






Preview text:
VỀ CẢNH NGÀY HÈ : I. Mở bài
Nguyễn Trãi – anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là người có những đóng góp rất lớn
đối với lịch sử văn hoá, văn học, đặc biệt là đóng góp về thơ văn. Nguyễn Trãi để lại nhiều bài
thơ Nôm có giá trị. Thơ của ông thể hiện một tấm lòng suốt đời vì dân vì nước, một nhân cách
cao đẹp, một tâm hồn trong sáng, luôn dành cho con người và thiên nhiên một tình cảm tha thiết.
Thơ của Nguyễn Trãi còn là nỗi niềm tâm sự của một con người tài năng, đức độ, hết lòng vì
nước vì dân và luôn trĩu nặng tình đời. “Cảnh ngày hè” nằm trong tập thơ “Quốc âm thi tập” là
một bài thơ như thế. II. Thân bài 1. Khái quát
Quốc âm thi tập có một cấu trúc chỉnh thể với 4 phần. Trong đó phần vô đề gồm toàn bộ những
bài thơ không có tựa đề, được chia thành các nhóm : ngôn chí, mạn thuật, trần tình, thuật hứng,
tự thán, bảo kính cảnh giới… Chùm thơ Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình) có 61 bài.
Những vần thơ trong Bảo kính cảnh giới, nhất là bài 43 luyến láy du dương, có chút vui điểm
vào cuộc đời đầy u uất của thi nhân Nguyễn Trãi. Bài thơ viết bằng chữ Nôm, thể thơ thất ngôn
bát cú Đường luật, câu thất ngôn xen lục ngôn, diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên và niềm khát khao cao đẹp của nhà thơ.
2. Phân tích câu 1
Được tổ chức theo kiểu một bài thất ngôn bát cú nhưng bài thơ lại mở đầu bằng một câu thơ
thất luật, ngắt nhịp tự do, tự nhiên như lời nói thường ngày :
Rồi/ hóng mát/ thuở ngày trường
Khởi hứng bằng một tâm thế của một con người an nhàn hưởng thụ (thiên nhiên). Bài thơ có lẽ
được làm trong một lần Nguyễn Trãi về ở Côn Sơn. Rũ sạch bụi lầm của chốn phồn hoa đô hội,
con người đến với thiên nhiên tự do, tự tại, giản dị không gò ép. Phải chăng, vì thế mà câu thơ
cũng vuột ra khỏi cái khuôn khổ của thơ luật để giản dị, nhẹ nhàng như chính con người và cuộc
sống chốn sơn lâm. Từ rồi (có bản chép là rỗi) kết hợp với ngày trường cộng hưởng với nhịp thơ
kéo giãn thời gian của một ngày. Cảm giác thư thái cũng theo đó mà ngân nga.
3. Phân tích câu 2,3,4
Nguyễn Trãi không phải người không biết giới hạn. Có nhiều lần ông đã bày tỏ ý nguyện “công
thành thân thoái”. Nếu phải viện đến lí do thì có lẽ nhiều người sẽ nghĩ đến sự gắn bó rất chân
thành của tác giả với thiên nhiên. Những bức tranh thiên nhiên mà tác giả đã say sưa nét vẽ như
ở trong bài thơ này đã chứng tỏ một điều cuộc sống đâu phải cứ giàu có thì sang trọng :
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Tán hòe tỏa bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “giương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng
tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình gởi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong
những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp giương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và hình tượng. Cây
hòe vốn được trồng nhiều ở làng quê: vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hòe nở hoa vào mùa hè,
màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hòe thường gắn liền với điển
tích “giấc hòe” (giấc mộng đẹp), “sân hòe” (chỉ nơi cha mẹ ở ). Truyện Kiều có câu: “Sân hòe
đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình”.
Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức
đỏ”. Thức tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đóa hoa lựu như chiếc
đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, “phun” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phun” được
dùng rất hình tượng và thần tình.“Truyện Kiều” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm
bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” là cả
một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ “Quốc âm thi
tập” đến “Truyện Kiều”. Vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu
sắc huyền diệu là như thế đó!
Câu 4 nói về sen: “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. “Tiễn” là ngát (tiếng cổ). Sen hồng nở thắm
ao làng, hương thơm tỏa ngát. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Sen trong ao
làng đã “tiễn mùi hương” gợi không cảnh làng quê thanh bình, không khí thanh cao thoát tục.
