hiểu, đỏng đảnh làm mình làm mẩy với cả vùng Tây Bắc,
lúc thì hung bạo, dữ dội như đang giận dỗi gì, lúc lại dịu dàng, nên thơ lãng mạn vô
cùng. Đầu tiên ấy là cái quái tính hung bạo, hùng vĩ, một dòng sông, đổ dọc Tây Bắc
cái nhiều nhất ở khúc thượng nguồn có lẽ là ghềnh và thác, Nguyễn Tuân có chuyến đi
thực nghiệm dài và cũng lại là người ưa cái “khổ hạnh” tìm tòi khai thác, thế nên sông
Đà trong tác phẩm mới có được những cảnh đắt giá, khiến người ta chỉ đọc thôi nhưng
cũng đủ thấy cái tầm vóc, cảm giác rét lạnh giữa lòng sông. Nguyễn Tuân miêu tả
khúc sông này với những hình ảnh rất hấp dẫn “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, rồi
thì “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ lại “chẹt lòng sông như yết hầu”, sinh động với
những “con nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”, tạo cảm giác”đang màu hè mà
cũng cảm thấy lạnh”. Tất cả những hình ảnh ấy, khiến độc giả nghĩ dòng sông tựa như
một nhân vật bí hiểm, lạnh lùng, đang dùng đôi mắt sắc bén cùng cái khí thế âm u để
quan sát, nghiên cứu tất cả những con người bước vào giữa lòng sông, mang đến áp
lực vô hình và khó lường. Nhưng đó mới chỉ là khúc dạo đầu cho cái quái tính ghê
gớm của con sông này, người ta phải thực sự thấy nó khủng khiếp và hung tợn khi đọc
những âm thanh mà Nguyễn Tuân đã vắt kiệt vốn từ Việt của mình để chế ra. Quãng
mặt ghềnh Hát Loóng là cảnh “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái
đò sông Đà nào tóm được qua đấy”. Rồi quãng Tà Mường Vát dưới Sơn La thì lại có
cảnh nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi
vào”. Hoặc có khúc quái dị, với điệu bộ “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van
xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, khiến người ta phải dè chừng,
khiếp sợ nắm chắc tay chèo hơn nữa. Đến chỗ đổ thác dường như dòng sông biến
thành một loài quái thú, nước chỗ ấy “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”. Làm người ta mường tượng ra
cảnh một con thủy quái đang quẫy mình sôi nổi, giận dữ, hoặc là đói mồi hoặc là kẻ
nào đã lỡ tay chọc vào chiếc vảy ngược mới khiến lồng lộn cả lên như thế. Chung quy
lại tiếng nước trong miêu tả của Nguyễn Tuân quả thực là hấp dẫn và thu hút vô cùng,
nó làm nổi bật hẳn lên cái vẻ hầm hố, khó chịu của con sông khúc thượng nguồn này.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Dĩ nhiên diện mạo hung bạo, hùng vĩ của sông Đà không chỉ dừng lại ở bấy nhiêu ấy
mà còn ấn tượng hơn với hình ảnh những cái hút nước “đặc sản” của những dòng sông
có độ dốc lớn như sông Đà. Trong lăng kính của Nguyễn Tuân những hút nước ấy
được miêu tả bằng nhiều hình ảnh gợi sự liên tưởng sâu rộng cho người đọc tỉ như
những hình ảnh rất độc lạ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị
làm móng cầu”, hay “mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh
khối đúc dày, khối pha lê xanh”, rồi lại tựa “Cốc pha lê nước khổng lồ”, rồi thì “Từ
đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước
cao đến vài sải”,... Qua những hình ảnh gợi cảm ấy người ta thấy sông Đà có những
cái xoáy nước rất mỹ lệ, rất đẹp trong trẻo, xanh ngắt thế nhưng cũng ẩn chứa hàng
vạn mối nguy hiểm cho kẻ nào lỡ may sảy chân rơi vào đấy thì chỉ có tan xác. Thật
ứng với câu “càng đẹp càng độc” của cổ nhân bao đời. Và có lẽ tác giả sẵn có máu
điện ảnh trong người, thế nên ông lại càng muốn tác phẩm của mình thêm nổi bật và
độc giả có được góc nhìn độc đáo bằng việc vẽ ra viễn cảnh một anh quay phim liều
mạng nào đó đặt cả mình cả máy vào xoáy nước được bắt trọn cái khoảnh khắc quay
tít như chiếc gậy đánh phèn của cái hút nước. Quả thực khiến người đọc phải rùng
mình và không khỏi thán phục về cái cách Nguyễn Tuân đưa điện ảnh vào văn của mình.
