Phân tích bài thơ Đất nước hay nhất | Văn mẫu 12
Phân tích Đất nước Nguyễn Khoa Điềm tuyển chọn 29 bài văn mẫu CỰC CHẤT. Qua phân tích bài thơ Đất nước các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một giọng điệu văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức tâm đắc của chính mình.
24
12 lượt tải
Tải xuống
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Dàn ý phân tích bài thơ Đất nước
Dàn ý số 1
I. Mở bài:
- Sơ lược về nền văn học 1945-1975, giới thiệu tác phẩm.
II. Thân bài:
a. Đất Nước có từ bao giờ?
- Đất Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu
chuyện cổ tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa.
- Gợi ra những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, truyền
thuyết.
● Sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là
tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại
những cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng.
● Truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu
nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
- Đất Nước có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục.
● “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi
tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các mẹ thời xưa.
● “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền
thống coi trọng tình nghĩa vợ chồng.
● Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển của
con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa,...
b. Đất nước là gì?
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
- Về không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến
trường”, “nơi em tắm”,... là không gian gần gũi, thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng lại
mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’, “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về
sau những ngày tháng xa quê hương.
- Về thời gian lịch sử:
● Quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về
giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi
nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông.
● Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở
trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao
gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống.
● Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ
tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ
lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước.
c. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân:
- Trên phương diện không gian địa lý:
- Cảm nhận Đất Nước qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng
nhắc tên chúng một cách dày đặc trong từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả
đối với quê hương, đất nước.
- Gợi nhắc những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
- Nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí
thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta.
- Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình
cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, nhắc
lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền thống hiếu học
của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng làm
nên thắng cảnh cho quê hương.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
=> Khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là
do nhân dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.
* Phương diện thời gian lịch sử:
- Suốt 4000 năm lịch sử, nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai
nhớ mặt đặt tên” nhưng họ chính là những người làm ra Đất Nước.
- Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là
người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần.
* Trên bình diện văn hóa:
- Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt
Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc Việt nói chung.
- “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp say đắm
trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình.
- “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ đó thấy
được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất tầm
thường.
-“Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao đời nay.
III. Kết bài:
- Tổng kết giá trị nội dung nghệ thuật.
Dàn ý số 2
a. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp nhà thơ lớn lên trong những ngày hòa bình và
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ
những năm chống Mĩ.
Bài thơ Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ có
chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, thức tỉnh thanh
niên, tuổi trẻ thành thị miền Nam xuống đường đấu tranh.
b. Thân bài phân tích Đất nước
* Luận điểm 1: Cảm nhận của tác giả về đất nước từ nhiều phương diện
- Lí giải cội nguồn của đất nước (phương diện lịch sử, văn hoá dân tộc)
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” -> Đất nước đã có từ lâu đời
“ngày xửa ngày xưa” -> gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian
“miếng trầu” -> tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau
“Tóc mẹ thì bới sau đầu” -> thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt
Nam
=> Đất nước gắn liền với truyền thống văn hoá, quá trình hình thành phong tục tập
quán.
“Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” -> thói quen tâm lí, truyền thống yêu
thương của dân tộc.
“cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương” -> Đất nước trưởng thành
cùng quá trình lao động sản xuất.
=> Đất nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt
Nam từ xa xưa mà không hề xa xôi, trừu tượng.
- Cảm nhận về đất nước qua phương diện không gian và thời gian
+ Về không gian địa lí:
"Đất / nước" : hai yếu tố được tách riêng để suy tư một cách sâu sắc
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi em đánh rơi... thương thầm” : là nơi
sinh sống của mỗi người (sinh ra, lớn lên, đi học, trưởng thành và những những
rung động đầu đời,...)
“nơi con chim phượng hoàng”, “nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi” : Là
núi, sông, rừng, biển
"là nơi dân mình đoàn tụ..." : là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua
bao thế hệ ()
+ Về thời gian:
Dài “đằng đẵng” từ xa xưa, gắn liền với truyền thuyết các dân tộc anh em cùng
chung con Rồng, cháu Lạc và truyền thuyết dựng nước của vua Hùng cùng
ngày giỗ Tổ.
Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa
hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ
nồng thắm, hài hòa, lớn lao.
Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.
Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa”, “đến những ngày mơ
mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.
=> Đất nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và
tương lai.
* Luận điểm 2: Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân dân.
- Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình
thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con
người:
Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống
Mái”
Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà
có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”
- Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:
Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu
nước.
Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định
vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.
- Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa
“truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,... từ
đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.
- Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của
nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con
người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì
đất nước.
c. Kết bài phân tích Đất nước
- Khái quát giá trị nội dung bài thơ: Đất nước được cảm nhận ở nhiều phương diện,
cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân.
Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước
mình.
- Đặc sắc nghệ thuật:
Sử dụng các chất liệu của văn hoá dân gian đa dạng, sáng tạo
Ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc
Thể thơ tự do hiện đại linh hoạt
Giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng, thiết tha.
- Nêu cảm nhận của em về bài thơ
- Liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay với đất nước.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Dàn ý số 3
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: ông thuộc thế hệ nhà thơ chống Mĩ cứu
nước, thơ ông là sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và chất triết lí, suy tư của người trí
thức về đất nước, con người.
- Giới thiệu về bài thơ Đất nước: được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là
một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”.
II. Thân bài
1. Đất nước được cảm nhận từ phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không
gian, chiều dài của thời gian
a. Đất nước có từ bao giờ? (lí giải cội nguồn của đất nước) (9 câu đầu)
- Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này
thôi thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.
- Đất nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt
Nam từ xa xưa: “ngày xửa ngày xưa” gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân
gian, “miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau, “Tóc
mẹ thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam, “Thương
nhau bằng gừng cay muối mặn” thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân
tộc.
- Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành tên”,
“một nắng hai sương”, quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
- Nhận xét: Tác giả có cái nhìn mới mẻ về cội nguồn đất nước, đất nước bắt nguồn từ
chiều sâu văn hóa, văn học, lịch sử và truyền thống dân tộc.
b. Định nghĩa về đất nước (28 câu thơ tiếp theo)
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
- Về phương diện không gian địa lí:
Tác giả tách riêng hai yếu tố “đất” và “nước” để suy tư một cách sâu sắc.
Đất nước là không gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian sinh hoạt của
mỗi con người: “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”; gắn với kỉ niệm tình yêu
lứa đôi: “nơi em đánh rơi ... thương thầm”.
Đất nước là không gian bao la trù phú, không gian sinh tồn của cộng đồng qua
bao thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng ... dân mình đoàn tụ”.
- Nhìn đất nước được nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương
lai:
Trong quá khứ đất nước là nơi thiêng liêng, gắn với truyền thuyết, huyền thoại:
“Đất là nơi chim về ... trong bọc trứng”
Trong hiện tại: đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa
hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ
nồng thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.
Trong tương lai: thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mơ
mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.
- Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước: “Phải biết gắn bó và san sẻ”,
đóng góp, hi sinh để góp phần dựng xây đất nước.
- Nhận xét: qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân
thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.
2. Tư tưởng cốt lõi, cảm nhận về đất nước: đất nước của nhân dân
- Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình
thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con
người:
Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống
Mái”
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà
có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”
- Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm:
Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu
nước.
Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định
vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.
- Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: văn hóa:
“truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”, ... từ
đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.
- Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của
nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con
người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì
đất nước.
- Nhận xét:
+ Về nội dung: đoạn trích “Đất nước” đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về đất nước trên
nhiều bình diện: văn hóa, lịch sử, địa lí dựa trên tư tưởng cốt lõi: “đất nước của nhân
dân”.
+ Về nghệ thuật: sử dụng đa dạng và sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian, ngôn ngữ
giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của đoạn trích: đoạn trích đã nhấn mạnh tư tưởng “đất
nước của nhân dân”, thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả, đánh thức tinh
thần yêu nước trong mỗi con người.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nêu cảm nhận riêng về đoạn trích đất nước và có liên hệ thực tiễn đến trách
nhiệm của thế hệ hôm nay với đất nước.
Dàn ý số 4
I. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm.
Giới thiệu về bài thơ Đất Nước.
II. Thân bài
1. Đoạn 1
a. Đất Nước có từ bao giờ?
Tác giả khẳng định một điều tất yếu: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, điều này thôi
thúc mỗi con người muốn tìm đến nguồn cội đất nước.
Đất nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt
Nam từ xa xưa:
“ngày xửa ngày xưa”: lời mở đầu của các truyện cổ tích.
“miếng trầu” gợi nhớ tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau,
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”: thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam
“Thương nhau bằng gừng cay muối mặn”: truyền thống trọng tình nghĩa của
dân tộc.
Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất “cái kèo cái cột thành
tên”, “một nắng hai sương”.
Đất Nước có từ ngày đó: thời gian phiếm chỉ, khẳng định sự tồn tại lâu đời của
Đất Nước.
2. Đoạn 2
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
- Tác giả tách riêng hai yếu tố “đất” và “nước” để suy tư một cách sâu sắc.
“Đất Nước” là không gian riêng tư quen thuộc gắn với không gian sinh hoạt của mỗi
con người: “nơi anh đến trường", “nơi em tắm”; gắn với kỉ niệm tình yêu lứa đôi: “nơi
em đánh rơi... thương thầm”.
- Đất Nước là không gian bao la trù phú, không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao
thế hệ: “Đất là nơi con chim phượng hoàng ... dân mình đoàn tụ”.
