BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
ng hình ảnh sông Đuống một ám ảnh trong ức của Hoàng Cầm về q ơng Kinh
Bắc. Sau khi giới thiệu, nhà thơ tiếp tục làm bức tranh toàn cảnh của dòng ng này:
Ngày xưa cát trắng phẳng
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường
MB:
Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ra Bắc Ninh
quê hương quan họ với những n điệu dân ca ngọt
ngào đằm thắm chính suối nguồn nuôi dưỡng tâm hồn thơ ca của ông. Mảnh đất Kinh Bắc
đã gợi thương gợi nhớ cho Hoàng Cầm, giống như một ám ảnh nghệ thuật trong thơ ông.
Đọc thơ ông, thấy hiện lên cảnh vật con người Kinh Bắc
một vùng đất trù phú, hữu tình
với biết bao di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo, biết bao những sinh hoạt, những truyền thống
văn hoá lâu đời: Hội Gióng, hội Lim.. Bài thơ
n kia sông Đuống
một kết tinh nghệ thuật
tiêu biểu của nhà thơ.
Dòng sông "nước trắng" ấy chính dòng ng Đuống u thương. Hoàng Cầm một trong
những thi đương đại cực i hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng
như đi tìm "lá diêu bông" một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau.
TB:
Hoàng Cầm viết bài thơ "Bên kia sông Đuống" vào một đêm tháng 4 m 1948 tại chiến khu
Việt Bắc. Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng,
tàn phá, dưới ngọn đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến
lúc gáy sáng thì hoàn thành bài thơ. "Bên kia sông Đuống" một trong những bài thơ
hay nhất viết về đề tài quê hương của thơ ca kháng chiến chống Pháp; thi phẩm y đã làm
vẻ vang cho nhà t Hoàng Cầm. Tràn ngập i thơ là cái tình quê, hồn quê dạt o. Nỗi nhớ
thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc… quê hương đang bị quân
thù giày xéo, cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết tha, bồn
chồn… a quyện vào nhau, bài thơ cứ ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc.
Hoàng Cầm đã lần tâm sự về "Bên kia sông Đuống": "Hương vị dân tộc, chất nh tứ,
ảo của những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại". Chính
hương vị ấy, chất tình tứ, hư ảo ấy đã diệt nên sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này.
Mỗi khổ thơ trong i thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống một sinh thể
hữu hình tiềm ẩn sức sống, văn hoá, tâm hồn Kinh Bắc, tạo cho bài thơ như một bản giao
hưởng trầm hùng thấm đượm chất trữ tình, cảm hứng ấy được bộc lộ khá ngay từ mở đầu
bài thơ, khi người con của quê hương đứng “Bên này” nhìn về bên kia sông Đuống:
Em ơi buồn lòng chi
Anh đưa em về Bên kia sông Đuống
Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về. Hai câu
thơ chủ yếu sử dụng toàn thanh bằng, tạo ra được độ mênh mang, n trải trong cảm xúc.
làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng người bao nỗi niềm bâng
khuâng. Tác giả trò chuyện tâm tình với người em gái Kinh Bắc hay cũng chính giãi bày
lòng mình, an ủi em cũng chính an ủi mình, đó chỉ cái c để bộc lộ cảm xúc của tác giả.
Sông Đuống điểm đến trong tâm tưởng của Hoàng Cầm. Ngay cả lời an ủi người em gái
cũng hướng về dòng sông đầy kỉ niệm ấy.
“Ngày a cát trắng phẳng lì” giống như một câu thơ bản lề. Từ “ngày xưa” làm cho thời
gian hiện tại như bị đẩy lùi về q khứ, người ta ngỡ như bắt gặp đâu đó thế giới cổ tích
huyền diệu. Câu thơ ắp đầy hoài niệm bâng khuâng. Hình ảnh Kinh Bắc thanh bình phẳng
lặng còn được gợi tả khá tài tình qua “cát trắng phẳng lì”
chỉ cần gợi ra một chi tiết mà
giúp người đọc nhận ra thần thái của cả bức tranh. đây, hình ảnh sông Đuống được miêu
tả cụ thể, đẹp đẽ, sống động, giống như một chinh thể đẹp góc nhìn nào người ta
cũng cảm nhận được kiêu hãnh với vẻ đẹp của nó. Không những thế, sông Đuống còn
được nhìn trong trạng thái động “Sông Đuống trôi đi” nhưng quan trọng hơn nữa, người đọc
cảm nhận ng chảy của nó, sự trôi chảy của dòng sông cũng chính sự trôi chảy của thời
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
gian lịch sử. Nhà thơ còn sử dụng từ láy “lấp lánh” tạo ra sự lung linh, rực rỡ, mỹ lệ cho dòng
sông. Trong cái lấp nh ấy người đọc cảm nhận được ánh sáng của nó, lúc này đây dòng
sông đã trở thành dòng ánh ng, không những thế dường như chúng ta còn cảm thấy niềm
tự hào kiêu hãnh của tác giả gửi gắm trong câu thơ này. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ
nhân hoá cho dòng sông dáng “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”,
sông Đuống giống như một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến của n tộc. Cái
hay của câu thơ từ “nghiêng nghiêng”
từ láy tạo hình chúng ta như cảm nhận được vóc
dáng của dòng sông mềm mại uốn lượn rất nhịp nhàng, gợi cảm. lẽ phải cái dáng
“nằm nghiêng nghiêng” ấy con sông mới như một sinh thể hồn, tâm trạng hơn, phải
chăng thế ý kiến cho rằng: hình ảnh ng Đuống trong cảm nhận của Hoàng Cầm
được miêu tả như một người thiếu nữ trong nỗi niềm trăn trở, lo âu. Tiếp đó, hình ảnh một
chốn quê thanh bình, một không gian yên đã hiện ra:
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đây những nét vẽ điển hình của làng quê Việt Nam, đây bãi mía bờ dâu, kia ngô
khoai. Tất cả đều những hình ảnh quen thuộc, bình dị đối với con người Việt Nam. Hoàng
Cầm viết về những nh ảnh ấy bằng tất cả sự gắn niềm yêu mến tha thiết. Bao trùm
lên toàn bộ không gian một mầu xanh nhưng với những sắc độ khác nhau, “xanh xanh”,
“biêng biếc”. Người đọc cảm nhận được nét trù phú tốt tươi, khoáng đạt, trong sáng của
cảnh vật, chúng như ánh lên một sự sống mạnh mẽ. Bài thơ này được viết theo mạch cảm
xúc nhớ thương, mải với quá khứ thanh bình rồi ngỡ ngàng với nỗi đau hiện tại. Hai câu
thơ tiếp theo như vỡ nước mắt:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên này
bên kia, một dòng ng chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh Bắc một
bên vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc “sao nhớ tiếc” “sao xót xa” ẩn
chứa đầy tâm trạng đớn đau, nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ “sao” như xoáy vào lòng người
đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khôn nguôi, a thanh bình đẹp đẽ, nay đau đớn chia
lìa. đây nỗi đau đã lên đến tột cùng được cụ thể hoá như thể cảm giác được quê
hương như một phần máu thịt, bởi thế quê hương bị chia cắt cũng giống như con người
mất đi một phần thể mình. “Như rụng bàn tay
một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản
dị nhưng rất sâu sắc đã tiếp thêm tình yêu nỗi nh khôn nguôi của Hoàng Cầm đối với mảnh
đất Kinh Bắc. Nỗi nhớ này điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh
Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong i thơ một điệp
khúc giàu sức gợi hình tượng:
n kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ lợn nét tươi trong
Màu dân tộc ng bừng trên giấy điệp
Bằng những câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động điển
hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng hương vị.