Cái diện mạo của dòng sông Đà cáu bẳn, khó tính này có lẽ được thể hiện sinh động
hơn cả là trong những hình ảnh về đá và những cái “trùng vi thạch trận” mà binh pháp
“thần sông thần đá” đã bày ra để nuốt chửng bất kỳ kẻ nào dám khiêu khích. Với
những hình ảnh sinh động của thứ đá mà Nguyễn Tuân nói rằng đã mai phục ở đây
hàng nghìn năm, trực chờ tên liều mạng nào đi qua với bộ dạng sốt sắng “nhổm cả
dậy” để vồ lấy thuyền, rồi thì dáng vẻ “ngỗ ngược”, diện mạo “nhăn nhúm”, “méo
mó”, tư thế đứng, ngồi, nằm, nghiêng,... đều đủ cả, khiến người ta phải kiêng dè trước
cái khí thế mà chúng tỏa ra. Thêm nữa đá ở đây đâu có dễ dàng cho ai lọt lưới, chúng
chọn cho mình riêng một nhiệm vụ, đứa thì dàn hàng ngang, đứa thì đòi đánh giáp lá
cà, lại có cả đứa giả bộ lộ sơ sở, để những đứa còn lại phục kích đánh úp cho thuyền
bè không kịp trở tay. Thế mới thấy lũ đá này ghê gớm thế nào, và chúng không chỉ
dàn trận mà còn bày cả “trùng vi thạch trận” có tới 3 lớp, lớp sau càng nhiều cửa tử, ít
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
cửa sinh, luồng sống hẹp, luồng chết dày, dường như là không để cho kẻ địch một cơ
hội sống còn nào cả. Không biết là dòng sông này khó ở, thích trêu ngươi hay là đã
mang thù hằn truyền kiếp gì với con người ở đây mà lại mang một diện mạo khủng
khiếp, người sống ta chết như vậy.
Thế nhưng, khác hẳn với cái vẻ hung dữ, thô lỗ, cục cằn nơi thượng nguồn thì vùng hạ
lưu người ta lại phải nhìn sông Đà bằng một đôi mắt khác. Dòng sông hiện lên với
dáng vẻ hiền hòa, từ điểm nhìn cao và xa trên tàu bay, dòng chảy như một sợi dây
thừng ngoằn ngoèo, mềm mại trải khắp vùng Tây Bắc. Nhìn gần hơn thì nó lại mang
dáng vẻ của một mỹ nhân xinh đẹp, yêu kiều với dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, quyến rũ và
hấp dẫn vô cùng. Bên cạnh vẻ mềm mại dịu dàng người ta còn thấy một sông Đà với
nhiều dáng vẻ với những gam màu nổi bật, lãng mạn theo mùa, ví như “Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm
Sông Lô”, còn “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu
bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn
Tuân yêu và gắn bó với quê hương đất nước, đặc biệt là với con sông Đà ngu ngạo,
khó chiều này, ông xem dòng sông ấy như là một “cố nhân” để liên tưởng đến “màu
nắng tháng ba Đường thi” trong thơ Lý Bạch với câu thơ nổi tiếng “Yên hoa tam
nguyệt há Dương Châu”, tức là màu hoa nở rực rỡ mùa xuân gắn với sương khói mặt
sông khiến người ta không khỏi thổn thức một nỗi niềm thân thuộc. Ấy rồi có lúc sông
Đà lại như là “người tình chưa quen biết” trong cái cảnh nương ngô, đàn hươu, bờ
sông hoang dại với nỗi niềm cổ tích thuở xa xưa,... khiến lữ khách xuôi dòng xúc động.
