Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương
Sơn chọn lọc hay nhất
Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương n chọn lọc hay
nhất
Chu Mạnh Trinh, sinh năm 1862 qua đời vào năm 1905, một danh nổi
tiếng trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Tự gọi mình Cán Thần, hiệu Trúc
Vân, ông quê làng Phú Thị, huyện Mễ Sở, thuộc địa bàn huyện Đông Yên,
phủ Khoái Châu (nay Mễ Sở, huyện Văn Giang) tỉnh Hưng Yên. Chu Mạnh
Trinh không chỉ nổi tiếng với i năng về âm nhạc, thơ ca, hội họa còn
một kiến trúc xuất sắc. Ông tỏ ra giỏi cả trong việc sáng tạo nghệ thuật
kiến trúc, đặc biệt trong việc kết hợp nghệ thuật với sự say cảnh đẹp.
Tâm hồn nhạy cảm i năng đa dạng của ông đã tạo nên những tác phẩm
cùng độc đáo tinh tế. Cái lòng yêu cảnh đẹp của Chu Mạnh Trinh đã
được thể hiện nhất qua tác phẩm nổi tiếng của ông, trong đó bài thơ
"Hương Sơn phong cảnh ca". Bằng sự kết hợp tinh tế giữa trí tưởng tượng
phong phú tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên, ông đã tạo ra những bức
tranh thơ hùng , làm cho những hình ảnh về vẻ đẹp của Hương Sơn trở nên
sống động gần gũi với độc giả. Áng thơ này không chỉ sự kỳ công của
một thi sĩ, còn dấu ấn vững chắc của một nghệ đa tài trong lòng
người hậu thế.
Hương Sơn phong cảnh ca một trong ba bài thơ được Chu Mạnh Trinh viết
vào dịp ông đứng trông coi việc trùng tu tôn tạo quần thể thắng cảnh Hương
Sơn. Bài t viết theo thể hát nói. 19 câu thơ vẽ nên một bức tranh thiên
nhiên xinh đẹp nên thơ về phong cảnh Hương Sơn. Đây một bài thơ
vịnh cảnh thể hiện tâm sự. Không chỉ vẽ cảnh đẹp, còn vẽ lòng người,
đó tâm sự yêu nước, tự hào với cảnh đẹp quê hương đất nước của nhà
thơ.
Bốn u thơ đầu giới thiệu bao quát toàn cảnh Hương Sơn trực tiếp nêu
cái thú ban đầu khi đến với Hương Sơn của tác giả:
“Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi đây phải?”
Thông qua hai câu thơ đầu tiên, Chu Mạnh Trinh đã tinh tế khám phá cảnh
sắc của Hương Sơn, làm nổi bật sự kết hợp giữa vẻ đẹp tự nhiên tuyệt vời
tính tôn giáo hùng vĩ. Thể hát được sử dụng để tạo ra một âm thanh du
dương, tả cảnh đẹp thiên nhiên với hương vị của Thiền, toát lên qua trái
tim tâm hồn của một nghệ tài năng. i thơ này nổi bật với khả năng tả
cảm nhận của tác gi về vẻ đẹp của Hương Sơn.
Phong cảnh Hương Sơn được tả từ góc nhìn xa của du khách, với giọng
thơ trang trọng từ điệu khoan thai, tạo nên hình nh của người đi lễ vừa đi
vừa đứng lại đ ngắm cảnh suy ngẫm. Thiên nhiên mênh mông kết hợp
với màu sắc của Phật giáo tạo nên một không khí huyền tràn ngập tâm
linh. Hương n không ch tác phẩm của thiên nhiên còn nơi Bụt đã
đang gọi gắm con người.
Bài thơ th hiện niềm ao ước của nhiều người khi tham gia lễ hội chùa
Hương, như một niềm vui ước ao từ lâu. Cảnh được xây dựng vừa đơn
giản thân thiện, vừa chứa đựng không khí huyền diệu linh thiêng.
niềm ao ước không chỉ trong khoảnh khắc đã trở thành khát vọng "bấy u
nay" của rất nhiều du khách. u thơ thứ ba, với sự kết hợp tinh tế giữa lối
diễn đạt của liệt thủ pháp luyến láy, tạo nên hình ảnh hùng của non
nước, mây trời Hương Sơn n một bức tranh thủy mặc cổ điển. Đồng thời,
âm điệu của u thơ này ngân nga bâng khuâng, tạo ra cảm xúc của du
khách trước vẻ huyền của thế giới tiên cảnh này.
Ba khổ tiếp theo miêu tả cảnh đẹp cụ thể của Hương Sơn. Khổ t tiếp theo
trong bài hát nói gọi khổ giữa, nhà thơ nói về suối, rừng tiếng chuông
chùa. Ba chi tiết nghệ thuật này đều đậm nét đặc trưng của Hương Sơn.
Rừng rừng Mai với trái đặc sản của chùa Hương. Tiếng chim hót thỏ
thẻ chậm rãi, nỉ non gọi bầy tìm bạn, kết đôi. Bầy chim trời vừa hót vừa
mổ trái mơ. Hình ảnh chim cùng trái nét vẽ độc đáo, i hoa. Bầy chim mổ
trái như khách hàng hương đứng dưới mái chùa cổ trong hang động
đang khom lưng khấn vái trước mâm ngũ quả dâng trên n thờ Phật. Suối
đây suối Yến. Chơi chùa Hương ai cũng phải đi đò dọc bến Đục suối Yến?
Đàn nơi suối Yến lững lờ bơi từ t thong thả như đang cùng du khách
thưởng ngoạn cảnh trí.
“Cá nghe kinh” một hình ảnh sáng tạo, đầy chất thơ. Cảnh sắc Hương Sơn
mang màu sắc tôn giáo của Đạo Phật:
“Thỏ thẻ rừng mai chim ng trái;
Lững lờ khe Yến nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày nh,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Phong cảnh của Hương Sơn được tác giả điểm bằng những u sắc rực
rỡ của Phật giáo. Những loài chim xuất hiện như những nhạc công tinh tế,
hòa mình vào không khí thần tiên của nơi này. Trong bức tranh này, cảm
hứng tôn giáo không phải sự tín dị đoan, một nhu cầu tinh thần,
một tìm kiếm tâm linh sâu sắc trong tâm hồn của một thi tài hoa. Những
con bơi lững lờ, nh như đang chìm đắm trong những bài thuyết pháp của
đức Phật. đây, không chỉ việc tận hưởng cảnh đẹp tự nhiên còn
sự hòa mình vào không gian m linh, nơi tâm hồn của thi được nâng cao
bởi những giảng đường tôn giáo. Khi khách du lịch nghe tiếng chuông chùa,
họ không khỏi bất giác thảng thốt. Âm thanh của chuông không chỉ một âm
thanh thông thường, còn một thứ âm thanh truyền đạt sự linh thiêng
tâm huyết của nơi này. Đó điểm kết nối giữa thế giới huyền thế giới
hiện thực, làm cho trải nghiệm của họ trở nên sâu sắc tràn ngập cảm xúc
tâm linh.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Những du khách hành hương trở nên nhẹ nhõm, như đang trút đi những ưu
phiền cuộc đời đầy biến động nhọc nhằn giữa tang hải bể dâu. Tiếng
chuông như người ru hồn khách tang hải, đưa họ chìm sâu o giấc mộng
diệu huyền. "Thoảng bên tai một tiếng chày kình / Khách tang hải giật mình
trong giấc mộng" - câu thơ này không chỉ làm ta cảm nhận được âm thanh
êm ái của chày kình, còn mang đến thú vị về nhạc điệu du dương. Hai
thanh bằng "K" âm vang ngân nga, tạo nên âm hưởng trầm bổng của vần
thơ. Từ "kình" "mình" không chỉ vần với nhau n tạo nên một âm điệu
hòa quyện, n tiếng chày kình đều đặn êm dịu. Tiếng chày kình n
một dòng nhạc nhẹ, rơi vào tai khách tang hải, làm sạch bụi trần, làm thanh
thản thảnh thơi tâm hồn họ giữa không gian linh thiêng của chùa
Hương.Chu Mạnh Trinh không chỉ làm nổi bật những vần thơ với nhạc họa
khi mô t cảnh chim, cá, tiếng chuông chùa, mà còn truyền đạt sự diệu
của hồn cảnh vật Hương Sơn Nam Thiên Đệ Nhất Động. Cảm giác tinh thần
của du khách được nâng cao, đưa họ vào một trạng thái a mình vào vẻ
đẹp thiêng liêng của không gian này.
