





Preview text:
Bài thơ Chiều tối
Vấn đề 1 : Chép phần phiên âm và dịch nghĩa bài thơ “Mộ”. So sánh và đánh
giá độ chênh lệch giữa bản dịch thơ và nguyên tác.
“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” * So sánh:
- ở hai câu đầu phần nguyên tác “cô vân mạn mạn” nghĩa là chòm mây cô đơn trôi
lững lờ. Song ở bản dịch thơ lại là “chòm mây trôi nhẹ”. Như vậy là chưa lột tả
được cái thần của cảnh vật, chưa biểu đạt được cái tâm trạng ẩn chứa bên trong
hình ảnh chòm m ây đó là “cô đơn, có một cái gì đó của sự nóng lòng sốt ruột”
- ở câu 3 hình ảnh “sơn thôn thiếu nữ” dịch là cô em xóm núi đã làm mất đi cái
nhìn trân trọng đối với người lao động. Hơn thế ở nguyên tác không cần có chữ tối
(như bản dịch thơ mà vẫn thể hiện được trời đã tối)
- ở câu 3 và câu 4 có sự điệp lại cụm từ “ma bao túc”- “bao túc ma” như gợi ra
những vòng quay đều đặn liên tục của chiếc cối xay, điều đó bản dịch thơ chưa lột tả được.
Vấn đề 2: Bình giảng bài thơ Mộ A. Đặt vấn đề:
- Chiều tối là bài thơ thứ 31 trong 133 bài ở tập NKTT của Hồ Chí Minh. Big thơ
được ra đời vào khoảng mùa thu năm 1942 trên con đường HCM bị áp giải từ nhà
lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo
-> Trên con đường tù đày với “53 dặm một ngày trời” ấy Bác đã vượt lên hoàn
cảnh cơ cực để đồng cảm với thiên nhiên, cuộc sống, con người
- Vẻ đẹp của bài thơ “Chiều tối” không chỉ là vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên – vẻ
đẹp của con người lao động mà quan trọng hơn là vẻ đẹp tâm hồn của chủ thể trữ tình. B. Giải quyết vấn đề:
I. Hai câu thơ đầu đã thể hiện rõ cảnh thiên nhiên chiều tối và ẩn chứa bên trong là
tâm trạng con người trước cảnh chiều tối:
Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
+ Một khung cảnh thiên nhiên nơi rừng núi lúc chiều tối. Có cánh chim chiều mệt
mỏi đang bay về tổ. Có chòm mây lẻ loi, lững lờ trôi giữa tầng không
+ Một không gian rộng lớn, thinh vắng trong cái thời khắc cuối cùng của một ngày
1. Cảnh chiều tối được gợi lên bắt đầu từ hình ảnh cánh chim khá quen thuộc:
“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ”
a. Chỉ với cánh chim bay về rừng này câu thơ đã lộ rõ thời gian đang trôi dần về
tối ở vùng sơn cước. Cách diễn tả thời gian bằng hình ảnh cánh chim ấy vốn là
motip quen thuộc trong thi ca phương Đông
“Chim bay về núi tối rồi” (Ca dao)
“Chim hôm thoi thót về rừng” (Nguyễn Du)
“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” (Huy Cận)
- Tuy nhiên hình ánh cánh chim trong chiều tối vốn còn có những nét khác với thi ca truyền thống
+ Cánh chim trong cổ thi thường bay với sự phiêu bạt
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” Hay:
“Thiên sơn điểu phi tuyệt” (Ngàn non bóng chim tắt) (Liễu Tông Nguyên)
=> Đây đều là những cánh chim bay mất hút trong không gian vô tận của ngàn non.
Đằng sau nó là tâm trạng cô độc, bất lực trước cái vô cùng của không gian vũ trụ.
+ Còn trong “Chiều tối” của HCM thì cánh chim không hề vô vọng mà đang tìm
về tổ ấm - tìm về sự sống, nó vừa là một nét vẽ phác hoạ không gian vừa gợi ra ý niệm thời gian.
b. Hình ảnh cánh chim trong chiều tối bên cạnh ý nghĩa biểu hiện thời gian, không
gian còn có ý nghĩa biệu hiện tâm trạng
- Chim bay về rừng là tín hiệu của buổi chiều tối nhưng ở đây chim bay trong
trạng thái mệt mỏi – “quyện điểu”
-> Hình tượng cánh chim trong thơ Bác không chỉ được quan sát ở trạng thái vận
động bên ngoài như trong thơ xưa (cánh chim bay) mà còn được cảm nhận rất sâu
ở trạng thái bên trong (cánh chim mỏi mệt).