Nguyễn Trãi đã chọn hòe, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy đẹp
và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp và cảm
nhận vẻ đẹp của nó bằng nhiều giác quan.
4. Phân tích câu 5,6
Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim tu hú, tiếng sáo
diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao” của đời thường:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”
Sau khi tả hòe màu “lục”, lựu “phun thức đỏ”, sen hồng đã “tiễn mùi hương”, nhà thơ nói
đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng
đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời
thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp. Hòa
điệu với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve vang lên rộn rã, nhịp nhàng. “Cầm ve”, hình ảnh ẩn
dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. “Dắng dỏi” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve
trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động rộn ràng. Nhà thơ lấy
tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu
(lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã
5. Phân tích câu 7,8
Trở về “Côn sơn quê cũ” Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”, giờ
đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc
hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống.
Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành “cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho
khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời. Làm theo thể thất
ngôn bát cú nhưng kết cấu đề, thực, luận, kết xem ra không phải là lựa chọn hợp lí để tiếp cận
bài thơ này. Bài thơ có thể được chia theo bố cục 6/2. Trên là vẻ đẹp của thiên nhiên và âm thanh
cuộc sống, dưới là ước vọng của nhà thơ :
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Ở đây, tác giả đã mượn điển tích để nói lên khát vọng của mình. Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn,
nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài – tác giả khát khao đem tài trí thực hành tư
tưởng yêu nước, thương dân, và đó cũng chính là tưởng chủ đạo của bài thơ. Tuy tác giả đón
nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo
lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc
sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài. Ông quan
tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua
Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân và đất nước. Không có một lòng yêu quê hương, đất nước sâu đậm, ông không thể có một
ước muốn như vậy. Không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể cảm nhận được hết
vẻ đẹp mùa hè nơi một làng chài quê hương thanh bình. Và, không có lòng yêu quê hương, đất
nước, ông không thể viết nên bài thơ “ Cảnh ngày hè” làm xúc động lòng người như vậy.
Câu thơ cuối cùng tương ứng với câu đầu, vượt ra khỏi luật Đường. Nhịp thơ 3/3 ngắn gọn, dứt
khoát, thể hiện ước vọng chân thành của Nguyễn Trãi, mong sao ở mọi nơi, cuộc sống thanh
bình no ấm sẽ đến với mọi người.
Câu nói của người xưa “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (lo trước cái lo
của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ) thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi. Một cuộc đời trọn
tình, vẹn nghĩa với nước với dân.
6. Nhận xét về nghệ thuật
Bài thơ thành công ở nghệ thuật sử dụng từ ngữ: Miêu tả cảnh ngày hè, tác giả đã sử dụng các
động từ, tính từ, từ láy giàu sức gợi hình tượng và gợi cảm như đùn đùn, giương, phun, đỏ, tiễn,
lao xao, dắng dỏi. Dưới cái nhìn của tác giả, những sự vật vốn tĩnh trở nên động. Chuyển tĩnh
thành động, sự cảm nhận cảnh ngày hè của nhà thơ bộc lộ rõ tình yêu sự sống sinh sôi, cái động
của thiên nhiên, cảnh vật phản ánh cái động trong lòng người. Nhịp điệu và tiết tấu bài thơ
giàu sức gợi tả: Bức tranh ngày hè sinh động không những được gợi tả bằng hình ảnh màu sắc,
âm thanh, sự chuyển động tinh tế của sự vật mà còn thể hiện ở nhịp điệu, tiết tấu. Với đặc điểm
về số câu (8 câu), cách gieo vần (cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8), lối đối ngẫu ở hai liên giữa (cặp câu
3 – 4, 5 – 6) thì vẫn thấy đây là bài thơ thất ngôn bát cú. Nhưng bài thơ có một số điểm khác so
với thất ngôn bát cú Đường luật : Câu 1 và câu 8 chỉ có sáu chữ nên chúng thành những câu độc
lập, không gắn với câu 2 và câu 7 thành liên như thể thơ Đường luật. Bài thơ còn đa dạng hơn
về nhịp điệu : Câu 1 : 1 / 2 / 3; Câu 2 : 4 / 3; Câu 3 : 3 / 4; Câu 4 : 3 / 4; Câu 5 : 2 / 2 / 3; Câu 6 :
2 / 2 / 3; Câu 7 : 3 / 4; Câu 8 : 3 / 3. Mạch cảm xúc của bài thơ: từ thư thái, thanh thản pha sắc
thái bất đắc dĩ, có phần chán ngán đến hứng khởi, phấn chấn . III. Kết bài
Có thể thấy cảnh và tình trong bài thơ được kết hợp thật hài hoà. Sức sống của sự vật trong
trong bức tranh tả cảnh mùa hè cũng thể hiện cảm xúc, niềm yêu đời trong tâm hồn nhà thơ.