Đó là dòng sông, nhưng trong trích đoạn Người lái đò sông Đà, hình tượng chính yếu
nổi bật nhất phải là hình ảnh ông lái đò mới đúng. Nguyễn Tuân khúc này chắc cũng
có nhiều phần tương tự đại thi hào Nguyễn Du, sông Đà là Thúy Vân còn người lái đò
chính là Thúy Kiều, lấy cái dữ dội, hùng vĩ của dòng sông để làm nổi bật lên dáng vẻ
hùng dũng trong lao động của con người. Ông lái đò quả thật xứng đáng khi nhận
danh xưng “chất vàng mười Tây Bắc”, ông không có tên, không rõ diện mạo, người ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
chỉ có thể nhận định ông thông qua công việc lái đò đầy nặng nhọc và vất vả, cái công
việc mà theo như Nguyễn Tuân nhận xét ông đã làm đạt đến tầm của một nghệ sĩ, một
nghệ sĩ trong công cuộc vượt thác sông Đà. Người đàn ông ấy, đã ở tầm cái tuổi thất
thập cổ lai hi, nhưng vẫn miệt mài với công cuộc lao động, giống như Nguyễn Khoa
Điềm đã nói “không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng họ vẫn sống và đóng góp cho đất
nước từng ngày. Ông lão hiện lên với dáng vẻ đậm mùi sông nước mênh mông, vẻ
khắc khổ,“tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái
tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”.
Nói ông lái đò là một nghệ sĩ mang chất vàng mười của Tây Bắc bởi lẽ ông lão ấy
không đơn thuần chỉ là một người lao động bình thường, mà ở người đàn ông này còn
hiện lên hai vẻ đẹp nổi bật ấy là vẻ đẹp của một chiến binh dũng cảm trên chiến
trường sông nước, ngày ngày chiến đấu giành giật miếng cơm manh áo và vẻ đẹp của
một người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo
đò ngày ngày viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động không
ngừng nghỉ. Người ta cũng phần nào tò mò, vì sao hình ảnh mà Nguyễn Tuân để ý lại
là một ông lão mà không phải một thanh niên trai trẻ. Thế nhưng có câu “Lửa thử
vàng gian nan thử sức”, biết bao kinh nghiệm chinh chiến trên con sông khó chiều,
hung hiểm này đã phải đánh đổi bằng mồ hôi, bằng trải nghiệm và bằng cả cuộc đời
của ông lão, để ngày hôm nay dẫu có già cả nhưng ông lại thực sự trở thành một tay
chèo đò lão luyện, nhà nghề thứ mà chẳng có thanh niên nào có được. Hơn thế nữa, vẻ
đẹp của ông lão còn đến từ sự liều lĩnh, dám nghĩ dám làm, ông bảo đã có trên dưới
trăm lần ngược xuôi ở khúc sông này, và trên 60 lần cầm lái chính, thử hỏi mấy ai đã
đủ dũng khí để đương đầu với sóng nước như ông? Rồi thêm vào đó cái chất vàng,
chất nghệ sĩ của ông lão nó còn nằm ở lòng hăng say, niềm đam mê trong công việc
lao động, ông làm không chỉ vì mưu sinh dù nó là tất yếu mà quan trọng hơn cả vẫn là
ông thực sự có niềm đam mê mạo hiểm, thích cảm giác mạnh. Ông nói: “Chạy thuyền
trên khúc sông không có thác nó dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ” thế mới thấy ông lão
cũng là người nhiệt thành, dũng cảm, có tâm hồn tươi trẻ, sôi động chẳng thua kém gì
ai bao giờ. Dẫu rằng cái bản tính hiếu chiến, đam mê khám phá, chinh phục gian nan
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
thử thách ấy có nhiều lần khiến ông phải lao đao vì cái tính cáu bẳn của sông Đà,
người đầy vết “củ nâu”, thế nhưng ông cũng chẳng bao giờ lùi bước, hay lấy đó làm
sợ hãi mà ngày càng trở nên kiên gan lì lợm hơn cả. Nguyễn Tuân thấu hiểu cái cá
tính tính này của ông lái đò, bởi chính bản thân tác giả cũng là người có cá tính như
vậy thế nên ông rất trân trọng mà ví von những vết tích “củ nâu” ấy là những “huân
chương lao động siêu hạng”.
