Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm hay nhất | Văn mẫu 12
"Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những thi phẩm tiêu biểu về chủ đề đất nước. Tuy nhiên, bài thơ là sự khám phá mới mẻ và độc đáo về nguồn gốc, định nghĩa của Đất Nước cũng như tư tưởng "Đất Nước của Nhân Dân". Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích bài thơ Đất nước Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và Đất nước. 2. Thân bài
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
………………………………………
Đất Nước có từ ngày đó…”
Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này
thôi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.
Đất nước bắt nguồn từ những diều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt
Nam từ xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân
gian, “miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau,
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam,
“Thương hau bằng gừng cay muối mặn” thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương
của dân tộc. → Văn hoa dân gian đặc trưng của đất nước.
Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành
tên”, “một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
→ Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ chiều
sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.
“Đất là nơi anh đến trường
….……………………………
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
“Anh đến trường, em tắm, hò hẹn”: Đất Nước là không gian sinh hoạt gần gũi của
đời sống gắn với tình yêu nơi hò hẹn của đôi lứa.
“Nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”: những lời tâm tình, thủ thỉ của
tình yêu, không gian giàu tình cảm, gợi những câu ca dao yêu thương về nỗi nhớ.
→ Cách định nghĩa độc đáo về Đất Nước: Hình thức điệp và lí giải bằng hai yếu tố
Đất và Nước, thể hiện sự cảm nhận Đất Nước thống nhất trên các phương diện địa lí - lịch sử.
Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông, Chim về, Rồng ở, giỗ Tổ: Đất Nước
với rừng vàng, biển bạc, giàu có với những câu chuyện cổ tích quen thuộc, truyền
thống con cháu Lạc Hồng, phong tục giỗ Tổ các vua Hùng.
“Ai đã khuất, bây giờ, yêu nhau, sinh con, dặn dò”: Đất Nước là không gian sinh
tồn của biết bao thế hệ, quá khứ cha ông, hiện tại mỗi chúng ta và tương lai con cháu sau này.
→ Đất Nước được cảm nhận trên bề rộng của không gian địa lí, chiều dài của lịch
sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước được cảm nhận thống nhất giữa cái
hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể
tách rời giữa nhân dân và cộng đồng.
“Trong anh và em hôm nay
…………………………………
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
“Anh, em, một phần Đất Nước, hài hòa, nồng thắm”: Đất Nước có trong máu thịt
mỗi con người, sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, cá nhân với cộng đồng
dân tộc, giữa các thế hệ với nhau, mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời. → Mỗi
chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước.
“Cầm tay mọi người, vẹn tròn to lớn”: truyền thống yêu thương, đoàn kết, thân ái
của những người Việt Nam tạo thành sức mạnh vô địch.
“Mai này con ta lớn lên
….………………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Con mang đất nước đi xa, tháng ngày mơ mộng”: thế hệ tương lai phải có trách
nhiệm đưa Đất Nước ngày càng phát triển, đi xa hơn nữa.
“Máu xương, gắn bó san sẻ, hóa thân cho dang hình xứ sở, muôn đời”: khẳng định
Đất Nước từ trong máu thịt, là máu thịt của mỗi cá nhân do đó mỗi chúng ta phải
có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Đất Nước.
→ Cái tôi suy tư đầy ý thức trách nhiệm của tác giả: mỗi con người không phải chỉ
sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất nước. Bởi mỗi
người đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất nước và được
nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách
nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy.
→ Cảm nhận, cái nhìn Đất Nước toàn vẹn, tổng hợp đa chiều: Địa lí, lịch sử, văn
hóa, phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc trong đời sống hằng ngày, biến cố lịch sử…
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
….………………………………………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
“Núi Vọng Phu”: địa danh nổi tiếng gắn với sự tích người vợ hóa đá chờ chồng →
khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Nam.
Hòn Trống Mái: hai tảng đá xếp chồng lên nhau nằm trên một ngọn núi ở Sầm
Sơn, Thanh Hóa → khẳng định tình cảm, sự gắn bó trong tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng.
Tổ Hùng Vương: gắn với truyền thuyết 99 con voi quây bên đền thờ các vua Hùng
để phục Tổ → khẳng định niềm tự hào lịch sử vua Hùng.
Núi Bút, Non Nghiên: có hình cây bút và nghiên mực ở Quảng Ngãi, nói lên truyền
thống hiếu học của người Việt Nam.
Hạ Long thành: thắng cảnh Hạ Long, một di sản thiên nhiên thế giới.
Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm: sơn danh của những người có công với
nước ở Nam Bộ, tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.
Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước.
→ Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con
người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của
nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc
đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. “Em ơi em Hãy nhìn rất xa
….…………………………………..
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Bốn nghìn năm, người người, lớp lớp, con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và bình tâm.
+ Không điểm qua các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn
những con người vô danh, bình dị nhưng dũng cảm, kiên cường.
+ Toàn dân đông đảo, là sự hóa thân của những anh hùng vô danh đã bền bỉ đấu
tranh, gầy dựng làm nên Đất Nước với bề dày lịch sử bốn nghìn năm.