Nhìn đất nước được nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương
lai:
Trong quá khứ: Đất Nước là nơi thiêng liêng, gắn với truyền thuyết, huyền
thoại “Đất là nơi chim về ... trong bọc trứng”.
Ở hiện tại: Đất Nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa
hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ
nồng thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái chung.
Với tương lai: là thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa” “đến những ngày mơ
mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.
Suy tư về trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước: “Phải biết gắn bó và san
sẻ” có nghĩa là đóng góp, hy sinh để góp phần dựng xây đất nước.
=> Qua cái nhìn toàn diện của nhà thơ, đất nước hiện lên vừa gần gũi, thân
thuộc lại vừa thiêng liêng, hào hùng và trường tồn đến muôn đời sau.
3. Đoạn 3
- Chiều rộng địa lí: Đất Nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành
từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người:
Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống
Mái”
Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà
có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.
Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”...
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
- Chiều dài lịch sử: Nhân dân làm nên lịch sử bốn nghìn năm của Đất Nước:
Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu
nước.
Những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân
với lịch sử dân tộc.
- Chiều sâu văn hóa: Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho
đất nước: “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên
làng”... từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.
- Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích: “đất nước này là đất nước của
nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con
người: biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì
đất nước.
III. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Cảm nhận riêng về đoạn trích trên.
Phân tích Đất nước lớp 12 - Mẫu 1
Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh
cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều
tác giả chọn đưa vào tác phẩm của mình mới những vần thơ, lời văn chân thành tha
thiết, thấm đẫm hào khí dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ
trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng chọn cho mình đề tài đất
nước, giữa những năm tháng cuộc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục
sôi máu lửa. Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đặt nặng trong tác phẩm của mình
màu sắc tuyên truyền, không ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng
êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bằng
một cách rất riêng, bằng một cảm xúc mới lạ giữa thời chinh chiến “hoa lửa”, ông
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
nhìn nhận Tổ quốc từ những điều giản dị, từ những con người rất đỗi bình thường. Sử
dụng thành công giọng thơ mang tính triết luận trữ tình, đặc biệt là sự kết hợp với các
chất liệu văn hóa dân gian lấy từ vốn hiểu biết rộng lớn của nhà thơ về văn hóa ngàn
đời của dân tộc. Tất cả đã tạo nên một Đất Nước với vẻ giản dị, thân thương, Đất
Nước của nhân dân, một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền
thuyết, những phong tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác giả đi vào phân tích và làm rõ vấn đề Đất
Nước có từ bao giờ. Trong 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất
Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ
tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa. Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây
giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son
sắt thủy chung. Không chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác giả còn gợi lại những
cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua
Hùng dựng nước và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước
lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta
nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu
nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Như vậy, có thể thấy rằng
Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế nhưng Đất
Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu nước, có được lòng
dũng cảm, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đi từ những câu
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có
từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc
người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các
mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy
chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca
Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn
kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. “Cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ
chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở nên thương yêu
và gắn kết bền chặt với nhau hơn.„
Thứ ba nữa, Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển
của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ
chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu
chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho
mình. Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ
cái chỗ nhân dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh,
thì người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt
gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống. Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên
để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác giả đã chốt lại bằng câu thơ “Đất
Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày
chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là
ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa. Có thể nói Đất Nước mà
Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân
tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi, thân thuộc và bình dị, để lại
trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô cùng.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình
tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo
cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự,
tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người
đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về
phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví ““Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi
em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời
thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong
nỗi nhớ thầm”, tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và
em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra
thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất Nước trở
thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi. Không chỉ thế
“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc...Đất Nước là nơi dân mình
đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu ở trên ta thấy một Đất
Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng
vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc,
được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Và cuối cùng dù đi đâu về đâu
thì phượng hoàng cũng phải về núi, cá ngư ông thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc
Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất Nước. Như vậy có thể tóm gọn lại Đất
Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.„
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng
một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính
xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi
nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân
tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng
dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua
Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha
thiết, phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ
gìn non sông gấm vóc, và luôn nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính,
trân trọng.„
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong
mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những
phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất
Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi
ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con người phải có trách nhiệm
xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng thắm”.
Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”,
phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên
một “đất nước vẹn trong to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ
vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở
chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Trong tương lai đó là một Đất Nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai
được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để
làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước. Con sẽ đưa Đất Nước đi xa,
sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới, đưa Đất Nước trở nên giàu đẹp vững
mạnh gấp nhiều lần hôm nay.„
Sau khi đã định nghĩa một cách rõ ràng Đất Nước cả về không gian và thời gian, cả về
địa lý lẫn lịch sử thì Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại bằng những câu thơ rất tha thiết
về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước.
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Lời thơ như là lời tâm tình của người anh với người em, lời tâm tình của chàng trai đối
với một người con gái, cũng là lời lay tỉnh của nhà thơ, của thế hệ trước với thế hệ
sau, cũng là lời lay tỉnh của cách mạng đối với tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam, những con người đang ngủ quên trong cuộc sống hưởng thụ . Đất Nước là một
khái niệm trừu tượng, thế nhưng khi so sánh Đất Nước với hình ảnh “máu xương của
mình” thì đó lại là một khái niệm cụ thể, hữu hình. Đây cũng là phần nối tiếp trong ý
thơ “trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước”, thì ở đây Nguyễn Khoa
Điềm đã chỉ rõ Đất Nước là máu xương của mỗi con người, đã là phần căn cơ cốt yếu
trong mỗi cá nhân, ai cũng phải có. Điệp từ “phải biết” trong hai câu thơ sau là biểu
hiện của một mệnh lệnh, xác định trách nhiệm cho mỗi người, yêu nước không phải là
một khái niệm chung chung, một tư tưởng trừu tượng mà yêu nước phải thực hiện
bằng hành động. Mỗi con người cần phải biết “gắn bó san sẻ”,„ đặc biệt phải “biết hóa
thân cho dáng hình xứ sở”, dâng cả sự sống, thanh xuân cho Đất Nước, coi trọng Đất
Nước hơn cả hạnh phúc riêng của bản thân mình.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Sau những dòng thơ nêu nên sự hình thành và phát triển của Đất Nước thì Nguyễn
Khoa Điềm bắt đầu đi vào nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước của nhân dân, bằng câu hỏi
Đất Nước do ai làm nên.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Trên phương diện không gian địa lý, tác giả đã cảm nhận Đất Nước qua những địa
danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong
từng ý thơ. Đặc biệt những địa danh này vốn đã trở nên quen thuộc với người dân Việt
Nam và gắn liền với những cổ tích, những thần thoại trong văn hóa dân tộc, mục đích
là để gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với quê hương, đất nước. Không chỉ vậy,
sâu xa hơn nữa việc Nguyễn Khoa Điềm liệt kê các địa danh như vậy cũng là nhằm kể
tên các vùng đất tương ứng trên dải đất hình chữ S, ví như “núi Vọng Phu” ngự ở
Lạng Sơn, và còn ở rất nhiều nơi khác, gợi nhắc về hình ảnh những người vợ chờ
chồng đi đánh giặc trên khắp Tổ quốc. Rồi “hòn Trống Mái” thì ở Thanh Hóa, “trăm
ao đầm” mà gót ngựa Thánh Gióng đi qua thì rải rác khắp mọi miền đất nước, “đất tổ
Hùng Vương” là vùng Phú Thọ, “núi Bút, non Nghiên” ở Quảng Ngãi, “Hạ Long” ở
Quảng Ninh, “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” là những địa danh ở mảnh đất
miền Nam. Thêm nữa, việc nhắc đến các vùng đất khắp Tổ quốc như vậy còn là để
nhấn mạnh việc đất nước chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó gợi lên ý chí
thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc một nhà của nhân dân ta. Đồng thời những danh lam
thắng cảnh ấy cũng là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt, đó là đức tính thủy chung
son sắt trong tình cảm vợ chồng, là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam, nhắc lại thuở dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi còn gợi lại cả truyền
thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc,
con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương. Ngoài ra việc sử dụng cấu trúc thơ
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
độc đáo, một bên là con người, sự vật sự việc dung dị đại diện cho hình ảnh của nhân
dân, một bên là những địa danh, những thắng cảnh kỳ vĩ, lớn lao đại diện cho hình ảnh
của Đất Nước được nối với nhau bằng những từ “góp”, “góp tên”, “góp mình”,... Đã
khẳng định một cách mạnh mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do
nhân dân cùng góp công, góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.„
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Sau khi diễn giải tư tưởng Đất Nước của nhân dân ở các chi tiết, thì Nguyễn Khoa
Điềm chuyển sang nâng ý thơ lên tầm„ khái quát. Khẳng định tầm vóc kỳ của Đất
Nước vĩ ở phương diện địa lý qua hình ảnh “khắp ruộng đồng gò bãi” để mở ra một
không gian lớn lao cao rộng, sau đó khẳng định sự trường tồn, vĩnh hằng của Đất
Nước ở phương diện lịch sử “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm”. Từ đó dẫn dắt, khẳng
định nhân dân chính là người đã tạo ra Đất Nước vừa kỳ vĩ, vừa có bề dày lịch sự ở
những ý thơ rất hay “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/Chẳng mang một dáng
hình, một ao ước, một lối sống ông cha” cùng với “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi
đâu ta cũng thấy/Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”. Rất tha thiết, nồng đượm yêu
thương khẳng định Đất Nước đã được tạo nên bằng chính cuộc đời của các thế hệ cha
ông, bằng các dáng hình, những ước mơ, những phong tục tập quán đã in hằn trên
dáng vẻ của Đất Nước.„
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân tiếp tục được khẳng định thông qua phương diện
thời gian lịch sử. Trong suốt 4000 năm nhân dân đã chăm chỉ cần cù để xây dựng Đất
Nước, khi có chiến tranh thì người con trai lập tức ra trận bảo vệ Đất Nước. Còn
người con gái trở thành người chèo chống gia đình, nuôi con cái, thế nhưng mang
trong mình dòng máu Bà Trưng Bà Triệu, họ cũng trở nên mạnh mẽ kiên cường cả
trong chiến đấu. Sự anh dũng của ông cha ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm đã
khiến họ trở thành những người anh hùng lưu danh sử sách, thế nhưng bên cạnh
những con người hữu danh thì người ta thấy nhiều hơn là những con người vô danh
“không ai nhớ mặt đặt tên”. Dù không ai nhớ mặt đặt tên, thế nhưng những thế hệ sau
vẫn luôn trân trọng, yêu quý bởi họ chính là người làm ra Đất Nước.„
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”
Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người
làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị
văn hóa vật chất và tinh thần. Cha ông đã để lại cho con cháu nền văn minh nông
nghiệp lúa nước ngàn đời, truyền cho con cháu ngọn lửa sáng ngời sau bao năm tháng
sống trong tối tăm, lạnh lẽo. Truyền cho con thứ ngôn ngữ tiếng nói của riêng dân tộc
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
mình, giữ cho mình cái văn hóa làng, xã trong mỗi chuyến di dân, tạo dựng cơ sở vật
chất, đất đai để cho các thế hệ kế tiếp phát triển trên mảnh đất ấy.„
“Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Trên bình diện văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm cũng chỉ ra những nét đẹp riêng của tâm
hồn Việt, của văn hóa Việt. Vì “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần
thoại” thế nên khi nhìn vào kho tàng văn học dân gian đều thấy hiện lên diện mạo văn
hóa của Đất Nước, thấy được hình bóng của nhân dân những con người mang đậm nét
truyền thống của dân tộc. Tác giả đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp
tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa tiêu biểu” của dân tộc
Việt nói chung. “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, nét đẹp
say đắm trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở xung quanh mình. Tiếp
theo là câu “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”, từ
đó thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là những giá trị vật chất
tầm thường. Cuối cùng là câu tục ngữ “Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy
gặp đâu đánh què”, gợi ra vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của
nhân dân ta từ bao đời nay.„
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Kết lại đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng thì tác giả đã nêu lên
những cảm nhận rất tinh tế về vẻ đẹp của quê hương, của Đất Nước. “dòng sông” dù
có bắt nguồn từ đâu thì khi chảy đến mảnh đất quê hương cũng đều mang giọng hát
của Đất Nước, mang đậm bản sắc của dân tộc. Mỗi con người Việt Nam, trong công
cuộc mưu sinh, lao động trên cái dòng chảy ấy lại có những cách ứng xử khác nhau
rồi cuối cùng tạo nên một dòng chảy văn hóa kéo dài suốt 4000 ngàn năm văn hiến.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nguyễn Khoa Điềm qua đoạn trích Đất Nước với giọng văn chính luận trữ tình đã bộc
lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết của mình đối với đất nước trên
nhiều bình diện, địa lý, lịch sử, và bình diện văn hóa với tư tưởng bao trùm xuyên suốt
ấy là tư tưởng Đất Nước của nhân dân. Về nghệ thuật đoạn trích được viết theo lối quy
nạp, biểu hiện nội dung chính luận một cách trữ tình bằng cách mượn các chất liệu
văn hóa dân gian thân thuộc, mượt mà, êm ái, mang đến cho người đọc những xúc
cảm thẩm mỹ độc đáo. Giọng điệu xuyên suốt đoạn trích là giọng thơ tâm tình tình,
tha thiết, sâu lắng như giọng điệu của đôi lứa yêu nhau làm cho nội dung nghị luận
vốn khô khan trở nên mềm mại, ngọt ngào thấm sâu vào lòng người.
Phân tích Đất nước ngắn gọn - Mẫu 2
"Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông"
Đó là những câu thơ thiết tha của Chế Lan Viên khi nhắc về đất nước. Cùng viết về đề
tài đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có bài thơ "Đất Nước". Tác phẩm giúp người đọc
cảm nhận được cội nguồn, những nét đẹp của đất nước. Từ đó, nhắc nhở mỗi người
cần có trách nhiệm bảo vệ đất nước.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã giúp độc giả có những cảm nhận về cội nguồn đất nước:
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Câu thơ đầu tiên vang lên thật tự nhiên như một lời kể. Đất Nước có từ rất lâu rồi,
không ai biết mốc thời gian cụ thể. Đất Nước có từ khi "ta" lớn lên, có trong những
câu chuyện cổ tích, truyền thuyết mẹ thường hay kể. Những câu chuyện quen thuộc đó
lại dạy chúng ta bài học đạo lí như "ở hiền gặp lành", "ác giả ác báo". Không chỉ vậy,
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
đất nước còn có trong miếng trầu bà ăn. Hình ảnh giản đơn đó gợi đến "Sự tích trầu
cau" - câu chuyện xúc động về nghĩa tình vợ chồng, anh em gắn bó. Đất nước còn
được cảm nhận qua truyền thống chống giặc ngoại xâm bất khuất của cả dân tộc. Hình
ảnh cây tre tượng trưng cho con người Việt Nam và cũng là vũ khí chiến đấu của nhân
dân muôn đời. Đặc biệt, Đất Nước còn được cảm nhận trong tình nghĩa vợ chồng son
sắt, thủy chung. Ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã sử dụng cấu trúc "Đất Nước đã có",
"Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên", giúp người đọc hình dung được quá trình
phát triển và trưởng thành của đất nước. Từ đó, làm nổi bật cội nguồn đất nước. Đó là
những gì giản dị, thân thương nhất và hiện hữu xung quanh chính mỗi người.
Đến những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên mối quan hệ giữa đất
nước với mỗi cá nhân:
"Đất là nơi anh đến trường
…
Đều có một phần Đất Nước"
Đất nước gắn liền với "nơi anh đến trường", "nơi em tắm", "nơi ta hò hẹn". Đất nước
trong cảm nhận của tác giả gắn liền với những nơi quen thuộc, bình dị nhất. Không
chỉ vậy, đất nước còn gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền
thuyết các vua Hùng dựng nước. Điều này cho người đọc thấy được đất nước đã có từ
rất lâu rồi. Trong đoạn thơ trên, tác giả còn khơi gợi dòng chảy của thời gian từ quá
khứ, hiện tại cho đến tương lai. Từ đó, khơi dậy niềm tự hào về bề dày lịch sử đất
nước, về cội nguồn thiêng liêng của dân tộc. Đất nước không ở đâu xa mà hóa thân
trong mỗi con người "Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước". Sự
sống của mỗi cá nhân không phải chỉ là bản thân mà là của đất nước. Bởi mỗi người
Việt Nam đều được thừa hưởng một phần vật chất và tinh thần của đất nước.
Những câu thơ tiếp theo là lời nhắn nhủ thiết tha của tác giả:
Em em ơi
…
Làm nên Đất Nước muôn đời"
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Giọng thơ đầy ngọt ngào thiết tha của tác giả như một lời tâm sự, nhắn gửi chân tình
dành cho thế hệ trẻ cũng như bản thân mình. Đó là mỗi người cần có trách nhiệm
trong việc giữ gìn và làm cho đất nước sống mãi muôn đời.
Khổ thơ tiếp theo đó là tư tưởng đất nước là của nhân dân:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn khám phá và đậm chất nhân văn khi mà đặt phẩm
chất con người hóa thân vào những sự vật đất nước. Từ những con người bình dị "cặp
vợ chồng", "người học trò nghèo", "Ông Đốc" đến những vị anh hùng trong truyền
thuyết "Thánh Gióng", "Hùng Vương". Tất cả họ đều góp phần làm nên Đất Nước.
Hay từ những con vật bé nhỏ, gần gũi trong cuộc sống đời thường như "con cóc, con
gà" đến những loài vật linh thiêng trong tâm linh người Việt "con rồng, con voi" cũng
góp phần tô đậm vẻ đẹp của đất nước. Không gian địa lí đã đưa nhà thơ với những
phát hiện mới mẻ về vẻ đẹp của quê hương. Không chỉ vậy, nhà thơ còn nhìn nhận đất
nước ở phương diện chiều sâu lịch sử. Tác giả tự hào về phẩm chất cao đẹp của những
người anh hùng bình dị trong cuộc sống đời thường.
Đến những câu thơ cuối, nhà thơ đã nhấn mạnh về trách nhiệm của mỗi cá nhân trong
việc xây dựng đất nước:
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu?
…
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông sâu"
Ý thơ "Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu?/ Mà khi về Đất Nước mình thì bắt đầu
lên câu hát" được sử dụng để nhấn mạnh về đặc điểm riêng về địa lí Việt Nam. Ở câu
thơ cuối, từ "trăm màu" đã nhấn mạnh sự đa dạng, phong phú trong văn hóa dân tộc.
Vậy qua đây, nhà thơ nhấn mạnh Đất Nước từ nhân dân mà ra, do nhân dân mà có và
nhờ nhân dân mà tồn tại.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Bằng việc sử dụng các chất liệu của văn hoá dân gian đa dạng, sáng tạo, ngôn ngữ
giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc, thể thơ tự do, giọng thơ trữ tình - chính luận sâu
lắng, thiết tha, Nguyễn Khoa Điềm đã giúp cho người đọc cảm nhận được hình ảnh
Đất Nước ở nhiều phương diện như lịch sử, địa lí. Từ đó, nhấn mạnh trách nhiệm của
thế hệ trẻ với quê hương, đất nước.
Phân tích Đất nước học sinh giỏi - Mẫu 3
Con người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy
trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc.
Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ,
bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một
trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca
Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất
nước.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc
đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng
nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách
nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca Mặt đường
khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Đất
nước thuộc chương V của bản Trường ca mang đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ về
hình hài của Đất nước.
Mở đầu bài thơ, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất nước
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
….………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó…”
Tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu đời, khi mà con người
mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương. Đất Nước
ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận bây giờ. Đất nước
trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân
thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời hát mẹ ru, từ những
câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn, làm ta
hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành một phần kí ức tốt đẹp
khiến ta không thể quên. Nhai trầu từ lâu đã trở thành một thói quen không thể thiếu
của những người phụ nữ Việt Nam nhất là các bà, các mẹ và từ lâu dân gian ta đã có
câu chuyện sự tích trầu cau nói về tình nghĩa con người. Từ những năm tháng trước
công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ
đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết
Thành Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre giơ cao đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là hình
ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất
phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất.
Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến
những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam
:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liên với mái tóc dài, được búi
gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, người mẹ, người chị, của một
người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng.
Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc
sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong con người như
câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau
lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.
Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa
Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân: Từ xa xưa, con
người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ
ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui
nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước. Ngôi nhà là mái ấm, là nơi con
người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn thành sự phát triển đất nước.
Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù
chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay – giã – dần –
sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân
phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả gieo cấy, chăm sóc, xay giã và
giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người
nông dân vất vả nắng mưa. Thành quả ngọt ngào này không chỉ giúp dân ta có đời
sống no ấm mà nó còn trở thành nền văn minh lúa nước mà khi nhắc đến người ta biết
ngay đến Việt Nam; không chỉ dừng lại ở đó, nền văn minh này đã giúp cho nước ta
trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế giới và toàn cầu biết đến lúa gạo Việt
Nam.
Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó…” Ngày đó là
ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó
chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn
hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt
Nam.
Tiếp nối sau khẳng định Đất nước là của nhân dân, tác giả định nghĩa về Đất nước vô
cùng độc đáo:
“Đất là nơi em đến trường
.…………………………..
Cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Đất nước không chỉ được cảm nhận bằng không gian địa lí hay chiều dài lịch sử mà
Đất nước còn được cảm nhận bằng không gian sinh hoạt vô cùng gần gũi, thân thuộc.
“Đất” gắn liền với hình ảnh, hoạt động của người con trai, “nước” gắn với vẻ đẹp của
người con gái nhưng hai tiếng Đất nước lại hợp thành tình yêu đôi lứa mặn mà. Đất
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
nước cũng là nơi để họ hẹn hò, trao nhau những yêu thương mùi mẫn, những kỉ niệm,
những nhớ thương, mong mỏi của thời gian xa cách.
Người xưa có câu: “Đất lành chim đậu”, đất là nơi chim bay về làm tổ, nước là nơi
con cá vùng vẫy giữa đại dương mênh mông. Ngần ấy năm lịch sử là quãng thời gian
dài hình thành nên sự trù phú của thiên nhiên, làm giàu cho đất nước để từ đó Đất
nước trở thành nơi con người đoàn tụ làm ăn sinh sống và làm nên truyền thuyết Lạc
Long Quân và Âu Cơ cùng bọc trăm trứng trở thành những thế hệ đầu tiên của đồng
bào ta.
Từ những lí giải, cảm nhận trên về Đất nước, tác giả nhắn nhủ đến những thế con
người dù đi trước, dù đi sau, dù ở bất cứ thời đại, hoàn cảnh nào cũng phải nhớ về cội
nguồn, biết ơn cội nguồn và nhớ về ngày giỗ tổ Hùng Vương - người đã có công gây
dựng nền móng nhà nước đầu tiên để có Đất nước bây giờ.
Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận dựa trên bề rộng của không gian địa lí,
chiều dài của lịch sử, bề dày của truyền thống văn hóa, Đất Nước thống nhất giữa cái
hằng ngày với cái muôn đời trong cuộc sống cộng đồng, sự hòa quyện không thể tách
rời giữa nhân dân và cộng đồng.
Sau những nhận định, lí giải Đất nước trên những phương diện khác nhau, tác giả nêu
lên trách nhiệm của con người đối với Đất nước:
“Trong anh và em hôm nay
……………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Đất nước dường như là một phần máu thịt của mỗi con người. Đất nước của tình yêu
đôi lứa là một đất nước hài hòa, nồng thắm. Đất nước của cả dân tộc đoàn kết là đất
nước vẹn tròn, to lớn có sức mạnh chống lại mọi thế lực kẻ thù. Qua đây, tác giả thể
hiện niềm tin yêu của mình vào thế hệ con cháu mai sau, rồi chúng sẽ mang đất nước
mình sánh vai với các cường quốc năm châu, rồi chúng sẽ phát triển đất nước này đến
những tháng ngày mà hiện tại ta đang mơ mộng.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang
dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là
máu xương của mình” để từ đó, tác giả nêu lên trách nhiệm của mỗi con người với
Đất nước, phải biết gắn bó và san sẻ với những mảnh đời bất hạnh, phải biết hi sinh,
hóa thân để giữ vững dáng hình xứ sở để Đất nước này tồn tại muôn đời.
Đoạn thơ thể hiện cái tôi suy tư đầy ý thức trách nhiệm của tác giả: mỗi con người
không phải chỉ sở hữu riêng của cá nhân người đó mà còn là của chung của đất nước.
Bởi chúng ta đều được thừa hưởng những di sản văn hóa, tinh thần của đất nước và
được nuôi dưỡng trưởng thành trong di sản đó. Vì vậy mỗi người đều phải có trách
nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy nền văn hóa ấy. Từ đây, ta thấy rõ hơn cách cảm
nhận, cái nhìn Đất Nước toàn vẹn, tổng hợp đa chiều của Nguyễn Khoa Điềm (địa lí,
lịch sử, văn hóa, phong tục, truyền thống tinh thần của dân tộc trong đời sống hằng
ngày, biến cố lịch sử…).
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
….………………………………………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất
liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự
tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của
người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng
chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương,
gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh.
Không chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh
cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh
Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập
cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần
của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu truyện, những sự tích, truyền thuyết
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự
hào vô bờ bến của chúng ta.
Chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học.
Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh
dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi
tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học
tập và noi theo.
Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé: những quả núi hình con
cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn
núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên
ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao
đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước
này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn
bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm,
những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi
vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này.
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
….…………………………………..
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Đến đây, Nguyễn Khoa Điềm không điểm qua các triều đại, các anh hùng nổi tiếng
mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị nhưng dũng cảm, kiên
cường. Họ là những “con gái, con trai, không ai nhớ mặt đạt tên, giản dị và bình tâm”
cần cù, chăm chỉ làm lụng gây dựng cuộc sống tốt đẹp. Khi nước nhà có giặc, họ lại
đứng lên chiến đấu anh dũng, mạnh mẽ một lòng một dạ cùng nhau đoàn kết lấy lại
độc lập dân tộc. Họ có thể là những con người vô danh, không ai nhớ mặt đặt tên
nhưng chính họ là người giữ vững non sông này để có chúng ta ngày hôm nay. Không
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
chỉ trên mặt trận chiến đấu mà họ còn là những anh hùng của đời thường. Những
người vô danh đó đã giữ và truyền lại giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất
(văn minh lúa nước đã truyền lửa quanh mỗi nhà, tiếng nói, gánh theo tên làng xã, đắp
đập be bờ). Điệp cấu trúc “họ…” đã gợi ra lớp lớp những con người nối tiếp nhau, giữ
gìn và truyền lại cho các thế hệ sau giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp.
Đến đây, tác giả khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân: Đất Nước này, của nhân
dân, do nhân dân làm ra gắn với những câu ca dao, thần thoại từ lâu đời, cội nguồn
dân tộc, văn hóa dân gian. Đồng thời, tác giả cũng gửi gắm những bài học quý giá:
anh em nên biết đoàn kết, yêu thương nhau từ thuở nằm nôi; biết quý trọng công sức
những ngày gian khổ; biết nuôi ý chí mà đánh đuổi giặc ngoại xâm. Qua đây, tác giả
một lần nữa khẳng định vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của thế hệ những con người Việt
Nam và chất “tình” có ở khắp mọi nơi trên đất nước này.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian cùng với
ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình, tác giả
Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn
của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của truyền
thống, của phong tục tươi đẹp. Đồng thời, tác giả thể hiện rõ nét tư tưởng Đất nước
của nhân dân qua ba chiều cảm nhận: địa lí, lịch sử và văn hóa vô cùng tinh tế, sâu
sắc.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với trường ca “Mặt đường khát vọng”
vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ,
đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau
này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất nước
đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước này.
Phân tích Đất nước Nguyễn Khoa Điềm - Mẫu 4
Ai đó cũng đã từng hỏi lòng có mối tình nào lẳng lặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?
Để đáp lời những câu hỏi ấy thì đã có rất nhiều những vần thơ cất cánh. Chúng ta thấy
hình ảnh đất nước đau thương quật cường căm hờn vùng lên đấu tranh huy hoàng
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
trong thơ Nguyễn Đình Thi, ta thấy Lê Anh Xuân với Dáng đứng Việt Nam bay lên
bát ngát mùa xuân, với Xuân Diệu là “tổ quốc tôi như một con tàu” thì đến năm 1971
Nguyễn Khoa Điềm cũng đã góp thêm một ý thơ hay về đề tài đất nước. Đó là bài thơ
Đất nước.
Tác phẩm Đất nước ra đời cùng với trường ca Theo chân bác (Tố Hữu), Bài ca chim
chơ Rao (Thu Bồn)… Song các bản trường ca này triển khai cảm xúc xoay quanh câu
chuyện về cuộc đời một nhân vật anh hùng. Riêng với trường ca Mặt đường khát vọng
của Nguyễn Khoa Điểm lại triển khai cảm xúc theo quá trình vận động ý thức của một
tầng lớp tuổi trẻ thành thị Việt Nam được thức tỉnh trước hiện tại đất nước để nhìn rõ
kẻ thù và ý thức về trách nhiệm của thế hệ mình vực dậy con đường đấu tranh hòa
nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi....
Đất Nước có từ ngày đó ...”
Đoạn thơ với giọng nhẹ nhàng, thủ thỉ đã đưa ta về với cội nguồn của đất nước . Đất
nước có từ ngày tháng năm nào không ai rõ ,chỉ biết rằng:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ ngày xửa ngày xưa...”mẹ thường hay kể”
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc“
Khi lí giải về cội nguồn đất nước, tác giả lí giải đất nước gắn liền với mỹ tục thuần
phong , với cổ tích truyền thuyết, với tập tục ăn trầu , búi tóc ; với truyền thống cần cù
lao động, anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm, được hình thành từ lối sống giàu
tình nghĩa “ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Lời thơ như lời kể , hình
ảnh giản dị, gần gũi và tác giả vận dụng yếu tố văn hóa dân gian để lí giải cội nguồn
đất nước thân thuộc, gần gũi và có ngay trong mỗi một gia đình bình dị, gần gũi
nhưng thật thiêng liêng.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Tiếp theo là cách tác giả cảm nhận đất nước về phương diện địa lí , lịch sử và nhắn
nhủ ý thức cội nguồn dân tộc. Về phương diện địa lí , tác giả cảm nhận :
"Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “
Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Tác giả định nghĩa rất cụ thể “ Đất là ....., Nước là..... và tổng hợp Đất nước là ....Đất
nước được cảm nhận là những không gian gần gũi, gắn bó như nơi ta hò hẹn, nơi em
đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “
Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Quả đúng, đất nước bắt nguồn từ tình yêu bé nhỏ nhất rồi lớn dần lên đến hùng vĩ ,
thiêng liêng hợp nhất, thống nhất toàn vẹn.Về phương diện lịch sử thì đất nước là nơi
dân mình đoàn tụ.
"Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"X
Đất nước là không gian sinh sống của cộng đồng dân tộc ta qua bao thế hệ từ thời Lạc
Long Quân và Âu Cơ sinh ra đồng bào ta trong bọc trứng cho đến nay và cả mai sau
vẫn là không gian tồn tại, phát triển, trải rộng trên một không gian mênh mông. Từ
cách cảm nhận đó nhà thơ nhắn nhủ phải có ý thức cội nguồn dân tộc, hay thế hệ đi
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
sau phải biết nhớ ơn thế hệ đi trước hướng về đất Tổ , nhớ đến dòng giống Rồng Tiên
của mình.
"Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ".
Bằng cách diễn đạt bình dị, vừa hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi đoạn thơ không chỉ
thể hiện cảm nhận về đất nước mà còn thể hiện tình yêu nước tha thiết của tác giả và
lời nhắn nhủ của tác giả với tất cả cháu con. Đất nước gần gũi và gắn bó thân thiết với
anh , với em, với mọi người:
"Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước"
Với giọng thơ tâm tình , ngọt ngào như lời của đôi lứa yêu nhau tác giả khẳng định
con người là hạt nhân làm nên đất nước, hay mỗi con người là một phần tử của cộng
đồng, đất nước bằng sự gần gũi, yêu thương và tự hào.
"Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Đất nước nằm trong chính không gian sống với tất cả thân thương, trìu mến. Chính vì
thế mà:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn.”
Khi đôi lứa giao duyên, yêu thương cũng là khi đất nước nhỏ được dựng xây để cùng
vun lên đất nước to lớn. Khi chúng ta cầm tay mọi người – mọi người có cầm tay
nhau,yêu thương giúp đỡ lẫn nhau - có đoàn kết, yêu thương đồng bào thì mới tạo nên
sức mạnh cho đất nước “vẹn tròn to lớn để làm nên lịch sử dân tộc và đất nước .
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông chèo lái xây dựng đất nước ngày càng
tươi đẹp, ngày càng cường thịnh, văn minh . Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm :
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời".
Nhà thơ cất lời gọi yêu thương “ em ơi em” để nhắn nhủ đất nước là mồ hôi xương
máu của tổ tiên, của dân tộc ngàn đời. Vì vậy mà “phải biết “ gắn bó, san sẻ, hóa thân
cho dáng hình đất nước – phải biết đoàn kết, chia sẻ và cống hiến, hi sinh cho đất
nước . Ngay trong hoàn cảnh chống Mĩ quyết liệt, lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm là
hồi trống đánh thức tinh thần quyết chiến của mỗi cá nhân để giành và giữ đất nước.
Nhà thơ gieo vào từng vần thơ ca ngợi đất nước:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu....
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...."
Đoạn thơ ngợi ca đất nước hùng vĩ, khẳng định những phẩm chất cao đẹp về quê
hương đất nước, con người Việt Nam của tác giả. Đất nước hùng vĩ với danh lam
thắng cảnh đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn rất
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
nhân văn là núi ấy, hòn ấy góp phần làm đẹp thêm cho đất nước. Dường như, lứa đôi
hạnh phúc ấm êm đã dựng xây cho đất nước thêm kì vĩ, lớn lao.
Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp đất nước về mặt lịch sử và truyền thống:
"Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương"
Cái “ gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho nước non bao ao đầm ở vùng Hà Bắc
ngày nay. Chín mươi chín con voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng
“góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”. Những từ ngữ “ đi qua còn để lại”, “ góp mình
dựng” thật bình dị mà đáng tự hào biết bao, tự hào về sự thiêng liêng của đất nước.
Đất nước có núi cao, biển rộng, sông dài, có Sông Hồng “ đỏ nặng phù sa”, có Cửu
Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa mà tác giả ví như con
rồng.
"Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm"
Những con rồng “nằm im” từ bao đời nay mà người dân Nam Bộ mến yêu có “ dòng
sông xanh thẳm” với nước ngọt phù sa, tôm cá,...là hình ảnh đất nước tươi đẹp, con
người Việt Nam tài hoa và chịu thương chịu khó. Ngắm núi Bút non Nghiên Nguyễn
Khoa Điềm không nói đến “ địa linh nhân kiệt” với tinh thần tôn sư trọng đạo của
nhân dân ta.Những học trò nghèo góp cho đất nước mình Núi Bút, non Nghiên. Hạ
Long trở thành kì quan , thắng cảnh là nhờ có “Con cóc, Ông Đốc, Ông Trang …làm
nên. Nhà thơ ngợi ca đức tính cần cù , siêng năng, dũng cảm “làm nên đất nước muôn
đời”. Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại được nhà thơ nhắc đến thể
hiện niềm tự hào và biết ơn đất nước cùng Nhân dân của tác giả về phẩm chất của con
người : trí tuệ, trung hậu, cần cù, anh dũng,.... Chính những vẻ đẹp của nhân dân làm
cho non sông gấm vóc thêm giàu đẹp.
Sau tám câu thơ là giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào . Bằng giọng văn chính luận
kết hợp với chất trữ tình đằm thắm.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....”
Bốn câu thơ là dáng hình đất nước hiện lên vừa mộc mạc, đơn sơ vừa thân thương,
gần gũi với đồng lúa, nương ngô.... Đất nước với tất cả đơn sơ ấy là dáng hình mà cha
ông hằng mong ước, hằng gây dựng. Dường như con người là hạt nhân to lớn nhất để
đất nước thêm muôn hình muôn vẻ, thêm đẹp và thêm tươi. Như vậy, qua hình tượng
đất nước tác giả ngợi ca tâm hồn nhân dân, bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Việt Nam
và bày tỏ lòng yêu mến, tự hào về quê hương đất nước.
Tư tưởng đất nước của nhân dân được tác giả nhắc đến qua từng câu chữ:
“Em ơi em.......
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Mở đầu đoạn thơ là lời gọi thân thiết, ngọt ngào “ Em ơi em” hãy nhìn về bốn nghìn
năm đất nước, nhìn lại quá khứ của nhân dân, đất nước với 4000 năm văn hóa gắn liền
với những con người Việt Nam cần cù trong lao động và anh hùng trong chiến đấu:
“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Giọng thơ vừa tâm tình vừa khẳng định truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam
với tám chữ vàng: kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
“Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước , có những con người đã hy sinh thầm
lặng mà tác giả không bao giờ quên :
“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ làm ra Đất Nước”
Chính nhân dân là người có công lớn trong sự nghiệp hôm qua, hôm nay và cả mai
sau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà , từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Tác giả sử dụng phép lặp, hình ảnh cụ thể và giàu sức gợi cảm càng khẳng định sức
mạnh của nhân dân trong sáng tạo, giữ gìn những giá trị vật chất và tinh thần của đất
nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tác giả khẳng định:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Bằng giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng tác giả khẳng định nhân dân đóng vai trò
chủ thể trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải chăng tác giả đang nhắc
nhở mỗi người dân ý thức trách nhiệm, tinh thần yêu nước và lòng tự tôn dân tộc.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
"Dạy anh “ biết yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu"
Vận dụng sáng tạo văn học dân gian để gợi nhắc và khẳng định các truyền thống cao
đẹp của nhân dân ta: say đắm trong tình yêu, anh hùng trong chiến đấu. Điều đó chính
là sức mạnh cho đất nước để chiến thắng và tiến lên. Nhà thơ ý thức được cội nguồn
sức mạnh của nhân dân nên hy vọng, tin tưởng:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Giọng thơ tâm tình tha thiết , vận dụng sáng tạo các yếu tố văn học dân gian , ý tưởng
đẹp, cảm xúc chân thành tác giả đã thể hiện cả niềm tự hào, tình yêu tha thiết với quê
hương đất nước.
Như vậy, bằng việc sử dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo, cách diễn đạt bình dị, hiện đại
gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc kết hợp giọng thơ trữ tình –
chính trị tha thiết, sâu lắng và giàu chất suy tư Nguyễn Khoa Điềm nhắc nhở lớp lớp
thế hệ trẻ hôm nay phấn đấu hơn nữa vì đất nước muôn đời và hãy nhớ:
“Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta mà phải hỏi ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”
Phân tích Đất nước - Mẫu 5
Từ xưa đến nay viết về đất nước luôn là nguồn mạch cảm hứng chủ đạo của nền văn
học. Tiếp tục mạch nguồn của văn học dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm một gương mặt
nổi bật của văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những quan điểm hết sức mới mẻ về
đất nước. Quan điểm đó đã được ông thể hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích Đất nước
thuộc trường ca Mặt đường khát vọng.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất nước đối với mỗi người là một ý niệm khác nhau. Đối với Nguyễn Khoa Điềm
cũng vậy, bằng sự cảm biết của mình, sự phân tích bằng tư duy logic, lần lượt từng
lớp lang của khái niệm đất nước đã được ông dần dần lật mở. Ông không định nghĩa
bằng những khái niệm quá mông lung, trừu tượng mà đi từ những điều hết sức cụ thể
trong chính cuộc sống:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc
Qua khái niệm của tác giả, Đất Nước hiện lên thật bình dị, đất nước có từ những câu
chuyện cổ tích, từ miếng trầu, từ truyền thuyết thánh Gióng trồng tre đánh tan quân
xâm lược Ân. Đất Nước ta có từ ngày đó, thấm thuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ tấm
bé.
Không chỉ vật Đất Nước còn được hình thành từ thuần phong mỹ tục, từ những nét
văn hóa, truyền thống đẹp đẽ của dân tộc ta. Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho
thấy nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa đã được bảo lưu từ ngàn đời của ông cha ta. Dù
một nghìn năm Bắc thuộc, bị phương Bắc tìm mọi cách Hán hóa ấy vậy nhưng không
có cách nào xóa được những vốn văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta. Đất Nước cũng được
hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung mà khởi nguồn chính là mối quan
hệ vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở đây Nguyễn Khoa
Điềm có sự vận dụng hết sực thuần thục ca dao: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/
Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất Nước được hình thành từ
những điều tưởng như giản dị mà hết sức thiêng liêng, cao quý.
Tiếp tục mạch cảm hứng đó, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất
Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất Nước không xa lạ mà chính là không gian sinh tồn, gần gũi với đời sống sinh hoạt
của tất cả chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm đã không hoa mỹ, không ngần ngại mà làm
sáng tỏ nó là nơi đến trường, nơi tắm, nơi hò hẹn, nơi nhớ nhung. Vâng, Đất Nước
chính là được hình thành từ những điều dung dị nhất của cuộc sống. Và để làm sâu sắc
thêm khái niệm, ông đã truy nguyên nguồn gốc từ quá khứ: “Đất Nước là nơi dân
mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ
đồng bào ta trong bọc trứng”. Từ sự lí giải sâu sắc hai phương diện lịch sử và địa lý
ông đã dần dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm Đất Nước. Đồng thời từ đó cũng nêu lên
trách nhiệm của mỗi con người đối với đất nước: “Những ai đã khuất/ Những ai bây
giờ/ yêu nhau và sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn dò con
cháu việc mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai
từ “gánh vác” đã khẳng định trách nhiệm của thế hệ mai sau đối với công cuộc dựng
nước và giữ nước. Đồng thời ông cũng lên tiếng nhắc nhở, dù xây dựng đất nước cũng
không được quên đi công ơn của người đã dựng xây, kiến tạo nên Đất Nước. Chỉ với
hai chữ “cúi đầu” cũng đã cho thấy tấm lòng thánh kính thiêng liêng hướng về quê
cha, đất tổ.
“Trong anh và em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”, đoạn thơ đã khẳng định,
Đất Nước được tồn tại và vững bền là bởi sự đoàn kết của mọi người, là sự yêu
thương của đôi lứa. Chỉ khi có sự hòa hợp giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và
tập thể thì khi ấy mới có đất nước vẹn tròn ton lớn. Và từ đó ông nêu lên trách nhiệm
của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước: “Em ơi em đất nước là
máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ
sở/ Làm nên đất nước muôn đời”. Vì bởi:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Những người dân nào đã góp nên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Hàng loạt những địa danh, danh lam thắng cảnh được ông gọi tên. Mỗi địa danh ấy
gắn liền với một chiến tích, với một sự hy sinh thầm lặng để làm nên đất nước muôn
đời. Cũng bởi vậy, đã khiến ông rút ra kết luận: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò
bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
Để làm nên đất nước chắc chắn không thể là một cá nhân có thể kiến tạo của nền văn
hóa, truyền thống và lịch sử dân tộc. Vậy đó là ai, là những người nào?
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Quả đúng, đó chính là người vô danh, họ là những người con gái con trai, họ“đã sống
và chết” “giản dị và bình tâm” họ đã mang tên làng tên xã, mang phong tục tập quán
truyền lại, bảo lưu cho thế hệ mai sau. Chính họ là người đã làm nên Đất nước. Với
biện pháp liệt kê và điệp “họ” Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mặt người đọc tầng
tầng lớp lớp những con người vô danh nối tiếp nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác
truyền lại cho con cháu những giá trị vật chất tinh thần cao quý nhất. Và điều họ
hướng đến chính là:
Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Đến đây Nguyễn Khoa Điềm đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm tư tưởng đất nước
nhân dân của mình. “Trở về với nguồn cội của Đất Nước cũng là trở về với cội nguồn
phong phú, đẹp đẽ là văn hóa dân gian” khởi thủy của mọi truyền thống văn hóa tốt
đẹp của nhân dân ta. Đồng thời đó cũng là nơi làm nên, khơi dậy nên truyền thống văn
hóa tốt đẹp của nhân dân ta:
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Bài thơ kết lại bằng tiếng hát tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng
khắp núi sông. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho thấy niềm tự hào sâu sắc của tác giả
đối với vốn truyền thống văn hóa ngàn đời của cha ông để lại.
Đất Nước là bài thơ giàu suy tư và triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, rất mới mẻ của
Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại được mở mang thêm
tri thức, lại có thêm một cách nhìn nhận về Đất Nước trong chiều dài lịch sử. Từ đó
cũng càng thêm yêu mến, tự hào với nơi mình được sinh ra và lớn lên.
Phân tích Đất nước - Mẫu 6
Đất nước – đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết
bao văn nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh, tình yêu đối với đất nước lại
càng tỏa sáng và rực cháy trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Đoạn trích "Đất nước"
của Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong bối cảnh ấy.
Khi nhắc đến văn chương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta biết những nhà
thơ trong thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật... họ viết
về hào khí của cả một dân tộc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”
Một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể
đến một nhà thơ đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định
thắng lợi của dân tộc – đó là Nguyễn Khoa Điềm.
Khi nói đến Nguyễn Khoa Điềm, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương
đều không thể quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ
Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể
hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất nước” thuộc
chương V của “Trường ca mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu
Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.
Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân
bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý
chiều dài của lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những
câu hỏi “Đất nước này là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời?" Để trả
lời cho những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi
tìm về cội nguồn của đất nước.
Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn
hóa là những giá trị mà con người ở 1 vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần
cũng có thể là giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam
không chỉ ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền và bảo vệ cho nhau những hạt
giống dân ta, những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của con người Việt Nam được truyền
từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người già sang lồng ngực của người trẻ, đó là
vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta. Đất Nước bắt đầu từ một cách trang
trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển
của đất nước trong trường kì lịch sử, đất nước tựa như một sinh mệnh sống với nội lực
mãnh liệt. Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp
phần khắc họa đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha,
đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt
trong kí ức của mỗi con người.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”
Nhà thơ ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta
về miền cổ tích diệu kì từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, đùm
bọc, chở che nhau.
“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”
Đó là tục nhuộm răng, tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao
tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già
Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện ca dao, cổ tích đến
tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện
thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc. Tiếp đến, nhà thơ như
một người hướng dẫn đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ
bụi tre ngà đánh tan giặc Ân.
“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại 1 lần mà còn xuyên suốt 90
câu thơ hình ảnh này được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho truyền thống yêu
nước, đánh giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ
truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức
mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt
đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, rạo rực niềm tin,
niềm tự hào dân tộc.
Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất
triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng
những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc,
bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến
chúng ta nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ VN truyền thống.
Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa dãi nắng. Hạt thóc, hạt
gạo thấm mồ hôi, thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao những thế hệ. Đất nước lớn lên từ
những gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng
cay muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng
đá, là lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” nói đến tục đặt tên con xấu cho dễ nuôi. Thủ pháp
nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã,
giần, sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo - một đất nước có nền văn minh lúa
nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ
truyền cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho
con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.
Và chính nhân dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét
đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả nhận ra: “Đất Nước có từ ngày
đó...”, ta không biết ngày đó là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng
đất nước có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong
tục tập quán, từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng
liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng đất nước.
“Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy
là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng
tre đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu
thương, thủy chung.
Như đã nói ở trên, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là
một trong những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của mảnh đất hình tia chớp. Trước hết,
khi nói về chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố
về mặt tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết
chiều dài của mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và vùng đất trên lãnh thổ
Việt Nam.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất NướcNhững núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Ấn tượng ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong
không gian cổ tích diệu kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như
“núi vọng phu”, hay “hòn Trống Mái”.
Một lần nữa tác giả như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù
Đổng nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống
yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có
chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng điệp
từ “góp”.
Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan đối
lập. Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại
ngùng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy
những sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca
ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là
một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại là
cuộc đời của những con người. Nhân dân làm nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng
thủy chung, là những anh hùng, những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, là
những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm...
Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những
hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta
đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín
mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” phúc quanh núi Hy Cương hay
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là thế,
đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây
dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự
kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc: góp phần
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, góp sự đoàn
kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ
chúng ta mới có được một đất nước hữu hình – đất nước của những anh hùng.
Nguyễn Khoa Điềm có nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói
“đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng,
không thể làm tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc
nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của
các địa danh đó vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có
tên tuổi, có linh hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của
nhân dân. Có thể nói, tám câu thơ đều đã giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế
hệ trước. Nó giống như một bông vàng chói lọi mà tổ quốc gọi công cho nhân dân –
người đã hi sinh để làm nên tác phẩm kỳ diệu là nhân dân ta.
Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất
thơ thì bốn câu thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói
chính luận xen lẫn sự trầm ngâm của một trí thức.
Trước hết ta đến với hai câu thơ:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng định. Nó
giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ
những hi sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn
nghìn năm đi đâu ta cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ
như không giấu nổi lòng mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại
của nhân dân.
Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn
nghìn lớp cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập dân tộc. Kết thúc đọan thơ là một câu
thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...” bởi có sự chuyển đổi.
Những câu thơ trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở
câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc
kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng
như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ
như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng
nhất là câu thơ thật hàm súc.
Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi
sông ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi
phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên
hình hài đất nước mà còn làm nên linh hồn đất nước.
Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của
lịch sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan
đại thần dưới triều Lê, ông là một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi
nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà
sử gia chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi
phẩm này ta phải kể đến:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”
Nếu như Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính
thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy
sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp
người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp
con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức
của người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không
nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của
những con người vô danh:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời
họ:
“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất
đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các
thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân
tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống
chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người
yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ “Báng
súng”:
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.
Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để
viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt
của nhân dân. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài
thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng
Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”
Không một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng
những con người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để
“Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.
Hay như triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và
nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt
lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
là Đất Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã
trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu
là ca dao, vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao,
dân ca, truyện cổ : Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại. Câu thơ
hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc
đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân
sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã
hội, văn hóa của Đất Nước, đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân.
Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn
mà chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở
thành một câu thơ, một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó khẳng
định: Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu.
Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân
gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen
thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo
nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi,
hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua
cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã
thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo
của đoạn thơ này.
Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ
Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với cảm
xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã
làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một
tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào vể Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử.
Qua đó ta có thể thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá, “Đất nước này là của
nhân dân”, sẽ do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
đã chưng cất, lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình, vẻ đẹp duyên dáng nhuần
nhị của những thi liệu văn hóa văn học dân gian. Sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau như sự tan chảy của dòng cảm xúc, sự miên
man của dòng suy tưởng. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ 2 chữ “Đất nước” luôn được viết
hoa 1 cách trang trọng, lặp đi lặp lại tựa như 1 nốt chủ âm trong bản trường ca về non
sông gấm vóc. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân
tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo lối
trường ca, kể lể, liệt kê, khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể
hiện trong tác phẩm này ông xứng đáng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của
văn chương Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành
trang tinh thần của người yêu văn chương suốt bấy nhiêu lâu nay về đề tài tình yêu
quê hương, tình yêu đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay.
Phân tích Đất nước - Mẫu 7
Từ sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta đã phải tiến hành liên tiếp
hai cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược để gìn
giữ nền độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Trong suốt ba mươi năm ấy, vận mệnh
của đất nước luôn luôn là vấn đề lớn lao, nóng bỏng và chi phối mọi lĩnh vực của đời
sống dân tộc và mỗi con người Việt Nam. Vì thế, cũng là lẽ tự nhiên, tình cảm yêu
nước đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong thơ ca hiện đại Việt Nam, tiếp nối một
truyền thống sâu đậm của văn học dân tộc từ ngàn xưa. Tình cảm yêu nước được biểu
hiện trong thơ ca ta thống nhất nhưng cũng rất đa dạng, phong phú tùy theo hoàn cảnh
sáng tác, tâm trạng cụ thể của từng nhà thơ. Trường ca Mặt đường khát vọng được
viết giữa những năm tháng hào hùng cả toàn quân, toàn dân ta đang tập trung sức lực,
tập trung trí tuệ để chiến thắng đế quốc Mĩ, có vai trò không nhỏ của tầng lớp tuổi trẻ
học sinh, sinh viên các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam đang thức tỉnh, siết chặt
đội ngũ xuống đường. Tầng lớp này cũng có nhiều tâm tư, nhiều suy ngẫm về thế hệ
mình, về đất nước. Từ góc độ đó, ở Đất Nước, chương V của bản trường ca Mặt
đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã định nghĩa, cảm nhận ngợi ca vẻ đẹp nhiều
mặt của đất nước, trình bày ý thức trách nhiệm đối với vận mệnh dân tộc giữa cơn thử
thách lớn của lịch sử.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Hình tượng đất nước, trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, gắn với những nhân
vật, hình ảnh hết sức cụ thể với những sinh hoạt rất đỗi thường ngày của mỗi chúng ta.
Tình yêu lớn lao nhưng không hề xa xôi, trừu tượng mà được khơi gợi từ những sự
vật, sinh hoạt gần gũi, từ những phong tục văn hóa có tự ngàn xưa. Đất nước có trong
những câu chuyện cổ tích mẹ thường hay kể cho ta từ tuổi bé thơ, trong miếng trầu
bây giờ bà ăn, trong lũy tre làng bao đời thành lũy thành chông cho dân mình đánh
giặc. Đất nước gắn cùng tục búi tóc sau đầu, câu ca dao gừng cay muối mặn, gắn cùng
cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương. Cảm nhận đất nước từ những cái bình
thường quanh ta đã dẫn Nguyễn Khoa Điềm đến biện pháp nghệ thuật chiết tự. Từ
ghép đất nước được tách thành đôi để nhà thơ định nghĩa thật cụ thể từng thành đôi.
Đất và Nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khai
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Dòng suy tưởng đưa Nguyễn Khoa Điềm trở về quá khứ, với huyền thoại Lạc Long
Quân và Âu Cơ khẳng định cội nguồn thống nhất của con người Việt. Đất nước
trường tồn trong thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Vậy là những hình ảnh,
sự vật trên rất đỗi bình thường, nhưng đâu phải tầm thường; trong đó ẩn chứa sâu xa
chiều dài lịch sử, truyền thống văn hóa với bao phong tục tập quán tốt đẹp của dân
tộc. Gợi lên truyền thống lịch sử - văn hóa vững bền, không gian địa lí mênh mông
của đất nước từ những điều giản dị, thường ngày, đó là thành công đặc biệt của
Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này. Đất nước là đời sống, là hơi thở hàng ngày của
mỗi chúng ta. Đất nước là sông bể mênh mông, núi rừng hùng vĩ. Đất nước trải suốt
chiều dài lịch sử từ truyền thuyết Hùng Vương đến đạo lí Hàng năm ăn đâu làm đâu -
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết
kể chuyện cổ tích, có tục ăn trầu... Ai biết được tự bao giờ con người Việt Nam biết
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
làm bạn với cây tre, với cái kèo, cái cột... Đằng sau những điều giản dị ấy là truyền
thống lịch sử - văn hóa lâu đời, bền vững của đất nước Việt Nam ta. Từ góc độ đời
sống cá nhân, nhà thơ nói được cả cuộc sống cộng đồng, đưa đến cho người đọc cảm
nhận toàn vẹn, tổng hợp về vẻ đẹp đất nước.