Lời giới thiệu “quê hương ta lúa nếp thơm nồng” hết sức mộc mạc, như một nét vẽ bình
dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh trong lòng người đọc về một quê
hương thanh bình yên ả. Những bức tranh Đông Hồ hình ảnh đặc trưng của quê hương
Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hoá tinh hoa của con người trên từng nét vẽ. Đó sự
kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ
do những nghệ dân gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm khát
vọng trong sáng lãng mạn và không kém phần dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột,
đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen... chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng chất liệu cỏ
cây, hoa lá, đất cát quê hương. Như vậy nét tươi trong của tranh Đông Hồ không chỉ gợi ra
cái tươi tắn trong trẻo còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh khôi. Chữ “sáng bừng” được dùng
khá độc đáo, không còn tính từ đã được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ
ánh sáng còn khẳng định sức sống kỳ diệu của dân tộc. “Màu dân tộc” trở thành một ẩn
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Hoàng Cầm, nhà thơ của miền quê Kinh Bắc. Ông sinh năm 1922. Ông nói về quê Mẹ đất Cha:
"Tôi người Quan họ
Quê mẹ bên này sông
Cách quê cha một dòng
Nước trắng…"
Dòng sông "nước trắng" ấy chính dòng sông Đuống yêu thương. Hoàng Cầm một trong những thi
đương đại cực tài hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng như đi tìm "lá diêu
bông" một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau. Ông khóc mình… rồi khóc con
gái "mệnh yểu":
"Sực nhớ cha tuyết sương
Con hóa thành tia sao Thương
Cắt ngang đường sao băng".
dụ độc đáo của Hoàng Cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ v bản sắc văn hoá
của dân tộc mình. Bởi quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim khói lửa,
nhà thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với những hình ảnh
đầy ấn tượng:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc o lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
M con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang ng bừng rộn
Bây giờ tan tác về đâu
Câu thơ đầu giống như câu t bản lề m chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ. c giả gọi
những ngày giặc xâm chiến những ngày “khủng khiếp” cho thấy sự khốc liệt của chiến
tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi t sự khốc liệt này, hình ảnh “lửa hung tàn
gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thòi tiếng nói tố cáo phê phán gay gắt chiến tranh. Nếu
khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn trải ổn định thì đến khổ thơ này những câu thơ
ngôn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên tiếp chỉ tội ác chồng chất của kẻ thù cùng với niềm căm
thù ngút tròi nổi đau tột cùng của con người Từ láy “ngùn ngụt không chi từ gợi hình
chi ngọn lửa chính ng căm thù của con người bị đốt cháy
những câu thơ của Hoàng
Cầm rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm lên không gian sự hoang tàn, vắng lạnh, xác,
không còn cái vẻ thanh nh, cái nét trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh tượng chia li
chết chóc. Chữ kiệt cùng được dùng rất hay
không gian càng trở nên sâu thẳm, nỗi đau
được biểu hiện tột cùng. Điều đặc biệt tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người
nhưng dấu ấn về cuộc sống chia li hoang tàn vẫn được biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh
nhũng con vật tri trong bức tranh Đông Hồ để nói về nỗi đau của con người, đây một
dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà thơ Hoàng Cầm.
KB:
Không cuộc sống gắn máu thịt vói quê hương, không tha thiết với v đẹp tinh tuý của
truyền thống quê hương thì nhà thơ Hoàng Cầm có lẽ không thể những mẫn cảm kỳ diệu
như vậy. Đọc những dòng thơ nhà thơ viết về Kinh Bắc, chúng ta lại bồi hồi liên tưởng đến
quê hương mình cảm ơn nhà thơ đã nói đúng phần hồn linh nghiêm nhất của chúng ta
mỗi khi trào dâng cảm c hoài niệm về quê hương.
ANOTHER
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
(Men đá vàng)
Nếu tính từ năm 1937 khi viết "Hận Nam Quan" đến năm 1995, tập thơ "Men Đá Vàng" xuất bản, Hoàng
Cầm đã ngót 60 năm làm thơ. "Bên kia sông Đuống", "Lá diêu bông", "Mưa Thuận Thành", kịch thơ
"Trương Chi",… những tiếng thơ, tiếng hát để thương, để nhớ cho đời.
Hoàng Cầm viết bài thơ "Bên kia sông Đuống" vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc.
Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới ngọn
đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến lúc gáy sáng thì hoàn thành
bài thơ. "Bên kia sông Đuống" một trong những bài thơ hay nhất viết v đề tài quê ơng của thơ ca
kháng chiến chống Pháp; thi phẩm này đã m v vang cho nhà thơ Hoàng Cầm. Tràn ngập bài thơ là cái
tình quê, hồn q dạt dào. Nỗi nhớ thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc quê
hương đang bị quân thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết
tha, bồn chồn… hòa quyện vào nhau, bài thơ c ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc.
Hoàng Cầm đã có lần tâm sự v "Bên kia sông Đuống": "Hương vị dân tộc, chất tình tứ, o của
những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại". Chính hương vị ấy, chất tình
tứ, ảo ấy đã diệt n sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi,
xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu:
"Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì".
Con sông tuổi thơ "cát trắng phẳng " cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh em, của ngày xưa,
của năm tháng. Em sự phân thân của nhà thơ, hay "người tình chung" từng thương, để nh để
sầu cho ai…". Em đến để tâm tình, để thổ lộ… và hẹ em trong "ngày hội non sông": "Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mêm ánh ng mn ng xuân xanh". "Em" đến
đúng c để "anh" giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình t ảo trong thơ Hoàng Cầm ta
cảm nhận được.
Cùng với em hình ảnh con sông Đuống thương yêu xuất hiện. Dòng sông thơ ấu từ hoài niệm "Ngày
xưa cát trắng phẳng lì" trôi theo dòng lịch sử, theo thời gian lòng người hiện về trong thương nhớ,
với màu sắc, với dáng hình thân thuộc:
"Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường ".
Hai tiếng "trôi đi…" gợi lên cái êm đềm, cái man mác "nước chảy thơ…". "Một dòng sông lấp lánh"
cát trắng, gương sông chở ánh hồng bình minh, chở trăng sao những đêm thu đẹp. Đó ng sông
thơ mộng. Dáng sông Đuống trong hiện tại chẳng uốn lượn như nh con long của sông "làng ta" (Ca
dao) lại "Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì". Một câu thơ hay để ta cảm xúc, đọc lên
nhận vào hồn mình với báo nhiêu nhã thú, thi vị. Tưởng như tác gi viết bằng t pháp siêu thực? Tưởng
như câu thơ được cấu tạo nên bằng kĩ thuật điện ảnh tân kì? Đó một sáng tạo thi ca độc đáo của thi
tài hoa Hoàng Cầm.
Sông Đuống sông của tuổi thơ, sông của hoài niệm. u "xanh xanh" của bãi mía bờ dâu, màu "biêng
biếc" của ngô khoai màu xanh của miền thơ u, hình bóng quê hương. Bức tranh quê tươi tắn, đầy
sức sống… Nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đứa con li hương "đứng bên này sông"
nhìn về "bên kia sông Đuống", từ vùng tự do tả ngạn nhìn về hữu ngạn, nơi "tâm hồn ta thấm đất", nỗi
nhớ, nỗi đâu không thể nào kể xiết:
"Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa n rụng bàn tay".