+ Sự khái quát sâu sắc về sự hòa nhập, sự hóa thân của con người trong phạm vi
không gian và thời gian lớn.
Những người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và
vật chất (văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng nói, gánh theo tên
làng xã, đắp đập bờ tre).
+ Họ: những con người vô danh, những người lao động cần cù, chiến đấu dũng
cảm, ngoan cường đã làm nên Đất Nước.
+ Điệp cấu trúc “họ…”: gợi những con người nối tiếp nhau, giữ gìn và truyền lại
cho các thế hệ sau giá trị văn hóa, văn minh tinh thần, truyền thống chống giặc ngoại xâm.
- Tư tưởng đất nước của nhân dân:
+ Đất Nước này, của nhân dân: khẳng định Đất Nước của nhân dân do nhân dân làm ra.
+ Ca dao, thần thoại: trở về với cội nguồn dân tộc, với văn hóa dân gian, cách định
nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà độc đáo.
+ Ba phương diện của truyền thống tâm hồn dân tộc:
• Yêu em từ thuở trong nôi: thật say đắm, tha thiết trong tình yêu.
• Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội: quý trọng tình nghĩa.
• Biết trồng tre, đi trả thù: quyết liệt với kẻ thù.
→ Đất Nước là của nhân dân, những con người bình thường nhưng cần cù, chịu
thương, chịu khó trong lao động nhưng lại kiên cường, bất khuất, dũng cảm trong chiến đấu.
→ Tư tưởng Đất Nước của nhân dân được thể hiện qua ba chiều cảm nhận về đất nước: - Từ không gian địa lí
- Từ thời gian lịch sử - Từ bản sắc văn hóa. 3. Kết bài
Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp phần không nhỏ làm nên sự đa
dạng, phong phú cho nền văn học Việt Nam.
Bài mẫu phân tích đoạn trích Đất nước
Con người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn
chảy trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ
quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu
bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt
trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến
Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là
đoạn trích Đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận
độc đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm
xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về
vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân.
“Trường ca Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ
văn của ông. Đoạn trích Đất nước thuộc chương V của bản Trường ca mang đến
cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ về hình hài của Đất nước.
Mở đầu bài thơ, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất nước
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
….………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó…”
Tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu đời, khi mà con
người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương.
Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời
các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận
bây giờ. Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những
gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời
hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng
chúng ta khôn lớn, làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở
thành một phần kí ức tốt đẹp khiến ta không thể quên. Nhai trầu từ lâu đã trở thành
một thói quen không thể thiếu của những người phụ nữ Việt Nam nhất là các bà,
các mẹ và từ lâu dân gian ta đã có câu chuyện sự tích trầu cau nói về tình nghĩa con
người. Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà
Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại
xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thành Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre
giơ cao đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân
Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất.
Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến
những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam :
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liên với mái tóc dài, được
búi gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, người mẹ, người chị, của
một người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất
riêng. Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự
nhiên, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong
con người như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con
người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.
Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa
Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân: Từ xa xưa, con
người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ
vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi
nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ
niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước. Ngôi nhà là mái
ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn thành sự
phát triển đất nước. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai
sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các
động từ “xay – giã – dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra
được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả
gieo cấy, chăm sóc, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ
hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân vất vả nắng mưa. Thành quả ngọt ngào
này không chỉ giúp dân ta có đời sống no ấm mà nó còn trở thành nền văn minh lúa
nước mà khi nhắc đến người ta biết ngay đến Việt Nam; không chỉ dừng lại ở đó,
nền văn minh này đã giúp cho nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế
giới và toàn cầu biết đến lúa gạo Việt Nam.
Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó…” Ngày
đó là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng
ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có
nhiều văn hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.
Tiếp nối sau khẳng định Đất nước là của nhân dân, tác giả định nghĩa về Đất nước vô cùng độc đáo:
“Đất là nơi em đến trường
.…………………………..
Cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đất nước không chỉ được cảm nhận bằng không gian địa lí hay chiều dài lịch sử
mà Đất nước còn được cảm nhận bằng không gian sinh hoạt vô cùng gần gũi, thân
thuộc. “Đất” gắn liền với hình ảnh, hoạt động của người con trai, “nước” gắn với
vẻ đẹp của người con gái nhưng hai tiếng Đất nước lại hợp thành tình yêu đôi lứa
mặn mà. Đất nước cũng là nơi để họ hẹn hò, trao nhau những yêu thương mùi mẫn,
những kỉ niệm, những nhớ thương, mong mỏi của thời gian xa cách.
Người xưa có câu: “Đất lành chim đậu”, đất là nơi chim bay về làm tổ, nước là nơi
con cá vùng vẫy giữa đại dương mênh mông. Ngần ấy năm lịch sử là quãng thời
gian dài hình thành nên sự trù phú của thiên nhiên, làm giàu cho đất nước để từ đó
Đất nước trở thành nơi con người đoàn tụ làm ăn sinh sống và làm nên truyền
thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ cùng bọc trăm trứng trở thành những thế hệ đầu tiên của đồng bào ta.