Cảnh gợi cảm xúc, cảm xúc chi phối cái nhìn và tái hiện cảnh vật. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên
nhiên tha thiết và tấm lòng yêu nước thương dân của Ức Trai. Đó chính là lí tưởng nhân nghĩa
cao đẹp trong cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi.
Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè Bài làm tham khảo
Nguyễn Trãi là cây đại thụ của làng thơ văn Vιệт Nαм, là một vì sao sáng trên bầu trời đêm. Một
тrσиɢ иhữиg tác phẩm đã làm nên tên tuổi và sức sống của Nguyễn Trãi trong lòng dân tộc đó
ċhính ℓà bài thơ “ Cảnh ngày hè”.
“ Cảnh ngày hè” được ra đời trong khoảng thời gian Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn, về ở ẩn được
thanh nhàn nhưng là nhàn thân, “ thân nhàn chứ tâm không nhàn”, được vui thú quê nhà nhưng
là “ vui trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Bởi vậy, mở đầu bài thơ là bức tranh ngày hè rực rỡ, rộn rã:
“ Rỗi hóng mát thuở ngày trường”
Ngày hè hiện ra trong hình ảnh Ức Trai với tâm hồn thư thái, thanh thải trong một dịp nhàn rỗi
hiếm hoi đang hóng mát “ thuở ngày trường” – một ngày dài dằng dặc, thời gian như ngưng
đọng. Ngày dài, ấy là đặc trưng cho đêm ngắn ngày dài. Nhưng có chăng, đó chỉ ʟà chuʏệɴ thời
gian dài ngắn hay còn ʟà chuʏệɴ của tâm hồn, của con người. Nhưng dù ʟà chuʏệɴ gì đi chăng
nữa, nó đều thể hiện một tình yêu say đắm, một tâm thế thanh nhàn, thảnh thơi, sảng khoái của
Nguyễn Trãi. Qua tâm thế ấy, phong cảnh mùa hè ở làng quê được vẽ nên sống động, nhiều hình
ảnh, mầu sắc, nhạc điệu:
“ Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.”
Trật tự thiên nhiên trải từ cao xuống thấp, điểm nhìn của thi sĩ cũng di chuyển từ tầng không, qua
hiên nhà rồi xuống ao sen. Ở tầng nào của thiên nhiên, sức sống bên trong cảnh vật cũиɢ иhư
đang căng tràn. Trên cao, cây hoè “ đùn đùn” cuộn lên những lá chồi tươi tốt như “ rợp giương”
cả một góc sân nhà. Dưới tán lá hoè xanh biếc có những khóm hoa lựu “ còn phun thức đỏ” tựa
pháo hoa bừng sáng cả hiên nhà. Sự sống không chỉ tồn tại trong bông hoa mà còn như căng trào,
tràn ra bên ngoài. Và dưới ao, hoa sen cũng hưởng ứng bằng sắc hồng đang độ ngát hương nhất
– “ tiễn mùi hương”. Sự sống đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát một cách mạnh mẽ nhất của mỗi
thảo mộc tưởng chừng như tĩnh tại. Tất cả là sự sống của thiên nhiên đang kì toàn thịnh:
Xem thêm: Top 10 website những bài văn mẫu hay lớp 2 мớι иhấт
“ Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Nguyễn Trãi thật tinh tế khi bắt được một nhịp vận hành vô hình hối thúc của tạo vật. Thảo mộc
nối tiếp liên tục từ cao xuống thấp, động thái liên tục từ trong ra ngoài, lá hoa hương tiếp ứng
nhau, khẩn trương, vội vã. Loài này “ đang” thì loài kia “ đã”, hô ứng nhau, chen bước nhau gợi
ra không khí các tạo vật đang đua nhau phô sắc khoe hương.