- Phải chăng trạng thái ấy đã phần nào nói lên cảnh ngộ và tâm trạng của người
đang nhìn cảnh chiều? Có thể thấy một sự gần gũi, tương đồng giữa cánh chim
mỏi mệt sau một ngày kiếm ăn với người tù đã thấm mệt sau một ngày vất vả lê
bước trên đường đi đày, chiều tối mà vẫn chưa biết đâu là chốn nghỉ. Sự tương
đồng của hoàn cảnh ấy đã tạo ra mối tương thông giữa người và cảnh. Ngoại cảnh
mà cũng là tâm cảnh. Trong ý thơ có sự hoà hợp, đồng điệu giữa tâm hồn nhà thơ
với cảnh vật thiên nhiên. Cội nguồn của sự cảm thông ấy là tình yêu thương mênh
mông của Bác dành cho mợi sống trên đời.
2. Nếu câu khai chủ yếu gợi về thời gian thì câu thừa lại gợi về mặt không gian chiều tối
“Cô vân mạn mạn độ thiên không”
a. So với nguyên tác thì câu thơ dịch chưa lột tả được ý thơ nguyên tác là chòm
mây cô đơn trôi lững lờ trên tầng không
=> Như vậy hai chữ “cô vân” không chỉ nói lên một chòm mây đơn lẻ giữa trời
chiều mà còn diễn tả tâm trạng buồn bã lẻ loi giữa cái bao la của không gian chiều tối.
b. Hình ảnh “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” gợi nhớ câu thơ của Thôi Hiệu
trong bài Hoàng Hạc lâu “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” và thơ Nguyễn
Khuyến “Tầng mây lơ lửg trời xanh ngắt” (Thu điếu). Vẫn là một thi liệu quen
thuộc nhưng mây trong thơ Bác không gợi sự vĩnh viễn hay mang cái khắc khoải
mơ hồ của con người trước hư không mà là một chòm mây cô đơn, đang chậm
chậm trôi giữa bầu trời bao la. Chòm mây như có hồn người, nó như mang cái
tâm trạng lẻ loi, đơn độc và cái băn khoăn, trăn trở chưa biết tương lai phía trước
sẽ đến đâu của người tù nơi đất khách.
c. Có thể nói câu thơ thứ hai với hình ảnh chòm mây cô đơn trôi lững lờ trước hết
đã gợi lên một không gian hoang vắng mênh mông. Hơn thế, trong hình ảnh này
nhà thơ còn gửi gắm niềm cô đơn, sự sốt ruột bởi cảnh tù hãm, niềm khát khao về một bến bờ bình yên.
d. Hai câu thơ đầu của bài Chiều tối còn gợi nhớ hai câu thơ của Lí Bạch trong bài:
“Độc toạ Kính Đình sơn” (Một mình ngồi trên núi Kính Đình)
“Chúng điểu cao phi tận Cô vân độc khứ nhàn”
(Bầy chim một loạt bay cao
Lưng trời thơ thẩn đám mây một mình) (Xuân Diệu dịch)
-> Có thể thấy, nếu cánh chim trong thơ Lí Bạch bay mất hút vào cõi vô tận thì
trong thơ Bác, đó là cánh chim ccủa đời sống hiện thực, nó bay theo cái nhịp điệu
quen thuộc và bình ổn của cuộc sống: sáng bay đi kiếm ăn, tối bay về rừng tìm
chốn ngủ. ánh mây của Lí Bạch bay nhàn tản gợi cảm giác thoát tục, còn chòm
mây trong thơ Bác toát lên cái vẻ yên ả, thanh bình của đời sống thường ngày. * Tóm lại:
- Hai câu khai, thừa của bài thơ đã tái hiện được bức tranh thiên nhiên nơi sơn
cước lúc chiều tối. Bức tranh ấy đã được thể hiện qua bút pháp chấm phá lấy điểm
để gợi diện. Chỉ bằng hai hình ảnh: cánh chim, chòm mây mà vừa gợi được thời
gian, vừa gợi được không gian của buổi chiều tối.