Hình ảnh ông lái đò trong lao động thực sự nổi bật khi Nguyễn Tuân cất công miêu tả
cảnh chèo đò vượt thác của ông lão quả thực đó là một trận chiến không khoan
nhượng khi “cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày
với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo
và tâm địa của một kẻ thù số một”. Ở đây người ta thấy cái chất nghệ sĩ trong tâm hồn
của ông lão chèo đò hiện lên một cách rõ rệt, hết sức nghiêm túc, tỉ mẩn, miệt mài và
kiên nhẫn với công việc. Dòng sông Đà trong lòng ông đã trở thành một bản trường ca
vĩ đại mà người nghệ sĩ dành hết tâm tư của cả một đời chỉ để nghiên cứu, tập dượt,
sao cho nhuần nhuyễn, điệu nghệ đến mức nằm lòng “từng dấu chấm câu, dấu chấm
than, cả những đoạn xuống dòng”, khắc sâu vào tâm khảm như “đóng đanh vào lòng”
từng nhịp từng pháp, không thiếu đến nửa dấu. Đồng thời dòng sông cũng lại trở
thành một chiến trường quen thuộc với vị tướng đã dành cả cuộc đời để chinh phạt,
nơi đó ông được phép thi triển hết bao tài năng, tâm huyết, cả thứ binh pháp ông vẫn
hằng tâm niệm nhằm đối đầu với lũ đá, với những cái hút nước kinh người. Ông lão
xông pha chiến trường với tinh thần mạnh mẽ, hiên ngang, mái chèo thay đao, chiếc
đò duy nhất thay cho chiến mã, dẫu đơn độc thế nhưng khí thế oai hùng của người lái
đò cũng chẳng kém cạnh gì so với sự ghê gớm, dữ dội của con sông Đà. Đối mặt với
những “trùng vi thạch trận” giăng mắc, ông lão cũng chẳng ngại ngần mà nắm chặt
mái chèo vượt qua sự thách thức, uy hiếp của lũ đá khó nhằn. Chinh chiến thì sau
tránh khỏi thương tích có những lúc sông Đà tung đòn hiểm, người lái đò “mặt méo
bệch đi” thế nhưng ông vẫn “cố nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái” “lên
tiếng chỉ huy ngắn gọn” cho những tay lái phụ an toàn vượt qua trùng vi thạch trận thứ
nhất. Rồi lập tức bước vào ải thứ hai, cuộc chiến giữa người và sông tựa như một bộ
phim hành động mà càng về hồi sau càng trở nên gay cấn, hồi hộp. Ải này cửa tử lại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
càng nhiều hơn, cửa sinh thì lệch hẳn về bên hữu ngạn, thế nhưng với ông lái đò thì đã
là quen thuộc, “ông đã nắm chắc cái bình pháp của thần sông thần đá”, “thuộc quy
luật phục kích của lũ đá nơi ải này”, thế nên ông lão tự tin lấn lướt “ghì cương lái” vọt
vào cửa sinh trước vẻ mặt xanh lè tức giận của lũ đá dàn trận. Còn cửa ải cuối, cùng là
cửa khó nhằn nhất, toàn cửa tử, cửa sinh nằm giữa, ông lão chỉ việc ngắm thẳng mũi
đò phóng vào đó là xong ải thứ ba, rồi khải hoàn trở về xuôi xuống vùng hạ lưu. Qua
ba cửa ải sinh tử ấy, người ta thấy ông lão hiện lên với bản chất dũng mãnh, lòng kiên
cường đã tôi luyện cả cuộc đời của một người lính chiến, và lòng hăng say lao động,
chinh phục thiên nhiên của một người nghệ sĩ điêu luyện có “bàn tay lái ra hoa”.