Sao nhớ tiếc… sao t xa…" quê hương đang chìm trong máu lửa. Nỗi nhớ, nỗi đâu đến cực độ,
làm i cả hồn người, làm "chết đi " từng phần thể. Câu thơ "Sao xót xa như rụng bàn tay" đã cụ th
hóa nỗi đau đớn xót xa c về th xác lẫn tinh thần. Đầu thế kỉ XX, Nguyễn Khuyến đau đớn khi "chợt
nghe" tin bạn chí thân qua đời: "Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời". Một
đằng khóc bạn, một đằng khóc quê. Hai nhà thơ đều mượn ch nói dân gian để diễn tả một tâm trạng,
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
một nỗi lòng tan nát. yêu quê hương tha thiết, gắn bó thủy chung với quê Mẹ đất Cha thì Hoàng Cầm
mới nỗi đâu "nhớ tiếc" "xót xa như rụng bàn tay" y.
thể i, mười ng thơ trong phần tiền tấu của khúc ca quê hương "Bên kia sông Đuống" một cái
nhìn đăm đắm "nhớ tiếc", là nỗi đau tái "xót xa", nỗi nhớ thương khôn nguôi.. của đứa con li hương.
Vần thơ như những tiếng khóc thầm, rồi bật lên như một tiếng nghẹn nấc: "biêng biếc… nhớ tiếc
như
rụng bàn tay".
Phần thứ hai gồm 118 dòng thơ, chia làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài 69 dòng thơ nói lên nỗi đau, nỗi
nhớ tiếc xót xa về quê hương tươi đẹp, yên vui trong thanh bình… bỗng bị quân thù kéo tới chiếm đóng,
tàn phá. Đoạn thứ hai 49 dòng nói về quê hương chiến đấu, xóm thôn vùng lên khi b đội "bên sông
trở về".
Đoạn thứ nhất cấu trúc tương phản giữa xa xưa thanh bình với hiện tại tang tóc, điêu tàn. Các câu thơ
"Bên kia ng Đuống" "Ai về bên kia sông Đuống" nối tiếp nhau xuất hiện, diễn tả hình bóng quê
hương hiện lên như những đợt sóng vỗ vào lòng đứa con xa quê bao nỗi nhớ thương căm giận. Một
tình quê vơi đầy trong nỗi nhớ:
"Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ lợn t ơi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp".
"Bên kia ng Đuống" huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, một miền quê trù phú nền văn hóa,
văn hiến ngàn năm thuộc vùng Kinh Bắc. Chỉ bằng hai nét vẽ nhà thơ đã gợi n hương sắc quê nhà.
Ba tiếng "quê hương ta" vang lên t hào, lay động tha thiết. Hương lúa nếp thơm nồng của cốm mới, của
cánh đồng màu xanh lúa trỗ, hương xôi, hương bánh… trên mâm cỗ tết, trong ngày giỗ trên bàn thờ gia
tiên. Hương a nếp thơm nồng đã quyện lấy tâm hồn "anh" "em" tự thuở nào. Nhớ "quê hương ta"
nhớ mùi "thơm nồng" của a nếp, nhớ tranh làng Hồ, tranh lợn, nhớ nét vẽ tài hoa xinh đẹp "nét
tươi trong", nhớ "màu dân tộc", nhớ sắc màu rực rỡ, tươi đẹp "sáng bừng trên giấy điệp" óng ánh, mượt
mà. nh yêu quê được gửi gắm, được thể hiện qua các thanh âm (nồng, trong, bừng, điệp…), qua các
tính từ phẩm chất đã m dậy sắc hương của lúa nếp, của tranh gà lợn: thơm nồng, tươi trong, sáng
bừng, điệp. Đặc biệt hai chữ "sáng bừng" đã thể hiện i hồn quê nồng nàn say đắm, đã làm sáng lên c
vần thơ hoài niệm, đã thổi o bức tranh quê cả sức sống nh yêu mặn nồng. Cũng n dân ca
Quan họ, mảng tranh dân gian Đông Hồ được tác giả nói đến với bao yêu mến, tự hào, từ đề tài đến chất
liệu, từ tưởng đến phong cách nghệ thuật đều mang vẻ đẹp bình dị, dân dã, mến yêu "sáng bừng"
màu sắc n tộc.
Nhưng giờ đây còn đâu nữa? "Quê hương ta từ ngày khủng khiếp Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung
tàn". "Ngày khủng khiếp" kể t 19
12
1946, ngày toàn quốc kháng chiến, những miền quê rộng lớn
bình yên đã bị giặc Pháp biến thành đống tro tàn. "Những cánh đồng quê chảy máu", những đường ng
"xương u tơi bời",
cả một không gian bao la chìm trong máu lửa, chết chóc. Quân cướp ớc kéo
tới quê hương ta là: "Chó ng một đàn
Lưỡi i sắc máu". Chúng điên cuồng đốt phá, bắn giết:
ruộng khô, nhà cháy, ngõ thẳm bờ hoang kiệt cùng. Sự sống b tiêu diệt, c một miền quê tan c, đau
thương:
"Mẹ con đàn lợn âm dương,
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn
Bây giờ tan tác về đâu".
Ước ấm no, yên vui, hạnh phúc của "quê hương ta" bao đời nay bị quân xâm lược làm cho tan t
chia lìa. T nỗi đau vật chất đến nỗi đau tinh thần là cùng ghê sợ! Lấy hình ảnh trong hai bức tranh
làng Hồ, bức tranh lợn bức tranh đám cưới chuột để cực tả cảnh đau thương chia lìa, tan tác trên quê
hương. Nhà thơ đã lay động hồn quê, tình quê ứa máu, thấm lệ trong lòng người bấy nay. Vẻ đẹp văn
hóa trong lòng người, trong nếp sống, trong cảnh vật đã bị "ngọn lửa hung tàn" hủy diệt! Những câu thơ
ngắn đan xen với những câu thơ dài đã góp phần đậm nỗi căm uất, nghẹn ngào chứa chất trong lòng
người đang bùng lên dữ dội.
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Nhớ da diết bồi hồi quê hương, Hoàng Cầm lại tha thiết nhắn gọi: "Ai về bên kia sông Đuống Cho ta
gửi tấm the đen… - Gửi về may áo cho ai…"
Vẫn ch phiếm ch "Ai về…" "cho ai…", gợi lên mt nỗi
nhớ bồi hồi, mênh mông. Tình quê trong hoài niệm "thấp thoáng mộng bình yên", nỗi nhớ chùa xưa
tháp cũ, nh hội hè, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ huyện Lang Tài, nhớ tiếng chuông
chùa sớm sớm chiều chiều ngân buông. Nhớ cuộc sống yên vui thanh bình, nhớ những địa danh, những
thắng cảnh… đã in dấu đậm đà, đã gắn với tân hồn đứa con li hương:
"Mấy trăm m thấp thoáng mộng bình yên
Những hội đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người đâu".
Tiếng chuông chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Bách Môn… chỉ còn "văng vẳng" từ "mấy trăm năm thấp
thoáng mộng bình yên" vọng về trong hồn người đã làm cho nỗi nhớ, nỗi đau thêm nhức nhối, gợi lên sự
hoang vắng, điêu tàn của q hương, nói lên ước ngàn đời được sống ấm no, yên vui trong thanh
bình.
Nhớ cảnh rồi nh người. Nỗi nhớ tràn ngập, nhớ từng dáng nh, nhớ từng nét mặt nh làn i, nh mái
tóc, nh quần nâu, nh cụ thể, nhớ nhiều… Chữ "những" điệp lại nhiều lần diễn t nỗi nh mênh mang,
xao xuyến, bồi hồi:
"Những nàng môi cắn chỉ quết trầu,
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu".
"Ai về… nhớ"
về n kia sông Đuống, quê hương ta, của anh của em. Ai có nhớ, riêng ta nhớ
lắm. Nhớ "từng khn mặt p sen", nh nụ cười ấm áp, tươi vui, rạng rỡ của những gái xinh đẹp,
tình tứ, dịu dàng. Nhớ người ng tơ, nh ng dệt sợi, nh người th nhuộm,
những con người cần
mẫn, siêng năng, khéo tay hay làm, rất đáng yêu, đáng tự hào. Cuộc sống con người quê hương hiện
hình qua nỗi nhớ lần lượt nối tiếp xuất hiện trong ức đầy ám nh, khôn khuây:
"Ai v bên kia sông Đuống
nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những hàng xén rang đen,
Cười như a thu tỏa nắng
Chợ Hồ ch Sủi người đua chen,
Bãi Trầm Ch người dăng nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu về đâu".
Nỗi nhớ ấy vừa thực, vừa mộng ảo, gắn nhịp sống đời thường nhộn nhịp với cái vẻ tình tứ đáng yêu
gợi ra trong lòng chúng ta một trời bâng khuâng thương nhớ: "Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu Đồng Tỉnh
bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm Nào ai đi chợ Thanh Lâm Mua anh một áo vải thâm hạt dền". Qua
đó, ta cảm nhận hương vị dân tộc, chất tình tứ, ảo đã làm nên v đẹp trữ tình trong thơ Hoàng Cầm.
Sau hình ảnh những cô gái xinh đẹp, tình tứ… Hoàng Cầm nói về mẹ đàn con thơ với nhiều
thương nhớ, đau xót. "Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong" xuất hiện giữa phiên chợ nghèo, khi "lũ quỷ
mắt xanh" kéo đến cướp bóc: "Lá đa lác đác trước lu Vài ba vết máu loang chiều a đông". Bờ tre
thì "hun hút", trời thì "mưa lạnh" con đường thì "trơn",… cả một không gian tăm tối, lạnh lẽo, hãi hùng…
Trên trời, cánh xao xác "bay vùn vụt", "về đâu…". Trên đường trơn, mẹ già mái tóc bạc phơ lầm i
"bước cao thấp" với bao nỗi kinh hoàng. Hình tượng thơ đầy ám ảnh, nhức nhối đau thương:
"Có con trắng bay vùn vụt,
Lướt qua ng ng Đuống v đâu
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn a lạnh i đầu bạc phơ".
Đàn con thơ đang sống trong cảnh đói rét sợ hãi. Chỉ bát cháo ngô cầm hơi, chỉ biết "chui gầm giường
tránh đạn", đêm đêm sống trong nỗi kinh hoàng giữa tiếng súng giặc: cơn
Thon thót giật
mình" Hình ảnh bà m em thơ trong đoạn thơ này tiêu biểu cho nỗi đau thương của những mẹ,
những em bé, những nạn nhân trong chiến tranh. Câu thơ khép lại phần hai tiếng thét m hờn. Hoàng
Cầm diễn tả lòng m thù giặc bằng một ch nói độc đáo, mạnh mẽ:
"Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn".
Ngoài biện pháp tương phản đối lập giữa "mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên" với "Quê hương ta
từ ngày khủng khiếp", Hoàng Cầm lặp đi lặp lại các câu thơ: "Bây gi tan tác về đâu… Chuông chùa
văng vẳng nay người đâu… Bây giờ đi đâu v đâu…"
điệp cú, điệp khúc ấy không chỉ gợi tả âm điệu
xót xa bao nỗi ngơ ngác, kinh hoàng về đau thương, tang tóc trong lửa đạn quân thù, còn tạo ra
ám ảnh khôn ngi về s tiếc nuối những năm tháng thanh bình êm đẹp thơ mộng của quê hương.
Giọng thơ thay đổi đoạn hai 49 câu tiếp theo. niềm vui gặp gỡ thắm tình quân dân khi "bộ đội bên
sông đã trở về". Hình ảnh mẹ quê hương tượng trưng cho niềm vui hồi sinh "bừng lên" sau lũy tre
điêu tàn một thời "khủng khiếp":
"Lửa đèn leo lét soi tình mẹ,
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng".
biến động "Trại giặc bắt đầu run trong sương". Cả một vùng quê bao la vùng lên đánh giặc, đem lại
màu xanh cho ruộng đồng:
"Gió đưa tiếng hát về gần,
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa".
niềm vui "mở hội… " niềm vui chiến thắng. Câu thơ ngắn, nhịp thơ hối hả, rộng ràng. Sông Đuống
hiện ra giữa một rạng đông tuyệt đẹp :
"Vì nắng sắp lên ri
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi ".
Đoạn hai tuy một số câu thơ cảm động, một s hình ảnh gợi cảm, nhưng ngôn ngữ thơ dàn trải, yếu
tố "kể" lấn át yếu tố trữ tình. Bài thơ được tác giả viết vào mùa xuân 1948, phải sáu năm sau (1954), trải
qua những chặng đường gian khổ, hi sinh cùng to lớn, mới cảnh tượng "bao nhiêu đồn giặc tơi
bời", mới có "chim múa hoa cười" trong lòng đứa con xa quê thời khói lửa. Do đó, cảm hứng lãng mạn
khi nói về quê hương chiến đấu chiến thắng in nhiều d dãi, lược.
Phần thứ ba với sáu dòng thơ nói lên niềm ước "bao giờ v bên kia sông Đuống" trong ngày hội non
sông, trong niềm vui tái hợp. Một lần nữa, hình ảnh i Kinh Bắc hiện lên trong v đẹp kì diệu tình
tứ:
"Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non ng
Cười ánh sáng muôn lòng xuân xanh".
Sau một chuỗi câu thơ ngắn bốn tiếng, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ lục bát có giá trị gợi tả niềm vui
ngân nga mãi trong lòng người. "Quê hương nghĩa nặng tình sâu… ", ai đã nói như vậy ? Tình yêu
quê hương một trong những tình cảm u sắc nhất, mãnh liệt nhất của con người Việt Nam chúng ta.
Tình quê hương với Hoàng Cầm nỗi nhớ niềm tự hào ; nhớ cảnh vật, nhớ con người, nhớ dòng
sông Đuống "Trôi đi một dòng lấp lánh", nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ khuôn mặt búp sen
thiếu nữ, nh mùa xuân ng bừng lễ hội, nhớ mẹ, nhớ đàn con thơ… Nh tự hào về một miền quê
giàu đẹp, có màu xanh a ngô khoai, nương dâu bãi mía, tranh Đông Hồ "Gà lợn nét tươi trong
BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp". Tự hào về quê hương bất khuất hiên ngang. Tin tưởng về ngày
hội non sông, ngày vui tái hợp. Bài thơ còn chất chứa bao nỗi căm hờn đối với quân xâm lược.
Thơ của Hoàng Cầm giàu nhạc điệu âm điệu lôi cuốn. vang vng của ca dao, dân ca. Bài thơ thấm
một tình yêu hồn quê lai láng. Con sông Đuống, gái "cười như mùa thu tỏa nắng"… của riêng
Hoàng Cầm.
Nhưng lạ thay, diệu thay, người đọc gần xa trong hơn nửa thế kỉ nay đã tìm thấy một phần bóng hình
quê hương mình nỗi lòng, tình thương, nỗi nhớ của mình trong bài thơ tuyệt tác "Bên kia sông
Đuống". Thơ hay mới cho ta "Sự đồng cảm nhiệm màu" ấy.

Preview text:

BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG MB:
Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ra ở Bắc Ninh – quê hương quan họ với những làn điệu dân ca ngọt
ngào đằm thắm chính là suối nguồn nuôi dưỡng tâm hồn thơ ca của ông. Mảnh đất Kinh Bắc
đã gợi thương gợi nhớ cho Hoàng Cầm, nó giống như một ám ảnh nghệ thuật trong thơ ông.
Đọc thơ ông, thấy hiện lên cảnh vật và con người Kinh Bắc – một vùng đất trù phú, hữu tình
với biết bao di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo, biết bao những sinh hoạt, những truyền thống
văn hoá lâu đời: Hội Gióng, hội Lim.. Bài thơ Bên kia sông Đuống là một kết tinh nghệ thuật tiêu biểu của nhà thơ.
Dòng sông "nước trắng" ấy chính là dòng sông Đuống yêu thương. Hoàng Cầm là một trong
những thi sĩ đương đại cực kì tài hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng
như đi tìm "lá diêu bông" một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau. TB:
Hoàng Cầm viết bài thơ "Bên kia sông Đuống" vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu
Việt Bắc. Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng,
tàn phá, dưới ngọn đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến
lúc gà gáy sáng thì hoàn thành bài thơ. "Bên kia sông Đuống" là một trong những bài thơ
hay nhất viết về đề tài quê hương của thơ ca kháng chiến chống Pháp; thi phẩm này đã làm
vẻ vang cho nhà thơ Hoàng Cầm. Tràn ngập bài thơ là cái tình quê, hồn quê dạt dào. Nỗi nhớ
thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc… quê hương đang bị quân
thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết tha, bồn
chồn… hòa quyện vào nhau, bài thơ cứ ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc.
Hoàng Cầm đã có lần tâm sự về "Bên kia sông Đuống": "Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư
ảo của những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại". Chính
hương vị ấy, chất tình tứ, hư ảo ấy đã diệt nên sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này.
Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống – một sinh thể
hữu hình tiềm ẩn sức sống, văn hoá, tâm hồn Kinh Bắc, tạo cho bài thơ như một bản giao
hưởng trầm hùng thấm đượm chất trữ tình, cảm hứng ấy được bộc lộ khá rõ ngay từ mở đầu
bài thơ, khi người con của quê hương đứng ở “Bên này” nhìn về bên kia sông Đuống: Em ơi buồn lòng chi
Anh đưa em về Bên kia sông Đuống
Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về. Hai câu
thơ chủ yếu sử dụng toàn thanh bằng, tạo ra được độ mênh mang, dàn trải trong cảm xúc.
Nó làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng người bao nỗi niềm bâng
khuâng. Tác giả trò chuyện tâm tình với người em gái Kinh Bắc hay cũng chính là giãi bày
lòng mình, an ủi em cũng chính là an ủi mình, đó chỉ là cái cớ để bộc lộ cảm xúc của tác giả.
Sông Đuống là điểm đến trong tâm tưởng của Hoàng Cầm. Ngay cả lời an ủi người em gái
cũng hướng về dòng sông đầy kỉ niệm ấy.
Rõ ràng hình ảnh sông Đuống là một ám ảnh trong ký ức của Hoàng Cầm về quê hương Kinh
Bắc. Sau khi giới thiệu, nhà thơ tiếp tục làm rõ bức tranh toàn cảnh của dòng sông này:
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
“Ngày xưa cát trắng phẳng lì” giống như một câu thơ bản lề. Từ “ngày xưa” làm cho thời
gian hiện tại như bị đẩy lùi về quá khứ, người ta ngỡ như bắt gặp đâu đó thế giới cổ tích
huyền diệu. Câu thơ ắp đầy hoài niệm bâng khuâng. Hình ảnh Kinh Bắc thanh bình phẳng
lặng còn được gợi tả khá tài tình qua “cát trắng phẳng lì” – chỉ cần gợi ra một chi tiết mà
giúp người đọc nhận ra thần thái của cả bức tranh. Ở đây, hình ảnh sông Đuống được miêu
tả cụ thể, đẹp đẽ, sống động, nó giống như một chinh thể đẹp mà ở góc nhìn nào người ta
cũng cảm nhận được và kiêu hãnh với vẻ đẹp của nó. Không những thế, sông Đuống còn
được nhìn trong trạng thái động “Sông Đuống trôi đi” nhưng quan trọng hơn nữa, người đọc
cảm nhận dòng chảy của nó, sự trôi chảy của dòng sông cũng chính là sự trôi chảy của thời BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
gian lịch sử. Nhà thơ còn sử dụng từ láy “lấp lánh” tạo ra sự lung linh, rực rỡ, mỹ lệ cho dòng
sông. Trong cái lấp lánh ấy người đọc cảm nhận được ánh sáng của nó, lúc này đây dòng
sông đã trở thành dòng ánh sáng, không những thế dường như chúng ta còn cảm thấy niềm
tự hào kiêu hãnh của tác giả gửi gắm trong câu thơ này. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ
nhân hoá là cho dòng sông có dáng “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”,
sông Đuống giống như một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến của dân tộc. Cái
hay của câu thơ là ở từ “nghiêng nghiêng” – từ láy tạo hình chúng ta như cảm nhận được vóc
dáng của dòng sông mềm mại uốn lượn và rất nhịp nhàng, gợi cảm. Có lẽ phải có cái dáng
“nằm nghiêng nghiêng” ấy con sông mới như một sinh thể có hồn, có tâm trạng hơn, phải
chăng vì thế mà có ý kiến cho rằng: hình ảnh sông Đuống trong cảm nhận của Hoàng Cầm
được miêu tả như một người thiếu nữ trong nỗi niềm trăn trở, lo âu. Tiếp đó, hình ảnh một
chốn quê thanh bình, một không gian yên ả đã hiện ra:
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đây là những nét vẽ điển hình của làng quê Việt Nam, đây là bãi mía bờ dâu, kia là ngô
khoai. Tất cả đều là những hình ảnh quen thuộc, bình dị đối với con người Việt Nam. Hoàng
Cầm viết về những hình ảnh ấy bằng tất cả sự gắn bó và niềm yêu mến tha thiết. Bao trùm
lên toàn bộ không gian là một mầu xanh nhưng với những sắc độ khác nhau, “xanh xanh”,
“biêng biếc”. Người đọc cảm nhận được nét trù phú tốt tươi, khoáng đạt, trong sáng của
cảnh vật, chúng như ánh lên một sự sống mạnh mẽ. Bài thơ này được viết theo mạch cảm
xúc nhớ thương, mê mải với quá khứ thanh bình rồi ngỡ ngàng với nỗi đau ở hiện tại. Hai câu
thơ tiếp theo như vỡ oà nước mắt:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên này – bên kia, một dòng sông chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh Bắc một
bên là vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc “sao nhớ tiếc” “sao xót xa” ẩn
chứa đầy tâm trạng đớn đau, mà nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ “sao” như xoáy vào lòng người
đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khôn nguôi, xưa là thanh bình đẹp đẽ, nay là đau đớn chia
lìa. Ở đây nỗi đau đã lên đến tột cùng và được cụ thể hoá như là có thể cảm giác được quê
hương như là một phần máu thịt, bởi thế quê hương bị chia cắt cũng giống như con người
mất đi một phần cơ thể mình. “Như rụng bàn tay – một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản
dị nhưng rất sâu sắc đã tiếp thêm tình yêu nỗi nhớ khôn nguôi của Hoàng Cầm đối với mảnh
đất Kinh Bắc. Nỗi nhớ này là điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh
Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một điệp
khúc giàu sức gợi hình tượng: Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Bằng những câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và điển
hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng và hương vị.
Lời giới thiệu “quê hương ta lúa nếp thơm nồng” hết sức mộc mạc, nó như một nét vẽ bình
dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh trong lòng người đọc về một quê
hương thanh bình yên ả. Những bức tranh Đông Hồ là hình ảnh đặc trưng của quê hương
Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hoá tinh hoa của con người trên từng nét vẽ. Đó là sự
kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ
do những nghệ sĩ dân gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát
vọng trong sáng lãng mạn và không kém phần dí dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột,
đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen... chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng chất liệu cỏ
cây, hoa lá, đất cát quê hương. Như vậy nét tươi trong của tranh Đông Hồ không chỉ gợi ra
cái tươi tắn trong trẻo mà còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh khôi. Chữ “sáng bừng” được dùng
khá độc đáo, nó không còn là tính từ mà đã được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ
ánh sáng mà còn khẳng định sức sống kỳ diệu của dân tộc. “Màu dân tộc” trở thành một ẩn BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
dụ độc đáo của Hoàng Cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ về bản sắc văn hoá
của dân tộc mình. Bởi quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim khói lửa,
nhà thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với những hình ảnh đầy ấn tượng:
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn Ruộng ta khô Nhà ta cháy Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Câu thơ đầu giống như câu thơ bản lề làm chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ. Tác giả gọi
những ngày giặc xâm chiến là những ngày “khủng khiếp” cho thấy sự khốc liệt của chiến
tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi tả sự khốc liệt này, hình ảnh “lửa hung tàn”
gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thòi là tiếng nói tố cáo phê phán gay gắt chiến tranh. Nếu
ở khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn trải ổn định thì đến khổ thơ này những câu thơ
ngôn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên tiếp chỉ tội ác chồng chất của kẻ thù cùng với niềm căm
thù ngút tròi và nổi đau tột cùng của con người Từ láy “ngùn ngụt” không chi là từ gợi hình
chi ngọn lửa mà chính là lòng căm thù của con người bị đốt cháy – những câu thơ của Hoàng
Cầm rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm lên không gian là sự hoang tàn, vắng lạnh, xơ xác,
không còn cái vẻ thanh bình, cái nét trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh tượng chia li
chết chóc. Chữ kiệt cùng được dùng rất hay – không gian càng trở nên sâu thẳm, nỗi đau
được biểu hiện tột cùng. Điều đặc biệt là tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người
nhưng dấu ấn về cuộc sống chia li hoang tàn vẫn được biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh
nhũng con vật vô tri trong bức tranh Đông Hồ để nói về nỗi đau của con người, đây là một
dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà thơ Hoàng Cầm. KB:
Không có cuộc sống gắn bó máu thịt vói quê hương, không tha thiết với vẻ đẹp tinh tuý của
truyền thống quê hương thì nhà thơ Hoàng Cầm có lẽ không thể có những mẫn cảm kỳ diệu
như vậy. Đọc những dòng thơ nhà thơ viết về Kinh Bắc, chúng ta lại bồi hồi liên tưởng đến
quê hương mình và cảm ơn nhà thơ đã nói đúng phần hồn linh nghiêm nhất của chúng ta
mỗi khi trào dâng cảm xúc hoài niệm về quê hương. ANOTHER
Hoàng Cầm, nhà thơ của miền quê Kinh Bắc. Ông sinh năm 1922. Ông nói về quê Mẹ đất Cha: "Tôi người Quan họ Quê mẹ bên này sông Cách quê cha một dòng Nước trắng…"
Dòng sông "nước trắng" ấy chính là dòng sông Đuống yêu thương. Hoàng Cầm là một trong những thi sĩ
đương đại cực kì tài hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng như đi tìm "lá diêu
bông" một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau. Ông khóc mình… rồi khóc con gái "mệnh yểu":
"Sực nhớ cha vò võ tuyết sương
Con hóa thành tia sao Thương
Cắt ngang đường sao băng". BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG (Men đá vàng)
Nếu tính từ năm 1937 khi viết "Hận Nam Quan" đến năm 1995, tập thơ "Men Đá Vàng" xuất bản, Hoàng
Cầm đã có ngót 60 năm làm thơ. "Bên kia sông Đuống", "Lá diêu bông", "Mưa Thuận Thành", kịch thơ
"Trương Chi",… là những tiếng thơ, tiếng hát để thương, để nhớ cho đời.
Hoàng Cầm viết bài thơ "Bên kia sông Đuống" vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc.
Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới ngọn
đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến lúc gà gáy sáng thì hoàn thành
bài thơ. "Bên kia sông Đuống" là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài quê hương của thơ ca
kháng chiến chống Pháp; thi phẩm này đã làm vẻ vang cho nhà thơ Hoàng Cầm. Tràn ngập bài thơ là cái
tình quê, hồn quê dạt dào. Nỗi nhớ thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc… quê
hương đang bị quân thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết
tha, bồn chồn… hòa quyện vào nhau, bài thơ cứ ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc.
Hoàng Cầm đã có lần tâm sự về "Bên kia sông Đuống": "Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của
những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại". Chính hương vị ấy, chất tình
tứ, hư ảo ấy đã diệt nên sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi mơ hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi,
xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu: "Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì".
Con sông tuổi thơ "cát trắng phẳng lì" là cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh và em, của ngày xưa,
của năm tháng. Em là sự phân thân của nhà thơ, hay "người tình chung" từng "để thương, để nhớ để
sầu cho ai…". Em đến để tâm tình, để thổ lộ… và hẹ em trong "ngày hội non sông": "Em mặc yếm thắm –
Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mêm ánh sáng muôn lòng xuân xanh". "Em" đến
đúng lúc để "anh" giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình tứ hư ảo trong thơ Hoàng Cầm mà ta cảm nhận được.
Cùng với em là hình ảnh con sông Đuống thương yêu xuất hiện. Dòng sông thơ ấu từ hoài niệm "Ngày
xưa cát trắng phẳng lì" trôi theo dòng lịch sử, theo thời gian và lòng người mà hiện về trong thương nhớ,
với màu sắc, với dáng hình thân thuộc: "Sông Đuống trôi đi Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì".
Hai tiếng "trôi đi…" gợi lên cái êm đềm, cái man mác "nước chảy lơ thơ…". "Một dòng sông lấp lánh" vì
cát trắng, vì gương sông chở ánh hồng bình minh, chở trăng sao những đêm thu đẹp. Đó là dòng sông
thơ mộng. Dáng sông Đuống trong hiện tại chẳng uốn lượn như hình con long của sông "làng ta" (Ca
dao) mà lại "Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì". Một câu thơ hay để ta cảm xúc, đọc lên
nhận vào hồn mình với báo nhiêu nhã thú, thi vị. Tưởng như tác giả viết bằng bút pháp siêu thực? Tưởng
như câu thơ được cấu tạo nên bằng kĩ thuật điện ảnh tân kì? Đó là một sáng tạo thi ca độc đáo của thi sĩ tài hoa Hoàng Cầm.
Sông Đuống là sông của tuổi thơ, sông của hoài niệm. Màu "xanh xanh" của bãi mía bờ dâu, màu "biêng
biếc" của ngô khoai là màu xanh của miền thơ ấu, là hình bóng quê hương. Bức tranh quê tươi tắn, đầy
sức sống… Nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đứa con li hương "đứng bên này sông"
nhìn về "bên kia sông Đuống", từ vùng tự do tả ngạn nhìn về hữu ngạn, nơi "tâm hồn ta thấm đất", nỗi
nhớ, nỗi đâu không thể nào kể xiết:
"Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay".
Sao nhớ tiếc… sao xót xa…" vì quê hương đang chìm trong máu lửa. Nỗi nhớ, nỗi đâu đến cực độ,
làm tê tái cả hồn người, làm "chết đi " từng phần cơ thể. Câu thơ "Sao xót xa như rụng bàn tay" đã cụ thể
hóa nỗi đau đớn xót xa cả về thể xác lẫn tinh thần. Đầu thế kỉ XX, Nguyễn Khuyến đau đớn khi "chợt
nghe" tin bạn chí thân qua đời: "Làm sao bác vội về ngay – Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời". Một
đằng khóc bạn, một đằng khóc quê. Hai nhà thơ đều mượn cách nói dân gian để diễn tả một tâm trạng, BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
một nỗi lòng tan nát. Có yêu quê hương tha thiết, gắn bó thủy chung với quê Mẹ đất Cha thì Hoàng Cầm
mới có nỗi đâu "nhớ tiếc" và "xót xa như rụng bàn tay" ấy.
Có thể nói, mười dòng thơ trong phần tiền tấu của khúc ca quê hương "Bên kia sông Đuống" là một cái
nhìn đăm đắm "nhớ tiếc", là nỗi đau tê tái "xót xa", là nỗi nhớ thương khôn nguôi.. của đứa con li hương.
Vần thơ như những tiếng khóc thầm, rồi bật lên như một tiếng nghẹn nấc: "biêng biếc… nhớ tiếc … như rụng bàn tay".
Phần thứ hai gồm có 118 dòng thơ, chia làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài 69 dòng thơ nói lên nỗi đau, nỗi
nhớ tiếc xót xa về quê hương tươi đẹp, yên vui trong thanh bình… bỗng bị quân thù kéo tới chiếm đóng,
tàn phá. Đoạn thứ hai là 49 dòng nói về quê hương chiến đấu, xóm thôn vùng lên khi bộ đội "bên sông trở về".
Đoạn thứ nhất cấu trúc tương phản giữa xa xưa thanh bình với hiện tại tang tóc, điêu tàn. Các câu thơ
"Bên kia sông Đuống" và "Ai về bên kia sông Đuống" nối tiếp nhau xuất hiện, diễn tả hình bóng quê
hương hiện lên như những đợt sóng vỗ vào lòng đứa con xa quê bao nỗi nhớ thương và căm giận. Một
tình quê vơi đầy trong nỗi nhớ: "Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp".
"Bên kia sông Đuống" là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, một miền quê trù phú và có nền văn hóa,
văn hiến ngàn năm thuộc vùng Kinh Bắc. Chỉ bằng hai nét vẽ mà nhà thơ đã gợi lên hương sắc quê nhà.
Ba tiếng "quê hương ta" vang lên tự hào, lay động tha thiết. Hương lúa nếp thơm nồng của cốm mới, của
cánh đồng màu xanh lúa trỗ, hương xôi, hương bánh… trên mâm cỗ tết, trong ngày giỗ trên bàn thờ gia
tiên. Hương lúa nếp thơm nồng đã quyện lấy tâm hồn "anh" và "em" tự thuở nào. Nhớ "quê hương ta" là
nhớ mùi "thơm nồng" của lúa nếp, là nhớ tranh làng Hồ, tranh gà lợn, nhớ nét vẽ tài hoa xinh đẹp "nét
tươi trong", nhớ "màu dân tộc", nhớ sắc màu rực rỡ, tươi đẹp "sáng bừng trên giấy điệp" óng ánh, mượt
mà. Tình yêu quê được gửi gắm, được thể hiện qua các thanh âm (nồng, trong, bừng, điệp…), qua các
tính từ phẩm chất đã làm dậy sắc hương của lúa nếp, của tranh gà lợn: thơm nồng, tươi trong, sáng
bừng, điệp. Đặc biệt hai chữ "sáng bừng" đã thể hiện cái hồn quê nồng nàn say đắm, đã làm sáng lên cả
vần thơ và hoài niệm, đã thổi vào bức tranh quê cả sức sống và tình yêu mặn nồng. Cũng như dân ca
Quan họ, mảng tranh dân gian Đông Hồ được tác giả nói đến với bao yêu mến, tự hào, từ đề tài đến chất
liệu, từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật đều mang vẻ đẹp bình dị, dân dã, mến yêu "sáng bừng" màu sắc dân tộc.
Nhưng giờ đây còn đâu nữa? – "Quê hương ta từ ngày khủng khiếp – Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung
tàn". "Ngày khủng khiếp" kể từ 19 – 12 – 1946, ngày toàn quốc kháng chiến, những miền quê rộng lớn
bình yên đã bị giặc Pháp biến thành đống tro tàn. "Những cánh đồng quê chảy máu", những đường làng
"xương máu tơi bời", … cả một không gian bao la chìm trong máu lửa, chết chóc. Quân cướp nước kéo
tới quê hương ta là: "Chó ngộ một đàn – Lưỡi dài lê sắc máu". Chúng điên cuồng đốt phá, bắn giết:
ruộng khô, nhà cháy, ngõ thẳm bờ hoang kiệt cùng. Sự sống bị tiêu diệt, cả một miền quê tan tác, đau thương:
"Mẹ con đàn lợn âm dương, Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu".
Ước mơ ấm no, yên vui, hạnh phúc của "quê hương ta" bao đời nay bị quân xâm lược làm cho tan nát
chia lìa. Từ nỗi đau vật chất đến nỗi đau tinh thần là vô cùng ghê sợ! Lấy hình ảnh trong hai bức tranh
làng Hồ, bức tranh lợn và bức tranh đám cưới chuột để cực tả cảnh đau thương chia lìa, tan tác trên quê
hương. Nhà thơ đã lay động hồn quê, tình quê ứa máu, thấm lệ trong lòng người bấy nay. Vẻ đẹp văn
hóa trong lòng người, trong nếp sống, trong cảnh vật đã bị "ngọn lửa hung tàn" hủy diệt! Những câu thơ
ngắn đan xen với những câu thơ dài đã góp phần tô đậm nỗi căm uất, nghẹn ngào chứa chất trong lòng
người đang bùng lên dữ dội. BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Nhớ da diết bồi hồi quê hương, Hoàng Cầm lại tha thiết nhắn gọi: "Ai về bên kia sông Đuống – Cho ta
gửi tấm the đen… - Gửi về may áo cho ai…" – Vẫn chỉ là phiếm chỉ "Ai về…" "cho ai…", gợi lên một nỗi
nhớ bồi hồi, mênh mông. Tình quê trong hoài niệm là "thấp thoáng mộng bình yên", là nỗi nhớ chùa xưa
tháp cũ, nhớ hội hè, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ huyện Lang Tài, nhớ tiếng chuông
chùa sớm sớm chiều chiều ngân buông. Nhớ cuộc sống yên vui thanh bình, nhớ những địa danh, những
thắng cảnh… đã in dấu đậm đà, đã gắn bó với tân hồn đứa con li hương:
"Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên Những hội hè đình đám Trên núi Thiên Thai Trong chùa Bút Tháp Giữa huyện Lang Tài Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu".
Tiếng chuông chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Bách Môn… chỉ còn "văng vẳng" từ "mấy trăm năm thấp
thoáng mộng bình yên" vọng về trong hồn người đã làm cho nỗi nhớ, nỗi đau thêm nhức nhối, gợi lên sự
hoang vắng, điêu tàn của quê hương, nói lên mơ ước ngàn đời được sống ấm no, yên vui trong thanh bình.
Nhớ cảnh rồi nhớ người. Nỗi nhớ tràn ngập, nhớ từng dáng hình, nhớ từng nét mặt nhớ làn môi, nhớ mái
tóc, nhớ quần nâu, nhớ cụ thể, nhớ nhiều… Chữ "những" điệp lại nhiều lần diễn tả nỗi nhớ mênh mang, xao xuyến, bồi hồi:
"Những nàng môi cắn chỉ quết trầu,
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu".