Bức tranh ngày hè toàn thịnh κнôɴԍ ɴнữɴԍ đầy mầu sắc mà còn ngập tràn cả âm thanh:
“ Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm về lầu tịch dương”
Ta nghe như đâu đây tiếng lao xao, náo nhiệt của chợ ngày hè. Chợ là biểu hiện rõ nhất của cuộc
sống. Lúc đương đông là hình ảnh của cuộc sống sầm uất đi lên. Lúc chợ tàn là hình ảnh rã đám
của cuộc sống đương đi xuống. Chợ “ lao xao” là âm thanh của làng quê không ngừng ρнáт тrιểи,
ấm no, phồn thịnh. Cùng với âm thanh của cuộc sống sung túc, đủ đầy là bản nhạc ve trong
khoảnh khắc tịch dương. Lúc tịch dương, dù là miềm sơn cước hay chốn chương đài người ta
đều nghĩ đến кнôиg gιαи hiu quạnh cô tịch, sự sống đang dần tàn lụi. Nhưng, chiều “ tịch
dương” trong thơ Nguyễn Trãi không ɴнư vậʏ. Không gian hiu quạnh cô tịch đã bị xua tan bởi
bản nhạc ve “ dắng dỏi”. Tiếng ve inh ỏi như một bản đàn làm hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt.
Bản cầm ve hay cũng ċhính ℓà bản nhạc lòng của Nguyễn Trãi, của một con người yêu dân hết
lòng. Yêu dân bởi nghe âm thanh của cuộc sống phồn thịnh đi lên mà ngỡ tiếng ve “ dắng dỏi” là
khúc nhạc du dương. Phép đảo ngữ, đặt những âm thanh “ lao xao”, “ dắng dỏi” lên đầu mỗi câu
tạo nên điểm nhấn như phổ vào кнôиg gιαи cả một dàn âm thanh rộn rã. Cả làng ngư phủ “ lao
xao chợ cá” nhờ thế mà trở nên phồn thịnh hơn.
Nguyễn Trãi đã đón nhận thiên nhiên bằng cả tâm hồn, ngắm cảnh nhưng vẫn lắng nghe, vẫn đón
nhận những âm thanh thân thuộc của làng quê. Tâm hồn ấy không chỉ đơn thuần rung cảm vẻ
đẹp thiên nhiên mà còn chan chứa tình yêu dân yêu nước. Đó là niềm hạnh phúc khi cuộc sống
người dân sung túc đủ đầy, là khát vọng về một xã нộι giàu có no đủ:
Xem thêm: Hãy tưởng tượng và kể lại cuộc trò chuyện và gặp gỡ với người lính lái xa trong Bài
thơ Tiểu đội xe không kính – Ngữ Văn 9
“ Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương.”
Nếu có cây “ Ngu cầm” của vua Thuấn, ta sẽ gẩy khúc Nam phong cầu cho dân giàu đủ khắp
muôn phương. Cặp câu kết đã mở ra cho chúng ta về lòng và chí của Ức Trai. Khát vọng thật cao
đẹp nhưng còn đẹp hơn khi khát vọng ấy là ước mơ chung cho tất cả мọι иɢườι đều được no đủ,
giàu có. Đó là ước mơ lớn, ước mơ ngang tầm với những bậc quân vương, ước mơ tầm cỡ Ngiêu
Thuấn. Ước mơ là trong thơ, trong thế giới của những khát vọng riêng tư nhất nhưng cũng là
khao khát sâu kín và cháy bỏng suốt cuộc đời Nguyễn Trãi. Vì nó mà ông phải trả một cái giá
khá đắt bằng cả tính mạng và tôn tộc của mình. Do vậy, ông đã đúc nó vào trong câu lục ngôn,
một câu đột nhiên ngắn lại như để ghim điều đau đáu của cõi lòng.