Người lái đò sông Đà quả là một trích đoạn xuất sắc trong tập tùy bút Sông Đà, tác
phẩm tiêu biểu nhất trong trong văn đàn Việt Nam ở thể loại tùy bút, cũng như là
trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở đó người ta thấy hiện lên hai hình ảnh
vô cùng ấn tượng ấy là hình ảnh con sông Đà với vẻ hùng vĩ, dữ dội và kiêu ngạo,
đồng thời nó cũng mang trong mình những nét uyển chuyển, mềm mại, lãng mạn. Từ
hình ảnh con sông, thì hình tượng người lái đò đã hiện lên một cách sống động, rõ nét
và nổi bật với ba vai trò kéo, người lao động bình thường, người chiến sĩ dũng cảm và
người nghệ sĩ với tài năng điêu luyện bậc thầy.
Phân tích bài Người lái đò sông Đà - Mẫu 29
Nhắc về các tác giả lớn của văn học Việt Nam, đọng lại trong bạn là những ai? Phải
chăng bạn ấn tượng, say mê trước những dòng thơ tình đắm say của ông hoàng thơ
tình Xuân Diệu, hay xúc cảm trước ngòi bút có cái gai góc, lạnh lùng của Nam Cao
khi viết về người nông dân. Có rất nhiều tác giả chọn cho mình một đề tài để sáng tác
mà ta gọi đó là sở trường và trở thành dấu ấn của riêng tác giả. Nhưng khi nói đến
Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi đã nhận xét rằng:” Đây là nhà văn suốt đời đi tìm cái
đẹp, cái thật. Là người sinh ra để tôn thờ nghệ thuật. Là người sinh ra để tôn thờ nghệ
thuật với hai chữ viết hoa”. Nguyễn Tuân được biết đến là một cây bút tài hoa, uyên
bác, cả đời khao khát, say mê tìm kiếm vẻ đẹp, cái thật của cuộc sống. Lối văn chương
của ông tự do, phóng túng, ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân. Một trong những sáng tác
tiêu biểu của ông là tùy bút “Người lái đò sông Đà”, là thiên tùy bút rút trong tập
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
“Sông Đà” (1960). Đây là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch
được trong chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958, gian khổ và hào hứng. Hình ảnh
con sông Đà hiện lên thật to lớn, hùng vĩ, dữ dội khiến ta thấy bản thân thật nhỏ bé trước thiên nhiên.
Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một "nhân vật" có mặt suốt từ đầu đến cuối
thiên tùy bút, tạo nên một giá trị vô cùng đặc sắc cho tác phẩm này. Dưới ngòi bút
uyên bác và tài hoa của Nguyễn Tuân, sông Đà đã trở thành một vật sống có cá tính,
tâm trạng, hoạt động chứ không phải vô tri, vô giác. Con sông hiện lên trước mắt ông
như là một sự hùng vĩ của thiên nhiên. Tác giả đã cho người đọc như được chứng kiến
tận mắt khung cảnh sông Đà, thỉnh thoảng lại dừng lại những pha "cận cảnh" thật tiêu
biểu về sự dữ dằn này. Trước hết là cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”, hình ảnh hiện
lên to lớn, sừng sững, khiến cho người ngồi trên thuyền rợn ngợp, sợ hãi. Chỉ khi nào
đến giữa trưa đúng giờ ngọ, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới được đón nắng,
lúc này đây ta chỉ thấy mặt sông hẹp, lòng sông chảy bị thu hẹp đến mức mà đứng bờ
bên này nhẹ tay ném hòn là đã có thể qua đến bờ bên kia, hẹp đến mức con hổ, con nai
nhảy nhẹ là đã có thể vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia mà không hề tốn nhiều chút
sức lực, cảm giác rợn ngợp, lạnh lẽo, tăm tối. Cách so sánh trên của tác giả đã gây
được một ấn tượng sâu đậm trong trí óc người đọc về sự thẳng đứng của vách đá với
độ cao ngút trời. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Ngồi
trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè nóng bức mà cũng cảm thấy lạnh run
người, như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái
tầng nhà thứ mấy nào vừa phụt đèn điện. Nhà văn đã kết hợp hài hòa giữa các giác
quan khác nhau để có thể so sánh, nhân hóa, liên tưởng phong phú làm nổi bật lên vẻ
đẹp của vách đá thật mới mẻ, táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trở,
hùng vĩ đầy bí ẩn, sợ hãi như đang tham gia trò chơi mạo hiểm, lòng sông lại hẹp gợi
lên được những dòng nước chảy với vận tốc ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.
