Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của bà huyện Thanh Quan hay nhất - Ngữ văn 12

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm nổi tiếng trong nền thơ Nôm Việt Nam thế kỷ XIX. Bài thơ này thể hiện nỗi buồn, lòng nhớ nhà của những người xa xứ, một chủ đề phổ biến trong văn hóa Việt. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 12 637 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 12 1 K tài liệu

Thông tin:
10 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của bà huyện Thanh Quan hay nhất - Ngữ văn 12

Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm nổi tiếng trong nền thơ Nôm Việt Nam thế kỷ XIX. Bài thơ này thể hiện nỗi buồn, lòng nhớ nhà của những người xa xứ, một chủ đề phổ biến trong văn hóa Việt. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

186 93 lượt tải Tải xuống
Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của bà huyện Thanh
Quan hay nhất
Mẫu 01. Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của huyện Thanh Quan hay
nhất
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm nổi tiếng trong nền thơ
Nôm Việt Nam thế kỷ XIX. Bài thơ này thể hiện nỗi buồn, lòng nhớ nhà của những người xa xứ,
một chủ đề phổ biến trong văn hóa Việt. Bà Huyện Thanh Quan mở đầu bài thơ bằng cảnh chiều
tà buông trên quê hương, một thời khắc chuyển giao giữa ngày và đêm. Tận dụng vẻ đẹp của cảnh
hoàng hôn để tạo nên bức tranh đẹp u buồn, hòa mình vào không khí dễ thương của làng quê.
Người làm thơ biểu lộ sự đau khổ nhớ nhà qua việc nhắc nhở về hương sắc của làng quê, làm
đẩy lực người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc với quê hương. Bài thơ không chỉ là bức tranh
về cảnh đẹp của chiều hôm, còn biểu tượng cho tâm hồn những người xa xứ, những kẻ lưu
lạc, những người mang theo nỗi nhớ về quê hương trong lòng.
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
sừng, mục tử lại thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai kể nỗi hàn ôn?".
Câu thơ mở đầu với hình ảnh ánh hoàng hôn trên bức tranh của một buổi chiều viễn xứ. Tác giả
sử dụng hai chữ "bảng lảng" để tả ánh sáng của hoàng hôn, tạo nên một bức tranh tinh tế và
độc đáo. Từ "bảng lảng" ý chỉ sự hồ, không ràng, tạo ra một hiệu ứng ánh sáng lờ mờ.
Trong bức tranh của tác giả, ánh hoàng hôn bao phủ cả không gian gần xa, làm cho mọi thứ trở
nên mơ hồ và mịn màng. Điều này không chỉ tạo nên một bối cảnh đẹp mắt mà còn làm nổi bật sự
huyền bí và thấm đẫm cảm xúc của buổi chiều.
Hình ảnh ánh hoàng hôn "bảng lảng" cũng mang theo sự biến đổi của thời gian, từ ánh sáng chói
lọi của ban ngày sang sự bí ẩn và nhẹ nhàng của buổi hoàng hôn. Đây có thể là biểu tượng cho sự
chuyển giao giữa ngàyđêm, tạo ra một không khí buồn bã thư thái đồng thời. Từ ngữ tinh tế
này giúp độc giả hình dung một cách sống động về không khí cảm xúc của buổi chiều, nâng
cao giá trị nghệ thuật của bức tranh mà tác giả muốn truyền đạt.
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn".
Chữ "bảng lảng" trong bài thơ một nhãn tự đặc sắc, như ánh mắt sáng lạc của bức tranh thi
ca. Nguyễn Du đã khéo léo lựa chọn từ ngôn ngữ để tạo nên một hình ảnh tươi đẹp, sống động về
hoàng hôn. Chữ "bảng lảng" không chỉ là một mô tả đơn thuần, mà còn là cầu nối giữa văn hóa
nghệ thuật, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật cho bài thơ.
"Trời tây bảng lảng bóng vàng" (Truyện Kiều)
Thông qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ, Bà Huyện Thanh Quan đã khéo léo diễn đạt không
khí của khoảnh khắc hoàng hôn một cách tinh tế điêu luyện. Trong bức tranh thơ, ánh hoàng
hôn không chỉ là sự chuyển động của ánh sáng khiến cho không gian trở nên mơ hồ và đẹp đẽ,
còn nguồn gốc của một nỗi buồn thê, một cảm xúc sâu sắc trong lòng người đi xa. Tác giả
chọn từ "bảng lảng" để mô tả ánh hoàng hôn, tạo ra hình ảnh mềm mại và mơ mộng, giúp độc giả
cảm nhận được sự dịu dàng của khoảnh khắc đó.
Ngoài ra, sự chuyển động của thời gian không gian cũng được thể hiện qua tiếng ốc tiếng
trống đồn. Tiếng ốc "xa đưa vẳng" như là giọng hát của khoảnh khắc, một âm thanh buồn xa
vời, tăng cường thêm vào cảm xúc của người đọc. Tiếng trống đồn trên chòi cao càng làm cho
không gian trở nên lớn lên, khiến nỗi buồn của lữ khách trở nên sâu sắc hơn. Huyện Thanh
Quan đã tận dụng ngôn từ và âm thanh một cách khéo léo, để lại ấn tượng sâu sắc về cảm xúc và
vẻ đẹp của hoàng hôn trong lòng người đọc.
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn "
Phần thực phần luận của bài thơ này tạo nên một tác phẩm cùng phong phú và sâu sắc,
tả một thế giới đầy hương vị văn hóa tình cảm. Các thi liệu được chọn lựa với sự tinh tế, giúp
bức tranh thơ trở nên sống động giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách những nhân vật
quen thuộc nhưng vẫn được tác giả xử lí một cách độc đáo, làm nổi bật những khía cạnh tâm lý
con người đặc biệt của họ. Các đối tượng này không chỉ nhân còn biểu tượng cho những
giá trị văn hóa, tâm hồn, và cuộc sống của người Việt Nam.
Cảnh vật trong bài thơ không chỉ là hình ảnh mà còn là nguồn cảm hứng sâu sắc. Ngàn mai, gió,
sương, "chim bay mỏi" tất cả đều được sử dụng một cách tinh tế, không chỉ làm giàu hình ảnh mà
còn tạo nên một không khí ước lệ, mộng. Các từ ngữ như ngư, tiều, phong, sương, mai, liễu,
cánh chim chiều... đều những từ ngữ thường thấy trong thi pháp cổ, nhưng tác giả đã sáng tạo
vô cùng tinh tế, tạo ra một bức tranh thơ mới mẻ, đầy sức sống. Tính cách sáng tạo ca tác giả thể
hiện qua việc chọn từ, tạo hình ảnh, đối câu, đối từ, đối thanh. Mỗi chi tiết trong bài thơ đều
được chăm chút kỹ lưỡng, từ việc chọn từ ngữ đến cách sắp xếp cấu trúc câu. Tất cả đều hòa quyện
để tạo nên một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã.
Qua bức tranh thơ, cảnh vật không chỉ nền cho câu chuyện còn trở nên gần gũi, thân thuộc
với mọi con người Việt Nam. Hồn người Việt, bản sắc dân tộc được tái hiện qua cảnh vật, tạo nên
một tác phẩm văn hóa đậm đà và lôi cuốn.
Cuối cùng, chiều tà với hình ảnh ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi về viễn phố đã mở ra một khía
cạnh nhàn hạ, thoải mái của ngư ông, người sống ở miền quê và đã thoát khỏi vòng xoay của danh
lợi. Động từ "gác mái" không chỉ một hành động đơn thuần còn biểu tượng cho sự nhàn
hạ, sự tự do mà ngư ông đang trải qua.
"Gác mái, ngư ông về viễn phố".
Lũ trẻ, như những đóa hoa cỏ mơn mởn, thể hiện sự tươi trẻ và hồn nhiên. Việc họ "gõ sừng" của
mục đồng biểu tượng cho sự vui đùa yêu đời trong cuộc sống thôn quê. Hình ảnh y làm
nổi bật tinh thần lạc quan, hạnh phúc, sự gắn mạnh mẽ với quê hương, nơi mỗi hành
động đều chứa đựng niềm vui và ý nghĩa sâu sắc.
Câu thơ này chính là một góc nhìn đẹp và ý nghĩa về cuộc sống nông thôn, với sự giản dị, tình tự,
hạnh phúc tại "cô thôn". lời tri ân, gửi gắm nh yêu thương đặc biệt của tác giả đối với
quê hương và những giá trị truyền thống
"Gõ sừng mục tử lại thôn".