- Từ bức tranh thiên nhiên ấy đã biểu lộ cảnh ngộ và tâm trạng của người ngắm
cảnh. Đó là sự cô đơn và nỗi buồn- nỗi buồn của người xa xứ đang bị áp giải giữa
cảnh núi rừng khi chiều tối dần buông
-> Qua nỗi buồn cô đơn ở hai câu mở đầu bài thơ “Chiều tối” chúng ta càng thấy rõ
hơn một điều đó là: “Nhật kí trong tù” của HCM không chỉ biểu hiện một tâm hồn
lớn lao cao cả mà còn chân thành bày tỏ những nỗi niềm riêng của một con người như mọi con người.
- Thế nhưng, dù bị giải đi từ lúc “Gà gáy một lần đêm chửa tan”, phải hứng chịu
“Gió thu lạnh lẽo từng trận từng trận táp vào mặt”, phải trải qua “Năm mươi ba cây
số một ngày- Mũ áo dầm mưa rách hết giày” trong tình cảnh “xiềng xích thay dây
trói” và rồi “Lại khổ thâu đêm không đủ chỗ- Ngồi trên hố xí đợi ban mai”, tâm
hồn của Bác vẫn luôn hướng về thiên nhiên. Từ bức tranh thiên nhiên , ta thấy một
cái nhìn trìu mến dõi theo từng biểu hiện của tạo vật. Đằng sau cái nhìn ấy, cháy
bỏng và khắc khoải một ước mong sum họp, một niềm khao khát tự do.
- Mệt mỏi, đau đớn và chán chường, vậy mà cảm hứng thơ vẫn đến với Bác.
Không có chân dung người tù khổ ải mà chỉ hiện ra cái dáng vẻ, phong độ của bậc
tao nhân mặc khách đang ung dung, thư thái thưởng ngoạn cảnh chiều hôm nơi núi
rừng. Những câu thơ mềm mại nhưng thực ra lại có chất thép bên trong. Nếu
không có ý chí và nghị lực phi thường vượt lên hoàn cảnh, có bản lĩnh kiên cường
và sự tự chủ, tự do hoàn toàn về tinh thần ở Bác thì cũng khó có được những vần
thơ cảm nhận thiên nhiên sâu sắc, tinh tế như thế trong hoàn cảnh tù đày khắc
nghiệt. Quả đúng là thơ bác có sự hoàquyện giữa chất thép và cái tình, chất thép
càng sâu nặng thì cái tình càn bao la:
“Vần thơ của Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình” (Hoàng Trung Thông)
II. Hai câu tiếp theo của bài “Chiều tối” là bức tranh về cuộc sống sinh hoạt của con người
1. Nếu hai câu khai, thừa là cảnh sắc thiên nhiên mang đậm phong vị cổ điển thì
hai câu chuyển, hợp lại là hình ảnh xã hội mang màu sắc thơ ca hiện đại:
Hai câu thơ sau của bài thơ có sự vận động chuyển đổi cả về mặt thời gian và không gian
- Nếu thời gian ở hai câu đầu là chiều muộn thì ở hai câu sau là đêm tối
- Nếu trên là không gian mở ra ở chièu cao, rộng thì ở hai câu thơ sau lại là không
gian khép dần lại thu vào ngôi nhà xóm núi và cuối cùng là hội tụ ở lò lửa hồng.
2. Câu thơ chuyển quả là hoàn toàn chuyển đổi đúng với chức năng của nó: từ trời
mây chim chóc đến chuyển sang con người: “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”
a. Hình ảnh con người ở đây thật mới mẻ nếu so với hình ảnh con người trong thơ cổ và lãng mạn
- Trong thơ cổ, hiện lên dưới cánh chim ngàn thường là hình ảnh của con người đạo sĩ hoặc ẩn sĩ: “Nghìn non bóng chim tắt
Muôn nẻo dấu người không Thuyền đơn ông tơi nón
Một mình câu sông tuyết”
(Giang tuyết – Liễu Tông Nguyên)
- Và trong thơ lãng mạn là bóng gian nhân u sầu buồn bã:
“Mây vẩn từng không chim bay đi
Khi trời u uất hận chia ly
ít nhiều thiếu nữ buồn không nói” (ĐMTT – Xuân Diệu)
b. Còn trong CT cũng là sơn nữ nhưng không phải cô gái “mắt xanh biêng biếc
một mình tương tư” mà là sơn nữ với công việc nhà nông
- Người thiếu nữ trong chiều tối đang xay ngô mang một vẻ đẹp khoẻ khoắn của
người lao động đang mải mê với cồng việc
+ Vẻ đẹp khoẻ khoắn say mê trong công việc của sơn thôn thiếu nữ được đặc tả
qua điệp từ lliên hoàn: “ma bao túc” – “bao túc ma”. Với điệp ngữ này đã nối liền
các dòng thơ như diễn tả vòng quay liên tục, đều đặn của động tác xay ngô
+ Câu thơ chỉ gợi tả thế thôi mà chất chứa bao sự cảm thông yêu thương trong đó:
HCM đã quên đi nỗi vất vả của riêng mình để đồng cảm với cô gái đảm đang đang
đảm đương công việc nặng nề liên tiếp
- Trong thơ cổ dù mạch thơ cũng vận động từ bức tranh thiên nhiên đến đời sống
con người nhưng bóng dáng con người thấp thoáng, mờ nhạt, nhỏ bé và thiếu vắng
sự sống đang vận động. Hình ảnh con người chỉ tôn thêm cái hoang sơ, hùng vĩcủa
đất trời thiên nhiên. Còn ở đây, trong thơ Bác, hình ảnh cô gái xay ngô toát lên vẻ
trẻ trung, khoẻ mạnh, đầy sức sống. Giữa núi rừng mênh mông, thiếu nữ sơn cước
không bị hoà lẫn vào cảnh vật hay trở nên nhỏ bé, yếu ớt mà trái lại, chính cô là
điểm sáng của bức tranh, là trung tâm của cảnh vật. Công việc lao độngcủa cô,
ngọn lửa hồng từ lò than và nhiệt huyết của tuổi trẻ đã làm bừng sáng và sưởi ấm
không gian rừng núi chiều tối âm u, heo hút. Khung cảnh ấy dễ đưa lại cho người
đi đường, nhất là người tù, hơi ấm của sự sống, niềm vui và niềm hạnh phúc bình dị, thường nhật
3. Câu thơ cuối với hình ảnh lô dĩ hồng đã trở thành trung tâm của bức tranh chiều
tối, tạo nên sức sống, sự ấm áp.
a. Với ánh hồng này nhà thơ đã diễn tả thật tinh tế thời gian đã đivào buổi tối
- Thực chất lò than ấy đã nhóm lên từ trước nhưng phải đến khi trời tối hẳn thì
người đi phía ngoài mới nhìn thấy nó rực sáng lên như vậy
- ở đây nhà thơ đã dùng hình ảnh ánh sáng để diễn tả bóng tối (theo bút pháp cổ
điển lấy động để tả tĩnh) và như vậy bản dịch thơ của tác giả Nam Trân thêm vào
một chữ tối ở câu thứ ba đã làm mất mát không ít cái tinh tế của nguyên tác: “Đúng
là xay ngô tối nhưng đặt chữ tối vào đây thì sớm quá , lộ quá. Nguyên văn không
nói đến tối mà tự nhiên nói đến, thời gian trôi dần theo cánh chim và làn mây, theo
những vòng xoay của cối xay ngô, quay quay mãi, ma bao túc… bao túc ma
hoàn…. và đến khi cối xay dừng lại thì lô dĩ hồng, lò đã rực hồng, tức trời tối, trời tôí thì lò rực lên”
- Ba chữ “ma bao túc” ở câu 3 dược điệp vòng ở đầu câu 4 “bao túc ma hoàn” đã
tạo nên sự nối âm liên hoàn, nhịp nhàng như vừa diễn tả cái vòng quay không dứt
của động tác xay ngô vừa thể hiện dòng lưu chuyển của thời gian từ chiều đến tối.
b. Hình ảnh ảnh hồng ở cuối bài thơ không chỉ toả sáng mà còn toả hơi ấm xua đi
cái cô quạnh nơi không gian núi rừng và với ánh hồng này còn làm đẹp hơn vẻ
đẹp hồng hào, khoẻ khoắn của người lao động. Đồng thời nó còn bao hàm diễn tả
niềm vui sum vầy của con người sau một ngày vất vả.
c. Một lần nữa ta lại nhận ra cái nhìn trìu mến hường về sự sống ở Bác. Cái nhìn ấy
vừa tự nhiên như bao người khác vừa thể hiện sự quan tâm và tình cảm yêu thương
của Người với những người lao động nghèo. Hai câu thơ có sắc điệu tươi vui cho
thấy một niềm phấn khích, thích thú trước vẻ đẹp của cuộc sống đời thường đang
dâng lên trong tâm hồn nhà thơ. Dườngnhư Người đã hoàn toàn quên đi cảnh ngộ
của mình để cảm nhận cuộc sống, để đồng cảm, sẻ chia với nièm vui. Niềm hạnh
phúc bình dị của những người lao động tuy vất vả nhưng tự do và tự chủ.
d. Với một chữ hồng. Bác đã làm sáng rực lên toàn bộbài thơ, đã làm mất đi sự mỏi
mệt, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã điễn tả trongba câu đầu, đã làm sáng rực
lên khuônmặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ “hồng” trongnghệ thuật thơ
Đương người ta gọi là con mắt thơ (thi nhãn) hoặc là “nhãn tự” (chữ mắt), nó sáng
bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến
mấy đi chăng nữa… Với chữ hồng đó, có ai còn cmả giác nặng nề, mệt mỏi, nhọc
nhằn nữa đâu, mà chỉ thấy màu đỏ đã nhuốm lên cả bóng đêm, cả thân hình,c ả lao
động của cô gái đáng yêu kia. Đó là màu đỏ của tình cảm Bác. * Tóm lại:
- ở hai câu cuối bài thơ Chiều tối, bức tranh thiên nhiên u buồn cô quạnh đã được
thay thế bằng bức tranh sinh hoạt của con người đầy khoẻ khoắn, ấm áp, tươi tắn.
-> Sự vận động của hình tượng thơ ấy đã thể hiện vẻ đẹp tư tưởng HCM: Tràn đầy
niềm lạc quan và tình yêu cuộc sống tha thíêt
- Như vậy, cũng giống như nhiều bài thơ khác của Bác, hình tượng thơ trong bài
Chiều tối vận động thật khoẻ khoắn, bất ngờ và theo xu thế phát triển: từ ánh
chiều âm u. tăm tối đến ánh lửa rực hồng, ấm áp; từ mỏi mệt đến khoẻ khoắn; từ
buồn đến vui. Sự vận động này cho thấy cái nhìn tràn đầy niềm lạc quan yêu đời,
thể hiện một tâm hồn luôn hường về sự sống, ánh sáng và tương lai ở nhà thơ - chiến sĩ Hồ Chí Minh
- Gốc rễ của sự vận động trong bài thơ chính là bởi từ tấm lòng nhân ái của HCM,
người đã quên đi nỗi bất hạnh của riêng mình hướng tới hạnh phúc đời thường của
một gia đình, một cô gái nơi xóm núi bên bếp lửa hồng. Người quả là đã “nâng niu
tất cả chỉ quên mình” C. Kết luận:
1. Bài thơ chiều tối trước hết đã tái hiện được bức tranh thiên nhiên nơi sơn cước
vào lúc chiều tối và cuộc sống bình dị của người lao động Thung Hoa. Sự vận
động của bức tranh cảnh Chiều tối này là từ u buồn, hoang vắng lạnh lẽo đến sự sống sôi động, ấm áp.
2. Bức tranh cảnh chiều tối đã toát lên vẻ đẹp tâm hồn HCM. Đó là tấm lòng yêu
thương rộng lớn, là tinh thần lạc quan yêu đời của một người tù chiến sĩ, thi sĩ.
-> Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh chiều nơi sơn cước mà trên hết và toát lên từ
toàn bộ thi phẩm là hình tượng nhân vật trữ tình có tấm lòng yêu thương rộng lớn,
luôn luôn nâng niu, trân trọng mọi sự sống trên đời. Người đã quên đi cảnh ngộ
của bản thân, sự đau đớn của thể xác, sự mệt mỏi về tinh thần để yêu thương và
nâng niu một cánh chim chiều, một áng mây trôi, một cảnh lao động vất vả nhưng
rất đỗi bình dị, tự do của con người. Sự nâng nui ấy xuất phát từ một lẽ sâu xa và lớn đẹp ở Bác:
“Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu)
Document Outline
- Vấn đề 1 : Chép phần phiên âm và dịch nghĩa bài th
- Vấn đề 2: Bình giảng bài thơ Mộ