Tính chất hung bạo của dòng sông còn được tác giả thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh
sông với hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng là những mảnh ghép
hoàn hảo phối hợp với nhau đầy ăn ý để tăng thêm sự đe dọa, uy hiếp tính mạng của
những con người đi qua đây: quãng mặt ghềnh Hát Loong, “dài hàng cây số”, nước xô
đá, đá xô sóng, sóng xô gió, em cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
chực lấy mạng bất kỳ người lấy đò nào đi ngang qua đây. Người lái đò đi qua đoạn
này phải hết sức khéo léo, cao độ và có kinh nghiệm. Cách sử dụng từ láy cuồn cuộn
và động từ mạnh gùn ghè có thể cho thấy sự chọn lọc từ nghĩ tinh tế của tác giả. Nghệ
thuật nhân hóa kết hợp với động từ mạnh để làm nổi bật những con sóng mạnh, lớn,
dữ tợn, luôn luôn đe dọa và gây nguy hiểm cho người lái đò. Ở đây, một phần câu văn
như bị ngắt đứt ra thành từng khúc ngắn, gọn, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo sự thúc
đẩy dồn nén, gấp gáp thúc đẩy sự hồi hộp, tò mò trong lòng người đọc.
Những cái hút nước khủng khiếp làm cho sông Đà thêm hung bạo phần nào: trên sông
bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị
làm móng cầu. “Trên mặt thì hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ từ những cánh quạ
đàn”, câu văn cho ta thấy hình ảnh hết sức giản dị bầy quạ đi ăn bay vòng tròn, con
người thì lợi dụng sức nước gắn cánh quạt lợi dụng sức nước để sản xuất điện. Vì
nước bị hút quá mạnh nên xoáy thành từng vòng, phát ra những âm thanh hãi hùng
được tác giả nhân cách hóa như tiếng thở của nước và kêu như cửa cống cái bị sặc do
nước rất rợn người. Người lái đò nếu muốn vượt qua phải “chèo nhanh lướt quãng
sông”, rất nguy hiểm cho người lái đò, nên khi muốn qua đoạn này người lái đò phải
thật sự tài ba, giàu kinh nghiệm thì mới giữ được mạng. Để làm gia tăng thêm sự hiểm
nguy mà cái hút nước tạo ra, nhà văn đã kết hợp hài hòa giữa "tả" và "kể". Ở đây, yếu
tố tự sự góp phần quan trọng kích thích, mở mang trí tưởng tượng đầy phong phú của người đọc.
Nói đến sự tàn bạo, dữ tợn của sông Đà tất không thể thiếu đến sự dữ dằn của những
con thác. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng đánh trả, cướp lấy mạng
sống của người lái đò, lái mảng, đặc biệt với những người nào xuôi dòng, ở những nơi
này, sông Đà được tác giả miêu tả như có cả một bầy thuỷ quái xung quanh vừa độc
ác, hung bạo, xảo quyệt. Lúc thì thác nước chế nhạo, khiêu khích, khi thì lại gầm rú,
gào thét như tiếng một con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa,
đang phá luống rừng. Âm thanh rùng rợn, khủng khiếp, bằng biện pháp so sánh và liên
tưởng làm ta nhớ đến cảnh động đất thời tiền sử.