Dù được viết cách đây rấт иhιềυ thế kỷ, nhiều ngôn từ đã trở nên xa lạ đối với người hiện đại
nhưng “ Cảnh ngày hè vẫn dư sức vượt qua khoảng cách thời gian dày đặc, vượt qua rào cản
ngôn ngữ để chạm tới trái tim người yêu thơ bây giờ. Tác phẩm là kết tinh của “ Ức trai tâm
thượng quy khuê toả” – Lê Thánh Tông, là một chỉnh thể thi ca sống động, một kiến trúc ngôn từ cô đúc dư vang. VỀ NGUYỄN TRÃI :
Nguyễn Trãi được đánh giá là nhà tư tưởng lớn, nhà văn lớn, là danh nhân văn hóa thế giới,
đỉnh cao nghệ thuật thế kỷ XV. Đến nay đã có hàng trăm công trình lớn nhỏ khác nhau
nghiên cứu về tư tưởng và thơ văn của ông. Để tiếp tục khẳng định vị thế và đóng góp của
Nguyễn Trãi cho lịch sử văn học dân tộc, bài viết này xin trình bày một số suy nghĩ về phong
cách nghệ thuật của ông.
Tư tưởng nhân nghĩa và niềm trăn trở về thế thái nhân tình
Tư tưởng nhân nghĩa. Nguyễn Trãi là nhà Nho hành đạo, người thấm sâu tư tưởng đạo lý Nho
gia, người sống luôn đặt chữ “Nhân”, chữ “Đức”, chữ “Nghĩa” lên đầu. “Nhân nghĩa”, hiểu một
cách đơn giản là lòng yêu nước, thương dân. Phạm Văn Đồng cho rằng: “Triết lý nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân, cái nhân cái nghĩa lớn nhất là
phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm, diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”. Với
Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” không chỉ là tư tưởng chính trị, tình cảm, tấm lòng với dân với nước,
mà nó đã trở thành tư tưởng nghệ thuật, thành cảm hứng thẩm mĩ, chảy dài, xuyên suốt toàn bộ
sáng tác của ông từ chữ Hán đến chữ Nôm, từ văn chính luận đến thơ ca thẩm mĩ.
Yêu nước, thương dân là phạm trù không có gì mới mẻ trong mạch nguồn văn chương dân tộc từ
khi văn học viết xuất hiện (thế kỷ X) trở đi. Nhưng đó là hiện tượng một bài, một vài bài. Còn
với Ức Trai là bản chất, là cốt cách, là mạch nguồn không bao giờ vơi cạn trong sáng tác. Nó
cuồn cuộn trào dâng, tỏa sáng và soi đường cho từng câu, từng chữ trong thơ văn ông, tạo thành
“cái nhìn”, thành đặc trưng riêng độc đáo, có tính thẩm mĩ, mang tính quy luật, hun đúc nên
phong cách nghệ thuật Nguyễn Trãi.
Và cũng như bao nhà Nho hành đạo khác, khi khát vọng xả thân thực hiện lý tưởng “trí quân
trạch dân” không thực hiện được, Nguyễn Trãi chọn con đường lui về ẩn dật, làm bạn với thiên
nhiên cây cỏ. Thiên nhiên trong thơ ông theo đó hiện ra có lúc hoành tráng: Kình ngạc băm vằm
non mấy khúc/ Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng (Cửa biển Bạch Đằng, bản dịch). Có lúc gần
gũi, thân thương, đầm ấm, chan hòa tình cảm của con người với thiên nhiên: Côn Sơn suối chảy
rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai (Côn Sơn ca). Có lúc như những bức tranh lụa xinh
xắn, phảng phất phong vị thơ Đường: Nước biếc non xanh thuyền gối bãi/ Đêm thanh nguyệt bạc
khách lên lầu (Bảo kính cảnh giới, số 26). “Lòng yêu thiên nhiên vạn vật là kích thước để đo
một tâm hồn” (Xuân Diệu). Nhưng cách miêu tả thiên nhiên lại thể hiện một “cái nhìn”, khẳng
định một bản ngã, một tài năng: Tự bén hơi xuân tốt lại thêm/ Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm/ Tình
thư một bức phong còn kín/ Gió nơi đâu gượng mở xem (Cây chuối). Cách lựa chọn và sử dụng
hình ảnh mang tính biểu tượng của Nguyễn Trãi ở bài thơ này rất gần với chủ nghĩa tượng trưng
trong văn học Pháp. Bút pháp ấn tượng thay cho tả thực, đó là cách phác họa rất tài tình, hình
ảnh cây chuối vì vậy mang tính cách điệu rất cao. Màu sắc, đường nét mờ nhòe ẩn hiện, huyền
hoặc. Sức sống cây chuối trỗi dậy do “tự bén hơi xuân”, bén vào hơi xuân mà tốt tươi hẳn lên.