Bức tranh về con người trong bài thơ những nét vẽ đặc sắc, tuyệt đẹp, mang đến cho độc giả
một trải nghiệm tinh tế về cuộc sống thôn đồng thời thể hiện sự thân thuộc và đáng yêu của
những hình ảnh được tả. Hai câu luận tiếp theo tạo nên một khung cảnh hình ảnh đầy cảm xúc
về cái lạnh lẽo, cô liêu của người lữ khách trên đường xa. Mô tả về trời sắp tối, những mái xào xạc
trong "gió cuốn", gió ngày càng mạnh, cánh chim mỏi bay vội về rừng để tìm tổ, tất cả đều
những chi tiết tinh tế, tạo nên không khí u ám, lạnh buốt. Sương y đặc, liễu cong khói bao
phủ cả con đường, tăng cường cảm giác cô đơn và mệt mỏi.
Hình ảnh "chim bay mỏi" "khách bước dồn" những nét vẽ đôi đặc biệt, không chỉ tả
về sự mệt mỏi, đơn của người lữ khách mà còn làm tăng thêm sự u buồn, hối hả trong bức tranh.
Bức tranh này không chỉ là một miêu tả cảnh vật, mà còn là một bức tranh tâm lý, thể hiện những
tình cảm sâu sắc của con người trước những khó khăn, trên con đường dài nghìn dặm xa xôi. Câu
thơ "bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ hình ảnh tuyệt vời, nhấn mạnh sự bất an, hoang mang của người
lữ khách giữa dòng đời hối hả và bất lực. Đảo ngữ được sử dụng một cách tinh tế, làm nổi bật sự
bao la và xa xôi của nẻo đường, tạo nên một ấn ợng mạnh mẽ về sự vô tận và khó khăn của cuộc
hành trình.
"Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn".
Qua những câu thơ, Huyện Thanh Quan tái hiện hình ảnh của chiều hôm, nơi bóng hoàng
hôn đọng lại trên cảnh quan tâm hồn. Việc sử dụng từ ngữ mô tả nh ảnh của cảnh hoàng
hôn giúp tác giả truyền đạt một cảm xúc đặc biệt, nỗi nhớ nhà và tình cảm bồi hồi.
Câu kết hợp hai vế tiểu đối "Kẻ chốn / Chương Đài người lữ thứ" sự tận dụng điển ch của
"Chương Đài" trong văn hóa để tạo nên một khung cảnh lãng mạn và đầy ý nghĩa. "Chương Đài"
ở đây không chỉ là điểm phân ly mà còn là biểu tượng cho tình yêu và gặp gỡ. Tình cảm "lữ thứ"
gợi lên hình ảnh của người đi xa, cảm giác lạc ng giữa nơi xa xôi. Câu hỏi cuối cùng "Hàn ôn
làm chi lữ thứ?" thể hiện sự thắc mắc tâm sự của người lữ thứ. "Hàn ôn" thể hiểu niềm
nhớ nhà nỗi buồn đơn trong những cảnh trời xa xôi. Sự đặt câu hỏi tạo nên một bức tranh
của tâm trạng nỗi nhớ thương chôn sâu trong lòng người lữ thứ, thể hiện sự tận thức về sự xa
cách và lẻ loi.
"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai kể nỗi hàn ôn?"
"Chiều hôm nhớ nhà" "Qua Đèo Ngang" hai tác phẩm thơ thất ngôn bát của Huyện
Thanh Quan, những bức tranh tinh tế đầy nghệ thuật sáng tác trong thời kỳ nữ trên
đường thiên lí vào kinh đô Huế, khi nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Những bài thơ này
thể xem như những bút kí tuyệt vời, độc đáo với sự tư duy sâu sắc và khả năng diễn đạt tinh tế của
bà. Nghệ thuật thơ của Huyện Thanh Quan thường mang đậm nét buồn, hoài cổ, thương
nhớ, đặc biệt khi bà đcập đến hoàng hôn. Lời thơ của được xây dựng với sự trang nhã, sử
dụng nhiều từ ngữ Hán Việt như "bảng lảng", "hoàng hôn", "ngư ông", "viễn phố", tạo nên một
phong cách trang trọng, cổ điển nhạc điệu trầm bổng, lôi cuốn người đọc vào thế giới tưởng
tượng của bà.
"Chiều hôm nhớ nhà" là một tác phẩm nghệ thuật tinh tế, chứa đựng tình cảm thương nhớ và bâng
khuâng. Bài thơ này như một bức tranh sống động về không gian quê hương, với những hình
ảnh đẹp nhưng buồn về ngôi nhà cũ, con đường quen thuộc và những kỷ niệm hạnh phúc.
Huyện Thanh Quan biểu đạt tâm trạng như một bức tranh với những chi tiết tinh tế, sử dụng ngôn
ngữ giàu hình ảnh để m đậm chất lãng mạn thơ mộng của bức tranh y. "Qua Đèo Ngang"
là một tác phẩm khác của Huyện Thanh Quan, tiếp tục mang đến cho độc giả những cảm xúc
sâu sắc và đằm thắm. Bài thơ y tả cảnh đi qua Đèo Ngang, nơi có thể được hiểu như là một biểu
tượng cho cuộc hành trình của cuộc đời. Bà sử dụng những hình ảnh của cảnh đẹp thiên nhiên đ
thể hiện sự huyền đầy ẩn của đèo núi, kết hợp với cảm xúc của người đi ngang qua nơi
này, tạo nên một bức tranh tâm lý phong phú.
Mẫu 02. Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của huyện Thanh Quan hay
nhất
Trong thế giới thơ Việt Nam, nữ đã để lại những dấu ấn đẹp, Bà Huyện Thanh Quan một
trong số những nhà thơ nữ xuất sắc. So với tài năng ngạo mạn của Hồ Xuân Hương, thì thơ của
Bà Huyện Thanh Quan lại toát lên vẻ trang nhã, trữ tình và duyên dáng. Trong những bài thơ của
bà, ta cảm nhận được không khí của nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ cao quý đượm sự
đơn và trống vắng. Một trong những tác phẩm nổi bật của bà là "Chiều hôm nhớ nhà," nơi tài thơ
điêu luyện của bà thể hiện rõ. Trời chiều rơi bóng lảng vào bức tranh hoàng hôn, khiến không gian
trở nên ấm áp và tràn ngập cảm xúc. Tiếng ốc xa vang, như một điệu nhạc trống dồn, đưa đến âm
thanh nhẹ nhàng, êm đềm, như chính giọng hòa nhạc của tự nhiên. Gác mái, ngư ông về viễn
phố, tạo ra hình ảnh của sự quay về, của sự bình yên sau những ngày lao động. Gõ sừng, mục tử
lại cô thôn, như một nét văn hóa sâu sắc, làm nổi bật nét truyền thống trong cuộc sống của những
người dân quê mùa. Cảnh tượng y không chỉ hình ảnh còn là ký ức, sự đậm chất văn
hóa.
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi, mô tả một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, làm nổi bật sự mệt
mỏi của đám chim sau những chặng đường dài. Bức tranh này không chỉ là về cảnh đẹp tự nhiên
còn về những nỗ lực, sự đối mặt với khó khăn của con người. Tất cnhững hình ảnh y
được Huyện Thanh Quan sắp xếp một cách tinh tế, chọn từ ngữ một cách khéo léo, tạo nên một
bức tranh thơ đầy ấn tượng lôi cuốn. Thơ của bà không chỉ sự sắp đặt các từ ngữ còn
sự thấu hiểu sâu sắc về tâm hồn con người và vẻ đẹp của tự nhiên. Đó chính là điểm mạnh của tài
thơ điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan, để lại cho độc giả những trải nghiệm tâm linh sâu sắc
và khó quên.
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai kể nỗi hàn ôn
Trong hai câu đề đầu tiên, Huyện Thanh Quan tạo ra một không khí chiều bình yên và trữ
tình, khiến người đọc cảm nhận được sự lảng mạng của hoàng hôn trên bảng trời. Dưới ánh ánh
sáng dịu dàng, cảnh đẹp tự nhiên bắt đầu hiện lên với những gam màu ấm áp, làm nổi bật hình ảnh
của một vùng quê yên nh. "Bảng lảng" tạo hình ảnh ánh sáng dịu dàng lờ mờ, làm nổi bật
không gian buổi chiều, nơi hoàng hôn bắt đầu chiếm lĩnh, ánh sáng trở nên mềm mại. Sự lảng
mạng này không chỉ là một đặc điểm của thời gian, mà còn là bức tranh tĩnh lặng của tự nhiên, tạo
ra một không khí lãng mạn và dễ chịu.