Cái hung bạo của con sông Đà không những chỉ được thể hiện qua sự hung bạo của
những con thác, mà còn quang cảnh bao la, rộng lớn với vẻ đẹp bí ẩn đầy hoang sơ
của dòng sông chảy giữa núi rừng Việt Bắc cũng góp phần không nhỏ vào thể hiện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
điều này. Thác nước như được nhân đôi sức mạnh, sức tàn phá, tăng thêm sự nguy
hiểm đối với sự sống của người lái đò vì sự góp mặt thêm của hàng ngàn tảng đá, to
nhỏ khác nhau. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì
phục kích nơi này để bày thạch trận trong lòng sông. Mỗi lần thấy một con thuyền nào
đi ngang qua là chúng lập tức vồ lấy thuyền.Thoạt nhìn qua đã thấy mặt sông trắng
xóa cả một chân trời đá. Những hòn, tảng tưởng như nó đứng ngồi đầy tự nhiên.
Nhưng quả thực không phải vậy, chúng đã được bày binh bố trận mục đích nhằm lấy
mạng những con người đi ngang qua đây. Chúng giàn ba vòng vây cực kỳ nguy hiểm.
Mỗi vòng vây, chúng lại mở rất nhiều cửa tử nhưng lại chỉ có duy nhất một cửa sinh.
Cửa sinh đó lại được bố trí vô cùng hiểm trở đầy lắt léo, lúc bên phải, lúc bên trái, khi
thì ở giữa. Vòng đầu, nó tỏ ra vẻ chủ quan, dễ tính đầy sơ hở để dụ những con thuyền
tiến vào sâu bên trong sau đó tung ra đòn chí mạng là cú đánh khuýp quật vu hồi. Khi
con thuyền đã bị sập bẫy, đá thác và sông nước nhất tề xông lên, cùng tác chiến, đánh
hội đồng. Chúng đánh tới tấp, dồn dập, liên tục những đòn hiểm độc. Chúng âm mưu
phá tan tất cả thuyền trưởng và thủy thủ ngay ở chân thác. Qua trí tưởng tượng vô
cùng phong phú của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên nguyên hình con thủy quái khổng
lồ xảo quyệt, hung dữ, đầy dã tâm độc ác. Cứ thế, sự hiểm ác của sông Đà - kẻ thù số
1 của những con người nơi Tây Bắc cứ nhân lên gấp vạn trong liên tưởng của người
đọc. Đọc những trang văn của Nguyễn Tuân mà ta như lạc vào những trận địa thiên la
địa võng. Tác giả nhân cách hóa và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri, vô giác,
gợi cho người đọc tưởng tượng ra được vẻ thô bạo, táo tợn của chúng như một lũ giặc
khát máu điên cuồng. Nguyễn Tuân còn sử dụng ngôn ngữ của nhiều lĩnh vực như
điện ảnh, quân sự “giáp lá cà…”, thể thao “hàng tiền vệ…”, võ thuật “đánh khuýp quật vu hồi’.
Bằng ngòi bút tài hoa uyên bác, cách sử dụng ngôn ngữ sống động, tổng hợp trên
nhiều vốn tri thức, vốn văn hóa về nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống, từ hội họa,
điện ảnh đến quân sự, tình yêu thiên nhiên, đất nước. Nghệ thuật viết tùy bút bậc thầy
khiến con sông đà hung bạo, độc hiểm cũng phải hiện hình rõ nét trên trang giấy của Nguyễn Tuân.
Tóm lại, khi ta đến với tác phẩm “ “Sông Đà” thấy trữ lượng cái đẹp, chất vàng mười
của đất nước và con người Việt Nam trong cuộc sống quả là nhiều vô kể”, Phan Thị
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Nhài. Qua việc nhìn nhận, khám phá, miêu tả thiên nhiên Sông Đà. Nguyễn Tuân đã
khẳng định tài năng uyên bác và ngòi bút tài hoa của mình. “Người Lái Đò Sông Đà”
là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con
người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ
mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc.