Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất - Ngữ Văn 12

Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm". Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm - Ng văn 12
Dàn ý Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm
I. M bài
- Gii thiu v tác gi Nguyễn Khoa Điềm: ông thuc thế h nthơ chống cứu
nước, thơ ông sự kết hp gia cm xúc nng nàn cht triết lí, suy của người
trí thc v đất nưc, con người.
- Gii thiu v bài thơ Đất nước: được trích trong trường ca Mặt đường khát vng,
mt bài thơ có cht triết lí sâu sc, th hiện tư tưởng “Đất nưc của nhân dân”.
II. Thân bài
1. Đất nước được cm nhn t phương diện lch sử, văn hóa, chiều sâu ca không
gian, chiu dài ca thi gian
a. Đất nưc có t bao gi? (lí gii ci ngun ca đt nước) (9 câu đầu)
- Tác gi khng đnh một điều tt yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã rồi”, điều này
thôi thúc mỗi con ngưi muốn tìm đến ngun ci đt nưc.
- Đất c bt ngun t nhng diu bình d, gần gũi trong đi sng của người Vit
Nam t xa xưa: ngày xửa ngày xưa” gợi nh đến câu m đầu các câu chuyn dân
gian, “miếng trầu” gợi nh tục ăn trầu của ngưi Vit và truyn cch trầu cau, “Tóc
m thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người ph n Việt Nam, “Thương
hau bng gng cay mui mặn” thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tc.
- Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sn xuất “cái kèo cái cột thành tên”,
“mt nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chng gic ngoi xâm.
- Nhn xét: Tác gi cái nhìn mi m v ci nguồn đấtớc, đất c bt ngun t
chiều sâu văn hóa, văn học, lch struyn thng dân tc.
b. Định nghĩa về đất nước (28 câu thơ tiếp theo)
- V phương diện không gian địa lí:
+ Tác gi tách riêng hai yếu t “đt” và “nước” để suy tư một cách sâu sc.
+ Đất nước không gian riêng quen thuc gn vi không gian sinh hot ca mi
con người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn vi k nim tình yêu lứa đôi:
“nơi em đánh rơi ... thương thầm”.
+ Đất nước không gian bao la trù phú, không gian sinh tn ca cng đồng qua bao
thế h: “Đất là nơi con chim phượng hoàng ... dân mình đoàn tụ”.
- Nhìn đất nước được nhìn xuyên sut chiu dài lch s t quá kh, hin tại đến tương
lai:
+ Trong quá kh đất nước nơi thiêng liêng, gn vi truyn thuyết, huyn thoi:
“Đất là nơi chim về ... trong bc trứng”
+ Trong hin ti: đất nước trong tm lòng mỗi con người, mỗi người đều tha
hưởng nhng giá tr ca đất nước, khi s gn kết gia mỗi người đất nước s nng
thm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gn kết gia cái riêng và cái chung.
+ Trong tương lai: thế h tr s “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mộng”,
đất nưc s trưng tn, bn vng.
- Suy về trách nhim ca mi nhân với đất nước: “Phải biết gn san sẻ”,
đóng góp, hi sinh đ góp phn dựng xây đất nưc.
- Nhn xét: qua cái nhìn toàn din của nhà thơ, đất nước hin lên va gần gũi, thân
thuc li vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.
2. Tư tưởng ct lõi, cm nhn v đất nưc: đt nưc ca nhân dân
- Thiên nhiên đa của đất nước không ch sn phm ca tạo a đưc hình
thành t phm cht s phn ca mỗi người, mt phn máu tht, tâm hn con
người:
+ Nh tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”
+ Nh tinh thn bt khut, anh hùng trong quá trình dng nước gi nước có
những ao đầm, di tích lch s v quá trình dựng nưc.
+ Nh truyn thng hiếu hc mà có những “núi Bút non Nghiên”
- Nhân dân làm nên lch s 4000 năm:
+ H là những ngưi con trai, con gái bình d nhưng luôn thường trc tình yêu nưc.
+ Tác gi nhn mạnh đến nhng con người danh làm nên lch s, khẳng định vai
trò ca mi cá nhân vi lch s dân tc.
- Nhân dân to ra gi gìn nhng giá tr vt cht, tinh thần cho đất nước: văn hóa:
“truyn hạt lúa”, “truyn lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”, ... từ
đó xây dựng nn móng phát triển đt nưc lâu bn.
- tưởng ct lõi, cm hng bao trùm c đoạn trích: “đất nước y đất c ca
nhân dân đất nước ca ca dao thn thoại”, đất c y th hin qua tâm hn con
người: biết u thương, biết quý trng trng tình nghĩa, công sức biết chiến đu
đất nưc.
- Nhn xét:
+ V nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hin cái nhìn mi m v đất nước trên
nhiu bình diện: văn hóa, lch s, địa da trên tưởng cốt lõi: “đất nước ca nhân
dân”.
+ V ngh thut: s dụng đa dng sáng to cht liệu văn hóa dân gian, ngôn ng
giàu chất suy tư, triết lun sâu sc.
III. Kết bài
- Khẳng định li giá tr của đoạn trích: đoạn trích đã nhn mạnh ởng “đất nước
của nhân dân”, thể hin tinh thần yêu nước ca tác giả, đánh thức tinh thần yêu c
trong mỗi con người.
- Nêu cm nhn riêng v đoạn trích đất nước liên h thc tiễn đến trách nhim
ca thế h hôm nay với đất nưc.
Audio Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyn Khoa Điềm
Video Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm mu 1
Đất nưc luôn tiếng gi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi của bao triu trái tim
con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua nhng li ru ngt ngào êm du, qua
những làn điệu dân ca mượt nhng vần thơ sâu lắng, thiết tha rất đỗi t hào
ca bao lp thi nhân. Ta bt gp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vn ngi
lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất du dàng ý t
trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bt gp mt cái nhìn toàn
vn, tng hp t nhiu bình din khác nhau v một đất nước của nhân dân. ng
ấy đã qui tụ mi cách nhìn cm nhn ca Nguyễn Khoa Điềm v đất nước. Thông
qua nhng vần thơ kết hp gia cm xúc suy nghĩ, tr tình chính luận, nhà thơ
mun thc tnh ý thc, tinh thn dân tc, tình cm với nhân dân, đất nước ca thế h
tr Vit Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.
M đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, th th như những li tâm tình kết hp vi
hình ảnh thơ bình dị gn gũi đưa ta tr v vi ci nguồn đất nưc.
Khi ta lớn lên Đất nưc đã có ri
Đất Nưc có trong nhng cái ngày xa
Ngày xưa mẹ thưng hay k
Đất Nưc bắt đầu t miếng tru bây gi bà ăn
Đất Nưc ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đất nước trước hết không phi mt khái nim trừu tượng nhng rt gn
gũi, thân thiết ngay trong cuc sng bình d ca mỗi con người. Đất Nước hin hình
trong câu chuyn c tích ngày xửa ngày xưa m k, trong miếng tru ca bà, cây tre
trước ngõ gi lên một Đất nước Vit Nam bao dung hin hu, thy chung st
son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết lit khi chống quân xâm c. Mi
qu cau, miếng trầu, cây tre đều gi v mt v đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm
ngn ngun lch sn tc.
Đất nước còn hin thân ca nhng phong tc tập quán ngàn đi, minh chng ca
mt dân tc giàu truyn thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn vi mái m gia
đình. Cha mẹ thương nhau bng gng cay mui mn. Gng tt nhiên cay, mui tt
nhiên mn. Tình yêu cha m mãi mãi mn nồng như chính chân tự nhiên kia.
Hình ảnh thơ khiến ta rưng ng nhớ v mt li nhc nh thiết tha v tình nghĩa của
mt ai đó hôm nào:
Tay bưng đĩa muối chén gng,
Gng cay mui mn xin đừng quên nhau.
Đất nước còn là thành qu ca công cuộc lao đng vt v để sinh tồn, để dng xây
nhà ca:
Cái kèo cái ct thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nưc có t ngày đó.
đây Đất nưc không còn là mt khái nim trừu tượng na c th, quen thuc và
gin d biết bao. Vic tác gi s dng nhng cht liệu dân gian để th hiện suy tưởng
ca mình v đất nưc vi quan nim “Đất nước ca nhân dân”.
Vn bng li trò chuyn tâm tình vi mi nhân vật đi thoại tưởng tượng, Nguyn
Khoa Điềm đã diễn gii khái niệm đất nưc theo kiu riêng ca mình:
Đất là nơi anh đến trường
ớc là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong ni nh thm.
Đất c không ch được cm nhn bởi không gian địa mênh mông t rừng đến b
còn đưc cm nhn bi không gian sinh hoạt bình thường ca mỗi người, không
gian của tình yêu đôi la, không gian ca ni nh thương. Ý niệm v đất nước được
gi ra t vic chia tách hai yếu t hợp thành là đất c vi những liên tưởng gi
ra t đó. Sử dng li chiết t vn không ngô nghê, vn tht duyên dáng ý
nh, th gi ra cho thy mt quan nim mang nhng đặc điểm riêng ca dân tc ta
v khái nim đt nước, mà tư duy thơ có thểch ra, nhn mnh.
Đất m ra cho anh mt chân tri kiến thức, nước gt ra tâm hn em trong sáng du
hin. Cùng vi thi gian lớn n đất nước tr thành nơi anh em hẹn. Không
nhng thế, đất nước còn người bn chia s nhng tình cm nh mong ca nhng
người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh em đang hai thể, còn hòa hp
khi anh em kết li thành ta. Chiếc khăn biểu tượng ca ni nh thương – đã từng
làm bao trái tim tui tr bâng khuâng: "Khăn thương nh ai, Khăn rơi xuống đất ...",
mt ln na li khiến lòng người xúc động, bi hồi trưc nh cm chân thành ca
nhng tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn nơi tr v ca nhng tâm hn thiết tha với quê hương. Hình nh con
chim phượng hoàng bay v hòn núi bạc, con ngư ông móng c biển khơi mang
phong cách dân ca min Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước
mình bình d, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rng, tráng l vĩ vô cùng, nht
đối vi những người đi xa. chim ham trái chín ăn xa, thì cũng git mình nh
gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam như thế, lúc nào ng hướng v quê hương,
hướng v ci ngun.
Đất Nước trưng tn trong không gian và thi gian: Thời gian đằng đng, không gian
mênh mông để mãi mãi nơi dân mình đoàn tụ, không gian sinh tn ca cng
đồng Vit Nam qua bao thế h. Nguyễn Khoa Đim gi li truyn thuyết Lc Long
Quân Âu Cơ, về truyn thuyết ng ơng ngày giỗ t. Nhc li Lc Long
Quân và Âu Cơ, nhc đến ngày gi t, Nguyễn Khoa Điềm mun nhc nh mọi người
nh v ci ngun ca dân tc. bôn ba chốn nào, ngưi dân Vit Nam cũng đều
hướng v đất t, nh đến dòng ging Rng Tiên ca mình.
Nhc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhc nh:
Những ai đã khuất
Nhng ai bây gi
Yêu nhau và sinh con đ cái
Gánh vác phần người đi trước đ li
Dn dò con cháu chuyn mai sau
Cm hng thơ của tác gi v phóng túng, t do nhưng thật ra đây mt h thng
lp lun khá ch yếu tác gi th hiện đất ớc trong ba phương diện: trong
chiu rng ca không gian lãnh th địa lí, trong chiều dài thăm thẳm ca thi gian
lch s, trong b dày ca văn hóa phong tc, li sng tâm hn và tính cách dân tc.
Ba phương diện y được th hin gn thng nht bt c phương diện nào thì
ởng đất nước ca nhân dân vẫn tưởng cốt lõi, như một h qui chiếu mi
cm xúc và suy tưng ca nhà thơ.
c th hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ngay trong u tht ca mi chúng
ta:
Trong anh và em hôm nay
Đều có mt phần đất nước
Đất nước đã thm t nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con ngưi,
thế s sng ca mi nhân không phi riêng ca mỗi con người ca c
đất nưc. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiu di sản văn hóa vật cht và tinh thn
ca đt nưc, phi gi gìn và bo v để làm nên đt nước muôn đời.
T nhng quan niệm như vậy v đất nước, phn sau ca tác phm tác gi tp trung
làm ni bật tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân người đã sáng tạo ra
Đất nưc.
tưởng đó đã dẫn đến mt cái nhìn mi m, chiu sâu v địa lí, v nhng danh
lam thng cnh trên khp mi miền đất nước. Nhng núi Vng Phu, hòn Trng Mái,
nhng núi Bút non Nghiên ... không còn nhng cnh thú thiên nhiên nữa được
cm nhn thông qua nhng cnh ng, s phn của nhân dân, đưc nhìn nhận như
những đóng góp của nhân dân, s hóa thân ca nhng con người không tên tui:
"Những người v nh chồng còn góp cho Đất c nhng núi Vng Phu, Cp v
chng u nhau góp nên hòn Trống Mái", "Ngưi hc trò thng cnh". đây cnh
vt thiên nhiên qua cách nhìn ca Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như mt phn tâm
hn, máu tht ca nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã
ghi du vết cuộc đời mình lên mi ngn núi, dòng sông. T nhng hình nh, nhng
cnh vt, nhng hiện tưng c th, nhà thơ quy nạp thành mt khái quát sâu sc:
đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chng mang mt dáng hình, một ao ưc, mt li sng ông cha
Ôi! Đt nưc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thy
Nhng cuộc đời đã hóa núi sông ta.
ởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lch
s bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến
những anh hùng đưc s sách lưu danh chỉ tập trung nói đến những con người
danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết ca nhân dân, ca những con người
vô danh bình d đó.
H đã sống và chết
Gin d và bình tâm
Không ai nh mt đt tên
Nhưng họ đã làm ra Đt nưc
H lao động chng gic ngoi xâm, h đã giữ truyn li cho các thế h mai sau
các giá tr văn hóa, văn minh, tinh thần vt cht của đất c t ht lúa, ngn la,
tiếng nói, tên xã, tên làng đến nhng truyn thn thoi, câu tc ng, ca dao. Mch
cm xúc lng t li để cui cùng dn ti cao trào, làm ni bật n ng ct lõi ca
c bài thơ vừa bt ng, va gin d độc đáo:
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nưc của Nhân dân, Đất nưc ca ca dao thn thoi
Một định nghĩa gin d, bt ng v Đất nước. Đất nước ca ca dao thn thoi nhưng
vn th hin những phương diện quan trng nht ca truyn thng nhân dân, ca n
tc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa ng thật quyết lit
trong đu tranh chng gic ngoi xâm.
Những câu thơ khép lại tác phm ca ngi v đẹp ca cnh sắc quê hương với mt tâm
hn lạc quan phơi phi. Tt c ào t tuôn chảy trong tâm trí người đọc nhng tách
reo vui ...
Đất c ca Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết v Đt
nước. T nhng cm nhn mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa l,
trừu tượng tr nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước ca
Nguyễn Khoa Điềm ta không ch tìm v ci ngun dân tộc còn khơi dy tinh thn
dân tc trong mỗi con người Vit Nam trong mi thời đại.
Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm mu 2
“… Trong anh và em hôm nay
Đều có mt phần Đất Nước
Khi hai đa cm tay
Đất Nưc trong chúng ta hài hòa nng thm
Khi chúng ta cm tay mi ngưi
Đất Nưc vn tròn, to ln
Mai này con ta ln lên
Con s mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phi biết gn bó và san s
Phi biết hóa thân cho dáng hình x s
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Mặt đưng khát vọngtrường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong
chiến tranh ác lit thi chống Mĩ, tại chiến trường Tr - Thiên - một điểm nóng - trên
chiến trường miền Nam vào m 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc
động, t hào v đất nước nhân dân. Trong bài “Có mt thời đại mới trong thi ca”,
Trn Mnh Ho viết:
“Vào đêm giao tha Tết âm lch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc
động nghe trích đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca Mặt đường khát vng” của
Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nưc, v dân tc
đã được nhà thơ hiện đi hoá bng cht suy tư lắng đọng và cm xúc mãnh lit”.
“Đất Nước” - chương V trong trường ca “Mặt đưng khát vọngdài 110 câu thơ
(trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) cm nhn của nhà thơ trẻ v
Đất Nước trong ci nguồn sâu xa văn hóa - lch s, trong s gn thân thiết vi
đời sng hng ngày ca mỗi con người Vit Nam. Phn th hai, cm hng ch đạo v
Đất Nưc là s ngi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nưc ca Nhân Dân. T đó, nhà thơ
nhn din phát hiện Đất Nước trên bình din v địa lý, lch sử, văn hoá, ngôn ngữ,
truyn thng tinh thn dân tc - nền văn hiến Vit Nam. V đẹp độc đáo của chương
V “Đất Nước” là tác giả vn dng sáng to nhiu yếu t văn hoá dân gian, tc ng, ca
dao, dân ca, truyn c, phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình d, hiện đại gây n
ng va gần gũi vừa mi m cho người đc.
ời ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể hin cm nhn:
Đất Nưc gn bó thân thiết vi mỗi con người Vit nam:
Trong anh và em hôm nay
Đều có mt phần Đất Nước
(…)
Làm nên Đất Nước muôn đời…”.
Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất c Nhân Dân
đều được viết hoa, tr thành “mĩ tự” gợi lên không khí cao c, thiêng liêng biu l
cao độ cm xúc yêu mến, t hào v Đất Nước Nhân Dân. Ch th tr tình “anh
em”, giọng điệu tâm tình th l, sâu lng, thiết tha, ngt ngào. Cấu trúc đoạn thơ
13 câu thơ là cấu trúc tng - phân - hp mà ta cm nhận được tính cht chính lun ca
ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.
1. Hai câu thơ mở đoạn là s thc nhn chân lý v ci ngun, v truyn thng, v lch
sử,… Đất Nưc gn gũi và gắn bó thân thiết vi “anh và em”, vi mi ngưi:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có mt phần Đất Nước”.
Ch “mt phần” nh thôi, nhưng xiết bao gn gũi, gắn bó, yêu thương tự hào.
T khái nim, ý niệm “mỗi công dân mt phn t ca cộng đng, của Đất Nước”
được diễn đạt một cách “mềm hóaqua tiếng nói tâm nh ca lứa đôi, của “anh
em”.
2. Bảy câu thơ tiếp theo m rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm
nay” đến “ngày mai” và muôn đi mai sau.
“Khi hai đa cm tay
Đất Nưc trong chúng ta hài hòa nng thm”.
phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất ớc nơi anh đến trường - ớc nơi em
tm - Đất ớc nơi ta hẹn Đất Nước nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nh thầm”. Và “khi hai đa cầm tay” thì một mái m, t ấm gia đình đã đưc xây
dựng. Gia đình “mt phần” của Đất Nước. Ch tình yêu hnh phúc gia đình
mi to nên s “hài hòa, nồng thm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó bn
cht thng nht trong tình cm ca thi đại mới. Ý tưởng ấy đã đưc Nguyễn Đình
Thi th hin trong mt t thơ sâu và đằm v ni “nh”:
“Anh yêu em như anh yêu đất nưc
Vt v đau thương tươi thắm vô ngần…”.
T tình yêu và hnh phúc lứa đôi biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước,
mi có th tình nghĩa sâu nặng “Đất c trong chúng ta hài hòa nng thắm”, mi
tìm thấy đất nước quê ơng cả trong nim vui nỗi đau của anh, ca em, ca bao
la đôi khác:
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có nhng ln trn hc b đòn roi.
Nay yêu quê hương vì trong từng nm đt
Có mt phần xương thịt của em tôi”.
(Giang Nam)
Nói v ci ngun ca giòng ging, ca dân tc, Nguyễn Khoa Điềm nhc li s tích
“Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - ớc nơi Rng - Lạc Long Quân Âu
- Đẻ ra đng bào ta trong bc trng - Những ai đã khuất - Nhng ai bây giờ…”. Từ
huyn thoi thiêng liêng y mới có ý thơ này:
“Khi chúng ta cầm tay mi ngưi
Đất Nưc vn tròn, to lớn”
Hai ch “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu
thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,…
Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đ ln nhau mi có hình ảnh “Đất Nước
vn tròn, to lớn”, mới đại đoàn kết dân tc sc mnh Vit Nam. T “hài hòa,
nng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” cả một bước phát triển đi n ca lch s dân
tộc và đất nước. Đất Nước được cm nhn sc mnh ca khối đại đoàn kết dân tc.
Ch khi nào “ba cây chm lại nên hòn núi cao”, ch khi nào “lá lành đùm rách”,
“Ngưi trong một c phi thương nhau ng” thì mi hình ảnh đẹp đẽ, thiêng
liêng “Đất Nước vn tròn, to lớn”.
Bốn câu thơ trên đây cấu to theo phép đối xng v ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”…
“Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hoà nng thắm…”. “Đất Nước vn
tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyn chuyển, sinh động y ý nghĩa thẩm sâu sắc:
hình thc này th hin ni dung y, ni dung ấy được diễn đạt bng hình thc này.
Phép đối xứng làm cho thơ lin mch, hài hòa, gn bó, th hiện ý thơ: tình yêu la
đôi, tổ m hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết
dân tc nhng tình cảm đẹp, làm nên truyn thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người”
và đó là sức mnh Vit Nam.
Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh em hôm nay”, đất nước
trong mai sau. Như mt nhn nhủ, như một k vng sáng ngi nim tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con s mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã to nên giọng điệu Nam B hp
dẫn trong thơ ca truyn ca mình. T Hu, Nguyễn Khoa Đim, Thanh Hải,…
cũng một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngt. Hai tiếng “mai này”
cách nói ca bà con x Huế.
Thế h con cháu mai sau s tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại”
xây dựng đất nước ta Vạn c th giang n” (Trn Quang Khải), đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai ch “lớn lên” biểu l mt nim tin v trí tu bn
lĩnh nhân dân trên hành trình lịch s đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa
rất đẹp, ngoài trí tưởng ng v mt Việt Nam cường thnh, một cường quốc văn
minh. Điều “anh và em”, mỗi người chúng ta mng hôm nay, s biến thành
hin thực “mai này” gần.