Hai khổ thơ 3 4 tiếp theo hai khổ đội của bài t nói. Hương Sơn biết
bao cảnh đẹp nên thi phải sử dụng khổ dôi để diễn tả cảm c miêu tả
cảnh vật. Du khách như đi dần vào thế giới Hương Sơn, nơi bầu trời cảnh
Bụt. Chu Mạnh Trinh dùng biện pháp tu từ liệt điệp từ để tả, để vẽ, đ
tạo nên nhạc điệu trầm bổng của vần thơ. Hai cặp song hành với bức tranh
tứ bình nối tiếp hiện ra. Bốn chữ này vang lên n bốn nốt nhấn của khúc ca:
“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh”
Sự khéo léo trong cách phối thanh bằng trắc trong hai câu thơ này không
chỉ minh chứng cho bút pháp điêu luyện tài hoa của c giả còn làm
nổi bật tính nhạc của i hát nói. Hương n, mặc đầy ắp những di tích
thắng cảnh, nhưng Chu Mạnh Trinh chỉ giới thiệu bốn cảnh điển hình một
cách giản dị, chỉ gợi ra không tả chi tiết. Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng,
am Phật Tích, động Tuyết Quynh, từng di tích một thắng cảnh độc đáo,
mang đến cho ta nhiều liên tưởng làm cho lòng người hành hương trở nên
thiện cảm. Mỗi di tích, mỗi thắng cảnh, đều m cho du khách cảm thấy như
họ đang chan hòa vào cảnh Bụt, sống lại giây phút chỉ bầu trời cảnh
Bụt nơi Hương Sơn mới thể ban tặng cho họ. Sự cảm thụ trải nghiệm
của nhà thơ được truyền đạt qua từng dòng vần, mời gọi độc giả hòa mình
vào không gian linh thiêng thanh tịnh.
Cảm hứng tín ngưỡng về đạo Phật hiện qua những vần thơ nói về suối,
chùa, am, động. Như một lời mời gọi, tạo ra sự kỳ diệu lôi cuốn du
khách, nhưng cũng làm cho họ ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi lắng nghe tiếng
chuông chùa xa vang lên, như tiếng chứng nhận của bản thân mình trong
không gian thiêng liêng tràn ngập niềm tin. Tả hang động, Chu Mạnh Trinh
dùng những t ngữ đầy u sắc, giàu tính tượng hình. Cảnh sắc hang động
ấy được tạo dựng nên bởi a công tài trí của con người:
“Nhác trông lên ai khéo vẽ nh
Đá n sắc long lanh như gấm dệt”
Những liên tưởng so sánh về nhũ đá trong các hang động biểu lộ niềm t hào
của nhà thơ về đất nước con người Việt Nam: yêu đời, yêu tạo vật, biết
đem bàn tay khéo léo điểm cảnh trí non sông. Hương Sơn đường lên
trời hang xuống âm ti địa ngục dẫn khách nh hương du nhập o thế
giới siêu thoát. Cảnh được tả từ xa tới gần, từ khái quát đến cụ thể, từ cao
xuống thấp, từ thấp lên cao, huyền ảo.
“Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.
Gập ghềnh mấy lối uốn thang y”.
Tiếp theo những dòng thơ đầy chất họa nhạc, nơi các từ láy như láy
vàng, long lanh, thăm thẳm, gập ghềnh hòa quyện tạo nên vẻ đẹp mộng ảo,
thần tiên huyền của "Nam thiên đ nhất động". Từ ngữ tinh tế như
"thăm thẳm" "gập ghềnh" không ch tả đ sâu những thách thức của
hang động, còn làm cho cảnh đẹp trở nên long lanh huyền bí. Các từ
láy này như những nét vẽ rạng ngời, thăm thẳm n một thách thức, gập
ghềnh như một hành trình du khách phải vượt qua để hòa mình vào tận
cùng của thiên nhiên, đ chiếm lĩnh cái hồn của cảnh Bụt. Phép đảo ngữ đã
làm nổi bật sự độ sâu thăm thẳm của hang động, nét gập ghềnh của sườn
non, vẻ lung linh của những thang mây cao vút. Hang động thâm thẳm,
những ờn non gập ghềnh, bóng nguyệt lồng hang, thang mây uốn lối,
mỗi chi tiết như một nét vẽ tinh tế, mỗi đường nét một bức tranh tài năng
của thi . Câu thơ mềm mại uyển chuyển, từng chi tiết nghệ thuật như
những đường nét tinh tế trên bức tranh, tạo ra một cảnh đẹp không chỉ mang
đặc trưng của thiên nhiên còn chứa đựng tình người hồn người, làm
cho trở nên đáng yêu khó quên.
“Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hãy tạo vật khéo ra tay xếp đặt”.
Con người đã tìm thấy niềm vui trong thiên nhiên, thiên nhiên cũng như hòa
quyện vào con người, con người lại càng góp phần điểm cho thiên nhiên,
cảnh sắc. Vậy mới nói vậy thật ảo mộng như cõi tiên, tuy đẹp như chốn
bồng lai lại chân thực, bình dị đến từng cây, ngọn cỏ!. Bởi thế mới nhớ,
mới lại càng yêu. Tình u thiên nhiên cũng tình yêu quê hương đất nước.
Trong những câu thơ trên, tác giả đã viết: ai khéo vẽ hình, đến đây lại nói:
hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt. Phải tìm hiểu lịch sử, phải biết Chu Mạnh
Trinh người từng đem tiền của, công sức, tài năng ra trùng tu chùa Thiên
Trù, tạc tượng đúc chuông… mới cảm nhận được một chữ” ai” đáng tự hào
kín đáo đã hai lần xuất hiện trong bài thơ này.
Ba câu cuối gọi khổ xếp của bài hát nói. Câu cuối chỉ sáu từ gọi u
keo. Luật thơ đã qui định chặt chẽ như vậy. Không gian nghệ thuật được
miêu t theo bước chân xa dần của khách tang hải. Khách tang hải vừa chậm
rãi đi vừa ngắm cảnh, tay lần tràng hạt miệng nam mô, lưu luyến chẳng muốn
rời, đến mức phải thốt lên: “càng trông phong cảnh càng yêu!” Cách nói mới
hồn nhiên làm sao, mới chân thật làm sao! giản dị nhưng giàu chất biểu cảm:
“Lần tràng hạt niệm nam Phật
Cửa từ bi công đức biết bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu”
Không khí thành kính trang nghiêm phủ lên hai câu thơ trước, khiến người
đọc càng thấy chân thật như đang thấy được hình nh một đoàn khách thập
phương vừa đi vừa niệm nam mo, tay lần tràng hạt, tĩnh tâm theo tiếng
chuông chùa, nổi bật giữa bạt ngàn hương sắc Hương Sơn huyền ảo. Câu
thơ cuối như một tiếng thổ lộ, lại vừa giống một tiếng reo cảm thán. Qua đó
không chỉ nâng cao vẻ đẹp hoàn mỹ của phong cảnh Hương Sơn, còn
bộc lộ được tình yêu, niềm tự hào dân tộc của “con rồng cháu tiên” với non
sông gấm vóc. .
"Bài thơ 'Hương Sơn phong cảnh ca' không chỉ đứng một trong những tác
phẩm xuất sắc nhất về đề tài cảnh sắc thiên nhiên, còn một biểu tượng
của tình yêu t hào với vẻ đẹp tự nhiên, non ng đất nước Chu Mạnh
Trinh đã tài năng khắc họa. Trái với việc chỉ tả danh lam thắng cảnh như
nơi Bồng Lai bao người ước, bài thơ y còn khéo léo thể hiện s t hào,
tự tôn dân tộc của tác giả. Cảnh thiên nhiên hài hòa trong bài thơ không chỉ
sự kết hợp đẹp tuyệt vời giữa những đặc trưng của thiên nhiên tay nghề
của con người còn bức tranh sống động với sự xuất hiện của người
dân. Con người, mặc đứng giữa vẻ đẹp kỳ vỹ của thiên nhiên, nhưng
không hề cảm thấy xa lạ hay choáng ngợp. Ngược lại, h thấy gắn bó, yêu
thương ý thức cống hiến, giữ gìn cho vẻ đẹp này. Bài thơ không chỉ
một tác phẩm đẹp mắt, còn chứa đựng sự đam mê lòng tri ân của tác
giả đối với vẻ đẹp t nhiên, một cảm xúc tình cảm, một lời khen ngợi sâu
sắc về vẻ đẹp thiên nhiên tình yêu quê hương."

Preview text:

Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương
Sơn chọn lọc hay nhất
Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn chọn lọc hay
nhất
Chu Mạnh Trinh, sinh năm 1862 và qua đời vào năm 1905, là một danh sĩ nổi
tiếng trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Tự gọi mình là Cán Thần, hiệu là Trúc
Vân, ông quê ở làng Phú Thị, huyện Mễ Sở, thuộc địa bàn huyện Đông Yên,
phủ Khoái Châu (nay là Mễ Sở, huyện Văn Giang) tỉnh Hưng Yên. Chu Mạnh
Trinh không chỉ nổi tiếng với tài năng về âm nhạc, thơ ca, và hội họa mà còn
là một kiến trúc sư xuất sắc. Ông tỏ ra giỏi cả trong việc sáng tạo nghệ thuật
kiến trúc, đặc biệt là trong việc kết hợp nghệ thuật với sự say mê cảnh đẹp.
Tâm hồn nhạy cảm và tài năng đa dạng của ông đã tạo nên những tác phẩm
vô cùng độc đáo và tinh tế. Cái lòng yêu cảnh đẹp của Chu Mạnh Trinh đã
được thể hiện rõ nhất qua tác phẩm nổi tiếng của ông, trong đó có bài thơ
"Hương Sơn phong cảnh ca". Bằng sự kết hợp tinh tế giữa trí tưởng tượng
phong phú và tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên, ông đã tạo ra những bức
tranh thơ hùng vĩ, làm cho những hình ảnh về vẻ đẹp của Hương Sơn trở nên
sống động và gần gũi với độc giả. Áng thơ này không chỉ là sự kỳ công của
một thi sĩ, mà còn là dấu ấn vững chắc của một nghệ sĩ đa tài trong lòng người hậu thế.
Hương Sơn phong cảnh ca là một trong ba bài thơ được Chu Mạnh Trinh viết
vào dịp ông đứng trông coi việc trùng tu tôn tạo quần thể thắng cảnh Hương
Sơn. Bài thơ viết theo thể hát nói. 19 câu thơ vẽ nên một bức tranh thiên
nhiên xinh đẹp và nên thơ về phong cảnh Hương Sơn. Đây là một bài thơ
vịnh cảnh và thể hiện tâm sự. Không chỉ vẽ cảnh đẹp, mà còn vẽ lòng người,
đó là tâm sự yêu nước, tự hào với cảnh đẹp quê hương đất nước của nhà thơ.
Bốn câu thơ đầu giới thiệu bao quát toàn cảnh Hương Sơn và trực tiếp nêu
cái thú ban đầu khi đến với Hương Sơn của tác giả:
“Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”
Thông qua hai câu thơ đầu tiên, Chu Mạnh Trinh đã tinh tế khám phá cảnh
sắc của Hương Sơn, làm nổi bật sự kết hợp giữa vẻ đẹp tự nhiên tuyệt vời và
tính tôn giáo hùng vĩ. Thể hát được sử dụng để tạo ra một âm thanh du
dương, mô tả cảnh đẹp thiên nhiên với hương vị của Thiền, toát lên qua trái
tim và tâm hồn của một nghệ sĩ tài năng. Bài thơ này nổi bật với khả năng tả
và cảm nhận của tác giả về vẻ đẹp của Hương Sơn.
Phong cảnh Hương Sơn được mô tả từ góc nhìn xa của du khách, với giọng
thơ trang trọng và từ điệu khoan thai, tạo nên hình ảnh của người đi lễ vừa đi
vừa đứng lại để ngắm cảnh và suy ngẫm. Thiên nhiên mênh mông kết hợp
với màu sắc của Phật giáo tạo nên một không khí huyền bí và tràn ngập tâm
linh. Hương Sơn không chỉ là tác phẩm của thiên nhiên mà còn là nơi Bụt đã
và đang gọi gắm con người.
Bài thơ thể hiện niềm ao ước của nhiều người khi tham gia lễ hội chùa
Hương, như là một niềm vui và ước ao từ lâu. Cảnh được xây dựng vừa đơn
giản và thân thiện, vừa chứa đựng không khí huyền diệu và linh thiêng. Nó là
niềm ao ước không chỉ trong khoảnh khắc mà đã trở thành khát vọng "bấy lâu
nay" của rất nhiều du khách. Câu thơ thứ ba, với sự kết hợp tinh tế giữa lối
diễn đạt của liệt kê và thủ pháp luyến láy, tạo nên hình ảnh hùng vĩ của non
nước, mây trời Hương Sơn như một bức tranh thủy mặc cổ điển. Đồng thời,
âm điệu của câu thơ này ngân nga và bâng khuâng, tạo ra cảm xúc của du
khách trước vẻ huyền bí của thế giới tiên cảnh này.
Ba khổ tiếp theo miêu tả cảnh đẹp cụ thể của Hương Sơn. Khổ thơ tiếp theo
trong bài hát nói gọi là khổ giữa, nhà thơ nói về suối, rừng và tiếng chuông
chùa. Ba chi tiết nghệ thuật này đều tô đậm nét đặc trưng của Hương Sơn.
Rừng là rừng Mai với trái mơ đặc sản của chùa Hương. Tiếng chim hót thỏ
thẻ – chậm rãi, nỉ non – gọi bầy tìm bạn, kết đôi. Bầy chim trời vừa hót vừa
mổ trái mơ. Hình ảnh chim cùng trái là nét vẽ độc đáo, tài hoa. Bầy chim mổ
trái mơ như khách hàng hương đứng dưới mái chùa cổ trong hang động
đang khom lưng khấn vái trước mâm ngũ quả dâng trên bàn thờ Phật. Suối ở
đây là suối Yến. Chơi chùa Hương ai cũng phải đi đò dọc bến Đục suối Yến?
Đàn cá nơi suối Yến lững lờ bơi từ từ thong thả – như đang cùng du khách thưởng ngoạn cảnh trí.
“Cá nghe kinh” là một hình ảnh sáng tạo, đầy chất thơ. Cảnh sắc Hương Sơn
mang màu sắc tôn giáo của Đạo Phật:
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái;
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”
Phong cảnh của Hương Sơn được tác giả tô điểm bằng những màu sắc rực
rỡ của Phật giáo. Những loài chim cá xuất hiện như những nhạc công tinh tế,
hòa mình vào không khí thần tiên của nơi này. Trong bức tranh này, cảm
hứng tôn giáo không phải là sự mê tín dị đoan, mà là một nhu cầu tinh thần,
một tìm kiếm tâm linh sâu sắc trong tâm hồn của một thi sĩ tài hoa. Những
con cá bơi lững lờ, hình như đang chìm đắm trong những bài thuyết pháp của
đức Phật. Ở đây, không chỉ là việc tận hưởng cảnh đẹp tự nhiên mà còn là
sự hòa mình vào không gian tâm linh, nơi tâm hồn của thi sĩ được nâng cao
bởi những giảng đường tôn giáo. Khi khách du lịch nghe tiếng chuông chùa,
họ không khỏi bất giác thảng thốt. Âm thanh của chuông không chỉ là một âm
thanh thông thường, mà còn là một thứ âm thanh truyền đạt sự linh thiêng và
tâm huyết của nơi này. Đó là điểm kết nối giữa thế giới huyền bí và thế giới
hiện thực, làm cho trải nghiệm của họ trở nên sâu sắc và tràn ngập cảm xúc tâm linh.
Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.
Những du khách hành hương trở nên nhẹ nhõm, như đang trút đi những ưu
phiền cuộc đời đầy biến động và nhọc nhằn giữa tang hải – bể dâu. Tiếng
chuông như là người ru hồn khách tang hải, đưa họ chìm sâu vào giấc mộng
diệu huyền. "Thoảng bên tai một tiếng chày kình / Khách tang hải giật mình
trong giấc mộng" - câu thơ này không chỉ làm ta cảm nhận được âm thanh
êm ái của chày kình, mà còn mang đến thú vị về nhạc điệu du dương. Hai
thanh bằng có "K" âm vang ngân nga, tạo nên âm hưởng trầm bổng của vần
thơ. Từ "kình" và "mình" không chỉ vần với nhau mà còn tạo nên một âm điệu
hòa quyện, như là tiếng chày kình đều đặn và êm dịu. Tiếng chày kình như
một dòng nhạc nhẹ, rơi vào tai khách tang hải, làm sạch bụi trần, làm thanh
thản và thảnh thơi tâm hồn họ giữa không gian linh thiêng của chùa
Hương.Chu Mạnh Trinh không chỉ làm nổi bật những vần thơ với nhạc và họa
khi mô tả cảnh chim, cá, và tiếng chuông chùa, mà còn truyền đạt sự kì diệu
của hồn cảnh vật Hương Sơn Nam Thiên Đệ Nhất Động. Cảm giác tinh thần
của du khách được nâng cao, đưa họ vào một trạng thái hòa mình vào vẻ
đẹp thiêng liêng của không gian này.