Việc sử dụng "bảng lảng" cũng thể ám chỉ đến bức tranh tự nhiên, cảnh đẹp Huyện
Thanh Quan muốn truyền đạt. Từ ngôn ngữ này, người đọc có thể hình dung ra cảnh đẹp của một
vùng quê yên bình, với ánh hoàng hôn tạo nên bức tranh mộng mơ và huyền bí. Khi nói đến buổi
chiều, tác giả thường thể hiện một sự buồn bã, một cảm giác lẻ loi suy tư. Buổi chiều chính là
khoảnh khắc tĩnh lặng, khi con người có thể tìm lại sự bình yên cảm nhận được vđẹp tĩnh lặng
của thiên nhiên.
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Âm thanh từ xa vang đến như một lời thúc giục, nhưng vẫn giữ nguyên cái trầm lặng kỳ diệu, đó
là dấu hiệu ràng cho mọi người biết rằng ngày đã gần kết thúc. Trước bức tranh này, chúng ta
như đang chạm vào một nét thân quen, hòa mình trong không khí man mác của những câu ca dao
quê hương. Âm thanh đó không chỉ đơn giản một âm thanh, như một cảm xúc, một lời
nhắc nhở về thời gian, về sự tạm biệt và kết thúc một ngày. Nó giống như những giai điệu lấp lánh
của những câu ca dao, tình đánh thức những ức nh lặng, những giây phút êm đềm dưới
bóng chiều tà. Bức tranh này không chỉ đưa ta đến với thế giới âm thanh mà còn làm cho chúng ta
ngửi thấy hương vị của quê hương, cảm nhận được sự chấm dứt của một ngày. Nó là một lời nhắc
nhở nhẹ nhàng về sự trôi qua của thời gian, về vđẹp trong sự tĩnh lặng lòng nhẹ nhàng như
những câu ca dao dân gian.
Trong bức tranhy, người đọc không chỉ nghe thấy âm thanh mà còn nhận thức được tâm trạng
sâu sắc, cái đó thân quen trải lòng như hòa mình vào câu chuyện của quê hương. Đó chính
là sức mạnh của từ ngữ, biến những âm thanh bình dị thành những cảm xúc sâu sắc, làm cho bức
tranh thơ trở nên sống động và gần gũi hơn với trái tim của người đọc.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Tâm trạng của tác giả được tinh tế thể hiện thông qua sự chọn lựa kỹ thuật văn hóa, tập trung vào
thời điểm, không khí và âm thanh. Trong khung cảnh hữu tình của buổi chiều, qua tiếng gọi mỏi
mòn của tàn ngày, tác giả đã khéo léo tái hiện tâm lý phức tạp và đầy nghệ thuật. Thời điểm chọn
lọc là chiều tà, nơi ánh sáng chuyển dịch, và hoàng hôn bắt đầu chiếm lĩnh. Sự lựa chọn y không
chỉ tạo ra bức tranh tự nhiên tuyệt vời mà còn chứa đựng sâu sắc nét buồn của tâm hồn tác giả. Sự
lảng mạng của ánh sáng "bảng lảng" đã làm nổi bật không gian, tăng cường cảm nhận về vẻ đẹp
mộng huyền bí. Tiếng gọi tàn ngày được tả một cách mở cửa rộng, không chỉ âm
thanh thông thường mà còn chứa đựng sự mệt mỏi và nhọc nhằn của cuộc sống. Sự lựa chọn này
giúp tạo ra một không khí khó diễn đạt bằng từ ngữ, làm tăng cường hiệu ứng cảm xúc của bài
thơ.
Gác mái, ngư ông về viễn phố
sừng, mục tử lại thôn.
Câu thơ với nhịp 2/5 như một nhịp điệu nhnhàng, làm cho ta ddàng cảm nhận được sự giảm
dần, bí hiểm và tĩnh lặng của hoạt động con người, như một bức tranh tĩnh lặng của cuộc sống dần
dần chìm vào bóng tối. Phép đối được sử dụng một cách tinh tế, tạo nên một sự cân bằng đối xứng,
chuẩn xác, giúp bức tranh thơ trở nên uyển chuyển trang nhã. Những từ Hán Việt được lựa chọn
kỹ lưỡng, như bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, không chỉ làm tăng thêm vẻ trang nhã
cổ điển mà còn làm cho người đọc hòa mình vào không khí tinh tế và huyền bí của bức tranh thơ.
Đó chính là sự sáng tạo vô song của Bà Huyện Thanh Quan, khiến cho những từ ngữ không chỉ
mô tả, mà còn trở thành những hình ảnh sống động, níu giữ tâm trí và tình cảm của độc giả.
Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối, phần đơn. Sự đơn
độc này không chỉ là của con người trước bản lãnh tự nhiên mà còn là của tâm hồn, khi mỗi bước
chân của họ dường như trải qua những khoảnh khắc tĩnh lặng, giữa thế giới to lớn tận của
thiên nhiên. Điều y là nét đặc trưng của thơ Huyện Thanh Quan, nơi con người tự nhiên
hòa mình vào một không gian tĩnh lặng biểu tượng. Gặp cảnh người đây, ta không thể
không nhớ đến cảnh người, như một liên tưởng tự nhiên, mở ra một thế giới tưởng tượng đẹp
đẽ và lưu luyến. Đó chính là sức mạnh của từ ngữ và tưởng tượng trong thơ của Bà Huyện Thanh
Quan, khiến cho độc giả không chỉ đọc thơ còn trải nghiệm cảm nhận được sự đẹp tinh tế
và sâu sắc của nghệ thuật thơ ca.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Trong tác phẩm "Qua Đèo Ngang" của cùng tác giả, cảnh con người đều chìm đắm trong sự
lặng lẽ đượm buồn, tạo nên một không khí tĩnh lặng u sầu. Trong từng câu thơ, ta cảm
giác như nhà thơ đang lặng lẽ, thẩn thờ, chìm đắm vào hồn quê, trong sự trầm nghệ thuật
biểu đạt tinh tế. Câu thơ khéo léo vẽ nên bức tranh của con đường trước mắt bà, làm cho độc giả
hình dung được một không gian đy lịch sử và nỗi nhớ. Hai câu thơ này như những bức tranh lặng
lẽ, tĩnh mịch về con đường ngoằn nghèo, đầy những kỷ niệm, những chuyến đi, những câu
chuyện lịch sử. Huyện Thanh Quan đã sử dụng từ ngữ một cách tinh tế, để làm cho từng chi
tiết của con đường hiện lên như những dấu vết của thời gian, tô điểm bằng sự lặng lẽ và đọng lại
trong lòng người đọc.
Nhà thơ không chỉ tả cảnh đẹp còn truyền đạt tâm hồn sâu lắng nỗi nhớ thương của
mình. Bức tranh không chỉ là hình ảnh còn hồn quê, sự khắc sâu của thời gian và ký ức.
Nhà thơ lặng lẽ thẩn thờ giữa không gian quen thuộc, nơi mỗi chi tiết đều là một câu chuyện, một
dấu ấn của quá khứ. Từng câu thơ trong "Qua Đèo Ngang" không chỉ là một mô tả, mà còn là một
hành trình tìm về quê hương chính mình. Sự lặng lẽ trong từng từ, từng hình ảnh làm cho độc
giả không chỉ đọc còn trải qua cảm xúc, nhìn nhận sâu sắc về tình cảm tâm trạng nhà
thơ muốn truyền đạt.
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Trên con đường trước mắt, bao la như tận. Những chú chim bay mỏi mệt giữa bầu trời, đã
hành trình mệt mỏi nhưng vẫn chưa đạt tới nơi đích. Nhưng cũng như những khách du lịch, mặc
dù bước đi đều nhưng vẫn chưa đến được đích đến của họ. Những hình ảnh này là những phản ánh
hình tượng sâu sắc về con đường của cuộc sống, hay còn gọi con đường đời. Sự lặp lại của từ
"mỏi mệt" "bước dồn" không chỉ thể hiện sự chán chường mệt mỏi của người thơ, còn
làm nổi bật sự đối lập giữa nỗ lực mệt mỏi trong cuộc hành trình của con người. Nơi đây, ngôn
ngữ tinh tế của nhà thơ như một bức tranh vnên bức hình về những đau khổ khó khăn trên
hành trình của cuộc sống.