Bốn câu thơ cuối đon cm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ tr nên ngt ngào,
say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sc, đẹp đẽ ca mình:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương ca mình
Phi biết gn bó và san s
Phi biết hoá thân cho dáng hình x s
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Em ơi em” - mt tiếng gọi yêu thương, giãi bày san sẻ bao niềm vui sướng đang
dâng lên trong lòng khi nhà thơ cm nhận định nghĩa về Đất ớc: “Đất c
máu xương của mình”. Đất nước huyết h, thân th rut tht thân yêu ca mình,
và m hôi xương máu ca t tiên, ông cha ca dân tc ngàn đời. Vì “Đt Nưc là máu
xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:
“Nuôi lớn người t ngày m đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mt
Mt tấc lòng cũng đy hồn Thánh Gióng”.
(“Bài thơ ca một người yêu nước mình” 19/12/1967)
Vi Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thânnhững biu hin ca
tình yêu nước, ý thức, nghĩa vụ cao c thiêng liêng. “Phải biết gn san
sẻ… phải biết hóa thân…” thì mới th “Làm nên Đất Nước muôn đời”. Điệp ng
“phi biết” như một mnh lnh phát ra t con tim, làm cho giọng thơ mnh m, chn
động. biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời ti một nơi nóng bng, ác lit
nht ca thi chiến tranh chng M thì mi cm nhận được các t ngữ: “gắn bó”,
“san sẻ”, “hóa thân” tiếng nói tâm huyết “mang sức mnh ý chí khát vọng vượt
ra ngoài gii hn thông tin ca ngôn từ” như một nhà ngôn ng hc lừng danh đã nói.
Trong thơ ca Việt Nam thi kháng chiến, đ tài quê hương đất nước được đậm
bng nhiu bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cm hng
v đất nước được din t bng nhiu t thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng
ca mỗi nhà thơ. Cht tr tình thấm đẫm ba. Đất nước trong máu la mi mang
cm xúc sâu nng thế. Đây là tiếng nói hai đầu đất nưc:
“Tôi yêu đất nưc này chân tht
Như yêu căn nhà nh có m ca tôi
Như yêu em nụ hôn ngt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
C trông đt nưc mình thng nht”
(Trn Vàng Sao)
“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu tht
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi T quc, nếu cn ta chết
Cho mi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
(Chế Lan Viên)
Tr lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. T thơ rất đẹp. Đất c thân
thương gắn vi mọi người. Phi biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đon
thơ đẹp còn sáng ngi nim tin v tương lai Đất c tiền đồ tươi sáng của dân
tộc. Đoạn thơ mang tính chính lun, cht tr tình hàm n tính công dân ca thời đại
mi. Giọng thơ tâm tình, dịu ngt, t thơ dạt dào cm xúc, sáng to v ngôn t, hình
nh, th hin mt hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều
mi m tìm tòi.
“Em ơi em, Đất Nước máu xương của mình…” mt t thơ rất đẹp! Mt t thơ
lung linh mang v đẹp trí tu! Lúc hòa bình phi biết đem “trí lực” để xây dựng Đất
ớc, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng n”. Lúc
có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân”
cho Đất Nước, ấy nghĩa vụ cao c thiêng liêng, ấy tình yêu Đất Nước của “anh
và em” hôm nay, của thế h Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…
Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm mu 3
Đất Nước ngun cm hng bt tn của thơ ca ngh thut. Mỗi nhà thơ đều
nhng cm nhn rt riêng v Đất c, bi thế Đất c, T quc hin lên muôn
màu muôn v. Nếu như các nhà thơ cùng thời thưng chọn điểm nhìn v Đất Nước
bng nhng hình nh k vĩ, mỹ l hay cm hng v lch s qua các triều đại thì
Nguyễn Khoa Điềm li chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình d để miêu t v Đất
ớc. Đến với bài thơ Đất Nước ca Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn
màu văn hóa, truyền thng, phong tục tươi đẹp ngn. V đẹp ấy được hin lên sâu
sc nhất qua chín câu thơ đầu.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có ri
Đất Nưc có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thưng hay k.
Đất Nưc bắt đầu vi miếng tru bây gi bà ăn
Đất Nưc ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc m thì bi sau đu
Cha m thương nhau bằng gng cay mui mn
Cái kèo, cái ct thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nưc có t ngày đó…
Đất nước ngun cm hng bt tn của thơ ca. bài thơ y, Nguyễn Khoa Điềm
đã chọn điểm nhìn gần gũi đ miêu t một đất nước t nhiên, bình d không kém
phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình nh đất nước trong đoạn thơ đầu hin lên muôn màu
muôn vẻ, sinh động l thưng, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp v
phong tc, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đm du ấn con người Vit.
Câu thơ mở đầu được viết theo th câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất ớc đã
rồi”. Với cách vào đu rt t nhiên y, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có t rt lâu,
trước khi ta sinh ra thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bn ch cui ca
câu thơ vang lên đầy t hào “Đất Nước đã rồi”. Đó lời khẳng đnh chc nch v
s trưng tn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch s dựng nước và gi nước.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn t c th v s ra đi của đất nưc.
Đất Nưc có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thưng hay k.
Đất Nưc bắt đầu vi miếng tru bây gi bà ăn
Câu thơ thứ nht, tác gi cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa
Đất c t rất lâu đời, t ngày a. Đất Nước t trưc khi nhng câu
truyn c ra đời ri khi nhng câu truyn c mặt trong đi sng tinh thn ca ta, ta
li thấy Đất c hin din trong truyn c. Đó Đất Nước ca mt nền văn học
dân gian đặc sc vi nhng câu chuyn c tích, thn thoi, truyn thuyết. Chính
nhng câu chuyn c nhng bài hát ru thu ta còn nm nôi là ngun sa ngt lành
chăm bẵm cho ta cái chân thiện lớn n ta biết yêu đất nước con người. V ý
nghĩa của truyn c vi đời sng tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị M D đã xúc
động mà viết nên:
Tôi yêu truyn c c tôi
Va nhân hu li tuyt vi sâu xa
Thương người ri mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyn c nước mình)
Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn t Đất Nước có trong “miếng tru y gi ăn”. Gi
nhc phong tục ăn trầu ca ngưi Việt. Câu thơ gi nh v câu truyn c tích “Sự tích
trầu cau” được xem xưa nht trong nhng câu truyn c. Tục ăn trầu cũng từ câu
truyện này nên. Nvậy thm thu vào trong miếng tru dung d y 4000
năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn tru. Miếng tru biểu tượng
ca tình yêu, vt chng cho lứa đôi cũng biểu tượng tâm linh của ngưi Vit. T
phong tục ăn trầu, tc nhuộm răng đen cũng ra đi:
Những cô hàng xén răng đen
ời như mùa thu tỏa nng
(Hoàng Cm)
Câu thơ thứ tư, nhà tdin t s trưng thành của Đất Nước. Đó sự trưng thành
t truyn thống đánh giặc gi nước qua hình tượng Thánh Gióng cây tre: “Đất
c ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Câu thơ gợi nhc cho ta nh đến truyn thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đng
Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gi lên v đẹp khe khon ca tui tr Vit
Nam kiên cưng, bt khut:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vt lớn lên đánh đuổi gic Ân
Sc nhân dân kho như ngựa st
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
La chiến đấu ta phun vào mt
Lũ sát nhân cưp nước hi nòi
(T Hu)
Truyn thng v vang ấy đã theo sut chặng đường dài ca lch s dân tộc mãi đến
hôm nay trong thi đại chng M bao tấm ơng tuổi tr đã anh ng chiến đấu bo
v ging nòi. Phải chăng, đó chính v đẹp ca các chị, các anh đã tc vào lch s
Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bt khut: Th Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn n
Trỗi… Vẻ đẹp y song hành vi hình nh cây tre Vit Nam. Cây tre hin hu trên mi
làng quê. như sự đồng hin nhng phm cht trong cốt cách con ngưi Vit
Nam: tht thà chất phác, đôn hu thu chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên
ng bt khuất trong tranh đấu. Tre đứng thng hiên ngang bt khut cùng chia la
vi dân tc "Một cây chông cũng tiến công gic M ", bi:
"Nòi tre đâu chịu mc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thưng".
Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc v đẹp thun phong m tc
ca con ngưi Vit:
Tóc m thì bi sau đu
Cha m thương nhau bằng gng cay mui mn
Cái kèo, cái ct thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó vẻ đẹp gin d của người ph n Vit Nam. Không ai khác những người m
vi phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người ph n
mt v đẹp n tính, thun hu rất riêng). Nét đp y gi nh ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chng em bi
Để chi dài cho ri lòng anh
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tc gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời trú, lao
động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để gi gìn tôn to mảnh đất thân yêu. đó đạo
ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyn thống ngàn đi ca dân tc: "Cha m thương
nhau bng gng cay mui mặn". Ý thơ được toát lên t những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gng
Gng cay mui mặn xin đừng quên nhau”
Thành ng “gng cay mui mặn” đưc vn dng một cách đặc sắc trong câu thơ nh
nhàng thấm đưm biết bao ân tình. gợi lên được ân nghĩa thủy chung đời:
gng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con ngưi sng vi nhau u
năm thì tình nghĩa càng đong đầy. l chính vậy Đất c còn ghi du n
ca cha ca m bng Hòn trng mái, núi Vng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm
tháng.
Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gi nhc cho người đọc nh đến tc làm nhà c
của người Việt. Đó tục làm nhà s dng kèo ct ging gi vào nhau làm cho nhà
vng chãi, bn chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng ngôi ntổ m cho mi
gia đình đoàn tụ n nhau; siêng năng tích góp m màu dn thành s sng. T đó, tục
đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
Đâu chỉ nhng v đp trên, dân tc ta còn truyn thống lao đng cn cù, chu
thương chịu khó “Hạt go phi mt nắng hai sương xay giã dần sàng”.
Thành ng “Mt nắng hai sương” gợi nên s cần chăm chỉ ca cha ông ta nhng
ngày long đong, lận đận trong đời sng nông nghip lc hậu. Đó truyền thng lao
động cn cù, chịu thương chịu khó. Các động t “Xay - giã - dn - sàng” quy trình
sn xut ra ht gạo. Để làm ra ht gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phi tri qua
bao nắng sương vt v gieo cy, xay giã, gin sàng. Thm vào trong ht go nh
y m hôi v mn nhc nhn ca giai cp nông dân. Bi vy, ăn hạt go dẻo thơm
ta phi nh công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một ht đng cay muôn phn.
Câu thơ cuối cùng khép li mt câu khẳng định vi nim t hào: “Đất Nước t
ngày đó”.
“Ngày đó” ngày nào ta không nhưng chc chắn “ngày đó” ngày ta truyn
thng, phong tc tập quán, văn hóa văn hóa nghĩa đất ớc. Đúng
như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rng mun yêu t quc mình, phi yêu nhng câu
hát dân ca”. Dân ca, ca dao đặc trưng văn hóa của Vit Nam, mun yêu Đất Nước
trưc hết phi yêu quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính Đất c.
Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngt ngào ca Nguyn
Khoa Đim.
Thành công của đoạn thơ trên nh vào vic vn dng khéo léo cht liệu văn hóa
dân gian như phong tục ăn trầu, tc i tóc, truyn thống đánh giặc, truyn thng
nông nghiệp. Nhà thơ sáng to thành ng dân gian, ca dao tc ng, thành ngữ…Điệp
ng Đất Nước đưc nhc li nhiu lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai t Đất Nước to nên
s thành kính, thiêng liêng… Tất c làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn
hóa người Vit. Ngôn ng mc mc, gin d, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng th th
tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Đoạn thơ ta vừa phân tích trên
đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho
người đọc v đẹp ca một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước ca truyn
thng, phong tục tươi đẹp mang đậm du n của tư tưởng Đất Nưc ca nhân dân.
Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm mu 4
Đề bài: Ý kiến ca anh ch v tư tưng ca Nguyn Khoa Điềm trong "Đất nưc".
Vi đ này cn gii quyết 2 luận điểm:
1. Cm nhn v đất nước.
2. Tư tưởng đất nưc ca nhân dân.
Sau đó rút ra những cm nhn cho chính bn thân mình.
i đây là phn chi tiết:
1/ Cm nhn v Đất nưc:
a) Đoạn thơ về Đất nước bắt đầu mt ch rt bình d, to mt s gần gũi, thân thiết
mà không bắt đầu mt cách trang trọng. Đất nước ngay trong cuc sng ca mi gia
đình chúng ta, từ li k chuyn của người m, miếng tru ca bà, các phong tc tp
quán quen thuc (tóc m thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung ca cha m,
ht gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tt c những điều đó làm cho
Đất nước tr thành cái gần gũi, thân thiết, bình d trong cuc sng hng ngày ca con
người:
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có ri
Đất nưc có trong nhng cái ngày xa ngày xưa m thưng hay k.
Đất nưc bắt đầu vi miếng tru bây gi bà ăn
Đất nưc ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
b) Tiếp đó sự cm nhận Đất nước t các phương diện địa - lch s. Tác gi khai
thác các thành t của Đất nước. Vic tìm v t gc ca t Đất nước để khai thác
cách quan nim nét riêng bit ca dân tc ta v khái nim này. nhiu ngôn ng
khác, Đất nước thường đưc cu to t nhng gốc nơi sinh, quê hương… Nhưng
trong tiếng Việt, Đất nưc gm hai yếu t hợp thành “Đất” “Nước”. Cách truy tìm
t gốc, cách “chiết tự” thể dẫn đến nguy hiểu sai lạc ý nghĩa, hoc máy móc
giản đơn khi giải thích các khái nim khoa học. Nhưng đây, duy nghệ thut cho
phép cách phân tích cm nhận theo các phương diện không gian thời gian, địa
lch s (Thời gian đằng đẳng - Không gian mênh mông). T huyn thoi Lc
Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày gi T đã nói lên chiều sâu
lch s ca Đất nước Vit Nam. V mặt không gian địa lí, Đất nước không ch núi
sông, rng b (con chim Phượng Hoàng… con Ngư Ông,…) còn cái không
gian rt gần gũi vi cuc sng mỗi người. “Đất là nơi anh đến trường, Nước là nơi em
tắm. Đất nước nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nh thm” - cũng không
gian sinh tn ca cộng đồng dân tc qua bao thế h (Những ai đã khut. Nhng ai bây
giờ. Yêu nhau sinh con đ cái. Gánh vác phần người đi trước để li. Dn con
cháu chuyện mai sau…).
Tác gi s dng sáng to các yếu t ca ca dao, truyn thuyết dân gian. lúc ly li
tng phn của câu ca dao, nhưng phần nhiu s dng ý, hình nh to n hình
ợng thơ mới, va gn gũi vừa mi m (cha m thương nhau bng rng cay mui
mặn… Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong ni nh thầm…)
trên chiu rng của không gian đa chiu dài ca thi gian lch sử. Đất c
được cm nhận như sự thng nhất các phương diện văn hóa, truyn thng, phong tc,
cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sng mi cá nhân và c cộng đồng…
c) Đến đây, ý thơ dẫn đến điểm tp trung nhng suy nghĩ, cảm xúc v Đất nước, cũng
là đim mu cht ca tư tưng, phn mt ca bài:
“Trong anh và em hôm nay - Đều có mt phần Đất nưc”
Đất nước không đâu xa kết tinh, hóa thân trong cuc sng ca mỗi con người.
S sng mi cá nhân không ch riêng ca cá nhân còn của Đất nước, bi mi
cuc đi đều đưc thừa hưởng nhng di sn văn hóa tinh thần và vt cht ca dân tc,
ca nhân dân, mi nhân phi trách nhim gìn gi, phát trin nó, truyn li cho
các thế h tiếp theo.
Đoạn thơ kết thúc bng mt li nhn nh vi thế h tr v trách nhim với đất nước,
tuy là đoạn thơ chính luận nhưng ngưi đc không cm thynhng lời “giáo huấn”
mà ch như một li t nh, t dn mình, chân thành, tha thiết…
“Em ơi em, Đất nước là máu xương ca mình
Phi biết gn bó và san s
Phi biết hóa thân cho dáng hình x s
Làm nên đất nước muôn đời…”
2/ Tư tưởng Đất nưc ca nhân dân
Tư tưởng cơ bn ca phần nàytưởng Đất nước của nhân dân. Đây là đim qui t
mi cách nhìn v Đất nưc trong phần này, cũng là đóng góp ca Nguyễn Khoa Điềm
làm sâu sc thêm ý nim v Đất nưc của thơ chống Mĩ.
a) Cách nhìn ca tác gi v nhng thng cnh, v đa mt cách nhìn chiu sâu
mt phát hin mi m (đoạn đầu ca phn hai, t “những người v nh
chồng…” đến “Nhng cuộc đời đã hóa núi sông ta…”). “Nhng cnh quan thiên
nhiên thú (đá Vọng Phu, núi Con Cóc, núi Con hay hòn Trống Mái v.v…) gn
lin với con người, được tiếp nhn, cm th qua tâm hn lch s dân tc. Nếu
không có ngưi v ch chng qua các cuc chiến tranh li tán thì cũng không sự
cm nhn v núi Vọng Phu, cũng như thế nếu không truyn thuyết Hùng Vương
dựng nước thì cũng không th s cm nhận như vy v v hùng của vùng núi
đồi xung quanh đền vua Hùng…) Đoạn thơ bng cách quy np hàng lot hiện ng
để đưa đến mt khái nim sâu sắc: “Và đâu trên khắp ruộng đồng bãi, chng
mang mt hình dáng, một ao ước, mt li sống ông cha. Ôi đất c sau bn nghìn
năm đi đâu ta cũng thy, nhng cuộc đời đã hóa núi sông ta…).
b) Khi nghĩ v bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không điểm li các triều đại, các
anh hùng ni tiếng mà nhn mạnh đến vô vàn nhng con người vô danh, bình d:
Có biết bao nhiêu ngưi con gái con trai
Trong bn nghìn lớp người ging ta la tui
H đã sống và chết,
Gin di và bình tâm
Không ai nh mt đt tên
Nhưng họ đã làm ra Đt nưc
Tiếp đó bài thơ khai trin thêm ý này: Những con người danh bình d ấy đã giữ
gìn và truyn li cho các thế h sau mi giá tr văn hóa, văn minh tinh thần và vt cht
của đất nưc, ca dân tc: ht lúa, ngn la, tiếng nói, ngôn ng dân tc, c tên xã tên
làng… Họ cũng những người khi “có ngoi xâm thì chng ngoi xâm, ni thù
thì vùng lên đánh bi”.
“H đã giữ và truyn cho ta ht ging ta trng
H truyn la cho mi nhà, t hòn than qua rơm con củi
H truyn giọng điu ca mình cho con tp nói
H gánh theo tên xã tên làng trong mi cuộc di dân”
Nói đến Đất nước dân tộc nói đến lãnh th ch quyền văn hóa. Nhưng tt c
các giá tr đó lại được to nên bởi người, bi nhân dân. Trong tng tấc đất, tng di
tích lch s, tng câu x s, quan h quê hương… đâu đâu cũng hiện lên bóng
dáng nhân dân - giá tr cao nht trong mi giá tr - “Nhân dân danh nhưng tht
vĩ đại - H đã làm ra mi ca ci giá tr vt cht tinh thần, làm ra đất nước”.
c) Mạch suy nghĩ của bài thơ dẫn đến tưởng cốt lõi. Điểm hi t cũng cao
điểm ca cm xúc tr tình cui đoạn trích này. “Đất nước này là Đt nưc ca Nhân
dân” Cũng từ điểm này chúng ta hiu thêm những ý thơ trên. Và khi nói đến Đất nưc
ca Nhân dân, mt cách t nhiên, tác gi tr v vi nguồn phong phú đẹp đẽ của văn
hóa, văn học dân gian tiêu biu trong ca dao. V đẹp tinh thn ca nhân dân,
hơn đâu hết, th m thy đó trong ca dao, dân ca, truyện c tích. “Đất nước ca
Nhân dân, Đất nước ca ca dao thn thoại”. Câu thơ hai vế song song, đồng đẳng là
một cách định nghĩa v Đất nước… thật gin d cũng thật độc đáo. Trong cả kho
tàng ca dao, dân ca, đây tác giả ch chn lọc ba câu để nói v ba phương diện quan
trng nht ca truyn thng nhân dân, dân tc: thật say đắm trong tình yêu (yêu em t
thu trong nôi) quý trng tình nghĩa (quý công cầm vàng nhng ngày ln lội) nhưng
cũng thật quyết liệt trong căm thù chiến đấu (trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả
thù mà không s dài lâu…)
Chúng ta gp li cách vn dng vn ca dao dân ca mt cách sáng to, không lp li
nguyên văn chỉ s dng ý hình nh ca câu ca dao, vn gi nh đến câu ca dao
nhưng lại tr thành mt câu, một ý thơ gắn bó trong mạch thơ của bài.
tưởng Đất c ca Nhân n thật ra đã manh nha từ trong lch s xa xưa.
Những nhà tưởng ln, những nhà văn lớn dân tộc đã từng nói lên nhn thc v vai
trò ca nhân dân trong lch s (Nguyn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bi Châu)
hoc cm thông sâu sc vi s phn ca nhân dân, ca mi lớp ngưi trong nhân dân
(Nguyn Du với văn Chiêu hồn, Truyn Kiều). Đến nền văn học hiện đại, được soi
sáng bng ng hi ch nghĩa, bằng quan điểm Mác-xít v nhân dân ny n
t trong thc tiễn đại ca cuc cách mng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học t
sau Cách mạng Tháng Tám đã đạt đến mt nhn thc sâu sc v nhân dân cm
hng v đất nước mang tính dân ch cao. (Thơ ca kháng chiến chng Pháp mt
d tiêu biu. Có th nh đến các bài: Tình sông núi ca Trần Mai Ninh, Đất nước ca
Nguyễn Đình Thi, Bên kia sông Đung ca Hoàng Cm…). Đến giai đoạn chng M,
tư tưởng Đất nước ca Nhân dân mt ln nữa đưc nhn thc sâu sc thêm bi vai trò
những đóng góp to ln, nhng hi sinh vàn ca nhân dân trong cuc chiến tranh
dài lâu và cc k ác lit này.
tưởng ấy được các nhà thơ trẻ chng M phát biu mt cách thm thía qua s tri
nghim của chính mình như nhng thành viên ca nhân dân, cùng chia s mi gian
lao, hi sinh được che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân (Hơi m rơm của
Nguyễn Duy, c trưng ca Những người đi tới bin ca Thanh Thảo Đưng ti
thành ph ca Hu Thỉnh đều tp trung nói v những gương mặt ca các con người
bình thưng, danh trong nhân dân không phi ngẫu nhiên đu bắt đầu bng
hình ảnh người m).
Đất c ca Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ về Đất
nước thi chng M, làm sâu sc thêm nhn thc v Nhân dân và Đất nước.
Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm mu 5
Đất nước” một trong những bài thơ hay nói về khát vọng yêu c trong mi mt
con người Việt Nam. Dưới đây bài phân tích v các trích đoạn trong bài thơ “Đất
c” (trích trưng ca
“Mt đưng khát vọng”) của Nguyễn Khoa Đim.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có ri
(…) Đất Nước có t ngày đó”.
Nguyễn Khoa Điềm thuc lớp thi trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
Những năm 1970, 1971,… ông sng và hoạt động ti chiến trường Tr - Thiên; trường
ca “Mặt đưng khát vọng” được ông sáng tác vào thi gian ấy. Chương V “Đất
c” trích trong trưng ca “Mặt đường khát vọng”.
Phần đầu 42 câu tác gi nhn diện Đất Nước ngun gốc lâu đời. Tục ăn trầu, c
tích Tru - Cau, truyn thuyết Thánh Gióng dùng gốc tre đánh đuổi giặc Ân “mẹ
thưng hay k”:
“Đt Nưc bt đu vi miếng tru bây gi bà ăn
Đất Nưc ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Nhà thơ cảm nhận Đất Nước trong dòng chy thời gian “đằng đẵng”, trên không gian
địa “mênh mông”, qua sự tích “Trăm trứng” giỗ T Hương Vương. Nhà thơ
bng giọng tâm tình đã dẫn hồn ta ngưc thi gian bốn nghìn năm trở v ci ngun
Đất Nưc:
“Đất là nơi Chim về
ớc là nơi Rồng
Lạc Long Quân và Âu
Đẻ ra đng bào ta trong bc trng
(…) Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nh ngày gi T”.
Tục “bới tóc xăm mìnhcủa người Lc Việt, câu ca dao “gừng cay mui mặn” nói về
đạo v chng, ngôn ng dân tc hình thành, phát triển, nên “cái kèo, cái cột thành
tên”, công việc cấy cày làm ăn “xay, giã, giần, sàng” đưc ch rõ. Ci nguồn “Đất
c có t ngày đó”.
Đất Nưc trong quá kh mang v đp kì diu, huyn thoi:
“Đất là nơi “con chim Phượng Hoàng bay v hòn núi bc”
ớc là nơi “con cá Ngư Ông móng nưc biển khơi”.
Đất Nưc hin ti gắn bó yêu thương với mi người, “trong anh và em hôm nay - Đều
mt phần Đất Nước”. Mai này Đất Nước nhiều “mơ mộng”. Yêu nước nghĩa vụ
thiêng liêng:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương ca mình
Phi biết gn bó và san s
Phi biết hóa than cho dáng hình x s
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
Phn th hai 68 câu (Văn 12 ch trích hc 47 câu) nói v ởng “Đất Nước ca
Nhân Dân”. Nhân Dân sáng tạo ra Đất c. Các danh lam thng cảnh đều biu
ng cho phm chất cao đẹp, “lối sống” của ông cha như tình nghĩa v chng thy
chung, tình yêu la đôi thắm thiết, sc mnh qut khi, tinh thần đại đoàn kết ca dân
tc, truyn thng hiếu hc ca Nhân Dân ta:
“Những người v nh chồng còn góp cho Đất Nước nhng núi Vng Phu
Cp v chng yêu nhau góp nên hòn Trng Mái
Gót nga của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm đ li
99 con voi góp mình dựng đất T Hùng Vương”.
Núi Bút non Nghiên, vnh H Long, ông Đốc Ông Trang… đều do Nhân Dân ta “góp
cho”, “cùng góp cho”, “góp tên” - mà Đất Nưc đẹp tươi, hùng vĩ.
“Bn nghìn lớp người” đã đem m hôi, xương máu ra xây dng bo v Đất Nước:
“Khi giặc người con trai ra trn - Ngưi con gái tr v nuôi cái cùng con - Ngày
giặc đến nhà thì đàn cũng đánh”. Nhân Dân đã sáng tạo ra Đất Nước làm ch
Đất Nưc. H là nhng con người vô danh mà vĩ đi:
H đã sống và chết
Gin d và bình tâm
Không ai nh mt đt tên
Nhưng họ đã làm ra Đt Nước”.
Nhân Dân là ngưi sn xuất “giữ và truyn cho ta ht lúa ta trồng”. Nhân Dân đã sáng
to ra ngôn ng “truyền giọng điệu ca mình cho con tập nói”. Nhân Dân đã diệt thù
trong giặc ngoài để gi gìn Đất Nước, làm cho Đt Nước ngày thêm giàu đẹp:
“Có ngoi xâm thì chng ngoi xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đt Nưc Nhân Dân
Đất Nưc của Nhân Dân, Đất Nưc ca ca dao thn thoi”.
Tóm li, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dng sáng to tc ng, ca dao, dân ca, truyn c,
phong tc, ngôn ng để cm nhn v ngun gốc lâu đời của Đất c, khng đnh
Nhân Dân đại đã ng tạo ra Đấtc và làm ch Đất Nước. Chương “Đất Nước”
cha chan tình yêu và nim t hào dân tc.
Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm mu 6
Đoạn thơ 9 câu dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất Nước” thuộc trưng ca
“Mt đưng khát vọng” (1971) của Nguyễn Khoa Điềm:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có ri
………………………………………..
Đất Nưc có t ngày đó”.
Đoạn thơ đã nói lên mt cách dung d thm thía v ci ngun sâu xa của Đất
c.
Giọng điệu th th tâm tình, nhà thơ gợi lên mt không khí trm lng như kể chuyn
c tích, như dẫn hồn ta ngược thi gian tr v ci nguồn Đất Nước dân tc. Bn
ch “ngày xửa ngày xưa” dùng rt khéo:
“Khi ta ln lớn Đất Nước đã có ri
Đất Nưc có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thưng hay k”.
Ch “có” trong “đã có ri”, “Đất Nước có trong những cái…” đã làm cho ý thơ khẳng
định, ta sáng nim tin. Tục ăn trầu, truyn c tích Tru - Cau gi lên hình ảnh Đất
c.
ớc xa xưa, “Đất c bắt đầu”… Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết s vươn
mình ca dân tộc, đánh dấu sc mnh qut khởi “Đất Nước lớn lên”. Câu thơ m
rộng đến 12, 13 ch, vi cách gieo vần lưng (đầu - trầu, ăn - dân) nên vn thanh thoát,
giàu âm điệu:
“Đt Nưc bt đu vi miếng tru bây gi bà ăn
Đất Nưc ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Hai ch “lớn lên” liên tưởng đến hình ảnh chú làng Gióng lên ba vươn vai thành
mt tráng sĩ oai phong lm liệt khi Đất Nưc b giặc Ân xâm lược.
Rồi nhà thơ nói đến phong tục đạo tốt đẹp lâu đời ca nhân dân ta. Phong tc
“búi tóc” của người Lc Vit. Câu ca dao nói v đạo v chồng: “Tay bưng chén mui
đĩa gừng - Gng cay mui mặn xin đừng quên nhau” đã nhp hồn vào câu thơ
Nguyễn Khoa Điềm:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha m thương nhau bằng gng cay mui mn”.
Chuyện “ngày xửa ngày xưa” nhưng vẫn hin diện trên “tóc mẹ”, trong tình thương
của “cha mẹ” bây giờ. “Đất Nước đã rồi”, “Đất ớc có…”, “Đất c bắt đầu”,
“Đt Nưc lớn lên” và Đất Nước đang hiện din quanh ta, gần gũi ta.
Tiếp theo, nhà thơ lấy s hình thành phát trin ngôn ng dân tộc để nói v ngun
gốc lâu đời của Đất Nước. Mi vt dụng đều một cái tên riêng: “Cái cột, cái kèo
thành tên”. Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Ngh trồng lúa nưc to n
nền văn minh sông Hồng. Khi ht gạo được sáng to nên bng công sc “một nng
hai sương”, thì ngôn t “xay, giã, giần, sàng” cũng xuất hin. Tiếng Vit ca quý
lâu đi của Đất Nưc ta, Nhân Dân ta. Cách nói ca Nguyễn Khoa Điềm tht ý v:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nưc có t ngày đó”.
Lấp lánh trong đoạn thơ hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá kh của Đất c
“ngày xửa ngày xưa” đồng hiện trong “miếng tru bây gi ăn”. Đất Nước anh
hùng “biết trồng tre đánh giặc”. Đất c cần trong lao động sn xut:
“Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Có nền văn hóa giàu bn sc,
nền văn hiến rc r hi t qua thuần phong tc (tục ăn tru, tc bi tóc), qua tc
ng ca dao “gng cay mui mặn”, qua cổ tích thn thoi, truyn thuyết.
Đoạn thơ 9 câu, 85 ch không h mt t Hán Vit nào. Ngôn t bình d, cách
nói biu cm thân mt. Hin diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ.
miếng tru, cây tre, tóc mẹ,… “gừng cay mui mặn”, cái kèo, cái cột, ht go,
v.v… Thật là thân thuc và gần gũi, sâu xa thấm thía, rung động. ởng tượng thì
phong phú, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã “nhịp mãi lên mt tm lòng s điệp” để
ta yêu thêm Đất Nước và t hào v Đất Nưc. Cấu trúc đoạn thơ: “tng - phân - hợp”;
m đầu câu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã rồi”, khép lại đoạn thơ câu “Đt
c có t ngày đó”. Tính chính luận đã làm sáng đp cht trí tu kết hp hài hòa vi
cht tr tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về ci nguồn Đất Nước thân
yêu.
Phân tích bài thơ Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm mu 7
Đất nước hai tiếng thiêng liêng y vang lên t sâu thm tâm hn ta; va cao c,
trang trng; va xiết bao gần gũi. Hình tượng Đất ớc đã khơi nguồn cho bao hn
thơ cất cánh.
“Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm cũng nằm trong ng chy dào dt
y phần đầy đủ hơn cả khi thng nhất được ci nguồn đất nước tưởng đất
nước ca nhân dân.
Gin d như một l t nhiên, bài thơ mở đầu vi khát khao tìm hiểu đất nước t
bao gi:
“Khi ta lớn lên Đất Nưc có ri
Đất Nưc có trong nhng cái “ngày xửa ngày xưa…” m thưng hay k.
Đất Nưc bắt đầu vi miếng tru bây gi bà ăn
Đất Nưc ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc m thì bới sau đầu
Cha m thương nhau bằng gng cay mui mn
Cái kèo, cái ct thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nưc có t ngày đó…”
Khi xưa, đất nước gn vi nhng huyn thoi, truyn thuyết, vi những vương triều
hùng mnh. Ngày nay, Nguyễn Khoa Đim v li hành trình trong s quen thuc, gn
gũi. cái xa xăm của lch s nhưng gần gũi vi c ấu thơ. Đó cái “ngày xa
ngày xưa…” mẹ k con nghe; cái m áp ca nhng hình ảnh dưới mái nhà Vit, vi
“miếng trầu” thắm đỏ ăn, cây tre ngàn đời đánh giặc nghĩa nh m cha đằm
thm. “Ci nguồn” không gì khác là gia đình thân thuc, m cúng.
Những câu thơ nhẹ nhàng, m áp, bay bổng trong đời và hòa trn trong ca dao, c tích
để làm nên điệu hn êm ái. Đó sự tích trầu cau “Miếng trầu nên dâu nhà người”,
s tích cu làng Gióng lên ba tui nh tre phá gic, lời ca dao “Muối gừng”
ân nghĩa thủy chung. Đất nước hiện lên nên thơ, bay bổng mĩ l i con mt tinh
tế ca Nguyễn Khoa Đim.
Đất Nưc còn là chiu rộng không gian đa lí cách nhìn có l không phi là mi m.
Ngày xưa, Nguyễn Đình Thi viết:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”
Đó là không gia rt dài, rt rng, rt cao mang tm vóc s thi tráng l.
Vi Nguyễn Khoa Đim:
“Đất là nơi anh đến trưng
ớc là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong ni nh thm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay vn núi bc”
ớc là nơi “con cá ngư ông móng nưc biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
ớc là nơi Rồng ở”
Đất nước là “nơi anh đến trường” – cuc sng hc tập, “nơi em tắm mát” – cuc sng
sinh hoạt góc đi thiếu nữ, là “nơi ta hẹn hò” thp lửa tình yêu, “nơi em đánh rơi
chiếc khăn trong nỗi nh thm” ghi du k niệm con người. Đó ng một không
gian giàu có, trù phú, bao la, đp rộng: “Con chim phưng hoàng bay ngang hòn
núi bc Con ngư ông móng ớc ngoài khơi”. gần với con ngưi lm, chiếc
khăn ấy là li hát tha thiết trong đêm tương tư “Khăn thương nh ai Khăn rơi xuống
đất”, gn vi lời hát điu hò ca câu huê tình x Bình Tr Thiên t bui nào.
Đất nưc đng thi là chiu dài thi gian lch s:
“Lạc Long Quân và Âu
Đẻ ra đng bào ta trong bc trứng”
Những ai đã khuất
Nhng ai bây gi
Yêu nhau và sinh con đ cái
Gánh vác phần người đi trước đ li
Dn dò con cháu chuyn mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nh ngày gi Tổ.”
4000 năm lịch s đã tr thành thiêng liêng vi nhng trang s chói li ca cha ông:
“T Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nn độc lập.”
(Bình Ngô đi cáo-Nguyn Trãi)
Đến:
“Đt nưc bốn nghìn năm
Vt v và gian lao
Đất nước như vì sao
C đi lên phía trưc.”
(Mùa xuân nho nh-Thanh Hi)
Sau này Chế lan Viên viết:
“Hi sông Hng tiếng hát bốn nghìn năm!
T quc bao gi đp thế này chăng?
Chưa đâu! Cả trong những ngày đẹp nht
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyn Hu i voi vào ca Bc.
Hưng Đạo dit quân Nguyên trên sóng Bch Đằng…”
Đến Nguyễn Khoa Điềm, đó thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Đó
truyn thuyết v bc trăm trứng, với nơi chim v, rng , và ngày gi T thiêng liêng.
Đó kết qu trước ởng tượng bay bng ca tâm hồn đầy khát vọng, đẹp mt cách
gần gũi mộng, bay bổng lệ,…mà dường như trước sau Nguyn Khoa
Điềm chưa ai nói được như thế.
Đất nước cũng đi vào chiều sâu trong s riêng tư đời ngưi:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có mt phần Đất Nước
Khi hai đa cm tay
Đất Nưc trong chúng ta hài hòa nng thm
Khi chúng ta cm tay mi ngưi
Đất Nưc vn tròn, to ln
Mai này con ta ln lên
Con s mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phi biết gn bó và san s
Phi biết hóa thân cho dáng hình s x
Làm lên Đất Nước muôn đời…”
Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì
“vn tròn, to lớn”. Đất nước mang tình yêu la đôi, tình đồng đội quê hương và còn là
“ct nhục nh thâm”, Đất Nước “máu ơng” của ta. Đất nước được nhìn t cái
chung đến cái riêng, nhân đến cộng đồng, t xa đến gn, t b rng v b sâu, t
cái hữu hình đến cái hình. Mt cách sp xếp t nhiên, cht ch và đượm lí, đưm
tình.
Tiếp sau đó là tư tưởng đất nưc ca nhân dân. Mt lot những câu thơ t do vi biên
giới thơ mở rng. Nhịp thơ chậm li, mang không khí tâm tình trò chuyn. Ngh thut
lit kê và cách đip li cu trúc nhn mạnh ý thơ và liền mch.
Lời thơ, giọng tsôi nổi, thiết tha tràn đy nhit huyết, khẳng định những đóng
góp ca nhân dân trong việc làm ra đất nước. Đó là núi Vọng Phu những năm tháng
ch đợi chung thy sng sng gia trời. Đó núi bút non nghiêng xây đắp bi lòng
hiếu hc ca những tháng năm miệt mài đèn sách và hàng loạt các địa danh “Ông Đc,
Ông Trang, Bà Đen, Điểm”, với nim t hào vi vi trong li ca ngi non ng
gấm vóc, “non k thủy tú”. Con ngưi cùng bao vật vô tri khác đã “hóa thân cho dáng
hình x sở” với tác gi đó niềm yêu nh trưc công lao to ln ca nhân dân,
xây đắp “hình sông thế núi”.
Khẳng định đất nước là của nhân dân đồng thi là li yêu cầu tình yêu đất nưc, thc
tnh lòng t hào tinh thn dân tc trong mỗi người. “Em ơi em” lời gi ngt
ngào, tha thiết, trìu mến, đầy th th tâm tình. Vy nói v những điều ln lao
không h sáo rng. Nhân dân ai? nhng người “con gái, con trai” bng tui
chúng ta, ngưi ra trn, k li, những anh hùng “cả anh em đều nh
nhưng cũng những anh hùng danh “Không ai nh mặt đặt tên Nhưng họ đã
làm ra đất nước”. “Họ đã sống chết Gin d bình tâm”, lời thơ giống như một
nén hương tận tâm còn vương khói thp lên cho nhân dân, dân tc.
Trong sut bốn nghìn năm đất nước, nhânn ta truyn gi ht lúa, truyn tng ngn
la, truyn ging nói, vi những tên xã, tên làng, đắp đập be b chng gic ngoi xâm.
Các giá tr vt cht luôn đi kèm văn hóa tinh thần, c kiến quc và v quc. Nhng
câu thơ gi nhc ti: tiểu đội xe không kính, nhng gái m đường, anh gii phóng
quân:
“Em là cô gái hay nàng tiên?
Em có tui hay không có tui?”
Hoc:
“Hoan hô anh gii phóng quân
Kính chào Anh, con người đp nht!”
Tác gi đã chọn liệu văn hóa dân tộc trong ca dao, th hin cảm xúc, ý nghĩ. Hin
lên mn mt chân dung tinh thn ca nhân dân. Tâm hn dân tc gi vào trong
dân gian gian nay tr thành chiều sâu văn hóa. Nhìn c chiu dài, chiu rng
chiều sâu đều thấy đưc vai trò ca nhân dân va làm ra va bo vệ. Cho nên “Đất
c này là đt nưc ca nhân dân”.
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm bn nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong
điệu hn kháng chiến, li thúc giục tình yêu c cho mi thế h Vit Nam hôm
nay và mai sau.
Bài tham kho 8
Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng
s thi cm hng lãng mn, bên cạnh các đề tài “lực ợng trang- chiến tranh
cách mạng” tcác đ tài xây dựng đất nước, hoc ca ngợi đất nước cũng được nhiu
tác gi chọn đưa vào tác phẩm ca mình mi nhng vần thơ, lời văn chân thành tha
thiết, thấm đẫm hào khí dân tc.
Nguyễn Khoa Điềm mt trong nhng nthơ trưng thành t cuc kháng chiến
chng M cứu nước, cũng chọn cho mình đề tài đất nước, gia nhng năm tháng
cuc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục sôi máu la. Thế nhưng
Nguyễn Khoa Điềm không đặt nng trong tác phm ca mình màu sc tuyên truyn,
không n ào, rn ông cho riêng cho mình mt cht ging êm du, thiết tha, gn
gũi và thân thuộc.
Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bng mt cách rt riêng, bng mt cm xúc mi
l gia thi chinh chiến “hoa lửa”, ông nhìn nhận T quc t những điều gin d, t
những con ngưi rất đỗi bình thường. S dng thành công giọng thơ mang tính triết
lun tr tình, đặc bit s kết hp vi các cht liệu văn hóa dân gian lấy t vn hiu
biết rng ln của nhà thơ về văn hóa ngàn đời ca dân tc.
Tt c đã tạo nên một Đất Nước vi v gin dị, thân thương, Đất Nước ca nhân dân,
một Đất Nước bước ra t nhng câu chuyn k, nhng truyn thuyết, nhng phong
tc tp quán của 4000 năm văn hiến t hào.
“Khi ta lớn lên Đất Nưc đã có ri
Đất Nưc có trong nhng cái “ngày xửa ngày xưa...” m thưng hay k
Đất Nưc bắt đầu vi miếng tru bây gi bà ăn
Đất Nưc ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc m thì bới sau đầu
Cha m thương nhau bằng gng cay mui mn
Cái kèo, cái ct thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nưc có t ngày đó…”
Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác gi đi vào phân tích làm vấn đề Đất
c t bao giờ. Trong 9 u thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã ch ra rằng Đất
ớc đã có từ rất lâu đời, gn lin vi nhng truyn thuyết, vi nhng câu chuyn c
tích đã có t nhng ngày xa, ngày xưa.
Câu “Đất Nước bắt đầu vi miếng tru bây gi ăn” gợi cho chúng ta nh đến s
tích Tru Cau, khơi gợi li truyn thng tốt đẹp ca dân tc Vit Nam, y tình
nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa v chng son st thy chung.
Không ch vy t hình nh miếng trầu ăn tác giả còn gi li nhng cái phong tc
đẹp ca nhân dân ta y tục ăn trầu nhuộm răng t thu vua Hùng dựng nước
gi nước. Cùng vi s tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước ln lên khi dân
mình biết trồng tre đánh giặc” tác giả li tiếp tc gi nhc chúng ta nh v truyn
thuyết Thánh Gióng cùng quen thuc, gi nhc v truyn thng yêu nước, bt
khut đng lên chng gic ngoi xâm ca dân tc.
Như vậy, có th thy rng Đất Nước hình thành t nn tảng là tình nghĩa sâu nng ca
dân tc, thế nhưng Đất Nước ch th lớnn khi nhân dân ta có đưc tinh thn yêu
nước, được lòng dũng cảm, kiên ờng đấu tranh chng gic ngoại xâm đ gi
nước. Đi từ nhng câu chuyn c tích, nhng truyn thuyết xa xưa ttác gi li tiếp
tc ch ra Đt Nưc có t rt lâu đi, bt đu t nhng thun phong m tc.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nh li phong tc búi tóc thành búi tóc tròn,
thp sau gáy ca các bà, các m thời xưa. Mà cho đã qua hàng ngàn năm b phong
kiến phương Bắc đô hộ, my chục m tri Pháp thuc, thế nhưng cho đến khi
Nguyễn Khoa Điềm viết Trưng ca Mặt đưng khát vng, búi c y vn gi cho
mình dáng v ban đầu không đổi, vẫn kiên ng tr vng sau gáy của ngưi ph n
Vit Nam.
“Cha mẹ thương nhau bằng gng cay mui mặn”, chính đại din cho truyn thng
coi trọng tình nghĩa vợ chng, càng trong nhng th thách, gian lao thì v chng li
càng tr nên thương yêu và gắn kết bn cht vi nhau hơn.
Th ba na, Đất c t rất lâu đời đưc hình thành cùng vi tiến trình phát trin
của con người Vit Nam trong cuc sng đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ
ch con người ta sng tm b trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu
ch động hơn trong cuc sng biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho
mình.
Rồi “Hạt go phi mt nắng hai sương xay gdần, sàng”, ta cũng thấy được t cái
ch nhân dân ta sng ph thuc vào thiên nhiên vi công việc hái m bp nh, thì
người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh a nước, biết to ra ht thóc ht
gạo làm lương thực chính để phc v cuc sng.
Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên để tr li cho câu hi Đt Nưc có t khi nào, tác
gi đã cht li bng câu thơ “Đất Nước t ngày đó”, “ngày đó” ngày những
truyn thuyết, c tích ra đời, ngày chúng ta thun phong m tc, ngày
chúng ta biết trng tre dit giặc, cũng là ngày bà con ngưi Vit Nam ta biết dng nhà,
trng lúa.
th nói Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm gi li thông qua c cht liệu văn hóa
dân gian lâu đời ca n tộc đã đem đến cho người đọc nhng xúc cm gần gũi, thân
thuc và bình dị, đ li trong tâm hồn con người cm giác tha thiết và gn bó vô cùng.
“Đất là nơi anh đến trưng
ớc là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong ni nh thm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay vn núi bc”
ớc là nơi “con cá ngư ông móng nưc biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Sau câu hỏi Đất Nước t bao gi, Nguyn Khoa Điềm li tiếp tc khai thác hình
ợng Đất Nước câu hỏi “Đất Nước gì?”. Ông không trả li khái nim này theo
cách ca các nhà khoa học dưới cương vị ca một nhà thơ, dùng lối chiết t,
tách Đất Nước thành hai thành t Đất” và “Nước” để định nghĩa, giúp ngưi
đọc có đưc cách hiu chính xác nht, đầy đủ nht v khái niệm Đất Nước.
V phương diện địa Nguyễn Khoa Điềm ““Đất nơi anh đến trường/Nước
nơi em tắm” không gian gần gũi, thân thuộc đối vi mỗi người trong cuc sống đời
thưng. Rồi “Đất Nước nơi ta hẹn/Đất ớc nơi em đánh rơi chiếc khăn
trong ni nh thm”.
Tác gi đã hợp hai thành t lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh em ln dn
lên, nếu trước đây anh em là hai thể Đất Nước cũng tách riêng ra thì bây gi
anh em đã hp li thành mt cặp tình nhân “hò hẹn” Đất c tr thành mt
cái không gian riêng , thầm kín cho tình yêu ca lứa đôi. Không ch thế “Đất i
con chim phưng hoàng bay v hòn núi bc...
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nưc mt dáng v khác, nếu
trên ta thy một Đất Nước nh dung d thì ti những câu thơ này ta li thấy Đất
c mang mt dáng v k vĩ và lớn lao được đo bng si cánh ca con chim phưng
hoàng bay v núi bạc, được đo bng s mênh mông, rng ln ca bin khơi.
cuối cùng đi đâu v đâu thì phượng hoàng cũng phi v núi, ngư ông thì
phi vùng vy bin dân tc Vit Nam thì phải đoàn tụ nơi tên Đất Nước.
Như vậy th tóm gn lại Đất Nước chính nơi trở v ca nhng tâm hn thiết tha
vi quê hương.
“Đất là nơi Chim về
ớc là nơi Rồng
Lc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đng bào ta trong bc trng
Những ai đã khuất
Nhng ai bây gi
Yêu nhau và sinh con đ cái
Gánh vác phần người đi trước đ li
Dn dò con cháu chuyn mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nh ngày gi Tổ”
V phương din thi gian lch s, tác gi đã trả li cho câu hi Đất c bng
mt cái nhìn bao quát sut chiu dài thi gian lch s để đưa ra mt câu tr li chính
xác nht. Trong quá kh đó một Đất Nước thiêng liêng ln lao, khi tác gi gi
nhc v truyn thuyết Lc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhc v ging nòi cao qca
dân tc ta, vn là con rng cháu tiên.
Đồng thi còn gi nhc v truyn thng hào hùng dựng nước gi c ca cha
ông, m ra triều đại đầu tiên của nước ta, triu đi vua Hùng tc truyền kéo dài đến
18 đời. Kèm với đó nhng li dn chân thành tha thiết, phi biết kế tục hương
ha, duy trì nòi ging dân tc, phải đứng lên mnh gi gìn non sông gm vóc, và luôn
nh v ngun ci ca mình vi tm lòng thành kính, trân trng.
“Trong anh và em hôm nay
Đều có mt phần Đất Nước
Khi hai đa cm tay
Đất Nưc trong chúng mình hài hòa nng thm
Khi chúng ta cm tay mi ngưi
Đất nưc vn tròn, to lớn”
Trong hin tại, Đất Nước hin lên mt cách gần gũi thân thuc, hin din trong
mỗi con ngưi, bao gm ngôn ng để con ngưi giao tiếp duy, bao gồm c nhng
phong tc tp quán tốt đẹp vn tn ti trong tng nếp sống. “Khi hai đa cầm tay/Đt
c trong chúng nh hài hòa nng thắm” sự tiếp ni của ý thơ “Đất Nước nơi
ta hẹn”, thì đến đây trên sở tình yêu la đôi mỗi con ngưi phi trách nhim
xây dng mt t m đ góp phn xây dng mt “Đt Nưc hài hòa nng thm”.
Không ch dng li đó, trách nhiệm ca mỗi con người còn là “cm tay mọi người”,
phi ni ng tay ln, xây dng khối đại đoàn kết cộng đồng vng mạnh đ to nên
mt “đất nước vn trong to lớn” để sánh vai vi các cưng quốc năm châu. Không chỉ
vy hình ảnh thơ “cm tay mọi ngườicòn gi nhc v ngun gc t tiên, nhc nh
chúng đu cùng mt m sinh ra, thế nên phi biết yêu thương đùm bc ln nhau.
“Mai này con ta ln lên
Con s mang đất nưc đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Trong tương lai đó một Đất c vi trin vọng tươi sáng, những thế h tương lai
được k vọng, được đặt lên vai cái trách nhim ln lên c v trí tu ln tầm vóc, để
làm nên những điều k diu cho cn tc c Đất Nưc. Con s đưa Đất Nước đi xa,
sánh vai cùng với các ng quc trên thế giới, đưa Đất Nước tr nên giàu đẹp vng
mnh gp nhiu ln hôm nay.
Sau khi đã định nghĩa một cách ràng Đất Nước c v không gian thi gian, c
v địa ln lch s thì Nguyễn Khoa Điềm đã chốt li bng những câu thơ rt tha
thiết v trách nhim ca mi cá nhân đi với Đất Nưc.
“Em ơi em Đất Nước là máu xương ca mình
Phi biết gn bó san s
Phi biết hoá thân cho dáng hình x s
Làm nên Đt Nước muôn đời…”
Lời thơ nlời tâm tình của ngưi anh với ngưi em, li tâm tình ca chàng trai
đối vi một người con gái, cũng là lời lay tnh của nhà thơ, của thế h trưc vi thế h
sau, cũng lời lay tnh ca cách mạng đối vi tui tr đô thị vùng tm chiếm min
Nam, những con người đang ngủ quên trong cuc sống hưởng th.
Đất Nưc mt khái nim trừu ng, thế nhưng khi so sánh Đất c vi hình nh
“máu xương của mình” thì đó lại là mt khái nim c th, hu hình. Đây cũng là phần
ni tiếp trong ý thơ “trong anh và em hôm nay đu mt phần Đất ớc”, thì đây
Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ Đất Nước máu xương ca mỗi con người, đã phần
căn cơ cốt yếu trong mi cá nhân, ai cũng phi có.
Đip t “phi biết” trong hai câu thơ sau biu hin ca mt mnh lệnh, xác định
trách nhim cho mỗi người, yêu nưc không phi là mt khái nim chung chung, mt
tưởng trừu tượng mà yêu c phi thc hin bằng hành động. Mỗi con người cn
phi biết “gắn san sẻ”, đặc bit phải “biết hóa thân cho dáng hình x sở”, dâng cả
s sống, thanh xuân cho Đất c, coi trọng Đất Nước hơn cả hnh phúc riêng ca
bn thân mình.
Sau những dòng thơ nêu nên s hình thành phát trin của Đất Nước thì Nguyn
Khoa Điềm bắt đầu đi vào nhấn mạnh ởng Đất Nước ca nhân dân, bng câu hi
Đất Nưc do ai làm nên.
“Những người v nh chồng còn góp cho Đất Nước nhng núi Vng Phu
Cp v chng yêu nhau góp nên hòn Trng Mái
Gót nga của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm đ li
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất t Hùng Vương
Nhng con rng nm im góp dòng sông xanh thm
Ngưi học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho H Long thành thng cnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Trên phương diện không gian địa lý, tác gi đã cảm nhận Đất Nước qua những địa
danh thng cnh ni tiếng ca Vit Nam bng nhc tên chúng một cách dày đặc trong
từng ý thơ. Đc bit nhng địa danh này vn đã trở nên quen thuc với người dân
Vit Nam gn lin vi nhng c tích, nhng thn thoại trong văn hóa dân tc, mc
đích là để gi gm nim t hào ca tác gi đối với quê hương, đất nưc.
Không ch vậy, sâu xa hơn nữa vic Nguyễn Khoa Điềm liệt các địa danh như vậy
cũng nhằm k tên các vùng đất tương ng trên dải đất hình ch S, như “núi
Vọng Phu” ngự Lng Sơn, còn rt nhiều nơi khác, gợi nhc v hình nh nhng
người v ch chồng đi đánh giặc trên khp T quc.
Rồi “hòn Trống Mái” thì Thanh Hóa, “trăm ao đầm” gót ngựa Thánh Gióng đi
qua thì ri rác khp mi miền đất nước, “đất t Hùng Vương” ng Phú Thọ, “núi
Bút, non Nghiên” Quảng Ngãi, “Hạ Long” Quảng Ninh, “ông Đốc, ông Trang,
Đen, bà Điểm” là những địa danh mảnh đt min Nam.
Thêm na, vic nhắc đến các vùng đất khp T quốc như vậy còn để nhn mnh
việc đất nưc chúng ta mt di non sông ni lin, t đó gợi lên ý chí thng nht T
quc, Nam Bc mt nhà của nhân dân ta. Đồng thi nhng danh lam thng cnh y
cũng biểu tượng cho v đẹp tâm hn Việt, đó đức tính thy chung son st trong
tình cm v chng, ý chí quyết tâm chng gic ngoi xâm ca dân tc Vit Nam,
nhc li thu dng nước thiêng liêng và hào hùng, ri còn gi li c truyn thng hiếu
hc của nhân dân ta, đc bit c những điều gin d nhất như con cóc, con cũng
làm nên thng cảnh cho quê hương.
Ngoài ra vic s dng cấu trúc thơ độc đáo, một bên là con ngưi, s vt s vic dung
d đại din cho nh nh ca nhân dân, mt n nhng địa danh, nhng thng cnh
k vĩ, lớn lao đại din cho hình nh của Đất Nước được ni vi nhau bng nhng t
“góp”, “góp tên”, “góp mình”,... Đã khẳng định mt cách mnh m ởng Đt
c ca nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, góp sc làm nên ca
Nguyễn Khoa Điềm.
“Và đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chng mang mt dáng hình, một ao ưc, mt li sng ông cha
Ôi Đt Nưc sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thy
Nhng cuc đời đã hoá núi sông ta…”
Sau khi din giải ởng Đất Nước ca nhân dân các chi tiết, thì Nguyn Khoa
Đim chuyển sang nâng ý thơ lên tầm khái quát. Khẳng định tm vóc k của Đất
ớc phương diện địa lý qua hình ảnh “khắp rung đồng bãi” để m ra mt
không gian ln lao cao rộng, sau đó khẳng định s trưng tồn, vĩnh hằng của Đất
c phương diện lch s “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm”.
T đó dẫn dt, khẳng định nhân dân chính là người đã tạo ra Đất Nước va k vĩ, vừa
có b dày lch s những ý thơ rất hay “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/Chng
mang mt dáng hình, một ao ước, mt li sống ông cha” cùng với “Ôi Đất Nước sau
bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thy/Nhng cuộc đời đã hoá núi sông ta…”. Rt tha
thiết, nồng đượm yêu thương khẳng định Đất Nước đã được to nên bng chính cuc
đời ca các thế h cha ông, bng các dáng hình, những ước mơ, những phong tc tp
quán đã in hằn trên dáng v ca Đất Nước.
“Em ơi em
Hãy nhìn rt xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng ni ngưi lp lp
Con gái, con trai bng tui chúng ta
Cn cù làm lng
Khi có giặc người con trai ra trn
Ngưi con gái tr v nuôi cái cùng con
Ngày gic đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiu anh hùng c anh và em đều nh
Nhng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bn ngàn lớp người ging ta la tui
H đã sống và chết
Gin d và bình tâm
Không ai nh mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nưc”
tưởng Đất c ca nhân dân tiếp tục được khẳng định thông qua phương diện
thi gian lch s. Trong suốt 4000 năm nhân dân đã chăm chỉ cần để xây dựng Đất
c, khi chiến tranh thì người con trai lp tc ra trn bo v Đất Nước. Còn
người con gái tr thành ngưi chèo chống gia đình, nuôi con cái, thế nhưng mang
trong mình dòng máu Trưng Triệu, h cũng trở nên mnh m kiên cường c
trong chiến đấu.
S anh dũng của ông cha ta trong công cuc chng gic ngoại xâm đã khiến h tr
thành nhng người anh hùng lưu danh s sách, thế nhưng bên cạnh những con ngưi
hữu danh thì người ta thy nhiều hơn là những con người danh “không ai nh mt
đặt tên”. Dù không ai nh mt đt tên, thế nhưng những thế h sau vn luôn trân trng,
yêu quý bi h chính là người làm ra Đt Nưc.
“H gi và truyn cho ta ht lúa ta trng
H truyn la cho mi nhà t hòn than qua con cúi
H truyn giọng điu mình cho con tp nói
H gánh theo tên xã, tên làng trong mi chuyến di dân
H đắp đập be b cho người sau trng cây hái trái
Có ngoi xâm thì chng ngoi xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”
Nhân dân không ch người xây dng bo v Đất Nước nhân n còn
người làm nhim v cùng thiêng liêng y truyn li cho thế h tiếp ni nhng
giá tr văn hóa vật cht tinh thần. Cha ông đã đ li cho con cháu nền văn minh
nông nghiệp lúa nước ngàn đời, truyn cho con cháu ngn la sáng ngời sau bao năm
tháng sng trong tối tăm, lạnh lo.
Truyn cho con th ngôn ng tiếng nói ca riêng dân tc mình, gi cho mình cái văn
hóa làng, trong mi chuyến di dân, to dựng sở vt chất, đất đai đ cho các thế
h kế tiếp phát trin trên mảnh đất y.
“Đt Nưc ca Nhân dân,
Đất Nưc ca ca dao thn thoi
Dy anh biết “yêu em t thu trong nôi”
Biết quý công cm vàng nhng ngày ln li
Biết trồng tre đợi ngày thành gy
Đi tr thù mà không s dài lâu”
Trên bình diện văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm cũng chỉ ra những nét đp riêng ca tâm
hn Vit, của văn hóa Việt. “Đất c ca nhân dân, Đất c ca ca dao thn
thoại” thế nên khi nhìn vào kho tàng văn học dân gian đều thy hin lên din mạo văn
hóa của Đất Nước, thấy được hình bóng ca nhân dân những con người mang đậm
nét truyn thng ca dân tc.
Tác gi đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gi ra 3 v đẹp tâm hn của ngưi Vit
Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tc Việt nói chung. “Yêu em
t thu trong nôi/Em nm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm trong tình yêu,
biết yêu thương nhng con người xung quanh mình.
Tiếp theo câu “Cm vàng lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc ng cm
vàng”, từ đó thấy được v đẹp ca lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn nhng giá tr
vt cht tầm thường. Cui cùng câu tc ng “Thù này t hn còn lâu/Trng tre
thành gy gặp đâu đánh què”, gợi ra v đẹp bn b trong đấu tranh chng gic ngoi
xâm ca nhân dân ta t bao đời nay.
“Ôi nhng dòng sông bt nưc t lâu
Mà khi v Đất Nưc mình thì bt lên câu hát
Ngưi đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Kết lại đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vng thì tác gi đã nêu lên
nhng cm nhn rt tinh tế v v đẹp của quê hương, của Đất Nước. “dòng sông”
bt ngun t đâu thì khi chảy đến mảnh đất quê hương cũng đều mang ging hát
của Đất Nước, mang đm bn sc ca dân tc. Mỗi con ngưi Vit Nam, trong công
cuộc mưu sinh, lao động trên cái dòng chy y li nhng cách ng x khác nhau
ri cui cùng to nên mt dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến.
Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất c vi giọng n chính luận tr tình đã
bc l suy nghĩ sâu sắcnói lên nhng tình cm tha thiết của mình đi với đất nước
trên nhiu bình diện, địa lý, lch s, bình diện văn hóa với tưởng bao trùm
xuyên sut ấy là tư tưởng Đất Nưc ca nhân dân.
V ngh thuật đoạn trích được viết theo li quy np, biu hin ni dung chính lun
mt cách tr tình bằng cách n các cht liệu văn hóa dân gian thân thuộc, t
mà, êm ái, mang đến cho người đọc nhng xúc cm thm m độc đáo. Giọng điệu
xuyên suốt đoạn trích giọng thơ tâm tình tình, tha thiết, sâu lắng như giọng điệu
của đôi lứa u nhau làm cho ni dung ngh lun vn khô khan tr nên mm mi,
ngt ngào thấm sâu vào lòng người.
Bài tham kho 9
Mặt đường khát vng tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn
thành chiến khu Tr - Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thc tnh
ca tui tr các đô th vùng tm chiến min Nam. H nhn rõ b mặt xâm lưc của đế
quc Mỹ; ng v nhân dân, v đất nước; ý thức đưc s mnh ca thế h mình,
đứng dy xuống đường đấu tranh hòa nhp vi cuc chiến đấu ca toàn dân tộc. Đoạn
trích Đt Nưc thuc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vng.
Đất Nước th coi chương hay nht trình bày s cm nhn gii ca tác gi
v đất ớc, cũng đồng thi th hin sâu sắc ng ct lõi ca c bản trường ca, đó
tưởng "Đất Nước ca Nhân dân". Trình t trin khai mạch suy nghĩ cảm xúc
ca tác gi khá cht ch nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bng nhng li
định nghĩa say sưa về đất nước. Tiếp đó sự hình dung v đất c qua chiu dài
thi gian - lch s, qua v rng ca không gian - lãnh th địa và qua chiều sâu văn
hóa - phong tc, li sng, tính cách của người dân Vit Nam, vi mt nim t hào sâu
sc. T ba bình din này, lời thơ hào hứng, giàu chất suy hướng đến tưởng ch
đạo: "Đất ớc này Đất Nước Nhân dân". Mch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi
chy mt cách t nhiên, va cht ch vừa đầy hng khởi, đồng thi lại cũng có nhng
vang động sâu xa.
Trong phần đầu của đoạn trích, bng hình thc tr tình - chính luận, nhà thơ đã đưa ra
định nghĩa riêng của mình v đất nước bng nhng cm nhn v đất nước trong c
tích, ca dao. Lời tđịnh nghĩa thoát khỏi nhng khái niệm khó khăn để tr thành
mt cuc chuyn trò gần gũi, thân mật bay bng. Mức độ đậm dc ca các cht
liu ly t c tích, truyn thuyết, ca dao, dân ca, huyn thoi.... tạo cho đoạn thơ đầu
mt âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:
Khi ta lớn lên Đất Nưc đã có ri
Đất Nưc có trong nhng cái "Ngày xửa ngày xưa..."mẹ thưng hay k
Đoạn thơ đầu làm m đi khái niệm đất nước của các vương triều. Ngay t lúc
khai, đã của nhân dân. Định nghĩa đất nước bng s la chn cht liu t văn
hóa dân gian, đó một n ý ca Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân
dân. Cách định nghĩa ca Nguyễn Khoa Điềm mt s khám phá mi mẻ, độc đáo
to ra s hp dn và thú v đối vi người đọc.
Cách định nghĩa v đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào nhng
thiêng liêng nht, ln lao nhất nhưng cũng lại gần gũi thân thiết nhất đối vi mi
chúng ta. Nõ d gi cho ta nhng suy ngm v quá kh, v lòng t hào dân tc.
bi thế, thc tnh ý thc dân tc tinh thn trách nhim đối vi dất nước, vi
nhân dân trong mi chúng ta.
Phn sau của đoạn thơ từ "Những người v nh chồng" đến hết đoạn trích là phn tp
trung làm ni bt ởng "Đất nước ca nhân dân". Trong phần này, tưởng đã
quy t mi cách nhìn nhận đưa đến nhng phát hin sâu sc mi m ca tác gi
v địa lí, lch s và văn hóa ca đất nước.
Những người v nh chồng còn góp cho Đất Nưc nhng núi Vng Phu
Cp v chng yêu nhau góp nên hòn Trng Mái
Gót nga của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm đ li
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất T Hùng Vương
Nhng con rng nm im góp dòng sông xanh thm
Ngưi học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Qu nhng phát hin rt mi v thiên nhiên đất c. Nhng núi Bút, non Nghiên,
núi Vng Phu, hòn Trng Mái... vốn đã rất quen thuc nay bng tr nên tht l.
không phi là sn phm ca to hóa mà là tâm hn, là s phn của nhân dân. Đến đây,
thiên nhiên, to hóa không phi cái làm ny sinh ra nhng câu chuyện đầy huyn
thoi chính nhng câu chuyn v nhng tâm hn, nhng s phn của con người
trong quá kh làm cho nhng danh thng kia tâm hn, làm cho sng mãi. Cái
nhìn rất thơ của tác gi đi đến một khái quát đầy thm thía:
Ôi Đt Nưc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thy
Nhng cuc đời đã hóa núi sông ta...
Tiếp ni những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên những câu thơ khám phá
v đẹp tâm hn, tính cách Việt Nam, cũng nvai trò, vị trí của con người Vit Nam
trong lch s hàng nghìn năm dựng nước gi nước. Đó những con người yêu
thương sâu sắc, thùy chung tình nghĩa; những con người cần lao động, anh hùng
trong đánh giặc; những con người "không ai nh mặt đặt tên" nhưng chính h "đã
làm ra Đất Nước". H những người âm thm làm nên lch s, âm thm gìn gi
những nét văn hóa của dân tộc qua bao nhiêu thăng trầm ca lch s dân tc.
T nhng khái quát gin d nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nưc Nhân dân
Đất Nưc của Nhân dân, Đất Nưc ca ca dao thn thoi.
Đó một chân lí. Một chân đã đưc nhn thc trong sut quá trình phát trin dài
lâu ca lch s nhưng chỉ đến n học Vit Nam hiện đại, mới đạt đến đnh cao,
mi ct lên thành những tuyên ngon đầy t hào và vang đng sâu xa.
Làm nên s thành công của đoạn trích Đất Nước, ngoài s độc đáo đy phóng túng
ca th thơ tự do còn phi k đến tài năng xuất sc ca Nguyễn Khoa Điềm trong vic
tiếp thu s dng nhng cht liệu dân gian. Bài thơ s hòa nhp mt cách tht
nhun nhuyn gia hình thc tr tình - chính tr vi các cht liu t ca dao, c tích,
huyn thoi...
Bng s vn dụng đầy sáng to nh thức thơ tình - chính trị, đoạn trích Đất Nước
quy t mi cm nhn, mi cái nhìn, quy t vn liếng sách v cũng như những tri
nghim nhân của người ngh để làm nên mt tuyên ngôn v tưởng, v nhn
thc ca c mt thế h ngh sĩ, ấy là tư tưởng "Đất nưc ca nhân dân".
Bài tham kho 10
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 trong một gia đình trí thức có truyn thng yêu
nước cách mng thôn Ưu Điềm, Phong Hòa, huyện Phong Điền, tnh Tha
Thiên Huế. Quê gc ca ông làng An Cu, Thy An. Ông hc tập trưởng
thành trong những năm xây dng ch nghĩa hội min Bc, ri tr v Nam tham
gia chiến đấu chống Mĩ. Sau 1975, Nguyễn Khoa Điềm hoạt động văn nghệ chính
tr Huế.
Ông được bu làm Tổng thư Hội nhà văn Việt Nam khóa V B trưng B Văn
hóa Thông tin. T năm 2001 đến 2006, ông y viên B Chính trị, thư Trung
ương Đảng, Trưởng Ban ng Văn hóa Trung ương. Nguyễn Khoa Điềm thuc
thế h các nthơ tài ng tên tuổi được khẳng định trong thi chống Mĩ
cứu nước. Thơ ông hấp dn bi s kết hp gia xúc cm nồng nàn suy sâu lắng
v đất c, v dân tộc. Năm 2000, ông vinh d được trao tng Giải thưng Nhà
nước v văn học ngh thut.
Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (thơ, 1972), Mặt đường khát vng (trưng ca, 1974),
Ngôi nhà ngn la ấm (thơ, 1986), Cõi lặng (thơ, 2007). Trưng ca Mặt đường
khát vọng được tác gi sáng tác chiến khu Tr Thiên năm 1971, in lần đầu năm
1974, ni dung phn ánh s thc tnh ca tui tr đô th vùng tm b chiếm min
Nam đang xuống đường đấu tranh hòa nhp vi cuc chiến đấu chống đế quc M
xâm lược; đng thi th hin nhng suy ngẫm và quan điểm của nhà thơ về đất nước,
dân tc.
Đoạn trích Đất c nm phần đầu chương V của trường ca mt trong nhng
đoạn thơ hay về đề tài đất ớc trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Tác gi y t suy
nghĩ và tình cảm tha thiết, sâu sc ca bn thân v đất nưc trên nhiu bình din đa lí,
lch sử, văn hóa, phong tục… với tư tưởng bao trùm: Đất Nước ca Nhân dân
Đon trích chia làm hai phn: Phn mt: T đầu đến… Làm nên Đất Nước muôn đi:
cm nhn ca tác gi v đất nước trên các phương din cuc sng của con người: địa
lí, lch sử, văn hóa, phong tc. Phn hai: Tác gi đúc kết nên mt chân khái quát:
Đất Nưc ca Nhân dân.
Gia hai phn gần như không sự tách bit ràng v ni dung phn nào tác
gi cũng thể hin s cm nhn v Đất Nước trên nhiu mt, nhưng mỗi phn mt
trng tâm khác nhau trong nội dung tưởng cm xúc. phần 1, Đất Nước được
tác gi cm nhn t nhng gần gũi, bình d trong cuc sng hằng ngày, sau đó m
rng ra vi Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông trong nhng truyn thuyết
v thi dng nước. Cui cùng, cm nhn của nhà thơ hướng vào s hin din của Đất
c trong mỗi con ni; t đó nhắc nh trách nhim ca mỗi công dân đi vi Đt
c.
phần sau, Đất ớc được nhà thơ đúc kết thành quan niệm: Đất Nước ca Nhân
dân, chính Nhân dân đã làm nên đất c. Khái niệm Đất nước được gi nên t
nhng thng cnh thiên nhiên, những địa danh gn vi những tên người bình dị… Đất
c gn vi b dày lch s bốn nghìn năm vi nhng lớp ngưi không nh mặt đặt
tên.
H tng sng rt gin d bình tâm, nhưng cũng chính h những người đã làm
nên Đất Nước, truyn lại cho con cháu muôn đi. Cui cùng, mch suy tưởng ca tác
gi dẫn đến một chân khái quát: Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước ca ca dao
thn thoi.
Khác với các nhà thơ trưc, khi viết v đất ớc thường dùng nhng hình ảnh vĩ,
lệ, mang tính biểu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cách th hin rt t nhiên
và bình d:
Khi ta lớn tên Đất Nưc đã có ri
Đất Nưc có trong nhng cái “ngày xửa ngày xưa…”m thưng hay k
Đất Nưc bắt đầu vi miếng tru bây gi bà ăn
Đất Nưc ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc m thì bới sau đầu
Cha m thương nhau bằng gng cay mui mn
Cái kèo, cái ct thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nưc có t ngày đó…
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm y t cảm xúc suy tưởng ca nh v
Đất Nước dưi hình thc trò chuyn tâm tình, to ra mt cm giác gn gũi, thân thiết.
Nhà thơ lấy cht liu t văn hóa dân gian, từ ca dao, tc ng, t đời sng quen thuc
hng ngày. Bi vy nên không gian ngh thuật được m rng ra nhiu chiu hình
ợng thơ trở nên trnh, bay bng.
Đất Nước ngay trong cuc sng ca mỗi gia đình, từ li k chuyn ngày xa ngày
xưa của m, t các phong tc tp quán t lâu đời: Miếng tru bây gi ăn, Tóc
m thì bới sau đầu. Đất Nước t khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Đất
c hình thành t tình nghĩa v chng thy chung, Cha m thương nhau bng gng
cay mui mn, t quá trình lao động bn b ca dân tc; t hình nh ht gạo ta ăn
hng ngày thm đm m hôi mt nắng hai sương.
Câu thơ: Cái kèo cái cột thành tên din t thời gian hơn không gian. Phải bao năm
tháng nhng vt dng hng ngày trong nhà mới tên để gọi. Đấy cũng quá trình
sinh thành của Đất c t không đến có, t nh hp ti ln lao. Tt c những điều
đó làm cho khái niệm Đất Nưc tr nên gần gũi, thân thiết đi vi mi con ngưi.
th coi đoạn thơ mở đầu câu tr li cho câu hỏi: Đất Nước t bao gi? Lch
s lâu đời của đất nước Việt Nam được cắt nghĩa không phải bng s ni tiếp ca các
triều đại phong kiến hay các s kin lch s bng những u thơ gợi nh đến các
truyn thng t xa xưa: Trầu cau (miếng tru bây gi ăn), Thánh Gióng (dân
mình biết trồng tre đánh giặc… đến nền văn minh lúa nước sng Hng ng
nhng phong tc, tp quán t lâu đời. Đó chính Đất ớc đưc cm nhn t
chiu sâu, t b dày ca văn hóa và lch s..
Bài tham kho 11
Cùng với c nhà thơ trong thế hệ chống Mỹ lúc bấy giờ, Nguyễn Khoa Điềm dường
như cũng hướng ngòi bút của mình đến một chủ đề lớn lao của thơ ca đương thời đó
không gì khác chính là đất nước. Tuy nhiên, có thể nói rằng hình ảnh “đất nước” trong
thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có đau thương mất mát hay chỉ những cảnh sơn
hào hùng vĩ mà “đất nước” hiển hiện lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết
sức mới mẻ. Qua đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của
ông thì đây chính một định nghĩa đủ đầy về đất nước qua đó cũng thể hiện sâu sắc
tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân.
Mở đầu bài thơ chính là một lời tâm tình sâu lắng đưa ta về với cội nguồn:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này của Nguyễn Khoa Điềm ờng như ta thể thấy rằng, đất nước
không phải là cái gì trừu ợng, xa xôi khó nắm bắt mà đất nước chính là những gì thân
thuộc gần gũi nhất. Đất nước từ trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa,
trong miếng trầu của bà ăn, trong ống tre bất khuất kiên cường, trong những phục tục
tập quán, trong hạt gạo nấu những bữa cơm hàng ngày… đều hiện hình lên một đất
nước Việt Nam rất đỗi anh hùng, tình nghĩa, giản dị thân thương nhất. đây thể
nói chính một định nghĩa, định danh về đất nước hoàn toàn mới hoàn toàn thiết
thực nhất, rõ ràng nhất.
Với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ những khoảng giới hạn về
không gian địa lý chật hẹp nữa mà ở đây nó còn có chiều dài thời gian lịch sử và chiều
sâu văn hóa. Không những thế, “đất nước” còn chính là tình yêu đôi lứa, có trong tình
yêu đôi lứa:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…
Đất và nước dường như tách riêng, và từng phần đều lại như đã tượng trưng cho những
điều gần gũi nhất. “Là nơi anh đến trường” hay “là i em tắm” hàng ngày. Thế nhưng
để rồi khi “ta hẹn” thành một đôi trọn vẹn thì cũng như đất nước gộp lại vẹn tròn lại
thành một. Và có thể nói rằng với phát hiện mới mẻ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra
rằng Đất nước không chỉ bên ta, xung quanh ta và còn có cả ở trong ta nữa.
Đất nước còn chính nơi khởi đầu cho những câu chuyện xa a, cho những u ca
dao tục ngữ, điển tích điển cố tất thảy mọi sự sinh thành. Và hình ảnh đặc sắc “con
chim phượng hoàng”, núi Đen, Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” những minh
chứng độc đáo cho đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến của chúng ta. Nhớ về đất
nước cũng như chính là một cách để ta có thể nhớ về cội nguồn, hiểu được sao chúng
ta được sinh ra. Chính vì thế, đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự
tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau…
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Biết bao thế hệ anh cha ta đã hi sinh, đã ngã xuống để bảo vệ đất nước, bảo vệ núi sông
bờ cõi. Đó còn chính là cả một chiều dài lịch sử hào hùng rất tự hào của dân tộc ta.
Chính thế, con cháu đời sau phải tiếp tục gìn giữ truyền thống ấy. Với một truyền
thống yêu ớc, thương nòi, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ non sông cho
những thế hệ về sau. Và cho đến thời đại của ngày hôm nay, “trong em” “đều một
phần đất ớc”. Dường như chính phần đất ớc ấy là phần máu thịt, là một phần trách
nhiệm phải giữ gìn xây dựng, phần tình u để bảo vệ đất ớc cho con cháu mai
sau.
Vì có phải những người đã không quản ngại thân mình hy sinh cho đất nước, làm nên
hình hài của đất nước cho nên:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Khi nói về 4000 năm lịch sử oanh liệt hào hùng của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm
không hề kể về những vương triều to lớn hay những anh hùng nổi tiếng lại nhấn
mạnh “người làm ra đất ớc” lại chính những con người bình dị đời thường và họ
những người vô danh. Chính họ chứ không phải ai khác, không phải là một ông vua bà
chúa nào, họ đã gìn giữ và truyền lại hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ cho đời sau.
từ chính những con người danh làm nên đất nước bao năm qua đã giúp tác giả
khẳng định một chân lý:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại
Đối với câu thơ sau, hai vế ờng như song song nhân dân đất nước lại càng khẳng
định đất nước chính là kết tinh những giá trị tinh thần cao quý trong đời sống trí tuệ và
tình cảm của nhân n. Những giá trị y cũng như đã kết tinh lại trong những câu ca dao,
tục ngữ, trong những câu chuyện thần thoại cổ tích của cha ông ta để lại. Và định nghĩa
về đất nước đến đây vừa giản dị nhưng cũng vừa lớn lao, sâu sắc biết bao nhiêu.
Đất nước đã dường như đã được khẳng định là của nhân dân và cũng của anh, của em,
và:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
Đoạn thơ thân tình như một lời nhắn nhủ thiết tha đằm thắm mà rất đỗi chân thành. Bởi
sự sống của chúng ta không chỉ do cha mẹ sinh thành mà còn đất nước nuôi dưỡng.
Chính thế trong mỗi chúng ta cần phải trách nhiệm gìn giữ, phát triển
truyền lại cho những thế hệ tiếp theo.
Đất nước đã được xem là một đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì kháng chiến
chống Mỹ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng đã nhận thức sâu sắc vai trò
và sự đóng góp to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh trường kỳ cùng ác liệt
này. Chính thế thể nói rằng tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học
truyền thống đã được nhà thơ phát triển đến đỉnh cao, mang tính n chủ sâu sắc. Dùng
chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn, biến đổi linh hoạt đầy sáng tạo
chính nét đặc sắc thẩm thống nhất với tưởng “đất nước của nhân dân, Đất
nước của ca dao thần thoại” của bài thơ.
Bài tham khảo 12
Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng sự cảm của Nguyễn
Khoa Điềm về vai trò những hy sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước
giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ
chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân
thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. tưởng "Đất ớc của nhân
dân, Đất nước của ca dao thần thoại" là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình
thức chương V của bản trường ca này.
tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ
trữ tình - chính luận. i lẽ tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị:
Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo vệ,
giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống văn hóa, lịch sử hàng ngàn đời
của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng
hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết
giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý
thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những
năm chống Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương
V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng
của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. tưởng đó
được nhà thơ thể hiện cthể, sinh động được triển trên các bình diện: trong chiều dài
của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, m
hồn tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với
nhau trong một "hệ quy chiếu". Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.
Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí
của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu
của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập
quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu
ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kỳ diệu, đủ
gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất ớc. Điều đó không đơn thuần chỉ thủ
pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo văn học dân gian. Có
thể nói, tưởng Đất nước của Nhân dân tưởng chủ đạo của bài thơ - đã thấm
nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định
nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh
động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng những gì rất gần gũi,
thân thiết, ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình n
qua những lời kể chuyện của mẹ, qua "miếng trầu bây giờ bà ăn", qua cái kèo, cái cột,
qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là cài gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận
mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó tưởng chung của thời đại khi vấn
đề dân tộc nói lên như một vấn đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không
phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng
ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối
quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền
thông, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân
Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen
thuộc, ở đây, đất ớc được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền
thống, văn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi
con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ,
hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày dỗ tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất
Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam
thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà
được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như
những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi:
"Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng
yêu nhau nên hòn Trống Mái". "Người học trò nghèo góp cho Đất ớc mình Bút non
Nghiên". Cả đến "Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh",
ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất ớc qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện n
như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất
nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này,
từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã "quy nạp" thành một
khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử
bốn nghìn m của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới
những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người
danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết của nhân dân, của những con
người bình dị, vô danh đó:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động chống giặc ngoại xâm, họ gigìn truyền lại cho các thế mai sau
những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, lên xã, n làng đến những truyện thần thoại, những u ca dao, tục ngữ.
Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật
lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo.
Bài tham khảo 13
Từ xưa đến nay viết về đất nước luôn nguồn mạch cảm hứng chủ đạo của nền văn học.
Tiếp tục mạch nguồn của văn học dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm một gương mặt nổi bật
của văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những quan điểm hết sức mới mẻ về đất nước.
Quan điểm đó đã được ông thể hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích Đất nước thuộc trường
ca Mặt đường khát vọng.
Đất nước đối với mỗi người một ý niệm khác nhau. Đối với Nguyễn Khoa Điềm
cũng vậy, bằng sự cảm biết của mình, sự phân tích bằng tư duy logic, lần lượt từng lớp
lang của khái niệm đất nước đã được ông dần dần lật mở. Ông không định nghĩa bằng
những khái niệm quá mông lung, trừu tượng đi từ những điều hết sức cụ thể trong
chính cuộc sống:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc
Qua khái niệm của tác giả, Đất ớc hiện lên thật bình dị, đất nước từ những câu
chuyện cổ tích, từ miếng trầu, từ truyền thuyết thánh Gióng trồng tre đánh tan quân xâm
lược Ân. Đất Nước ta có từ ngày đó, thấm thuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ tấm bé.
Không chỉ vật Đất Nước còn được hình thành từ thuần phong mỹ tục, từ những nét văn
hóa, truyền thống đẹp đẽ của dân tộc ta. Hình nh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho thấy nét
đẹp trong sinh hoạt văn hóa đã được bảo lưu từ ngàn đời của ông cha ta. Dù một nghìn
năm Bắc thuộc, bị phương Bắc tìm mọi cách Hán hóa ấy vậy nhưng không có cách nào
xóa được những vốn văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta. Đất Nước cũng được hình thành từ
lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung khởi nguồn chính mối quan hệ vợ chồng:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở đây Nguyễn Khoa Điềm có sự vận
dụng hết sực thuần thục ca dao: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn,
xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất Nước được hình thành từ những điều tưởng như
giản dị mà hết sức thiêng liêng, cao quý.
Tiếp tục mạch cảm hứng đó, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất
Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất Nước không xa lạ mà chính là không gian sinh tồn, gần gũi với đời sống sinh hoạt
của tất cả chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm đã không hoa mỹ, không ngần ngại làm
sáng tỏ nơi đến trường, nơi tắm, nơi hẹn, nơi nhớ nhung. Vâng, Đất Nước
chính là được hình thành từ những điều dung dị nhất của cuộc sống. Và để làm sâu sắc
thêm khái niệm, ông đã truy nguyên nguồn gốc từ quá khứ: “Đất Nước là nơi dân mình
đoàn tụ/ Đất nơi chim về/ Nước nơi rồng ở/ Lạc Long Quân Âu Cơ/ Đẻ đồng
bào ta trong bọc trứng”. Từ sựgiải sâu sắc hai phương diện lịch sử địa lý ông đã
dần dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm Đất Nước. Đồng thời từ đó cũng nêu lên trách
nhiệm của mỗi con người đối với đất nước: “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ yêu
nhau sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn con cháu việc mai
sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh vác”
đã khẳng định trách nhiệm của thế hệ mai sau đối với công cuộc dựng ớc giữ nước.
Đồng thời ông cũng lên tiếng nhắc nhở, xây dựng đất nước cũng không được quên đi
công ơn của người đã dựng xây, kiến tạo nên Đất Nước. Chỉ với hai chữ “cúi đầu” ng
đã cho thấy tấm lòng thánh kính thiêng liêng hướng về quê cha, đất tổ.
“Trong anh và em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”, đoạn thơ đã khẳng định, Đất
Nước được tồn tại và vững bền là bởi sự đoàn kết của mọi người, là sự yêu thương của
đôi lứa. Chỉ khi sự hòa hợp giữa cái chungcái riêng, giữa nhân tập thể thì
khi ấy mới đất nước vẹn tròn ton lớn. Và từ đó ông nêu lên trách nhiệm của mỗi cá
nhân cũng như toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước: “Em ơi em đất nước là máu xương
của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên
đất nước muôn đời”. Vì bởi:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Những người dân nào đã góp nên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Hàng loạt những địa danh, danh lam thắng cảnh được ông gọi tên. Mỗi địa danh ấy gắn
liền với một chiến tích, với một sự hy sinh thầm lặng để làm nên đất nước muôn đời.
Cũng bởi vậy, đã khiến ông rút ra kết luận: “Và đâu trên khắp ruộng đồng
bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Để làm nên đất nước chắc chắn không thể một cá nhân thể kiến tạo của nền văn
hóa, truyền thống và lịch sử dân tộc. Vậy đó là ai, là những người nào?
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Quả đúng, đó chính là người vô danh, họ những người con gái con trai, họ“đã sống
chết” “giản dị bình tâm” họ đã mang n làng tên xã, mang phong tục tập quán
truyền lại, bảo lưu cho thế hệ mai sau. Chính họ người đã làm nên Đất ớc. Với biện
pháp liệt điệp “họ” Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mặt người đọc tầng tầng
lớp lớp những con người vô danh nối tiếp nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại
cho con cháu những giá trị vật chất tinh thần cao quý nhất. điều họ hướng đến chính
là:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Đến đây Nguyễn Khoa Điềm đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm tưởng đất nước
nhân dân của mình. “Trở về với nguồn cội của Đất Nước cũng là trở về với cội nguồn
phong phú, đẹp đẽ n hóa dân gian” khởi thủy của mọi truyền thống văn hóa tốt đẹp
của nhân dân ta. Đồng thời đó cũng là nơi làm nên, khơi dậy nên truyền thống văn hóa
tốt đẹp của nhân dân ta:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Bài thơ kết lại bằng tiếng hát tự hào, trải dài, ờng như âm hưởng của vang vọng
khắp núi sông. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho thấy niềm tự hào u sắc của tác giả đối
với vốn truyền thống văn hóa ngàn đời của cha ông để lại.
Đất Nước là bài thơ giàu suy tư và triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, rất mới mẻ của
Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại được mở mang thêm
tri thức, lại thêm một cách nhìn nhận về Đất ớc trong chiều dài lịch sử. Từ đó
cũng càng thêm yêu mến, tự hào với nơi mình được sinh ra và lớn lên.
| 1/54

Preview text:

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm - Ngữ văn 12
Dàn ý Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: ông thuộc thế hệ nhà thơ chống Mĩ cứu
nước, thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và chất triết lí, suy tư của người
trí thức về đất nước, con người.
- Giới thiệu về bài thơ Đất nước: được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là
một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”. II. Thân bài
1. Đất nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không
gian, chiều dài của thời gian
a. Đất nước có từ bao giờ? (lí giải cội nguồn của đất nước) (9 câu đầu)
- Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này
thôi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.
- Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt
Nam từ xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân
gian, “miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, “Tóc
mẹ thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, “Thương
hau bằng gừng cay muối mặn” thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc.
- Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”,
“một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
- Nhận xét: Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ
chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.
b. Định nghĩa về đất nước (28 câu thơ tiếp theo)
- Về phương diện không gian địa lí:
+ Tác giả tách riêng hai yếu tố “đất” và “nước” để suy tư một cách sâu sắc.
+ Đất nước là không gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian sinh hoạt của mỗi
con người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn với kỉ niệm tình yêu lứa đôi:
“nơi em đánh rơi ... thương thầm”.
+ Đất nước là không gian bao la trù phú, không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao
thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng ... dân mình đoàn tụ”.
- Nhìn đất nước được nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương lai:
+ Trong quá khứ đất nước là nơi thiêng liêng, gắn với truyền thuyết, huyền thoại:
“Đất là nơi chim về ... trong bọc trứng”
+ Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa
hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng
thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.
+ Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mơ mộng”,
đất nước sẽ trường tồn, bền vững.
- Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước: “Phải biết gắn bó và san sẻ”,
đóng góp, hi sinh để góp phần dựng xây đất nước.
- Nhận xét: qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân
thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.
2. Tư tưởng cốt lõi, cảm nhận về đất nước: đất nước của nhân dân
- Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình
thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người:
+ Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”
+ Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có
những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
+ Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”
- Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:
+ Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước.
+ Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai
trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.
- Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa:
“truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”, ... từ
đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.
- Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của
nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con
người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất nước. - Nhận xét:
+ Về nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước trên
nhiều bình diện: văn hóa, lịch sử, địa lí dựa trên tư tưởng cốt lõi: “đất nước của nhân dân”.
+ Về nghệ thuật: sử dụng đa dạng và sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, ngôn ngữ
giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc. III. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị của đoạn trích: đoạn trích đã nhấn mạnh tư tưởng “đất nước
của nhân dân”, thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả, đánh thức tinh thần yêu nước trong mỗi con người.
- Nêu cảm nhận riêng về đoạn trích đất nước và có liên hệ thực tiễn đến trách nhiệm
của thế hệ hôm nay với đất nước.
Audio Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Video Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 1
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim
con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua
những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào
của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời
lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ
trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn
vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng
ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông
qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ
muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ
trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với
hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình
trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre
trước ngõ … gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt
son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi
quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm
ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của
một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia
đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất
nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia.
Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào:
Tay bưng đĩa muối chén gừng,
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và
giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng
của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn
Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể
mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không
gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được
gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi
ra từ đó. Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý
nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta
về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu
hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không
những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những
người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp
khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng
làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: "Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất ...",
một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của
những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con
chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang
phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước
mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất
là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ
gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian
mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng
đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long
Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long
Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người
nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều
hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:
Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống
lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện: trong
chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian
lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì
tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ qui chiếu mọi
cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.
Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người,
vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả
đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần
của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh
lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên ... không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được
cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là
những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên tuổi:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ
chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái", "Người học trò thắng cảnh". Ở đây cảnh
vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm
hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã
ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những
cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch
sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến
những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô
danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đó.
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau
các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch
cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của
cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng
vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân
tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm
hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui ...
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất
nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ,
trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần
dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 2
“… Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Mặt đường khát vọng” là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong
chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm nóng - trên
chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc
động, tự hào về đất nước và nhân dân. Trong bài “Có một thời đại mới trong thi ca”, Trần Mạnh Hảo viết:
“Vào đêm giao thừa Tết âm lịch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc
động nghe trích đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc
đã được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.
“Đất Nước” - là chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dài 110 câu thơ
(trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về
Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với
đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về
Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Từ đó, nhà thơ
nhận diện phát hiện Đất Nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ,
truyền thống tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc đáo của chương
V “Đất Nước” là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca
dao, dân ca, truyện cổ, phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn
tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.
Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể hiện cảm nhận:
Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt nam:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước (…)
Làm nên Đất Nước muôn đời…”.
Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất Nước và Nhân Dân
đều được viết hoa, trở thành “mĩ tự” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ
cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân. Chủ thể trữ tình là “anh
và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ
13 câu thơ là cấu trúc tổng - phân - hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của
ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.
1. Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch
sử,… Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người: “Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”.
Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào.
Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của Đất Nước”
được diễn đạt một cách “mềm hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.
2. Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm
nay” đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”.
Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường - Nước là nơi em
tắm - Đất Nước là nơi ta hò hẹn – Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây
dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình
mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản
chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình
Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”.
Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước,
mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”, mới
tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi khác:
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi.
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”. (Giang Nam)
Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích
“Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân và Âu Cơ
- Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng - Những ai đã khuất - Những ai bây giờ…”. Từ
huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu
thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,…
Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất Nước
vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa,
nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân
tộc và đất nước. Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.
Chỉ khi nào “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”,
“Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng
liêng “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.
Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”…
“Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hoà nồng thắm…”. “Đất Nước vẹn
tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc:
hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này.
Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa
đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết
dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người”
và đó là sức mạnh Việt Nam.
Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất nước
trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp
dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,…
cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là
cách nói của bà con xứ Huế.
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại”
xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản
lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là
rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn
minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành
hiện thực “mai này” gần.
Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào,
say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang
dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là
máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình,
và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu
xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:
“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.
(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của
tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san
sẻ… phải biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn đời”. Điệp ngữ
“phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn
động. Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt
nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”,
“san sẻ”, “hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt
ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.
Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm
bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng
về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng
của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang
cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:
“Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất” (Trần Vàng Sao)
“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”. (Chế Lan Viên)
Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân
thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn
thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân
tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại
mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình
ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.
“Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ
lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất
Nước, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc
có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân”
cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của “anh
và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 3
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có
những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn
màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước
bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hững về lịch sử qua các triều đại thì
Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất
Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn
màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu
sắc nhất qua chín câu thơ đầu.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm
đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém
phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu
muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về
phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có
rồi”. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu,
có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của
câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về
sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa
là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu
truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta
lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học
dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính
những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành
chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý
nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi
nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích
trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu
truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000
năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng
của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ
phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng (Hoàng Cầm)
Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành
từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất
Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng
Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt
Nam kiên cường, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi (Tố Hữu)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến
hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo
vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử
Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn
Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi
làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt
Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên
cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa
với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi:
"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".
Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ
với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ
một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao
động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí
ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ
nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời:
gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu
năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn
của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng.
Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ
của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà
vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi
gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục
đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.
Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những
ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao
động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay - giã - dần - sàng” là quy trình
sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua
bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ
ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm
ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”.
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền
thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng
như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu
hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước
trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước.
Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa
dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống
nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp
ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên
sự thành kính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn
hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ
tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là
đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho
người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền
thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 4
Đề bài: Ý kiến của anh chị về tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm trong "Đất nước".
Với đề này cần giải quyết 2 luận điểm:
1. Cảm nhận về đất nước.
2. Tư tưởng đất nước của nhân dân.
Sau đó rút ra những cảm nhận cho chính bản thân mình.
Dưới đây là phần chi tiết:
1/ Cảm nhận về Đất nước:
a) Đoạn thơ về Đất nước bắt đầu một cách rất bình dị, tạo một sự gần gũi, thân thiết
mà không bắt đầu một cách trang trọng. Đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia
đình chúng ta, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập
quán quen thuộc (tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ,
hạt gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tất cả những điều đó làm cho
Đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hằng ngày của con người:
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
b) Tiếp đó là sự cảm nhận Đất nước từ các phương diện địa lý - lịch sử. Tác giả khai
thác các thành tố của Đất nước. Việc tìm về từ gốc của từ Đất nước là để khai thác
cách quan niệm có nét riêng biệt của dân tộc ta về khái niệm này. Ở nhiều ngôn ngữ
khác, Đất nước thường được cấu tạo từ những gốc là nơi sinh, quê hương… Nhưng
trong tiếng Việt, Đất nước gồm hai yếu tố hợp thành “Đất” và “Nước”. Cách truy tìm
từ gốc, cách “chiết tự” có thể dẫn đến nguy cơ hiểu sai lạc ý nghĩa, hoặc máy móc
giản đơn khi giải thích các khái niệm khoa học. Nhưng ở đây, tư duy nghệ thuật cho
phép cách phân tích và cảm nhận theo các phương diện không gian và thời gian, địa
lý và lịch sử (Thời gian đằng đẳng - Không gian mênh mông). Từ huyền thoại Lạc
Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ đã nói lên chiều sâu
lịch sử của Đất nước Việt Nam. Về mặt không gian địa lí, Đất nước không chỉ là núi
sông, rừng bể (con chim Phượng Hoàng… con cá Ngư Ông,…) mà còn là cái không
gian rất gần gũi với cuộc sống mỗi người. “Đất là nơi anh đến trường, Nước là nơi em
tắm. Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” - Và cũng là không
gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (Những ai đã khuất. Những ai bây
giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại. Dặn dò con cháu chuyện mai sau…).
Tác giả sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao, truyền thuyết dân gian. Có lúc lấy lại
từng phần của câu ca dao, nhưng phần nhiều là sử dụng ý, hình ảnh tạo nên hình
tượng thơ mới, vừa gần gũi vừa mới mẻ (cha mẹ thương nhau bằng rừng cay muối
mặn… Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…)
Ở trên chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử. Đất nước
được cảm nhận như sự thống nhất các phương diện văn hóa, truyền thống, phong tục,
cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng…
c) Đến đây, ý thơ dẫn đến điểm tập trung những suy nghĩ, cảm xúc về Đất nước, cũng
là điểm mấu chốt của tư tưởng, phần một của bài:
“Trong anh và em hôm nay - Đều có một phần Đất nước”
Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người.
Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của Đất nước, bởi mỗi
cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc,
của nhân dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.
Đoạn thơ kết thúc bằng một lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất nước,
tuy là đoạn thơ chính luận nhưng người đọc không cảm thấy là những lời “giáo huấn”
mà chỉ như một lời tự nhủ, tự dặn mình, chân thành, tha thiết…
“Em ơi em, Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời…”
2/ Tư tưởng Đất nước của nhân dân
Tư tưởng cơ bản của phần này là tư tưởng Đất nước của nhân dân. Đây là điểm qui tụ
mọi cách nhìn về Đất nước trong phần này, cũng là đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm
làm sâu sắc thêm ý niệm về Đất nước của thơ chống Mĩ.
a) Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều sâu
và là một phát hiện mới mẻ (đoạn đầu của phần hai, từ “những người vợ nhớ
chồng…” đến “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”). “Những cảnh quan thiên
nhiên kì thú (đá Vọng Phu, núi Con Cóc, núi Con Gà hay hòn Trống Mái v.v…) gắn
liền với con người, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và lịch sử dân tộc. Nếu
không có người vợ chờ chồng qua các cuộc chiến tranh và li tán thì cũng không có sự
cảm nhận về núi Vọng Phu, cũng như thế nếu không có truyền thuyết Hùng Vương
dựng nước thì cũng không thể có sự cảm nhận như vậy về vẻ hùng vĩ của vùng núi
đồi xung quanh đền vua Hùng…) Đoạn thơ bằng cách quy nạp hàng loạt hiện tượng
để đưa đến một khái niệm sâu sắc: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi, chẳng
mang một hình dáng, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi đất nước sau bốn nghìn
năm đi đâu ta cũng thấy, những cuộc đời đã hóa núi sông ta…).
b) Khi nghĩ về bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các
anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị:
Có biết bao nhiêu người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết,
Giản di và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Tiếp đó bài thơ khai triển thêm ý này: Những con người vô danh và bình dị ấy đã giữ
gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất
của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã tên
làng… Họ cũng là những người khi “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù
thì vùng lên đánh bại”.
“Họ đã giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua rơm con củi
Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi cuộc di dân”
Nói đến Đất nước và dân tộc là nói đến lãnh thổ chủ quyền và văn hóa. Nhưng tất cả
các giá trị đó lại được tạo nên bởi người, bởi nhân dân. Trong từng tấc đất, từng di
tích lịch sử, từng câu hò xứ sở, quan họ quê hương… đâu đâu cũng hiện lên bóng
dáng nhân dân - giá trị cao nhất trong mỗi giá trị - “Nhân dân vô danh nhưng thật là
vĩ đại - Họ đã làm ra mọi của cải giá trị vật chất tinh thần, làm ra đất nước”.
c) Mạch suy nghĩ của bài thơ dẫn đến tư tưởng cốt lõi. Điểm hội tụ và cũng là cao
điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn trích này. “Đất nước này là Đất nước của Nhân
dân” Cũng từ điểm này chúng ta hiểu thêm những ý thơ trên. Và khi nói đến Đất nước
của Nhân dân, một cách tự nhiên, tác giả trở về với nguồn phong phú đẹp đẽ của văn
hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân,
hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. “Đất nước của
Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”. Câu thơ ở hai vế song song, đồng đẳng là
một cách định nghĩa về Đất nước… thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Trong cả kho
tàng ca dao, dân ca, ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan
trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc: thật say đắm trong tình yêu (yêu em từ
thuở trong nôi) quý trọng tình nghĩa (quý công cầm vàng những ngày lặn lội) nhưng
cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả
thù mà không sợ dài lâu…)
Chúng ta gặp lại cách vận dụng vốn ca dao dân ca một cách sáng tạo, không lặp lại
nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và hình ảnh của câu ca dao, vẫn gợi nhớ đến câu ca dao
nhưng lại trở thành một câu, một ý thơ gắn bó trong mạch thơ của bài.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân thật ra đã có manh nha từ trong lịch sử xa xưa.
Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn dân tộc đã từng nói lên nhận thức về vai
trò của nhân dân trong lịch sử (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu)
hoặc cảm thông sâu sắc với số phận của nhân dân, của mọi lớp người trong nhân dân
(Nguyễn Du với văn Chiêu hồn, Truyện Kiều). Đến nền văn học hiện đại, được soi
sáng bằng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, bằng quan điểm Mác-xít về nhân dân và nảy nở
từ trong thực tiễn vĩ đại của cuộc cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học từ
sau Cách mạng Tháng Tám đã đạt đến một nhận thức sâu sắc về nhân dân và cảm
hứng về đất nước mang tính dân chủ cao. (Thơ ca kháng chiến chống Pháp là một ví
dụ tiêu biểu. Có thể nhớ đến các bài: Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Đất nước của
Nguyễn Đình Thi, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm…). Đến giai đoạn chống Mỹ,
tư tưởng Đất nước của Nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò
và những đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh
dài lâu và cực kỳ ác liệt này.
Tư tưởng ấy được các nhà thơ trẻ chống Mỹ phát biểu một cách thấm thía qua sự trải
nghiệm của chính mình như những thành viên của nhân dân, cùng chia sẻ mọi gian
lao, hi sinh và được che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân (Hơi ấm ổ rơm của
Nguyễn Duy, các trường ca Những người đi tới biển của Thanh Thảo và Đường tới
thành phố của Hữu Thỉnh đều tập trung nói về những gương mặt của các con người
bình thường, vô danh trong nhân dân và không phải ngẫu nhiên mà đều bắt đầu bằng hình ảnh người mẹ).
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ về Đất
nước thời chống Mỹ, làm sâu sắc thêm nhận thức về Nhân dân và Đất nước.
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 5
Đất nước” là một trong những bài thơ hay nói về khát vọng yêu nước trong mỗi một
con người Việt Nam. Dưới đây là bài phân tích về các trích đoạn trong bài thơ “Đất
Nước” (trích trường ca
“Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
(…) Đất Nước có từ ngày đó”.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ.
Những năm 1970, 1971,… ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị - Thiên; trường
ca “Mặt đường khát vọng” được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương V “Đất
Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”.
Phần đầu 42 câu tác giả nhận diện Đất Nước có nguồn gốc lâu đời. Tục ăn trầu, cổ
tích Trầu - Cau, truyền thuyết Thánh Gióng dùng gốc tre đánh đuổi giặc Ân mà “mẹ thường hay kể”:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Nhà thơ cảm nhận Đất Nước trong dòng chảy thời gian “đằng đẵng”, trên không gian
địa lí “mênh mông”, qua sự tích “Trăm trứng” và giỗ Tổ Hương Vương. Nhà thơ
bằng giọng tâm tình đã dẫn hồn ta ngược thời gian bốn nghìn năm trở về cội nguồn Đất Nước:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
(…) Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Tục “bới tóc xăm mình” của người Lạc Việt, câu ca dao “gừng cay muối mặn” nói về
đạo vợ chồng, ngôn ngữ dân tộc hình thành, phát triển, nên “cái kèo, cái cột thành
tên”, công việc cấy cày làm ăn “xay, giã, giần, sàng” được chỉ rõ. Cội nguồn “Đất
Nước có từ ngày đó”.
Đất Nước trong quá khứ mang vẻ đẹp kì diệu, huyền thoại:
“Đất là nơi “con chim Phượng Hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá Ngư Ông móng nước biển khơi”.
Đất Nước hiện tại gắn bó yêu thương với mọi người, “trong anh và em hôm nay - Đều
có một phần Đất Nước”. Mai này Đất Nước nhiều “mơ mộng”. Yêu nước là nghĩa vụ thiêng liêng:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa than cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
Phần thứ hai có 68 câu (Văn 12 chỉ trích học 47 câu) nói về tư tưởng “Đất Nước của
Nhân Dân”. Nhân Dân sáng tạo ra Đất Nước. Các danh lam thắng cảnh đều biểu
tượng cho phẩm chất cao đẹp, “lối sống” của ông cha như tình nghĩa vợ chồng thủy
chung, tình yêu lứa đôi thắm thiết, sức mạnh quật khởi, tinh thần đại đoàn kết của dân
tộc, truyền thống hiếu học của Nhân Dân ta:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
99 con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.
Núi Bút non Nghiên, vịnh Hạ Long, ông Đốc Ông Trang… đều do Nhân Dân ta “góp
cho”, “cùng góp cho”, “góp tên” - mà Đất Nước đẹp tươi, hùng vĩ.
“Bốn nghìn lớp người” đã đem mồ hôi, xương máu ra xây dựng và bảo vệ Đất Nước:
“Khi có giặc người con trai ra trận - Người con gái trở về nuôi cái cùng con - Ngày
giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”. Nhân Dân đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ
Đất Nước. Họ là những con người vô danh mà vĩ đại:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Nhân Dân là người sản xuất “giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”. Nhân Dân đã sáng
tạo ra ngôn ngữ “truyền giọng điệu của mình cho con tập nói”. Nhân Dân đã diệt thù
trong giặc ngoài để giữ gìn Đất Nước, làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Tóm lại, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ,
phong tục, ngôn ngữ để cảm nhận về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước, khẳng định
Nhân Dân vĩ đại đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Chương “Đất Nước”
chứa chan tình yêu và niềm tự hào dân tộc.