Hai khổ thơ 3 và 4 tiếp theo là hai khổ đội của bài hát nói. Hương Sơn có biết
bao cảnh đẹp nên thi sĩ phải sử dụng khổ dôi để diễn tả cảm xúc và miêu tả
cảnh vật. Du khách như đi dần vào thế giới Hương Sơn, nơi bầu trời cảnh
Bụt. Chu Mạnh Trinh dùng biện pháp tu từ liệt kê và điệp từ để tả, để vẽ, để
tạo nên nhạc điệu trầm bổng của vần thơ. Hai cặp song hành với bức tranh
tứ bình nối tiếp hiện ra. Bốn chữ này vang lên như bốn nốt nhấn của khúc ca:
“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh”
Sự khéo léo trong cách phối thanh bằng và trắc trong hai câu thơ này không
chỉ là minh chứng cho bút pháp điêu luyện và tài hoa của tác giả mà còn làm
nổi bật tính nhạc của bài hát nói. Hương Sơn, mặc dù đầy ắp những di tích
thắng cảnh, nhưng Chu Mạnh Trinh chỉ giới thiệu bốn cảnh điển hình một
cách giản dị, chỉ gợi ra mà không tả chi tiết. Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng,
am Phật Tích, và động Tuyết Quynh, từng di tích là một thắng cảnh độc đáo,
mang đến cho ta nhiều liên tưởng và làm cho lòng người hành hương trở nên
thiện cảm. Mỗi di tích, mỗi thắng cảnh, đều làm cho du khách cảm thấy như
họ đang chan hòa vào cảnh Bụt, sống lại giây phút mà chỉ có bầu trời và cảnh
Bụt nơi Hương Sơn mới có thể ban tặng cho họ. Sự cảm thụ và trải nghiệm
của nhà thơ được truyền đạt qua từng dòng vần, mời gọi độc giả hòa mình
vào không gian linh thiêng và thanh tịnh.
Cảm hứng tín ngưỡng về đạo Phật hiện rõ qua những vần thơ nói về suối,
chùa, am, động. Như một lời mời gọi, nó tạo ra sự kỳ diệu và lôi cuốn du
khách, nhưng cũng làm cho họ ngạc nhiên, ngỡ ngàng khi lắng nghe tiếng
chuông chùa xa vang lên, như là tiếng chứng nhận của bản thân mình trong
không gian thiêng liêng và tràn ngập niềm tin. Tả hang động, Chu Mạnh Trinh
dùng những từ ngữ đầy màu sắc, giàu tính tượng hình. Cảnh sắc hang động
ấy được tạo dựng nên bởi hóa công và tài trí của con người:
“Nhác trông lên ai khéo vẽ hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”
Những liên tưởng so sánh về nhũ đá trong các hang động biểu lộ niềm tự hào
của nhà thơ về đất nước và con người Việt Nam: yêu đời, yêu tạo vật, biết
đem bàn tay khéo léo tô điểm cảnh trí non sông. Hương Sơn có đường lên
trời có hang xuống âm ti địa ngục dẫn khách hành hương du nhập vào thế
giới siêu thoát. Cảnh được tả từ xa tới gần, từ khái quát đến cụ thể, từ cao
xuống thấp, từ thấp lên cao, huyền ảo.
“Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”.
Tiếp theo là những dòng thơ đầy chất họa và nhạc, nơi các từ láy như láy
vàng, long lanh, thăm thẳm, gập ghềnh hòa quyện tạo nên vẻ đẹp mộng ảo,
thần tiên và huyền bí của "Nam thiên đệ nhất động". Từ ngữ tinh tế như
"thăm thẳm" và "gập ghềnh" không chỉ mô tả độ sâu và những thách thức của
hang động, mà còn làm cho cảnh đẹp trở nên long lanh và huyền bí. Các từ
láy này như là những nét vẽ rạng ngời, thăm thẳm như là một thách thức, gập
ghềnh như là một hành trình mà du khách phải vượt qua để hòa mình vào tận
cùng của thiên nhiên, để chiếm lĩnh cái hồn của cảnh Bụt. Phép đảo ngữ đã
làm nổi bật sự độ sâu thăm thẳm của hang động, nét gập ghềnh của sườn
non, và vẻ lung linh của những thang mây cao vút. Hang động thâm thẳm,
những sườn non gập ghềnh, bóng nguyệt lồng hang, và thang mây uốn lối,
mỗi chi tiết như là một nét vẽ tinh tế, mỗi đường nét là một bức tranh tài năng
của thi sĩ. Câu thơ mềm mại uyển chuyển, từng chi tiết nghệ thuật như là
những đường nét tinh tế trên bức tranh, tạo ra một cảnh đẹp không chỉ mang
đặc trưng của thiên nhiên mà còn chứa đựng tình người và hồn người, làm
cho nó trở nên đáng yêu và khó quên.
“Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hãy tạo vật khéo ra tay xếp đặt”.
Con người đã tìm thấy niềm vui trong thiên nhiên, thiên nhiên cũng như hòa
quyện vào con người, con người lại càng góp phần điểm tô cho thiên nhiên,
cảnh sắc. Vậy mới nói vậy thật mà ảo mộng như cõi tiên, tuy đẹp như chốn
bồng lai mà lại chân thực, bình dị đến từng lá cây, ngọn cỏ!. Bởi thế mới nhớ,
mới lại càng yêu. Tình yêu thiên nhiên cũng là tình yêu quê hương đất nước.
Trong những câu thơ trên, tác giả đã viết: ai khéo vẽ hình, đến đây lại nói:
hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt. Phải tìm hiểu lịch sử, phải biết Chu Mạnh
Trinh là người từng đem tiền của, công sức, tài năng ra trùng tu chùa Thiên
Trù, tạc tượng đúc chuông… mới cảm nhận được một chữ” ai” đáng tự hào
kín đáo đã hai lần xuất hiện trong bài thơ này.
Ba câu cuối gọi là khổ xếp của bài hát nói. Câu cuối chỉ có sáu từ gọi là câu
keo. Luật thơ đã qui định chặt chẽ như vậy. Không gian nghệ thuật được
miêu tả theo bước chân xa dần của khách tang hải. Khách tang hải vừa chậm
rãi đi vừa ngắm cảnh, tay lần tràng hạt miệng nam mô, lưu luyến chẳng muốn
rời, đến mức phải thốt lên: “càng trông phong cảnh càng yêu!” Cách nói mới
hồn nhiên làm sao, mới chân thật làm sao! giản dị nhưng giàu chất biểu cảm:
“Lần tràng hạt niệm nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu”
Không khí thành kính trang nghiêm phủ lên hai câu thơ trước, khiến người
đọc càng thấy chân thật như đang thấy được hình ảnh một đoàn khách thập
phương vừa đi vừa niệm nam mo, tay lần tràng hạt, tĩnh tâm theo tiếng
chuông chùa, nổi bật giữa bạt ngàn hương sắc Hương Sơn huyền ảo. Câu
thơ cuối như một tiếng thổ lộ, lại vừa giống một tiếng reo cảm thán. Qua đó
không chỉ nâng cao vẻ đẹp hoàn mỹ của phong cảnh Hương Sơn, mà còn
bộc lộ được tình yêu, niềm tự hào dân tộc của “con rồng cháu tiên” với non sông gấm vóc. .
"Bài thơ 'Hương Sơn phong cảnh ca' không chỉ đứng là một trong những tác
phẩm xuất sắc nhất về đề tài cảnh sắc thiên nhiên, mà còn là một biểu tượng
của tình yêu và tự hào với vẻ đẹp tự nhiên, non sông đất nước mà Chu Mạnh
Trinh đã tài năng khắc họa. Trái với việc chỉ mô tả danh lam thắng cảnh như
nơi Bồng Lai bao người mơ ước, bài thơ này còn khéo léo thể hiện sự tự hào,
tự tôn dân tộc của tác giả. Cảnh thiên nhiên hài hòa trong bài thơ không chỉ là
sự kết hợp đẹp tuyệt vời giữa những đặc trưng của thiên nhiên và tay nghề
của con người mà còn là bức tranh sống động với sự xuất hiện của người
dân. Con người, mặc dù đứng giữa vẻ đẹp kỳ vỹ của thiên nhiên, nhưng
không hề cảm thấy xa lạ hay choáng ngợp. Ngược lại, họ thấy gắn bó, yêu
thương và có ý thức cống hiến, giữ gìn cho vẻ đẹp này. Bài thơ không chỉ là
một tác phẩm đẹp mắt, mà còn chứa đựng sự đam mê và lòng tri ân của tác
giả đối với vẻ đẹp tự nhiên, là một cảm xúc tình cảm, một lời khen ngợi sâu
sắc về vẻ đẹp thiên nhiên và tình yêu quê hương."
Document Outline

  • Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn chọn
    • Phân tích bài thơ Bài ca phong cảnh Hương Sơn chọn