Các từ “bén”, “mầu” kết hợp với các hình ảnh “buồng”, “tình thư”, “gió”, động từ “mở”, tính từ
chỉ trạng thái “gượng”, tạo nên sự cộng hưởng của sức sống, sức xuân, hương xuân ngào ngạt
như một kết cục mãn khai đầy mầu nhiệm. Tâm hồn trẻ trung yêu đời đã thôi thúc nhà thơ viết
nên những câu thơ tình tứ và tài hoa. Sự tươi tắn của thơ Ức Trai rất “đời”, rất cá tính, nghệ thuật
tả cảnh trong thơ ông cũng theo đó mà hình thành dấu ấn sáng tạo riêng biệt.
Nói vậy, với Ức Trai, chìm đắm trong cảnh đẹp thiên nhiên, dẫu nhàn rỗi hóng mát vẫn chỉ là sự
bất đắc dĩ mà thôi. Tận sâu trong tâm hồn thi nhân luôn mang nặng một nỗi niềm canh cánh: Dẽ
có Ngu cầm đàn một tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi phương (Bảo kính cảnh giới, số 43). Niềm trăn
trở lo lắng cho dân, làm sao cho nhân dân “đủ khắp” mọi nơi trên đất nước được ấm no, hạnh
phúc là khao khát, là tâm nguyện suốt đời của Nguyễn Trãi. Tâm nguyện đó dù nuôi chí xả thân
thực hiện lý tưởng suốt cả cuộc đời, Ức Trai vẫn không dễ bề thực hiện, không thể gánh vác một
mình, rất cần sự đồng tâm giúp sức của triều chính. Vì thế, gặp buổi triều đại nhiễu nhương, lòng
người cạn hẹp, nhà thơ canh cánh khôn nguôi một nỗi tiếc đời, tiếc mình không còn đấng minh
quân để thờ phụng: Những vì chúa thánh âu đời trị/ Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn (Tự thán, số 2).
Rõ ràng, Nguyễn Trãi thân nhàn mà tâm chẳng nhàn. Về với thiên nhiên, với “ Sách một hai
phiên làm bầu bạn” chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ, vì “Trăm năm trong cuộc nhân sinh”, vì không
chịu đựng được “mùi thế tình”. Hi vọng của một nhà Nho “chính thống”, khát vọng hành đạo,
sống như cây tùng cây bách chỉ là ảo tưởng viển vông. Bi kịch của Nguyễn Trãi là ở chỗ biết
viển vông mà vẫn không thôi khao khát ! Vì khao khát nên trăn trở khôn nguôi về thế thái nhân
tình ! Nỗi niềm trăn trở đó trở đi trở lại trong rất nhiều sáng tác của ông, tạo nên dấu ấn riêng
biệt, góp phần khắc họa phong cách nghệ thuật nhà thơ.
Rõ ràng, Nguyễn Trãi thân nhàn mà tâm chẳng nhàn. Về với thiên nhiên, với “ Sách một hai
phiên làm bầu bạn” chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ, vì “Trăm năm trong cuộc nhân sinh”, vì không
chịu đựng được “mùi thế tình”. Hi vọng của một nhà Nho “chính thống”, khát vọng hành đạo,
sống như cây tùng cây bách chỉ là ảo tưởng viển vông. Bi kịch của Nguyễn Trãi là ở chỗ biết
viển vông mà vẫn không thôi khao khát ! Vì khao khát nên trăn trở khôn nguôi về thế thái nhân
tình ! Nỗi niềm trăn trở đó trở đi trở lại trong rất nhiều sáng tác của ông, tạo nên dấu ấn riêng
biệt, góp phần khắc họa phong cách nghệ thuật nhà thơ.
Document Outline
- VỀ CẢNH NGÀY HÈ :
- II.Thân bài
- 1.Khái quát
- 2.Phân tích câu 1
- 3.Phân tích câu 2,3,4
- 4.Phân tích câu 5,6
- 5.Phân tích câu 7,8
- 6.Nhận xét về nghệ thuật
- III.Kết bài
- Bài làm tham khảo
- Tư tưởng nhân nghĩa và niềm trăn trở về thế thái n