Từ những lí giải, cảm nhận trên về Đất nước, tác giả nhắn nhủ đến những thế con
người dù đi trước, dù đi sau, dù ở bất cứ thời đại, hoàn cảnh nào cũng phải nhớ về
cội nguồn, biết ơn cội nguồn và nhớ về ngày giỗ tổ Hùng Vương - người đã có
công gây dựng nền móng nhà nước đầu tiên để có Đất nước bây giờ.
Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận dựa trên bề rộng của không gian địa
lí, chiều dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước thống nhất
giữa cái hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện
không thể tách rời giữa nhân dân và cộng đồng.
Sau những nhận định, lí giải Đất nước trên những phương diện khác nhau, tác giả
nêu lên trách nhiệm của con người đối với Đất nước:
“Trong anh và em hôm nay
……………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Đất nước dường như là một phần máu thịt của mỗi con người. Đất nước của tình
yêu đôi lứa là một đất nước hài hòa, nồng thắm. Đất nước của cả dân tộc đoàn kết
là đất nước vẹn tròn, to lớn có sức mạnh chống lại mọi thế lực kẻ thù. Qua đây, tác
giả thể hiện niềm tin yêu của mình vào thế hệ con cháu mai sau, rồi chúng sẽ mang
đất nước mình sánh vai với các cường quốc năm châu, rồi chúng sẽ phát triển đất
nước này đến những tháng ngày mà hiện tại ta đang mơ mộng.
“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng
đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất
Nước là máu xương của mình” để từ đó, tác giả nêu lên trách nhiệm của mỗi con
người với Đất nước, phải biết gắn bó và san sẻ với những mảnh đời bất hạnh, phải
biết hi sinh, hóa thân để giữ vững dáng hình xứ sở để Đất nước này tồn tại muôn đời.
Đoạn thơ thể hiện cái tôi suy tư đầy ý thức trách nhiệm của tác giả: mỗi con người
không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất
nước. Bởi chúng ta đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất
nước và được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải
có trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy. Từ đây, ta thấy rõ hơn
cách cảm nhận, cái nhìn Đất Nước toàn vẹn, tổng hợp đa chiều của Nguyễn Khoa
Điềm (địa lí, lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc trong
đời sống hằng ngày, biến cố lịch sử…).
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
….………………………………………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công
chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn.
Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa
đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ
chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu
thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh.
Không chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn
vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng
Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại
độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự
quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu truyện, những sự
tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước
này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta.
Chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu
học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước,
đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những
người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta
biết ơn, học tập và noi theo.
Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé: những quả núi hình
con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những
ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau
không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước
nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước.
Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông
cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có
nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không
vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm
tự hào của con cháu sau này. “Em ơi em Hãy nhìn rất xa
….…………………………………..
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Đến đây, Nguyễn Khoa Điềm không điểm qua các triều đại, các anh hùng nổi tiếng
mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị nhưng dũng cảm,
kiên cường. Họ là những “con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và
bình tâm” cần cù, chăm chỉ làm lụng gây dựng cuộc sống tốt đẹp. Khi nước nhà có
giặc, họ lại đứng lên chiến đấu anh dũng, mạnh mẽ một lòng một dạ cùng nhau
đoàn kết lấy lại độc lập dân tộc. Họ có thể là những con người vô danh, không ai
nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là người giữ vững non sông này để có chúng ta
ngày hôm nay. Không chỉ trên mặt trận chiến đấu mà họ còn là những anh hùng
của đời thường. Những người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn
minh tinh thần và vật chất (văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng
nói, gánh theo tên làng xã, đắp đập be bờ). Điệp cấu trúc “họ…” đã gợi ra lớp lớp
những con người nối tiếp nhau, giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau giá trị văn
hóa, truyền thống tốt đẹp.
Đến đây, tác giả khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân: Đất Nước này, của
nhân dân, do nhân dân làm ra gắn với những câu ca dao, thần thoại từ lâu đời, cội
nguồn dân tộc, văn hóa dân gian. Đồng thời, tác giả cũng gửi gắm những bài học
quý giá: anh em nên biết đoàn kết, yêu thương nhau từ thuở nằm nôi; biết quý
trọng công sức những ngày gian khổ; biết nuôi ý chí mà đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Qua đây, tác giả một lần nữa khẳng định vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của thế hệ những
con người Việt Nam và chất “tình” có ở khắp mọi nơi trên đất nước này.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian cùng với
ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình, tác giả
Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn
của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của
truyền thống, của phong tục tươi đẹp. Đồng thời, tác giả thể hiện rõ nét tư tưởng
Đất nước của nhân dân qua ba chiều cảm nhận: địa lí, lịch sử và văn hóa vô cùng tinh tế, sâu sắc.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với trường ca “Mặt đường khát
vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng
đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây
giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu
và yêu Đất nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước này.