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 6
Đoạn thơ 9 câu dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất Nước” thuộc trường ca
“Mặt đường khát vọng” (1971) của Nguyễn Khoa Điềm:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
………………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó”.
Đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước.
Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng như kể chuyện
cổ tích, như dẫn hồn ta ngược thời gian trở về cội nguồn Đất Nước và dân tộc. Bốn
chữ “ngày xửa ngày xưa” dùng rất khéo:
“Khi ta lớn lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”.
Chữ “có” trong “đã có rồi”, “Đất Nước có trong những cái…” đã làm cho ý thơ khẳng
định, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích Trầu - Cau gợi lên hình ảnh Đất Nước.
Nước xa xưa, “Đất Nước bắt đầu”… Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết sự vươn
mình của dân tộc, đánh dấu sức mạnh quật khởi “Đất Nước lớn lên”. Câu thơ mở
rộng đến 12, 13 chữ, với cách gieo vần lưng (đầu - trầu, ăn - dân) nên vẫn thanh thoát, giàu âm điệu:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Hai chữ “lớn lên” liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai thành
một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược.
Rồi nhà thơ nói đến phong tục và đạo lí tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Phong tục
“búi tóc” của người Lạc Việt. Câu ca dao nói về đạo vợ chồng: “Tay bưng chén muối
đĩa gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Chuyện “ngày xửa ngày xưa” nhưng vẫn hiện diện trên “tóc mẹ”, trong tình thương
của “cha mẹ” bây giờ. “Đất Nước đã có rồi”, “Đất Nước có…”, “Đất Nước bắt đầu”,
“Đất Nước lớn lên” và Đất Nước đang hiện diện quanh ta, gần gũi ta.
Tiếp theo, nhà thơ lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ dân tộc để nói về nguồn
gốc lâu đời của Đất Nước. Mỗi vật dụng đều có một cái tên riêng: “Cái cột, cái kèo
thành tên”. Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Nghề trồng lúa nước tạo nên
nền văn minh sông Hồng. Khi hạt gạo được sáng tạo nên bằng công sức “một nắng
hai sương”, thì ngôn từ “xay, giã, giần, sàng” cũng xuất hiện. Tiếng Việt là của quý
lâu đời của Đất Nước ta, Nhân Dân ta. Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm thật ý vị:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”.
Lấp lánh trong đoạn thơ là hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá khứ của Đất Nước
“ngày xửa ngày xưa” đồng hiện trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Có Đất Nước anh
hùng “biết trồng tre mà đánh giặc”. Có Đất Nước cần cù trong lao động sản xuất:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Có nền văn hóa giàu bản sắc,
nền văn hiến rực rỡ hội tụ qua thuần phong mĩ tục (tục ăn trầu, tục bới tóc), qua tục
ngữ ca dao “gừng cay muối mặn”, qua cổ tích thần thoại, truyền thuyết.
Đoạn thơ 9 câu, 85 chữ mà không hề có một từ Hán Việt nào. Ngôn từ bình dị, cách
nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có
miếng trầu, cây tre, tóc mẹ,… Có “gừng cay muối mặn”, cái kèo, cái cột, hạt gạo,
v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì
phong phú, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” để
ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: “tổng - phân - hợp”;
mở đầu là câu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, khép lại đoạn thơ là câu “Đất
Nước có từ ngày đó”. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với
chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mẫu 7
Đất nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta; vừa cao cả,
trang trọng; vừa xiết bao gần gũi. Hình tượng Đất Nước đã khơi nguồn cho bao hồn thơ cất cánh.
“Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm cũng nằm trong dòng chảy dào dạt
ấy và có phần đầy đủ hơn cả khi thống nhất được cội nguồn đất nước và tư tưởng đất nước của nhân dân.
Giản dị như một lẽ tự nhiên, bài thơ mở đầu với khát khao tìm hiểu đất nước có tự bao giờ:
“Khi ta lớn lên Đất Nước có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Khi xưa, đất nước gắn với những huyền thoại, truyền thuyết, với những vương triều
hùng mạnh. Ngày nay, Nguyễn Khoa Điềm về lại hành trình trong sự quen thuộc, gần
gũi. Có cái xa xăm của lịch sử nhưng gần gũi với kí ức ấu thơ. Đó là cái “ngày xửa
ngày xưa…” mẹ kể con nghe; cái ấm áp của những hình ảnh dưới mái nhà Việt, với
“miếng trầu” thắm đỏ bà ăn, cây tre ngàn đời đánh giặc và nghĩa tình mẹ cha đằm
thắm. “Cội nguồn” không gì khác là gia đình thân thuộc, ấm cúng.
Những câu thơ nhẹ nhàng, ấm áp, bay bổng trong đời và hòa trộn trong ca dao, cổ tích
để làm nên điệu hồn êm ái. Đó là sự tích trầu cau “Miếng trầu nên dâu nhà người”, là
sự tích cậu bé làng Gióng lên ba tuổi nhổ tre mà phá giặc, là lời ca dao “Muối gừng”
ân nghĩa thủy chung. Đất nước hiện lên nên thơ, bay bổng và mĩ lệ dưới con mắt tinh
tế của Nguyễn Khoa Điềm.
Đất Nước còn là chiều rộng không gian địa lí – cách nhìn có lẽ không phải là mới mẻ.
Ngày xưa, Nguyễn Đình Thi viết:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”
Đó là không gia rất dài, rất rộng, rất cao mang tầm vóc sử thi tráng lệ. Với Nguyễn Khoa Điềm:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở”
Đất nước là “nơi anh đến trường” – cuộc sống học tập, “nơi em tắm mát” – cuộc sống
sinh hoạt và góc đời thiếu nữ, là “nơi ta hẹn hò” – thắp lửa tình yêu, “nơi em đánh rơi
chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – ghi dấu kỉ niệm con người. Đó cũng là một không
gian giàu có, trù phú, bao la, đẹp và rộng: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn
núi bạc – Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi”. Nó gần với con người lắm, chiếc
khăn ấy là lời hát tha thiết trong đêm tương tư “Khăn thương nhớ ai – Khăn rơi xuống
đất”, gắn với lời hát điệu hò của câu huê tình xứ Bình Trị Thiên tự buổi nào.
Đất nước đồng thời là chiều dài thời gian lịch sử:
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”
4000 năm lịch sử đã trở thành thiêng liêng với những trang sử chói lọi của cha ông:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.”
(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi) Đến:
“Đất nước bốn nghìn năm Vất vả và gian lao Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)
Sau này Chế lan Viên viết:
“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
– Chưa đâu! Cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”
Đến Nguyễn Khoa Điềm, đó là thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Đó là
truyền thuyết về bọc trăm trứng, với nơi chim về, rồng ở, và ngày giỗ Tổ thiêng liêng.
Đó là kết quả trước tưởng tượng bay bổng của tâm hồn đầy khát vọng, đẹp một cách
gần gũi và mơ mộng, bay bổng và mĩ lệ,…mà dường như trước và sau Nguyễn Khoa
Điềm chưa ai nói được như thế.
Đất nước cũng đi vào chiều sâu trong sự riêng tư đời người: “Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình sứ xở
Làm lên Đất Nước muôn đời…”
Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì
“vẹn tròn, to lớn”. Đất nước mang tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và còn là
“cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu xương” của ta. Đất nước được nhìn từ cái
chung đến cái riêng, cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng về bề sâu, từ
cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp tự nhiên, chặt chẽ và đượm lí, đượm tình.
Tiếp sau đó là tư tưởng đất nước của nhân dân. Một loạt những câu thơ tự do với biên
giới thơ mở rộng. Nhịp thơ chậm lại, mang không khí tâm tình trò chuyện. Nghệ thuật
liệt kê và cách điệp lại cấu trúc nhấn mạnh ý thơ và liền mạch.
Lời thơ, giọng thơ sôi nổi, thiết tha và tràn đầy nhiệt huyết, khẳng định những đóng
góp của nhân dân trong việc làm ra đất nước. Đó là núi Vọng Phu – những năm tháng
chờ đợi chung thủy sừng sững giữa trời. Đó là núi bút non nghiêng xây đắp bởi lòng
hiếu học của những tháng năm miệt mài đèn sách và hàng loạt các địa danh “Ông Đốc,
Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, với niềm tự hào vời vợi trong lời ca ngợi non sông
gấm vóc, “non kỳ thủy tú”. Con người cùng bao vật vô tri khác đã “hóa thân cho dáng
hình xứ sở” và với tác giả đó là niềm yêu kính trước công lao to lớn của nhân dân,
xây đắp “hình sông thế núi”.
Khẳng định đất nước là của nhân dân đồng thời là lời yêu cầu tình yêu đất nước, thức
tỉnh lòng tự hào và tinh thần dân tộc trong mỗi người. “Em ơi em” là lời gọi ngọt
ngào, tha thiết, trìu mến, đầy thủ thỉ tâm tình. Vậy là nói về những điều lớn lao mà
không hề sáo rỗng. Nhân dân là ai? Là những người “con gái, con trai” bằng tuổi
chúng ta, và người ra trận, kẻ ở lại, có những anh hùng “cả anh và em đều nhớ”
nhưng cũng có những anh hùng vô danh “Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã
làm ra đất nước”. “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”, lời thơ giống như một
nén hương tận tâm còn vương khói thắp lên cho nhân dân, dân tộc.
Trong suốt bốn nghìn năm đất nước, nhân dân ta truyền giữ hạt lúa, truyền từng ngọn
lửa, truyền giọng nói, với những tên xã, tên làng, đắp đập be bờ chống giặc ngoại xâm.
Các giá trị vật chất luôn đi kèm văn hóa tinh thần, cả kiến quốc và vệ quốc. Những
câu thơ gợi nhắc tới: tiểu đội xe không kính, những cô gái mở đường, anh giải phóng quân:
“Em là cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?” Hoặc:
“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào Anh, con người đẹp nhất!”
Tác giả đã chọn tư liệu văn hóa dân tộc trong ca dao, thể hiện cảm xúc, ý nghĩ. Hiện
lên rõ mồn một là chân dung tinh thần của nhân dân. Tâm hồn dân tộc gửi vào trong
dân gian gian nay trở thành chiều sâu văn hóa. Nhìn ở cả chiều dài, chiều rộng và
chiều sâu đều thấy được vai trò của nhân dân vừa làm ra vừa bảo vệ. Cho nên “Đất
Nước này là đất nước của nhân dân”.
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là bản nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong
điệu hồn kháng chiến, là lời thúc giục tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau. Bài tham khảo 8
Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh
cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều
tác giả chọn đưa vào tác phẩm của mình mới những vần thơ, lời văn chân thành tha
thiết, thấm đẫm hào khí dân tộc.
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, cũng chọn cho mình đề tài đất nước, giữa những năm tháng
cuộc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục sôi máu lửa. Thế nhưng
Nguyễn Khoa Điềm không đặt nặng trong tác phẩm của mình màu sắc tuyên truyền,
không ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc.
Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bằng một cách rất riêng, bằng một cảm xúc mới
lạ giữa thời chinh chiến “hoa lửa”, ông nhìn nhận Tổ quốc từ những điều giản dị, từ
những con người rất đỗi bình thường. Sử dụng thành công giọng thơ mang tính triết
luận trữ tình, đặc biệt là sự kết hợp với các chất liệu văn hóa dân gian lấy từ vốn hiểu
biết rộng lớn của nhà thơ về văn hóa ngàn đời của dân tộc.
Tất cả đã tạo nên một Đất Nước với vẻ giản dị, thân thương, Đất Nước của nhân dân,
một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền thuyết, những phong
tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác giả đi vào phân tích và làm rõ vấn đề Đất
Nước có từ bao giờ. Trong 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất
Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ
tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa.
Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự
tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình
nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung.
Không chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác giả còn gợi lại những cái phong tục
đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua Hùng dựng nước
và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước lớn lên khi dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta nhớ về truyền
thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, bất
khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Như vậy, có thể thấy rằng Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của
dân tộc, thế nhưng Đất Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu
nước, có được lòng dũng cảm, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ
nước. Đi từ những câu chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp
tục chỉ ra Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn,
thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong
kiến phương Bắc đô hộ, mấy chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi
Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho
mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam.
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống
coi trọng tình nghĩa vợ chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại
càng trở nên thương yêu và gắn kết bền chặt với nhau hơn.
Thứ ba nữa, Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển
của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ
chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu
chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho mình.
Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ cái
chỗ nhân dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh, thì
người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt
gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống.
Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác
giả đã chốt lại bằng câu thơ “Đất Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những
truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà
chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa.
Có thể nói Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa
dân gian lâu đời của dân tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi, thân
thuộc và bình dị, để lại trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô cùng.
“Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình
tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo
cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự,
tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người
đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước.
Về phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví ““Đất là nơi anh đến trường/Nước là
nơi em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời
thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.
Tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và em lớn dần
lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra thì bây giờ
anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất Nước trở thành một
cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi. Không chỉ thế “Đất là nơi
con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc...
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu
ở trên ta thấy một Đất Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất
Nước mang một dáng vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng
hoàng bay về núi bạc, được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi.
Và cuối cùng dù đi đâu về đâu thì phượng hoàng cũng phải về núi, cá ngư ông thì
phải vùng vẫy ở biển và dân tộc Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất Nước.
Như vậy có thể tóm gọn lại Đất Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. “Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng
một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính
xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi
nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của
dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên.
Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha
ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua Hùng tục truyền kéo dài đến
18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha thiết, phải biết kế tục hương
hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ gìn non sông gấm vóc, và luôn
nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính, trân trọng. “Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong
mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những
phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất
Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi
ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con người phải có trách nhiệm
xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng thắm”.
Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”,
phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên
một “đất nước vẹn trong to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ
vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở
chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau. “Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai
được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để
làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước. Con sẽ đưa Đất Nước đi xa,
sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới, đưa Đất Nước trở nên giàu đẹp vững
mạnh gấp nhiều lần hôm nay.
Sau khi đã định nghĩa một cách rõ ràng Đất Nước cả về không gian và thời gian, cả
về địa lý lẫn lịch sử thì Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại bằng những câu thơ rất tha
thiết về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước.
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Lời thơ như là lời tâm tình của người anh với người em, lời tâm tình của chàng trai
đối với một người con gái, cũng là lời lay tỉnh của nhà thơ, của thế hệ trước với thế hệ
sau, cũng là lời lay tỉnh của cách mạng đối với tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam, những con người đang ngủ quên trong cuộc sống hưởng thụ.
Đất Nước là một khái niệm trừu tượng, thế nhưng khi so sánh Đất Nước với hình ảnh
“máu xương của mình” thì đó lại là một khái niệm cụ thể, hữu hình. Đây cũng là phần
nối tiếp trong ý thơ “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước”, thì ở đây
Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ rõ Đất Nước là máu xương của mỗi con người, đã là phần
căn cơ cốt yếu trong mỗi cá nhân, ai cũng phải có.
Điệp từ “phải biết” trong hai câu thơ sau là biểu hiện của một mệnh lệnh, xác định
trách nhiệm cho mỗi người, yêu nước không phải là một khái niệm chung chung, một
tư tưởng trừu tượng mà yêu nước phải thực hiện bằng hành động. Mỗi con người cần
phải biết “gắn bó san sẻ”, đặc biệt phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở”, dâng cả
sự sống, thanh xuân cho Đất Nước, coi trọng Đất Nước hơn cả hạnh phúc riêng của bản thân mình.
Sau những dòng thơ nêu nên sự hình thành và phát triển của Đất Nước thì Nguyễn
Khoa Điềm bắt đầu đi vào nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân, bằng câu hỏi
Đất Nước do ai làm nên.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Trên phương diện không gian địa lý, tác giả đã cảm nhận Đất Nước qua những địa
danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong
từng ý thơ. Đặc biệt những địa danh này vốn đã trở nên quen thuộc với người dân
Việt Nam và gắn liền với những cổ tích, những thần thoại trong văn hóa dân tộc, mục
đích là để gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước.
Không chỉ vậy, sâu xa hơn nữa việc Nguyễn Khoa Điềm liệt kê các địa danh như vậy
cũng là nhằm kể tên các vùng đất tương ứng trên dải đất hình chữ S, ví như “núi
Vọng Phu” ngự ở Lạng Sơn, và còn ở rất nhiều nơi khác, gợi nhắc về hình ảnh những
người vợ chờ chồng đi đánh giặc trên khắp Tổ quốc.
Rồi “hòn Trống Mái” thì ở Thanh Hóa, “trăm ao đầm” mà gót ngựa Thánh Gióng đi
qua thì rải rác khắp mọi miền đất nước, “đất tổ Hùng Vương” là vùng Phú Thọ, “núi
Bút, non Nghiên” ở Quảng Ngãi, “Hạ Long” ở Quảng Ninh, “ông Đốc, ông Trang, bà
Đen, bà Điểm” là những địa danh ở mảnh đất miền Nam.
Thêm nữa, việc nhắc đến các vùng đất khắp Tổ quốc như vậy còn là để nhấn mạnh
việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí thống nhất Tổ
quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta. Đồng thời những danh lam thắng cảnh ấy
cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong
tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam,
nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống hiếu
học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng
làm nên thắng cảnh cho quê hương.
Ngoài ra việc sử dụng cấu trúc thơ độc đáo, một bên là con người, sự vật sự việc dung
dị đại diện cho hình ảnh của nhân dân, một bên là những địa danh, những thắng cảnh
kỳ vĩ, lớn lao đại diện cho hình ảnh của Đất Nước được nối với nhau bằng những từ
“góp”, “góp tên”, “góp mình”,... Đã khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất
Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Sau khi diễn giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân ở các chi tiết, thì Nguyễn Khoa
Điềm chuyển sang nâng ý thơ lên tầm khái quát. Khẳng định tầm vóc kỳ của Đất
Nước vĩ ở phương diện địa lý qua hình ảnh “khắp ruộng đồng gò bãi” để mở ra một
không gian lớn lao cao rộng, sau đó khẳng định sự trường tồn, vĩnh hằng của Đất
Nước ở phương diện lịch sử “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm”.
Từ đó dẫn dắt, khẳng định nhân dân chính là người đã tạo ra Đất Nước vừa kỳ vĩ, vừa
có bề dày lịch sự ở những ý thơ rất hay “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/Chẳng
mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” cùng với “Ôi Đất Nước sau
bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy/Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”. Rất tha
thiết, nồng đượm yêu thương khẳng định Đất Nước đã được tạo nên bằng chính cuộc
đời của các thế hệ cha ông, bằng các dáng hình, những ước mơ, những phong tục tập
quán đã in hằn trên dáng vẻ của Đất Nước. “Em ơi em Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân tiếp tục được khẳng định thông qua phương diện
thời gian lịch sử. Trong suốt 4000 năm nhân dân đã chăm chỉ cần cù để xây dựng Đất
Nước, khi có chiến tranh thì người con trai lập tức ra trận bảo vệ Đất Nước. Còn
người con gái trở thành người chèo chống gia đình, nuôi con cái, thế nhưng mang
trong mình dòng máu Bà Trưng Bà Triệu, họ cũng trở nên mạnh mẽ kiên cường cả trong chiến đấu.
Sự anh dũng của ông cha ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm đã khiến họ trở
thành những người anh hùng lưu danh sử sách, thế nhưng bên cạnh những con người
hữu danh thì người ta thấy nhiều hơn là những con người vô danh “không ai nhớ mặt
đặt tên”. Dù không ai nhớ mặt đặt tên, thế nhưng những thế hệ sau vẫn luôn trân trọng,
yêu quý bởi họ chính là người làm ra Đất Nước.
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”
Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là
người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những
giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh
nông nghiệp lúa nước ngàn đời, truyền cho con cháu ngọn lửa sáng ngời sau bao năm
tháng sống trong tối tăm, lạnh lẽo.
Truyền cho con thứ ngôn ngữ tiếng nói của riêng dân tộc mình, giữ cho mình cái văn
hóa làng, xã trong mỗi chuyến di dân, tạo dựng cơ sở vật chất, đất đai để cho các thế
hệ kế tiếp phát triển trên mảnh đất ấy.
“Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Trên bình diện văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm cũng chỉ ra những nét đẹp riêng của tâm
hồn Việt, của văn hóa Việt. Vì “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần
thoại” thế nên khi nhìn vào kho tàng văn học dân gian đều thấy hiện lên diện mạo văn
hóa của Đất Nước, thấy được hình bóng của nhân dân những con người mang đậm
nét truyền thống của dân tộc.
Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt
Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc Việt nói chung. “Yêu em
từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm trong tình yêu,
biết yêu thương những con người ở xung quanh mình.
Tiếp theo là câu “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm
vàng”, từ đó thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị
vật chất tầm thường. Cuối cùng là câu tục ngữ “Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre
thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Kết lại đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng thì tác giả đã nêu lên
những cảm nhận rất tinh tế về vẻ đẹp của quê hương, của Đất Nước. “dòng sông” dù
có bắt nguồn từ đâu thì khi chảy đến mảnh đất quê hương cũng đều mang giọng hát
của Đất Nước, mang đậm bản sắc của dân tộc. Mỗi con người Việt Nam, trong công
cuộc mưu sinh, lao động trên cái dòng chảy ấy lại có những cách ứng xử khác nhau
rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến.
Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước với giọng văn chính luận trữ tình đã
bộc lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết của mình đối với đất nước
trên nhiều bình diện, địa lý, lịch sử, và bình diện văn hóa với tư tưởng bao trùm
xuyên suốt ấy là tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Về nghệ thuật đoạn trích được viết theo lối quy nạp, biểu hiện nội dung chính luận
một cách trữ tình bằng cách mượn các chất liệu văn hóa dân gian thân thuộc, mượt
mà, êm ái, mang đến cho người đọc những xúc cảm thẩm mỹ độc đáo. Giọng điệu
xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình tình, tha thiết, sâu lắng như giọng điệu
của đôi lứa yêu nhau làm cho nội dung nghị luận vốn khô khan trở nên mềm mại,
ngọt ngào thấm sâu vào lòng người. Bài tham khảo 9
Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn
thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh
của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiến miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế
quốc Mỹ; hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình,
đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn
trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.
Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả
về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó
là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc
của tác giả khá chặt chẽ nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bằng những lời
định nghĩa say sưa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài
thời gian - lịch sử, qua về rộng của không gian - lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn
hóa - phong tục, lối sống, tính cách của người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu
sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng, giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ
đạo: "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Mạch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi
chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy hứng khởi, đồng thời lại cũng có những vang động sâu xa.
Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình - chính luận, nhà thơ đã đưa ra
định nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ
tích, ca dao. Lời thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành
một cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm dặc của các chất
liệu lấy từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại.... tạo cho đoạn thơ đầu
một âm hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "Ngày xửa ngày xưa..."mẹ thường hay kể
Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ
khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn
hóa dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân
dân. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo
tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với người đọc.
Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì
thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi
chúng ta. Nõ dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và
bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với dất nước, với
nhân dân trong mỗi chúng ta.
Phần sau của đoạn thơ từ "Những người vợ nhớ chồng" đến hết đoạn trích là phần tập
trung làm nổi bật tư tưởng "Đất nước của nhân dân". Trong phần này, tư tưởng đã
quy tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả
về địa lí, lịch sử và văn hóa của đất nước.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên,
núi Vọng Phu, hòn Trống Mái... vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó
không phải là sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây,
thiên nhiên, tạo hóa không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền
thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người
trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái
nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát đầy thấm thía:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá
vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam
trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu
thương sâu sắc, thùy chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng
trong đánh giặc; là những con người "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ "đã
làm ra Đất Nước". Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ
những nét văn hóa của dân tộc qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Đó là một chân lí. Một chân lí đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triền dài
lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao,
mới cẩt lên thành những tuyên ngon đầy tự hào và vang động sâu xa.
Làm nên sự thành công của đoạn trích Đất Nước, ngoài sự độc đáo đầy phóng túng
của thể thơ tự do còn phải kể đến tài năng xuất sắc của Nguyễn Khoa Điềm trong việc
tiếp thu và sử dụng những chất liệu dân gian. Bài thơ là sự hòa nhập một cách thật
nhuần nhuyễn giữa hình thức trữ tình - chính trị với các chất liệu từ ca dao, cổ tích, huyền thoại...
Bằng sự vận dụng đầy sáng tạo hình thức thơ tình - chính trị, đoạn trích Đất Nước
quy tụ mọi cảm nhận, mọi cái nhìn, quy tụ vốn liếng sách vở cũng như những trải
nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ để làm nên một tuyên ngôn về tư tưởng, về nhận
thức của cả một thế hệ nghệ sĩ, ấy là tư tưởng "Đất nước của nhân dân". Bài tham khảo 10
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu
nước và cách mạng ở thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên – Huế. Quê gốc của ông ở làng An Cựu, xã Thủy An. Ông học tập và trưởng
thành trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, rồi trở về Nam tham
gia chiến đấu chống Mĩ. Sau 1975, Nguyễn Khoa Điềm hoạt động văn nghệ và chính trị ở Huế.
Ông được bầu làm Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam khóa V và Bộ trưởng Bộ Văn
hóa – Thông tin. Từ năm 2001 đến 2006, ông là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương Đảng, Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương. Nguyễn Khoa Điềm thuộc
thế hệ các nhà thơ mà tài năng và tên tuổi được khẳng định trong thời kì chống Mĩ
cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng
về đất nước, về dân tộc. Năm 2000, ông vinh dự được trao tặng Giải thưởng Nhà
nước về văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974),
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986), Cõi lặng (thơ, 2007). Trường ca Mặt đường
khát vọng được tác giả sáng tác ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm
1974, nội dung phản ánh sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm bị chiếm ở miền
Nam đang xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ
xâm lược; đồng thời thể hiện những suy ngẫm và quan điểm của nhà thơ về đất nước, dân tộc.
Đoạn trích Đất Nước nằm ở phần đầu chương V của trường ca là một trong những
đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Tác giả bày tỏ suy
nghĩ và tình cảm tha thiết, sâu sắc của bản thân về đất nước trên nhiều bình diện địa lí,
lịch sử, văn hóa, phong tục… với tư tưởng bao trùm: Đất Nước của Nhân dân
Đoạn trích chia làm hai phần: Phần một: Từ đầu đến… Làm nên Đất Nước muôn đời:
cảm nhận của tác giả về đất nước trên các phương diện cuộc sống của con người: địa
lí, lịch sử, văn hóa, phong tục. Phần hai: Tác giả đúc kết nên một chân lí khái quát:
Đất Nước của Nhân dân.
Giữa hai phần gần như không có sự tách biệt rõ ràng về nội dung vì ở phần nào tác
giả cũng thể hiện sự cảm nhận về Đất Nước trên nhiều mặt, nhưng mỗi phần có một
trọng tâm khác nhau trong nội dung tư tưởng và cảm xúc. Ở phần 1, Đất Nước được
tác giả cảm nhận từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc sống hằng ngày, sau đó mở
rộng ra với Thời gian đằng đẵng – Không gian mênh mông trong những truyền thuyết
về thời dựng nước. Cuối cùng, cảm nhận của nhà thơ hướng vào sự hiện diện của Đất
Nước trong mỗi con người; từ đó nhắc nhở trách nhiệm của mỗi công dân đối với Đất Nước.
Ở phần sau, Đất Nước được nhà thơ đúc kết thành quan niệm: Đất Nước của Nhân
dân, chính Nhân dân đã làm nên đất nước. Khái niệm Đất nước được gợi nên từ
những thắng cảnh thiên nhiên, những địa danh gắn với những tên người bình dị… Đất
Nước gắn với bề dày lịch sử bốn nghìn năm với những lớp người không nhớ mặt đặt tên.
Họ từng sống rất giản dị và bình tâm, nhưng cũng chính họ là những người đã làm
nên Đất Nước, truyền lại cho con cháu muôn đời. Cuối cùng, mạch suy tưởng của tác
giả dẫn đến một chân lí khái quát: Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Khác với các nhà thơ trước, khi viết về đất nước thường dùng những hình ảnh kì vĩ,
mĩ lệ, mang tính biểu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cách thể hiện rất tự nhiên và bình dị:
Khi ta lớn tên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm bày tỏ cảm xúc và suy tưởng của mình về
Đất Nước dưới hình thức trò chuyện tâm tình, tạo ra một cảm giác gần gũi, thân thiết.
Nhà thơ lấy chất liệu từ văn hóa dân gian, từ ca dao, tục ngữ, từ đời sống quen thuộc
hằng ngày. Bởi vậy nên không gian nghệ thuật được mở rộng ra nhiều chiều và hình
tượng thơ trở nên trữ tình, bay bổng.
Đất Nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, từ lời kể chuyện ngày xửa ngày
xưa của mẹ, từ các phong tục tập quán có từ lâu đời: Miếng trầu bây giờ bà ăn, Tóc
mẹ thì bới sau đầu. Đất Nước có từ khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Đất
Nước hình thành từ tình nghĩa vợ chồng thủy chung, Cha mẹ thương nhau bằng gừng
cay muối mặn, từ quá trình lao động bền bỉ của dân tộc; từ hình ảnh hạt gạo ta ăn
hằng ngày thấm đẫm mồ hôi một nắng hai sương.
Câu thơ: Cái kèo cái cột thành tên diễn tả thời gian hơn là không gian. Phải bao năm
tháng những vật dụng hằng ngày trong nhà mới có tên để gọi. Đấy cũng là quá trình
sinh thành của Đất Nước từ không đến có, từ nhỏ hẹp tới lớn lao. Tất cả những điều
đó làm cho khái niệm Đất Nước trở nên gần gũi, thân thiết đối với mỗi con người.
Có thể coi đoạn thơ mở đầu là câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có tự bao giờ? Lịch
sử lâu đời của đất nước Việt Nam được cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các
triều đại phong kiến hay các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các
truyền thống có từ xa xưa: Trầu cau (miếng trầu bây giờ bà ăn), Thánh Gióng (dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc… đến nền văn minh lúa nước sống Hồng cùng
những phong tục, tập quán có từ lâu đời. Đó chính là Đất Nước được cảm nhận từ
chiều sâu, từ bề dày của văn hóa và lịch sử.. Bài tham khảo 11
Cùng với các nhà thơ trong thế hệ chống Mỹ lúc bấy giờ, Nguyễn Khoa Điềm dường
như cũng hướng ngòi bút của mình đến một chủ đề lớn lao của thơ ca đương thời đó
không gì khác chính là đất nước. Tuy nhiên, có thể nói rằng hình ảnh “đất nước” trong
thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có đau thương mất mát hay chỉ có những cảnh sơn
hào hùng vĩ mà “đất nước” hiển hiện lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết
sức mới mẻ. Qua đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của
ông thì đây chính là một định nghĩa đủ đầy về đất nước và qua đó cũng thể hiện sâu sắc
tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân.
Mở đầu bài thơ chính là một lời tâm tình sâu lắng đưa ta về với cội nguồn:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này của Nguyễn Khoa Điềm dường như ta có thể thấy rằng, đất nước
không phải là cái gì trừu tượng, xa xôi khó nắm bắt mà đất nước chính là những gì thân
thuộc và gần gũi nhất. Đất nước có từ trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa,
trong miếng trầu của bà ăn, trong ống tre bất khuất kiên cường, trong những phục tục
tập quán, trong hạt gạo nấu những bữa cơm hàng ngày… đều hiện hình lên một đất
nước Việt Nam rất đỗi anh hùng, tình nghĩa, giản dị mà thân thương nhất. Và đây có thể
nói chính là một định nghĩa, định danh về đất nước hoàn toàn mới và hoàn toàn thiết
thực nhất, rõ ràng nhất.
Với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ là những khoảng giới hạn về
không gian địa lý chật hẹp nữa mà ở đây nó còn có chiều dài thời gian lịch sử và chiều
sâu văn hóa. Không những thế, “đất nước” còn chính là tình yêu đôi lứa, có trong tình yêu đôi lứa:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…
Đất và nước dường như tách riêng, và từng phần đều lại như đã tượng trưng cho những
điều gần gũi nhất. “Là nơi anh đến trường” hay “là nơi em tắm” hàng ngày. Thế nhưng
để rồi khi “ta hò hẹn” thành một đôi trọn vẹn thì cũng như đất nước gộp lại vẹn tròn lại
thành một. Và có thể nói rằng với phát hiện mới mẻ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra
rằng Đất nước không chỉ bên ta, xung quanh ta và còn có cả ở trong ta nữa.
Đất nước còn chính là nơi khởi đầu cho những câu chuyện xa xưa, cho những câu ca
dao tục ngữ, điển tích điển cố và tất thảy mọi sự sinh thành. Và hình ảnh đặc sắc “con
chim phượng hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” là những minh
chứng độc đáo cho đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến của chúng ta. Nhớ về đất
nước cũng như chính là một cách để ta có thể nhớ về cội nguồn, hiểu được vì sao chúng
ta được sinh ra. Chính vì thế, đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự
tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau…
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Biết bao thế hệ anh cha ta đã hi sinh, đã ngã xuống để bảo vệ đất nước, bảo vệ núi sông
bờ cõi. Đó còn chính là cả một chiều dài lịch sử hào hùng rất tự hào của dân tộc ta.
Chính vì thế, con cháu đời sau phải tiếp tục gìn giữ truyền thống ấy. Với một truyền
thống yêu nước, thương nòi, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ non sông cho
những thế hệ về sau. Và cho đến thời đại của ngày hôm nay, “trong và em” “đều có một
phần đất nước”. Dường như chính phần đất nước ấy là phần máu thịt, là một phần trách
nhiệm phải giữ gìn và xây dựng, phần tình yêu để bảo vệ đất nước cho con cháu mai sau.
Vì có phải những người đã không quản ngại thân mình hy sinh cho đất nước, làm nên
hình hài của đất nước cho nên:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Khi nói về 4000 năm lịch sử oanh liệt hào hùng của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm
không hề kể về những vương triều to lớn hay những anh hùng nổi tiếng mà lại nhấn
mạnh “người làm ra đất nước” lại chính là những con người bình dị đời thường và họ là
những người vô danh. Chính họ chứ không phải ai khác, không phải là một ông vua bà
chúa nào, họ đã gìn giữ và truyền lại hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ cho đời sau.
Và từ chính những con người vô danh làm nên đất nước bao năm qua đã giúp tác giả
khẳng định một chân lý:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại
Đối với câu thơ sau, hai vế dường như song song nhân dân – đất nước lại càng khẳng
định đất nước chính là kết tinh những giá trị tinh thần cao quý trong đời sống trí tuệ và
tình cảm của nhân dân. Những giá trị ấy cũng như đã kết tinh lại trong những câu ca dao,
tục ngữ, trong những câu chuyện thần thoại cổ tích của cha ông ta để lại. Và định nghĩa
về đất nước đến đây vừa giản dị nhưng cũng vừa lớn lao, sâu sắc biết bao nhiêu.
Đất nước đã dường như đã được khẳng định là của nhân dân và cũng là của anh, của em, và:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
Đoạn thơ thân tình như một lời nhắn nhủ thiết tha đằm thắm mà rất đỗi chân thành. Bởi
sự sống của chúng ta không chỉ do cha mẹ sinh thành mà còn vì đất nước nuôi dưỡng.
Chính vì thế mà trong mỗi chúng ta cần phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó và
truyền lại cho những thế hệ tiếp theo.
Đất nước đã được xem là một đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì kháng chiến
chống Mỹ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng đã nhận thức sâu sắc vai trò
và sự đóng góp to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh trường kỳ và vô cùng ác liệt
này. Chính vì thế có thể nói rằng tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học
truyền thống đã được nhà thơ phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Dùng
chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn, biến đổi linh hoạt đầy sáng tạo
chính là nét đặc sắc thẩm mĩ và thống nhất với tư tưởng “đất nước của nhân dân, Đất
nước của ca dao thần thoại” của bài thơ. Bài tham khảo 12
Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn
Khoa Điềm về vai trò và những hy sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước
và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ
chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân
thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng "Đất nước của nhân
dân, Đất nước của ca dao thần thoại" là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình
thức chương V của bản trường ca này.
Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ
trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị:
Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo vệ,
giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống văn hóa, lịch sử hàng ngàn đời
của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng
hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết
giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý
thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương
V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng
của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó
được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài
của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm
hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với
nhau trong một "hệ quy chiếu". Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.
Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí
của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu
của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập
quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu
ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kỳ diệu, đủ
gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ
pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo văn học dân gian. Có
thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ - đã thấm
nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định
nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi,
thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên
qua những lời kể chuyện của mẹ, qua "miếng trầu bây giờ bà ăn", qua cái kèo, cái cột,
qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là cài gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em: Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận
mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn
đề dân tộc nói lên như một vấn đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không
phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng
ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối
quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền
thông, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân
và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen
thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền
thống, văn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi
con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ,
hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ: Những ai đã khuất, Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày dỗ tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam
thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà
được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như
là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi:
"Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng
yêu nhau nên hòn Trống Mái". "Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non
Nghiên". Cả đến "Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh",
ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên
như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất
nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này,
từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã "quy nạp" thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử
bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới
những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người
vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con
người bình dị, vô danh đó: Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau
những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ.
Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật
lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo. Bài tham khảo 13
Từ xưa đến nay viết về đất nước luôn là nguồn mạch cảm hứng chủ đạo của nền văn học.
Tiếp tục mạch nguồn của văn học dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm một gương mặt nổi bật
của văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những quan điểm hết sức mới mẻ về đất nước.
Quan điểm đó đã được ông thể hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích Đất nước thuộc trường
ca Mặt đường khát vọng.
Đất nước đối với mỗi người là một ý niệm khác nhau. Đối với Nguyễn Khoa Điềm
cũng vậy, bằng sự cảm biết của mình, sự phân tích bằng tư duy logic, lần lượt từng lớp
lang của khái niệm đất nước đã được ông dần dần lật mở. Ông không định nghĩa bằng
những khái niệm quá mông lung, trừu tượng mà đi từ những điều hết sức cụ thể trong chính cuộc sống:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc
Qua khái niệm của tác giả, Đất Nước hiện lên thật bình dị, đất nước có từ những câu
chuyện cổ tích, từ miếng trầu, từ truyền thuyết thánh Gióng trồng tre đánh tan quân xâm
lược Ân. Đất Nước ta có từ ngày đó, thấm thuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ tấm bé.
Không chỉ vật Đất Nước còn được hình thành từ thuần phong mỹ tục, từ những nét văn
hóa, truyền thống đẹp đẽ của dân tộc ta. Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho thấy nét
đẹp trong sinh hoạt văn hóa đã được bảo lưu từ ngàn đời của ông cha ta. Dù một nghìn
năm Bắc thuộc, bị phương Bắc tìm mọi cách Hán hóa ấy vậy nhưng không có cách nào
xóa được những vốn văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta. Đất Nước cũng được hình thành từ
lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung mà khởi nguồn chính là mối quan hệ vợ chồng:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở đây Nguyễn Khoa Điềm có sự vận
dụng hết sực thuần thục ca dao: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn,
xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất Nước được hình thành từ những điều tưởng như
giản dị mà hết sức thiêng liêng, cao quý.
Tiếp tục mạch cảm hứng đó, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:
Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất Nước không xa lạ mà chính là không gian sinh tồn, gần gũi với đời sống sinh hoạt
của tất cả chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm đã không hoa mỹ, không ngần ngại mà làm
sáng tỏ nó là nơi đến trường, nơi tắm, nơi hò hẹn, nơi nhớ nhung. Vâng, Đất Nước
chính là được hình thành từ những điều dung dị nhất của cuộc sống. Và để làm sâu sắc
thêm khái niệm, ông đã truy nguyên nguồn gốc từ quá khứ: “Đất Nước là nơi dân mình
đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ đồng
bào ta trong bọc trứng”. Từ sự lí giải sâu sắc hai phương diện lịch sử và địa lý ông đã
dần dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm Đất Nước. Đồng thời từ đó cũng nêu lên trách
nhiệm của mỗi con người đối với đất nước: “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ yêu
nhau và sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu việc mai
sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh vác”
đã khẳng định trách nhiệm của thế hệ mai sau đối với công cuộc dựng nước và giữ nước.
Đồng thời ông cũng lên tiếng nhắc nhở, dù xây dựng đất nước cũng không được quên đi
công ơn của người đã dựng xây, kiến tạo nên Đất Nước. Chỉ với hai chữ “cúi đầu” cũng
đã cho thấy tấm lòng thánh kính thiêng liêng hướng về quê cha, đất tổ.
“Trong anh và em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”, đoạn thơ đã khẳng định, Đất
Nước được tồn tại và vững bền là bởi sự đoàn kết của mọi người, là sự yêu thương của
đôi lứa. Chỉ khi có sự hòa hợp giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì
khi ấy mới có đất nước vẹn tròn ton lớn. Và từ đó ông nêu lên trách nhiệm của mỗi cá
nhân cũng như toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước: “Em ơi em đất nước là máu xương
của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên
đất nước muôn đời”. Vì bởi:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu …
Những người dân nào đã góp nên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Hàng loạt những địa danh, danh lam thắng cảnh được ông gọi tên. Mỗi địa danh ấy gắn
liền với một chiến tích, với một sự hy sinh thầm lặng để làm nên đất nước muôn đời.
Cũng bởi vậy, đã khiến ông rút ra kết luận: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò
bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Để làm nên đất nước chắc chắn không thể là một cá nhân có thể kiến tạo của nền văn
hóa, truyền thống và lịch sử dân tộc. Vậy đó là ai, là những người nào?
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Quả đúng, đó chính là người vô danh, họ là những người con gái con trai, họ“đã sống
và chết” “giản dị và bình tâm” họ đã mang tên làng tên xã, mang phong tục tập quán
truyền lại, bảo lưu cho thế hệ mai sau. Chính họ là người đã làm nên Đất nước. Với biện
pháp liệt kê và điệp “họ” Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mặt người đọc tầng tầng
lớp lớp những con người vô danh nối tiếp nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại
cho con cháu những giá trị vật chất tinh thần cao quý nhất. Và điều họ hướng đến chính là:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Đến đây Nguyễn Khoa Điềm đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm tư tưởng đất nước
nhân dân của mình. “Trở về với nguồn cội của Đất Nước cũng là trở về với cội nguồn
phong phú, đẹp đẽ là văn hóa dân gian” khởi thủy của mọi truyền thống văn hóa tốt đẹp
của nhân dân ta. Đồng thời đó cũng là nơi làm nên, khơi dậy nên truyền thống văn hóa
tốt đẹp của nhân dân ta:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Bài thơ kết lại bằng tiếng hát tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng
khắp núi sông. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho thấy niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối
với vốn truyền thống văn hóa ngàn đời của cha ông để lại.
Đất Nước là bài thơ giàu suy tư và triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, rất mới mẻ của
Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại được mở mang thêm
tri thức, lại có thêm một cách nhìn nhận về Đất Nước trong chiều dài lịch sử. Từ đó
cũng càng thêm yêu mến, tự hào với nơi mình được sinh ra và lớn lên.