Câu hỏi về con đường đi hay con đường đời đang dần mở ra một tầm nhìn triết học, đặt ra nghi
vấn về ý nghĩa của cuộc sống và hành trình đi tìm kiếm ý nghĩa đó. Phép đối từng cặp hình ảnh
như ngàn mây dặm liễu, gió cuốn, sương sa, chim bay mỏi, khách bước dồn là một sự tinh tế, làm
tăng thêm sự huyền bí và nỗi mơ mộng của hành trình đời người.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai kể nỗi hàn ôn
Bên cạnh hình ảnh tận của trời đất bao la, như một không gian lớn tĩnh lặng, tác giả lại đối
mặt với sự vắng lặng trống trải trong cuộc sống, khiến cho trái tim ông quay về với nội tâm,
chìm đắm trong cảm xúc buồn bên trong. Không ai để tâm sự, nguyên cảnh thiên nhiên khổng lồ
vẫn đọng lại trong sự lặng lẽ, tạo nên một bức tranh tĩnh mịch, đầy hòa mình vào sự đơn
buồn bã.
Câu thơ cuối cùng, với vẻ ngoài của một câu cảm, đồng thời chứa đựng sự nghiệp hỏi, làm cho
độc giả đồng cảm suy ngẫm. không chỉ một biểu hiện của tâm trạng nhân còn
một câu hỏi hòa mình vào không gian thơ của bà Huyện Thanh Quan. Câu thơ này như một điểm
dừng, làm cho người đọc dừng lại và cảm nhận sâu sắc về sự đơn độc và hỏi về ý nghĩa của cuộc
sống.
Những câu thơ tài ba của bà Huyện Thanh Quan không chỉ biểu hiện của một nghệ sĩ mà còn là
hình ảnh của một tâm hồn đang lững thững trước vẻ đẹp và sự bất biến của tự nhiên. Nó là sự nối
kết giữa cảm xúc nhân những vấn đlớn lao về cuộc sống tồn tại, làm cho thơ của
không chỉ tuyệt tác nghệ thuật còn dấu vết sâu sắc của con người trước sự huyền
phức tạp của thế giới.
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta
(Qua đèo Ngang)
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
(Thăng Long hoài cổ)
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan không chỉ là một tác phẩm văn học đơn
thuần còn một tấm gương thấu hiểu tâm hồn, tưởng của những người phong kiến đang
trải qua giai đoạn suy thoái. Cảm nhận của tác giả về nỗi buồn, sự chán nản, tình cảm hoài cổ
được thể hiện qua từng chi tiết nhỏ trong bài thơ. Qua từng đoạn văn, người đọc được đưa về thời
kỳ lịch sử, nơi mà tầng lớp quý tộc đang trên đường suy thoái. Thơ Thanh Quan không chỉ là tiếng
nói của lớp nho mà còn bức tranh sống động về tâm trạng, tư tưởng của họ. Sự chán nản, bế
tắc trong nh thế lịch sử được thể hiện rõ qua tiếng thơ. Điều này làm nổi bật tâm tư buồn bã, thiết
tha nhớ về nhà cũ, và cảm giác hoài cổ về thời kỳ phồn thịnh đã qua.
Mặt khác, bài thơ không chỉ mang tâm trạng buồn nỗi mà còn là một tác phẩm đẹp đẽ, trầm lặng,
phản ánh tâm hồn sâu sắc của tác giả. Bức tranh thiên nhiên, ánh chiều tà, tiếng đàn chime làm
cho thơ trở nên đặc sắc cuốn hút độc giả. Sự kết hợp này giúp bài thơ trở nên phong cách, không
chỉ tác phẩm tâm lý mà còn c phẩm nghệ thuật. Tóm lại, "Chiều hôm nhớ nhà" không chỉ
một bức tranh lịch sử còn một tác phẩm thơ độ sâu về tâm hồn con người, với sự kết
hợp tinh tế giữa nỗi buồn, sự hoài cổ và vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bài thơ đọng lại nhưng lại mở ra
nhiều cảm xúc và suy nghĩ, để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm trí độc giả.
Mẫu 03. Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của huyện Thanh Quan hay
nhất
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Huyện Thanh Quan một tuyệt phẩm văn chương, một
hành trình đẹp về quê hương và tuổi thơ, đưa người đọc đắm chìm trong những hình ảnh tươi đẹp
và ký c ngọt ngào. Bức tranh tĩnh lặng và êm đềm được tạo nên như một chiếc cầu nối thời gian,
khiến cho ta như lạc vào không gian của những ký ức tình cảm ấm áp. Ngay từ câu đầu tiên,
với bài ca "Chiều hôm nhớ nhà, nhớ quê hương," tác giả đã khéo léo thể hiện sự đong đầy tình
cảm, sự nhớ thương quê nhà và tuổi thơ ngọt ngào. Ngôn ngữ giản dị và gần gũi như "mái tranh",
"đồng quê", "con đường,"... tạo nên một hình ảnh quen thuộc, mở cửa sổ cho người đọc nhìn thấy
những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc sống nông thôn.
Bức tranh hùng vĩ của "cánh đồng lúa chín vàng," "cánh đồng bát ngát," là những biểu tượng của
sự phồn thịnh và bình yên, nơi mà tâm hồn người dân quê hương đượm đà tình thương và gắn kết.
Tác giả không chỉ tả vẻ đẹp của cảnh quê còn làm sống động hóa những giá trị văn hóa
truyền thống, làm cho độc giả như đang đi bước chân qua từng con đường quen thuộc. Bài thơ
không chỉ một tác phẩm văn chương còn một cuộc hành trình tìm lại chính mình qua
những góc khuất của quê hương ký ức. Bằng những từ ngữ tinh tế, bài thơ "Chiều hôm nhớ
nhà" của Huyện Thanh Quan đã khắc sâu tâm hồn người đọc, để lại những dấu vết đẹp ấm
áp trong trái tim.
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan không chỉ là một tác phẩm văn chương
đẹp mắt còn một hành trình tri ân và tôn vinh tuổi thơ, nơi chứa đựng những kỷ niệm ngọt
ngào và những giá trị n hóa quý báu. Tác giả khéo léo kể vnhững hình ảnh ký ức đặc biệt
trong tuổi thơ của mình, mang đến cho độc giả một bức tranh tư duy và cảm xúc đẹp đẽ. Từ những
câu đầu tiên, với bài hát "Chiều hôm nhớ nhà, nhớ quê hương," tác giả đã mở ra cánh cửa của trái
tim và hồn quê, làm cho độc giả lạc mình trong không khí ấm áp và bình yên của những ngày thơ
ấu. Câu "đường đi học bằng cát trắng" không chỉ là một hình ảnh, mà là một cảm xúc đặc biệt,
hành trình vô tận của tuổi thơ, là những bước chân đầu tiên trên con đường của sự trưởng thành.
Những chi tiết nhỏ như "bàn ghế trường xưa," "bài hát tuổi thơ" là những hình ảnh quen thuộc, mô
tả một thời kỳ tươi đẹp, nơi tác giả đã trải qua những kniệm đáng nhớ học hỏi. Cảm xúc
tình cảm sâu sắc của bà được gửi gắm vào từng từ ngữ, từng hình ảnh, làm cho độc giả cảm nhận
được sự chân thành và tri ân của tác giả đối với quê hương tuổi thơ. i thơ không chỉ một
bức tranh về quê hương mà còn là bức chân dung tình cảm và sự quý báu của những ngày thơ ấu.
Huyện Thanh Quan đã thành công trong việc tái hiện tôn vinh những giá trị văn hóa, làm
cho "Chiều hôm nhớ nhà" trở thành một tác phẩm văn chương đẹp, sâu sắc và lưu luyến.
| 1/10

Preview text:

Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của bà huyện Thanh Quan hay nhất
Mẫu 01. Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của bà huyện Thanh Quan hay nhất
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan là một tác phẩm nổi tiếng trong nền thơ
Nôm Việt Nam thế kỷ XIX. Bài thơ này thể hiện nỗi buồn, lòng nhớ nhà của những người xa xứ,
một chủ đề phổ biến trong văn hóa Việt. Bà Huyện Thanh Quan mở đầu bài thơ bằng cảnh chiều
tà buông trên quê hương, một thời khắc chuyển giao giữa ngày và đêm. Tận dụng vẻ đẹp của cảnh
hoàng hôn để tạo nên bức tranh đẹp và u buồn, hòa mình vào không khí dễ thương của làng quê.
Người làm thơ biểu lộ sự đau khổ và nhớ nhà qua việc nhắc nhở về hương sắc của làng quê, làm
đẩy lực người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc với quê hương. Bài thơ không chỉ là bức tranh
về cảnh đẹp của chiều hôm, mà còn là biểu tượng cho tâm hồn những người xa xứ, những kẻ lưu
lạc, những người mang theo nỗi nhớ về quê hương trong lòng.
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?".
Câu thơ mở đầu với hình ảnh ánh hoàng hôn trên bức tranh của một buổi chiều viễn xứ. Tác giả
sử dụng hai chữ "bảng lảng" để mô tả ánh sáng của hoàng hôn, tạo nên một bức tranh tinh tế và
độc đáo. Từ "bảng lảng" có ý chỉ sự mơ hồ, không rõ ràng, tạo ra một hiệu ứng ánh sáng lờ mờ.
Trong bức tranh của tác giả, ánh hoàng hôn bao phủ cả không gian gần xa, làm cho mọi thứ trở
nên mơ hồ và mịn màng. Điều này không chỉ tạo nên một bối cảnh đẹp mắt mà còn làm nổi bật sự
huyền bí và thấm đẫm cảm xúc của buổi chiều.
Hình ảnh ánh hoàng hôn "bảng lảng" cũng mang theo sự biến đổi của thời gian, từ ánh sáng chói
lọi của ban ngày sang sự bí ẩn và nhẹ nhàng của buổi hoàng hôn. Đây có thể là biểu tượng cho sự
chuyển giao giữa ngày và đêm, tạo ra một không khí buồn bã và thư thái đồng thời. Từ ngữ tinh tế
này giúp độc giả hình dung một cách sống động về không khí và cảm xúc của buổi chiều, nâng
cao giá trị nghệ thuật của bức tranh mà tác giả muốn truyền đạt.
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn".
Chữ "bảng lảng" trong bài thơ là một nhãn tự đặc sắc, như là ánh mắt sáng lạc của bức tranh thi
ca. Nguyễn Du đã khéo léo lựa chọn từ ngôn ngữ để tạo nên một hình ảnh tươi đẹp, sống động về
hoàng hôn. Chữ "bảng lảng" không chỉ là một mô tả đơn thuần, mà còn là cầu nối giữa văn hóa và
nghệ thuật, làm tăng thêm giá trị nghệ thuật cho bài thơ.
"Trời tây bảng lảng bóng vàng" (Truyện Kiều)
Thông qua một vần thơ, một câu thơ, một chữ, Bà Huyện Thanh Quan đã khéo léo diễn đạt không
khí của khoảnh khắc hoàng hôn một cách tinh tế và điêu luyện. Trong bức tranh thơ, ánh hoàng
hôn không chỉ là sự chuyển động của ánh sáng khiến cho không gian trở nên mơ hồ và đẹp đẽ, mà
còn là nguồn gốc của một nỗi buồn lê thê, một cảm xúc sâu sắc trong lòng người đi xa. Tác giả
chọn từ "bảng lảng" để mô tả ánh hoàng hôn, tạo ra hình ảnh mềm mại và mơ mộng, giúp độc giả
cảm nhận được sự dịu dàng của khoảnh khắc đó.
Ngoài ra, sự chuyển động của thời gian và không gian cũng được thể hiện qua tiếng ốc và tiếng
trống đồn. Tiếng ốc "xa đưa vẳng" như là giọng hát của khoảnh khắc, một âm thanh buồn bã và xa
vời, tăng cường thêm vào cảm xúc của người đọc. Tiếng trống đồn trên chòi cao càng làm cho
không gian trở nên lớn lên, khiến nỗi buồn của lữ khách trở nên sâu sắc hơn. Bà Huyện Thanh
Quan đã tận dụng ngôn từ và âm thanh một cách khéo léo, để lại ấn tượng sâu sắc về cảm xúc và
vẻ đẹp của hoàng hôn trong lòng người đọc.
"Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn "
Phần thực và phần luận của bài thơ này tạo nên một tác phẩm vô cùng phong phú và sâu sắc, mô
tả một thế giới đầy hương vị văn hóa và tình cảm. Các thi liệu được chọn lựa với sự tinh tế, giúp
bức tranh thơ trở nên sống động và giàu cảm xúc. Ngư ông, mục tử, lữ khách là những nhân vật
quen thuộc nhưng vẫn được tác giả xử lí một cách độc đáo, làm nổi bật những khía cạnh tâm lý và
con người đặc biệt của họ. Các đối tượng này không chỉ là cá nhân mà còn là biểu tượng cho những
giá trị văn hóa, tâm hồn, và cuộc sống của người Việt Nam.
Cảnh vật trong bài thơ không chỉ là hình ảnh mà còn là nguồn cảm hứng sâu sắc. Ngàn mai, gió,
sương, "chim bay mỏi" tất cả đều được sử dụng một cách tinh tế, không chỉ làm giàu hình ảnh mà
còn tạo nên một không khí ước lệ, mơ mộng. Các từ ngữ như ngư, tiều, phong, sương, mai, liễu,
cánh chim chiều... đều là những từ ngữ thường thấy trong thi pháp cổ, nhưng tác giả đã sáng tạo
vô cùng tinh tế, tạo ra một bức tranh thơ mới mẻ, đầy sức sống. Tính cách sáng tạo của tác giả thể
hiện qua việc chọn từ, tạo hình ảnh, và đối câu, đối từ, đối thanh. Mỗi chi tiết trong bài thơ đều
được chăm chút kỹ lưỡng, từ việc chọn từ ngữ đến cách sắp xếp cấu trúc câu. Tất cả đều hòa quyện
để tạo nên một hồn thơ tài hoa, một ngòi bút trang nhã.
Qua bức tranh thơ, cảnh vật không chỉ là nền nã cho câu chuyện mà còn trở nên gần gũi, thân thuộc
với mọi con người Việt Nam. Hồn người Việt, bản sắc dân tộc được tái hiện qua cảnh vật, tạo nên
một tác phẩm văn hóa đậm đà và lôi cuốn.
Cuối cùng, chiều tà với hình ảnh ngư ông cùng con thuyền nhẹ trôi về viễn phố đã mở ra một khía
cạnh nhàn hạ, thoải mái của ngư ông, người sống ở miền quê và đã thoát khỏi vòng xoay của danh
lợi. Động từ "gác mái" không chỉ là một hành động đơn thuần mà còn là biểu tượng cho sự nhàn
hạ, sự tự do mà ngư ông đang trải qua.
"Gác mái, ngư ông về viễn phố".
Lũ trẻ, như những đóa hoa cỏ mơn mởn, thể hiện sự tươi trẻ và hồn nhiên. Việc họ "gõ sừng" của
mục đồng là biểu tượng cho sự vui đùa và yêu đời trong cuộc sống thôn quê. Hình ảnh này làm
nổi bật tinh thần lạc quan, hạnh phúc, và sự gắn bó mạnh mẽ với quê hương, nơi mà mỗi hành
động đều chứa đựng niềm vui và ý nghĩa sâu sắc.
Câu thơ này chính là một góc nhìn đẹp và ý nghĩa về cuộc sống nông thôn, với sự giản dị, tình tự,
và hạnh phúc tại "cô thôn". Nó là lời tri ân, gửi gắm tình yêu thương đặc biệt của tác giả đối với
quê hương và những giá trị truyền thống
"Gõ sừng mục tử lại cô thôn".
Bức tranh về con người trong bài thơ là những nét vẽ đặc sắc, tuyệt đẹp, mang đến cho độc giả
một trải nghiệm tinh tế về cuộc sống thôn dã đồng thời thể hiện sự thân thuộc và đáng yêu của
những hình ảnh được mô tả. Hai câu luận tiếp theo tạo nên một khung cảnh hình ảnh đầy cảm xúc
về cái lạnh lẽo, cô liêu của người lữ khách trên đường xa. Mô tả về trời sắp tối, những mái xào xạc
trong "gió cuốn", gió ngày càng mạnh, và cánh chim mỏi bay vội về rừng để tìm tổ, tất cả đều là
những chi tiết tinh tế, tạo nên không khí u ám, lạnh buốt. Sương mù dày đặc, liễu cong khói bao
phủ cả con đường, tăng cường cảm giác cô đơn và mệt mỏi.
Hình ảnh "chim bay mỏi" và "khách bước dồn" là những nét vẽ đôi đặc biệt, nó không chỉ mô tả
về sự mệt mỏi, cô đơn của người lữ khách mà còn làm tăng thêm sự u buồn, hối hả trong bức tranh.
Bức tranh này không chỉ là một miêu tả cảnh vật, mà còn là một bức tranh tâm lý, thể hiện những
tình cảm sâu sắc của con người trước những khó khăn, trên con đường dài nghìn dặm xa xôi. Câu
thơ "bước dồn" tìm nơi nghỉ trọ là hình ảnh tuyệt vời, nhấn mạnh sự bất an, hoang mang của người
lữ khách giữa dòng đời hối hả và bất lực. Đảo ngữ được sử dụng một cách tinh tế, làm nổi bật sự
bao la và xa xôi của nẻo đường, tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ về sự vô tận và khó khăn của cuộc hành trình.
"Ngàn mai, gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu, sương sa khách bước dồn".
Qua những câu thơ, Bà Huyện Thanh Quan tái hiện hình ảnh của chiều hôm, nơi mà bóng hoàng
hôn đọng lại trên cảnh quan và tâm hồn. Việc sử dụng từ ngữ mô tả và hình ảnh của cảnh hoàng
hôn giúp tác giả truyền đạt một cảm xúc đặc biệt, nỗi nhớ nhà và tình cảm bồi hồi.
Câu kết hợp hai vế tiểu đối "Kẻ chốn / Chương Đài người lữ thứ" là sự tận dụng điển tích của
"Chương Đài" trong văn hóa để tạo nên một khung cảnh lãng mạn và đầy ý nghĩa. "Chương Đài"
ở đây không chỉ là điểm phân ly mà còn là biểu tượng cho tình yêu và gặp gỡ. Tình cảm "lữ thứ"
gợi lên hình ảnh của người đi xa, cảm giác lạc lõng giữa nơi xa xôi. Câu hỏi cuối cùng "Hàn ôn
làm chi lữ thứ?" thể hiện sự thắc mắc và tâm sự của người lữ thứ. "Hàn ôn" có thể hiểu là niềm
nhớ nhà và nỗi buồn cô đơn trong những cảnh trời xa xôi. Sự đặt câu hỏi tạo nên một bức tranh
của tâm trạng và nỗi nhớ thương chôn sâu trong lòng người lữ thứ, thể hiện sự tận thức về sự xa cách và lẻ loi.
"Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?"
"Chiều hôm nhớ nhà" và "Qua Đèo Ngang" là hai tác phẩm thơ thất ngôn bát cú của Bà Huyện
Thanh Quan, những bức tranh tinh tế và đầy nghệ thuật mà bà sáng tác trong thời kỳ nữ sĩ trên
đường thiên lí vào kinh đô Huế, khi nhận chức nữ quan trong triều Nguyễn. Những bài thơ này có
thể xem như những bút kí tuyệt vời, độc đáo với sự tư duy sâu sắc và khả năng diễn đạt tinh tế của
bà. Nghệ thuật thơ của Bà Huyện Thanh Quan thường mang đậm nét buồn, hoài cổ, và thương
nhớ, đặc biệt là khi bà đề cập đến hoàng hôn. Lời thơ của bà được xây dựng với sự trang nhã, sử
dụng nhiều từ ngữ Hán Việt như "bảng lảng", "hoàng hôn", "ngư ông", "viễn phố", tạo nên một
phong cách trang trọng, cổ điển và nhạc điệu trầm bổng, lôi cuốn người đọc vào thế giới tưởng tượng của bà.
"Chiều hôm nhớ nhà" là một tác phẩm nghệ thuật tinh tế, chứa đựng tình cảm thương nhớ và bâng
khuâng. Bài thơ này là như một bức tranh sống động về không gian quê hương, với những hình
ảnh đẹp nhưng buồn bã về ngôi nhà cũ, con đường quen thuộc và những kỷ niệm hạnh phúc. Bà
Huyện Thanh Quan biểu đạt tâm trạng như một bức tranh với những chi tiết tinh tế, sử dụng ngôn
ngữ giàu hình ảnh để làm đậm chất lãng mạn và thơ mộng của bức tranh này. "Qua Đèo Ngang"
là một tác phẩm khác của Bà Huyện Thanh Quan, tiếp tục mang đến cho độc giả những cảm xúc
sâu sắc và đằm thắm. Bài thơ này tả cảnh đi qua Đèo Ngang, nơi có thể được hiểu như là một biểu
tượng cho cuộc hành trình của cuộc đời. Bà sử dụng những hình ảnh của cảnh đẹp thiên nhiên để
thể hiện sự huyền bí và đầy bí ẩn của đèo núi, kết hợp với cảm xúc của người đi ngang qua nơi
này, tạo nên một bức tranh tâm lý phong phú.
Mẫu 02. Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của bà huyện Thanh Quan hay nhất
Trong thế giới thơ Việt Nam, nữ sĩ đã để lại những dấu ấn đẹp, và Bà Huyện Thanh Quan là một
trong số những nhà thơ nữ xuất sắc. So với tài năng ngạo mạn của Hồ Xuân Hương, thì thơ của
Bà Huyện Thanh Quan lại toát lên vẻ trang nhã, trữ tình và duyên dáng. Trong những bài thơ của
bà, ta cảm nhận được không khí của nỗi buồn man mác, tâm trạng hoài cổ cao quý đượm sự cô
đơn và trống vắng. Một trong những tác phẩm nổi bật của bà là "Chiều hôm nhớ nhà," nơi tài thơ
điêu luyện của bà thể hiện rõ. Trời chiều rơi bóng lảng vào bức tranh hoàng hôn, khiến không gian
trở nên ấm áp và tràn ngập cảm xúc. Tiếng ốc xa vang, như một điệu nhạc trống dồn, đưa đến âm
thanh nhẹ nhàng, êm đềm, như chính là giọng hòa nhạc của tự nhiên. Gác mái, ngư ông về viễn
phố, tạo ra hình ảnh của sự quay về, của sự bình yên sau những ngày lao động. Gõ sừng, mục tử
lại cô thôn, như một nét văn hóa sâu sắc, làm nổi bật nét truyền thống trong cuộc sống của những
người dân quê mùa. Cảnh tượng này không chỉ là hình ảnh mà còn là ký ức, là sự đậm chất văn hóa.
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi, mô tả một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, làm nổi bật sự mệt
mỏi của đám chim sau những chặng đường dài. Bức tranh này không chỉ là về cảnh đẹp tự nhiên
mà còn là về những nỗ lực, sự đối mặt với khó khăn của con người. Tất cả những hình ảnh này
được Bà Huyện Thanh Quan sắp xếp một cách tinh tế, chọn từ ngữ một cách khéo léo, tạo nên một
bức tranh thơ đầy ấn tượng và lôi cuốn. Thơ của bà không chỉ là sự sắp đặt các từ ngữ mà còn là
sự thấu hiểu sâu sắc về tâm hồn con người và vẻ đẹp của tự nhiên. Đó chính là điểm mạnh của tài
thơ điêu luyện của Bà Huyện Thanh Quan, để lại cho độc giả những trải nghiệm tâm linh sâu sắc và khó quên.
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Trong hai câu đề đầu tiên, Bà Huyện Thanh Quan tạo ra một không khí chiều tà bình yên và trữ
tình, khiến người đọc cảm nhận được sự lảng mạng của hoàng hôn trên bảng trời. Dưới ánh ánh
sáng dịu dàng, cảnh đẹp tự nhiên bắt đầu hiện lên với những gam màu ấm áp, làm nổi bật hình ảnh
của một vùng quê yên bình. "Bảng lảng" tạo hình ảnh ánh sáng dịu dàng và lờ mờ, làm nổi bật
không gian buổi chiều, nơi hoàng hôn bắt đầu chiếm lĩnh, và ánh sáng trở nên mềm mại. Sự lảng
mạng này không chỉ là một đặc điểm của thời gian, mà còn là bức tranh tĩnh lặng của tự nhiên, tạo
ra một không khí lãng mạn và dễ chịu.