"Ai về… có nhớ" – về bên kia sông Đuống, quê hương ta, của anh và của em. Ai có nhớ, riêng ta nhớ
lắm. Nhớ "từng khuôn mặt búp sen", nhớ nụ cười ấm áp, tươi vui, rạng rỡ của những cô gái xinh đẹp,
tình tứ, dịu dàng. Nhớ người dăng tơ, nhớ nàng dệt sợi, nhớ người thợ nhuộm, … những con người cần
mẫn, siêng năng, khéo tay hay làm, rất đáng yêu, đáng tự hào. Cuộc sống và con người quê hương hiện
hình qua nỗi nhớ lần lượt nối tiếp xuất hiện trong kí ức đầy ám ảnh, khôn khuây:
"Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén rang đen,
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen,
Bãi Trầm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối Những nàng dệt sợi Đi bán lụa màu Những người thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu về đâu".
Nỗi nhớ ấy vừa thực, vừa mộng ảo, gắn bó nhịp sống đời thường nhộn nhịp với cái vẻ tình tứ đáng yêu
gợi ra trong lòng chúng ta một trời bâng khuâng thương nhớ: "Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu – Đồng Tỉnh
bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm – Nào ai đi chợ Thanh Lâm – Mua anh một áo vải thâm hạt dền". Qua
đó, ta cảm nhận hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo đã làm nên vẻ đẹp trữ tình trong thơ Hoàng Cầm.
Sau hình ảnh những cô gái xinh đẹp, tình tứ… Hoàng Cầm nói về bà mẹ và đàn con thơ với nhiều
thương nhớ, đau xót. "Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong" xuất hiện giữa phiên chợ nghèo, khi "lũ quỷ
mắt xanh" kéo đến cướp bóc: "Lá đa lác đác trước lều – Vài ba vết máu loang chiều mùa đông". Bờ tre
thì "hun hút", trời thì "mưa lạnh" con đường thì "trơn",… cả một không gian tăm tối, lạnh lẽo, hãi hùng…
Trên trời, cánh cò xao xác "bay vùn vụt", … "về đâu…". Trên đường trơn, mẹ già mái tóc bạc phơ lầm lũi
"bước cao thấp" với bao nỗi kinh hoàng. Hình tượng thơ đầy ám ảnh, nhức nhối đau thương:
"Có con cò trắng bay vùn vụt,
Lướt qua dòng sông Đuống về đâu BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ".
Đàn con thơ đang sống trong cảnh đói rét sợ hãi. Chỉ có bát cháo ngô cầm hơi, chỉ biết "chui gầm giường
tránh đạn", đêm đêm sống trong nỗi kinh hoàng giữa tiếng súng giặc: "Ú ớ cơn mê – Thon thót giật
mình"… Hình ảnh bà mẹ và em thơ trong đoạn thơ này tiêu biểu cho nỗi đau thương của những bà mẹ,
những em bé, những nạn nhân trong chiến tranh. Câu thơ khép lại phần hai là tiếng thét căm hờn. Hoàng
Cầm diễn tả lòng căm thù giặc bằng một cách nói độc đáo, mạnh mẽ:
"Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn".
Ngoài biện pháp tương phản đối lập giữa "mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên" với "Quê hương ta
từ ngày khủng khiếp", Hoàng Cầm lặp đi lặp lại các câu thơ: "Bây giờ tan tác về đâu… Chuông chùa
văng vẳng nay người ở đâu… Bây giờ đi đâu về đâu…" – điệp cú, điệp khúc ấy không chỉ gợi tả âm điệu
xót xa và bao nỗi ngơ ngác, kinh hoàng về đau thương, tang tóc trong lửa đạn quân thù, mà còn tạo ra
ám ảnh khôn nguôi về sự tiếc nuối những năm tháng thanh bình êm đẹp và thơ mộng của quê hương.
Giọng thơ thay đổi ở đoạn hai 49 câu tiếp theo. Có niềm vui gặp gỡ thắm tình quân dân khi "bộ đội bên
sông đã trở về". Hình ảnh bà mẹ quê hương tượng trưng cho niềm vui hồi sinh "bừng lên" sau lũy tre
điêu tàn một thời "khủng khiếp":
"Lửa đèn leo lét soi tình mẹ,
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng".
Có biến động "Trại giặc bắt đầu run trong sương". Cả một vùng quê bao la vùng lên đánh giặc, đem lại màu xanh cho ruộng đồng:
"Gió đưa tiếng hát về gần,
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa".
Có niềm vui "mở hội… " và niềm vui chiến thắng. Câu thơ ngắn, nhịp thơ hối hả, rộng ràng. Sông Đuống
hiện ra giữa một rạng đông tuyệt đẹp : "Vì nắng sắp lên rồi Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi … ".
Đoạn hai tuy có một số câu thơ cảm động, một số hình ảnh gợi cảm, nhưng ngôn ngữ thơ dàn trải, yếu
tố "kể" lấn át yếu tố trữ tình. Bài thơ được tác giả viết vào mùa xuân 1948, phải sáu năm sau (1954), trải
qua những chặng đường gian khổ, hi sinh vô cùng to lớn, mới có cảnh tượng "bao nhiêu đồn giặc tơi
bời", và mới có "chim múa hoa cười" trong lòng đứa con xa quê thời khói lửa. Do đó, cảm hứng lãng mạn
khi nói về quê hương chiến đấu và chiến thắng in nhiều dễ dãi, sơ lược.
Phần thứ ba với sáu dòng thơ nói lên niềm mơ ước "bao giờ về bên kia sông Đuống" trong ngày hội non
sông, trong niềm vui tái hợp. Một lần nữa, hình ảnh cô gái Kinh Bắc hiện lên trong vẻ đẹp kì diệu và tình tứ: "Anh lại tìm em Em mặc yếm thắm Em thắt lụa hồng Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh".
Sau một chuỗi câu thơ ngắn bốn tiếng, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ lục bát có giá trị gợi tả niềm vui
ngân nga mãi trong lòng người. "Quê hương nghĩa nặng tình sâu… ", có ai đã nói như vậy ? Tình yêu
quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất của con người Việt Nam chúng ta.
Tình quê hương với Hoàng Cầm là nỗi nhớ và niềm tự hào ; nhớ cảnh vật, nhớ con người, nhớ dòng
sông Đuống "Trôi đi một dòng lấp lánh", nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ khuôn mặt búp sen
thiếu nữ, nhớ mùa xuân tưng bừng lễ hội, nhớ mẹ, nhớ đàn con thơ… Nhớ và tự hào về một miền quê
giàu đẹp, có màu xanh lúa ngô khoai, nương dâu bãi mía, có tranh Đông Hồ "Gà lợn nét tươi trong – BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp". Tự hào về quê hương bất khuất hiên ngang. Tin tưởng về ngày
hội non sông, và ngày vui tái hợp. Bài thơ còn chất chứa bao nỗi căm hờn đối với quân xâm lược.
Thơ của Hoàng Cầm giàu nhạc điệu và âm điệu lôi cuốn. Có vang vọng của ca dao, dân ca. Bài thơ thấm
một tình yêu và hồn quê lai láng. Con sông Đuống, cô gái "cười như mùa thu tỏa nắng"… là của riêng Hoàng Cầm.
Nhưng lạ thay, kì diệu thay, người đọc gần xa trong hơn nửa thế kỉ nay đã tìm thấy một phần bóng hình
quê hương mình và nỗi lòng, tình thương, nỗi nhớ của mình trong bài thơ tuyệt tác "Bên kia sông
Đuống". Thơ hay mới cho ta "Sự đồng cảm nhiệm màu" ấy.
Document Outline

  • MB:
  • KB:
  • ANOTHER