Việc sử dụng "bảng lảng" cũng có thể ám chỉ đến bức tranh tự nhiên, cảnh đẹp mà Bà Huyện
Thanh Quan muốn truyền đạt. Từ ngôn ngữ này, người đọc có thể hình dung ra cảnh đẹp của một
vùng quê yên bình, với ánh hoàng hôn tạo nên bức tranh mộng mơ và huyền bí. Khi nói đến buổi
chiều, tác giả thường thể hiện một sự buồn bã, một cảm giác lẻ loi và suy tư. Buổi chiều chính là
khoảnh khắc tĩnh lặng, khi con người có thể tìm lại sự bình yên và cảm nhận được vẻ đẹp tĩnh lặng của thiên nhiên.
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Âm thanh từ xa vang đến như một lời thúc giục, nhưng vẫn giữ nguyên cái trầm lặng kỳ diệu, đó
là dấu hiệu rõ ràng cho mọi người biết rằng ngày đã gần kết thúc. Trước bức tranh này, chúng ta
như đang chạm vào một nét thân quen, hòa mình trong không khí man mác của những câu ca dao
quê hương. Âm thanh đó không chỉ đơn giản là một âm thanh, mà như một cảm xúc, là một lời
nhắc nhở về thời gian, về sự tạm biệt và kết thúc một ngày. Nó giống như những giai điệu lấp lánh
của những câu ca dao, vô tình đánh thức những ký ức tĩnh lặng, những giây phút êm đềm dưới
bóng chiều tà. Bức tranh này không chỉ đưa ta đến với thế giới âm thanh mà còn làm cho chúng ta
ngửi thấy hương vị của quê hương, cảm nhận được sự chấm dứt của một ngày. Nó là một lời nhắc
nhở nhẹ nhàng về sự trôi qua của thời gian, về vẻ đẹp trong sự tĩnh lặng và lòng nhẹ nhàng như
những câu ca dao dân gian.
Trong bức tranh này, người đọc không chỉ nghe thấy âm thanh mà còn nhận thức được tâm trạng
sâu sắc, cái gì đó thân quen và trải lòng như hòa mình vào câu chuyện của quê hương. Đó chính
là sức mạnh của từ ngữ, biến những âm thanh bình dị thành những cảm xúc sâu sắc, làm cho bức
tranh thơ trở nên sống động và gần gũi hơn với trái tim của người đọc.
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Tâm trạng của tác giả được tinh tế thể hiện thông qua sự chọn lựa kỹ thuật văn hóa, tập trung vào
thời điểm, không khí và âm thanh. Trong khung cảnh hữu tình của buổi chiều, qua tiếng gọi mỏi
mòn của tàn ngày, tác giả đã khéo léo tái hiện tâm lý phức tạp và đầy nghệ thuật. Thời điểm chọn
lọc là chiều tà, nơi ánh sáng chuyển dịch, và hoàng hôn bắt đầu chiếm lĩnh. Sự lựa chọn này không
chỉ tạo ra bức tranh tự nhiên tuyệt vời mà còn chứa đựng sâu sắc nét buồn của tâm hồn tác giả. Sự
lảng mạng của ánh sáng "bảng lảng" đã làm nổi bật không gian, tăng cường cảm nhận về vẻ đẹp
mộng mơ và huyền bí. Tiếng gọi tàn ngày được mô tả một cách mở cửa rộng, không chỉ là âm
thanh thông thường mà còn chứa đựng sự mệt mỏi và nhọc nhằn của cuộc sống. Sự lựa chọn này
giúp tạo ra một không khí khó diễn đạt bằng từ ngữ, làm tăng cường hiệu ứng cảm xúc của bài thơ.
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Câu thơ với nhịp 2/5 như một nhịp điệu nhẹ nhàng, làm cho ta dễ dàng cảm nhận được sự giảm
dần, bí hiểm và tĩnh lặng của hoạt động con người, như một bức tranh tĩnh lặng của cuộc sống dần
dần chìm vào bóng tối. Phép đối được sử dụng một cách tinh tế, tạo nên một sự cân bằng đối xứng,
chuẩn xác, giúp bức tranh thơ trở nên uyển chuyển và trang nhã. Những từ Hán Việt được lựa chọn
kỹ lưỡng, như bảng lảng, hoàng hôn, ngư ông, viễn phố, không chỉ làm tăng thêm vẻ trang nhã và
cổ điển mà còn làm cho người đọc hòa mình vào không khí tinh tế và huyền bí của bức tranh thơ.
Đó chính là sự sáng tạo vô song của Bà Huyện Thanh Quan, khiến cho những từ ngữ không chỉ là
mô tả, mà còn trở thành những hình ảnh sống động, níu giữ tâm trí và tình cảm của độc giả.
Trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối, và có phần cô đơn. Sự đơn
độc này không chỉ là của con người trước bản lãnh tự nhiên mà còn là của tâm hồn, khi mỗi bước
chân của họ dường như trải qua những khoảnh khắc tĩnh lặng, giữa thế giới to lớn và vô tận của
thiên nhiên. Điều này là nét đặc trưng của thơ Bà Huyện Thanh Quan, nơi con người và tự nhiên
hòa mình vào một không gian tĩnh lặng và biểu tượng. Gặp cảnh và người ở đây, ta không thể
không nhớ đến cảnh và người, như một liên tưởng tự nhiên, mở ra một thế giới tưởng tượng đẹp
đẽ và lưu luyến. Đó chính là sức mạnh của từ ngữ và tưởng tượng trong thơ của Bà Huyện Thanh
Quan, khiến cho độc giả không chỉ đọc thơ mà còn trải nghiệm và cảm nhận được sự đẹp tinh tế
và sâu sắc của nghệ thuật thơ ca.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Trong tác phẩm "Qua Đèo Ngang" của cùng tác giả, cảnh và con người đều chìm đắm trong sự
lặng lẽ và đượm buồn, tạo nên một không khí tĩnh lặng và u sầu. Trong từng câu thơ, ta có cảm
giác như nhà thơ đang lặng lẽ, thẩn thờ, chìm đắm vào hồn quê, trong sự trầm tư và nghệ thuật
biểu đạt tinh tế. Câu thơ khéo léo vẽ nên bức tranh của con đường trước mắt bà, làm cho độc giả
hình dung được một không gian đầy lịch sử và nỗi nhớ. Hai câu thơ này như những bức tranh lặng
lẽ, tĩnh mịch về con đường ngoằn nghèo, đầy những kỷ niệm, những chuyến đi, và những câu
chuyện lịch sử. Bà Huyện Thanh Quan đã sử dụng từ ngữ một cách tinh tế, để làm cho từng chi
tiết của con đường hiện lên như những dấu vết của thời gian, tô điểm bằng sự lặng lẽ và đọng lại trong lòng người đọc.
Nhà thơ không chỉ mô tả cảnh đẹp mà còn truyền đạt tâm hồn sâu lắng và nỗi nhớ thương của
mình. Bức tranh không chỉ là hình ảnh mà còn là hồn quê, là sự khắc sâu của thời gian và ký ức.
Nhà thơ lặng lẽ thẩn thờ giữa không gian quen thuộc, nơi mỗi chi tiết đều là một câu chuyện, một
dấu ấn của quá khứ. Từng câu thơ trong "Qua Đèo Ngang" không chỉ là một mô tả, mà còn là một
hành trình tìm về quê hương và chính mình. Sự lặng lẽ trong từng từ, từng hình ảnh làm cho độc
giả không chỉ đọc mà còn trải qua cảm xúc, nhìn nhận sâu sắc về tình cảm và tâm trạng mà nhà thơ muốn truyền đạt.
Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Trên con đường trước mắt, bao la như vô tận. Những chú chim bay mỏi mệt giữa bầu trời, dù đã
hành trình mệt mỏi nhưng vẫn chưa đạt tới nơi đích. Nhưng cũng như những khách du lịch, mặc
dù bước đi đều nhưng vẫn chưa đến được đích đến của họ. Những hình ảnh này là những phản ánh
hình tượng sâu sắc về con đường của cuộc sống, hay còn gọi là con đường đời. Sự lặp lại của từ
"mỏi mệt" và "bước dồn" không chỉ thể hiện sự chán chường và mệt mỏi của người thơ, mà còn
làm nổi bật sự đối lập giữa nỗ lực và mệt mỏi trong cuộc hành trình của con người. Nơi đây, ngôn
ngữ tinh tế của nhà thơ như một bức tranh vẽ nên bức hình về những đau khổ và khó khăn trên
hành trình của cuộc sống.
Câu hỏi về con đường đi hay con đường đời đang dần mở ra một tầm nhìn triết học, đặt ra nghi
vấn về ý nghĩa của cuộc sống và hành trình đi tìm kiếm ý nghĩa đó. Phép đối từng cặp hình ảnh
như ngàn mây dặm liễu, gió cuốn, sương sa, chim bay mỏi, khách bước dồn là một sự tinh tế, làm
tăng thêm sự huyền bí và nỗi mơ mộng của hành trình đời người.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Bên cạnh hình ảnh vô tận của trời đất bao la, như một không gian lớn và tĩnh lặng, tác giả lại đối
mặt với sự vắng lặng và trống trải trong cuộc sống, khiến cho trái tim ông quay về với nội tâm,
chìm đắm trong cảm xúc buồn bên trong. Không ai để tâm sự, nguyên cảnh thiên nhiên khổng lồ
vẫn đọng lại trong sự lặng lẽ, tạo nên một bức tranh tĩnh mịch, đầy hòa mình vào sự cô đơn và buồn bã.
Câu thơ cuối cùng, với vẻ ngoài của một câu cảm, đồng thời chứa đựng sự nghiệp hỏi, làm cho
độc giả đồng cảm và suy ngẫm. Nó không chỉ là một biểu hiện của tâm trạng cá nhân mà còn là
một câu hỏi hòa mình vào không gian thơ của bà Huyện Thanh Quan. Câu thơ này như một điểm
dừng, làm cho người đọc dừng lại và cảm nhận sâu sắc về sự đơn độc và hỏi về ý nghĩa của cuộc sống.
Những câu thơ tài ba của bà Huyện Thanh Quan không chỉ là biểu hiện của một nghệ sĩ mà còn là
hình ảnh của một tâm hồn đang lững thững trước vẻ đẹp và sự bất biến của tự nhiên. Nó là sự nối
kết giữa cảm xúc cá nhân và những vấn đề lớn lao về cuộc sống và tồn tại, làm cho thơ của bà
không chỉ là tuyệt tác nghệ thuật mà còn là dấu vết sâu sắc của con người trước sự huyền bí và
phức tạp của thế giới.
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta (Qua đèo Ngang)
Cảnh đấy, người đây luống đoạn trường
(Thăng Long hoài cổ)
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của Bà Huyện Thanh Quan không chỉ là một tác phẩm văn học đơn
thuần mà còn là một tấm gương thấu hiểu tâm hồn, tư tưởng của những người phong kiến đang
trải qua giai đoạn suy thoái. Cảm nhận của tác giả về nỗi buồn, sự chán nản, và tình cảm hoài cổ
được thể hiện qua từng chi tiết nhỏ trong bài thơ. Qua từng đoạn văn, người đọc được đưa về thời
kỳ lịch sử, nơi mà tầng lớp quý tộc đang trên đường suy thoái. Thơ Thanh Quan không chỉ là tiếng
nói của lớp nho sĩ mà còn là bức tranh sống động về tâm trạng, tư tưởng của họ. Sự chán nản, bế
tắc trong tình thế lịch sử được thể hiện rõ qua tiếng thơ. Điều này làm nổi bật tâm tư buồn bã, thiết
tha nhớ về nhà cũ, và cảm giác hoài cổ về thời kỳ phồn thịnh đã qua.
Mặt khác, bài thơ không chỉ mang tâm trạng buồn nỗi mà còn là một tác phẩm đẹp đẽ, trầm lặng,
phản ánh tâm hồn sâu sắc của tác giả. Bức tranh thiên nhiên, ánh chiều tà, tiếng đàn chime làm
cho thơ trở nên đặc sắc và cuốn hút độc giả. Sự kết hợp này giúp bài thơ trở nên phong cách, không
chỉ là tác phẩm tâm lý mà còn là tác phẩm nghệ thuật. Tóm lại, "Chiều hôm nhớ nhà" không chỉ
là một bức tranh lịch sử mà còn là một tác phẩm thơ có độ sâu về tâm hồn con người, với sự kết
hợp tinh tế giữa nỗi buồn, sự hoài cổ và vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bài thơ đọng lại nhưng lại mở ra
nhiều cảm xúc và suy nghĩ, để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm trí độc giả.
Mẫu 03. Phân tích bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của bà huyện Thanh Quan hay nhất
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan là một tuyệt phẩm văn chương, là một
hành trình đẹp về quê hương và tuổi thơ, đưa người đọc đắm chìm trong những hình ảnh tươi đẹp
và ký ức ngọt ngào. Bức tranh tĩnh lặng và êm đềm được tạo nên như một chiếc cầu nối thời gian,
khiến cho ta như lạc vào không gian của những ký ức và tình cảm ấm áp. Ngay từ câu đầu tiên,
với bài ca "Chiều hôm nhớ nhà, nhớ quê hương," tác giả đã khéo léo thể hiện sự đong đầy tình
cảm, sự nhớ thương quê nhà và tuổi thơ ngọt ngào. Ngôn ngữ giản dị và gần gũi như "mái tranh",
"đồng quê", "con đường,"... tạo nên một hình ảnh quen thuộc, mở cửa sổ cho người đọc nhìn thấy
những khoảnh khắc đẹp nhất của cuộc sống nông thôn.
Bức tranh hùng vĩ của "cánh đồng lúa chín vàng," "cánh đồng bát ngát," là những biểu tượng của
sự phồn thịnh và bình yên, nơi mà tâm hồn người dân quê hương đượm đà tình thương và gắn kết.
Tác giả không chỉ mô tả vẻ đẹp của cảnh quê mà còn làm sống động hóa những giá trị văn hóa
truyền thống, làm cho độc giả như đang đi bước chân qua từng con đường quen thuộc. Bài thơ
không chỉ là một tác phẩm văn chương mà còn là một cuộc hành trình tìm lại chính mình qua
những góc khuất của quê hương và ký ức. Bằng những từ ngữ tinh tế, bài thơ "Chiều hôm nhớ
nhà" của bà Huyện Thanh Quan đã khắc sâu tâm hồn người đọc, để lại những dấu vết đẹp và ấm áp trong trái tim.
Bài thơ "Chiều hôm nhớ nhà" của bà Huyện Thanh Quan không chỉ là một tác phẩm văn chương
đẹp mắt mà còn là một hành trình tri ân và tôn vinh tuổi thơ, nơi chứa đựng những kỷ niệm ngọt
ngào và những giá trị văn hóa quý báu. Tác giả khéo léo kể về những hình ảnh và ký ức đặc biệt
trong tuổi thơ của mình, mang đến cho độc giả một bức tranh tư duy và cảm xúc đẹp đẽ. Từ những
câu đầu tiên, với bài hát "Chiều hôm nhớ nhà, nhớ quê hương," tác giả đã mở ra cánh cửa của trái
tim và hồn quê, làm cho độc giả lạc mình trong không khí ấm áp và bình yên của những ngày thơ
ấu. Câu "đường đi học bằng cát trắng" không chỉ là một hình ảnh, mà là một cảm xúc đặc biệt, là
hành trình vô tận của tuổi thơ, là những bước chân đầu tiên trên con đường của sự trưởng thành.
Những chi tiết nhỏ như "bàn ghế trường xưa," "bài hát tuổi thơ" là những hình ảnh quen thuộc, mô
tả một thời kỳ tươi đẹp, nơi tác giả đã trải qua những kỷ niệm đáng nhớ và học hỏi. Cảm xúc và
tình cảm sâu sắc của bà được gửi gắm vào từng từ ngữ, từng hình ảnh, làm cho độc giả cảm nhận
được sự chân thành và tri ân của tác giả đối với quê hương và tuổi thơ. Bài thơ không chỉ là một
bức tranh về quê hương mà còn là bức chân dung tình cảm và sự quý báu của những ngày thơ ấu.
Bà Huyện Thanh Quan đã thành công trong việc tái hiện và tôn vinh những giá trị văn hóa, làm
cho "Chiều hôm nhớ nhà" trở thành một tác phẩm văn chương đẹp, sâu sắc và lưu luyến.