Làm nên truyền thống lịch sử - văn hóa độc đáo, vững bền của đất nước chính là bao
thế hệ nhân dân. Bởi thế, lòng yêu nước của Nguyễn Khoa Điềm ở đoạn trích này gắn
liền cùng lòng yêu nhân dân, cùng niềm tự hào về vai trò to lớn của nhân dân. Đất
Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng nổi bật, xuyên suốt đoạn trích Đất Nước này
và chính ngay cách cảm nhận đất nước từ những điều bình dị, gần gũi như trên sẽ tự
nhiên dẫn đến tư tưởng ấy.
Có lẽ chưa bao giờ như trong thời đại dân tộc Việt Nam ta đánh Mĩ, vai trò to lớn, sức
mạnh vô địch của nhân dân được thể hiện đầy đủ đến thế. Cuộc đối chọi quyết liệt với
một kẻ thù giàu có và hung bạo vào bậc nhất đòi hỏi phải huy động triệt để sức mạnh
của khối đoàn kết toàn dân. Bởi vậy, Đất Nước của Nhân dân đã trở thành tư tưởng
chung của thời đại, đã chi phối toàn bộ nền văn học cách mạng và làm nên rất nhiều
tác phẩm có giá trị. Trong bối cảnh ấy, đoạn trích Đất nước trong trường ca Mặt
đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp một cách cảm nhận, cách thể
hiện đặc sắc. Khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm lại
các triều đại, những anh hùng nổi tiếng mà tự hào nhắc đến vô vàn lớp người vô danh
bình dị. Năm tháng nào cũng người người lớp lớp:
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trờ về nuôi cái cùng con
Đối với nhân dân, cần cù làm lụng và ra trận đánh giặc, sống và chết đều thật giản dị
và bình tâm vì lẽ tồn vong của đất nước. Khi đất nước thanh bình, họ "cui cút làm ăn,
toan lo nghèo khó". Khi đất nước gặp nạn ngoại xâm, họ đứng dậy cầm vũ khí, sẵn
sàng xả thân vì độc lập, chủ quyền như lẽ tự nhiên. Chính những con người không ai
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
nhớ mặt đặt tên ấy đã làm ra Đất nước. Trong trường kì lịch sử, nhân dân là lực lượng
chủ yếu sáng tạo, giữ gìn truyền lại mọi tài sản vật chất, mọi giá trị tinh thần để làm
nên Đất nước muôn đời:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.
Những con người đi trước là những anh hùng vô danh đã hi sinh thầm lặng nhằm giúp
cho đất nước bền vững đến ngày hôm nay. Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận sự hóa
thân của nhân dân hiển hiện trên gương mặt địa lí của đất nước. Không ít tác phẩm thơ
văn đã nhắc tới những danh lam thắng cảnh, những sự tích núi sông của đất nước Việt
Nam bốn ngàn năm văn hiến. Nhưng gắn chúng cùng số phận, cùng phẩm chất của
những người dân bình dị, thấy trong đó cuộc đời hi sinh cao đẹp của quần chúng nhân
dân, ấy là Nguyễn Khoa Điềm. Sau khi nhắc tới hàng loạt danh lam thắng cảnh, sự
tích núi sông trên các miền đất nước, nhà thơ đi đến một khái quát thấm thía:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Làm sáng tỏ tư tưởng Đất Nước của nhân dân từ nhiều phía, nhiều chiều như thế, đoạn
trích đã đem đến cho người đọc niềm tin vào sự trường tồn của đất nước. Đất Nước là
của nhân dân, mà nhân dân thì mênh mông, vĩ đại và bất tử. Vì thế, Đất Nước này mãi
mãi trường tồn cùng với nhân dân. Chiêm ngưỡng tiếp nhận Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao thần thoại từ góc độ thế hệ trẻ trong thời đại dân tộc kháng chiến
chống đế quốc Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã gợi nhắc trách nhiệm đối với vận mệnh đất
nước. Phải chăng đây chính là mục đích của đoạn thơ Đất Nước này khi ra đời giữa
những năm tháng chiến tranh quyết liệt, hào hùng, khi lịch sử đang yêu cầu mọi con
người phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở. Ý thức trách nhiệm này được Nguyễn
Khoa Điềm cảm nhận, dẫn dắt rất tự nhiên cùng quá trình khám phá ngày càng sâu về
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
đất nước. Ban đầu, đất nước là những gì thân thiết ở ngoài ta, ở xung quanh ta. Nhưng
dần về sau, đất nước đã ở trong ta, đất nước có trong mỗi người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cẩm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mỗi con người hôm nay đều đang thừa hưởng những di sản vật chất và tinh thần quý
báu của đất nước, của nhân dân, của bao thế hệ đi trước, vì thế phải biết cống hiến đời
mình vì lẽ tồn vong của đất nước. Ý thức trách nhiệm được nhà thơ trình bày thật thiết
tha. Đó là mệnh lệnh cất lên từ trái tim đang xúc động:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...
Như vậy, tiếp thu nguồn mạch cảm hứng yêu nước chưa bao giờ vơi cạn trong lịch sử
văn học Việt Nam, nằm trong bối cảnh của thời đại dân tộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ, đoạn trích Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng đã thể hiện những
nhận thức, khám phá mới mẻ về vẻ đẹp đất nước. Trên nền văn hóa dân gian vững
chắc, Nguyễn Khoa Điềm đã hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện như lịch
sử, địa lí, phong tục... để làm nổi bật tư tưởng Đất nước của Nhân dân và gợi nhắc ý
thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước. Nhưng sức hấp dẫn của chương Đất nước
không chỉ ở các nội dung cảm nhận mà còn ở cách thể hiện của Nguyễn Khoa Điềm.
Khi đưa vào đây nhiều kiến thức về lịch sử, địa lí, về văn hóa dân gian, thơ dễ sa vào
diễn ca theo lối phô bày hiểu biết, dễ chỉ tác động vào lí trí mà khó lay thức tình cảm
người đọc. Nguyễn Khoa Điềm đã vượt qua thử thách đó và Đất nước vừa làm sáng
bừng nhận thức, vừa lay động sâu xa tâm hồn mỗi con người Việt Nam. Cái gì đã tạo
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
nên thành công ấy? Điều chủ yếu là do tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú
này đã được thẩm thấu qua tâm hồn chứa chan xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm và
nhà thơ đã tìm được một cách nói riêng, bằng giọng điệu tâm tình, qua hồi ức lại
những kỉ niệm riêng tư:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Ngay từ phần mở đầu, Đất nước dẫn ta vào câu chuyện tâm tình thiết tha, sâu lắng.
Toàn bộ chương này được thể hiện bằng hình thức "anh" trò chuyện cùng "em". Với
hình thức này, giọng điệu thơ tất phải ngọt ngào, thủ thỉ. Nguyễn Khoa Điềm nói về
lịch sử mà như tâm sự về những kỉ niệm tuổi thơ, như nhắc lại những hồi ức cảm động
về người thân trong gia đình là bà, là mẹ. Bề dày của lịch sử, của nền văn hóa phong
phú, lâu đời, cả không khí của truyền thuyết Thánh Gióng, cổ tích Trầu Cau bỗng
được sống dậy trong cảm nhận gần gũi của mỗi người đọc. Chính nhờ lối thể hiện ấy
mà vẻ đẹp sâu xa của đất nước, ý thức trách nhiệm công dân trước vận mệnh đất nước
được người đọc nhận cảm một cách tự nhiên, thấm thía.
Tiếp nối dòng mạch thơ ca yêu nước trong lịch sử văn học dân tộc, Đất nước trong
trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đã mang nội dung cảm nhận
cùng cách thể hiện thật độc đáo. Thành công của đoạn trích Đất nước này góp phần
chứng tỏ tầm trí tuệ, sức khám phá của một nhà thơ trưởng thành cùng thời đại kháng
chiến chống Mĩ cứu nước anh hùng.
Phân tích Đất nước - Mẫu 8
Đất nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta; vừa cao cả,
trang trọng; vừa xiết bao gần gũi. Hình tượng Đất Nước đã khơi nguồn cho bao hồn
thơ cất cánh.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm cũng nằm trong dòng chảy dào dạt
ấy và có phần đầy đủ hơn cả khi thống nhất được cội nguồn đất nước và tư tưởng đất
nước của nhân dân.
Giản dị như một lẽ tự nhiên, bài thơ mở đầu với khát khao tìm hiểu đất nước có tự bao
giờ:
“Khi ta lớn lên Đất Nước có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Khi xưa, đất nước gắn với những huyền thoại, truyền thuyết, với những vương triều
hùng mạnh. Ngày nay, Nguyễn Khoa Điềm về lại hành trình trong sự quen thuộc, gần
gũi. Có cái xa xăm của lịch sử nhưng gần gũi với kí ức ấu thơ. Đó là cái “ngày xửa
ngày xưa…” mẹ kể con nghe; cái ấm áp của những hình ảnh dưới mái nhà Việt, với
“miếng trầu” thắm đỏ bà ăn, cây tre ngàn đời đánh giặc và nghĩa tình mẹ cha đằm
thắm. “Cội nguồn” không gì khác là gia đình thân thuộc, ấm cúng.
Những câu thơ nhẹ nhàng, ấm áp, bay bổng trong đời và hòa trộn trong ca dao, cổ tích
để làm nên điệu hồn êm ái. Đó là sự tích trầu cau “Miếng trầu nên dâu nhà người”, là
sự tích cậu bé làng Gióng lên ba tuổi nhổ tre mà phá giặc, là lời ca dao “Muối gừng”
ân nghĩa thủy chung. Đất nước hiện lên nên thơ, bay bổng và mĩ lệ dưới con mắt tinh
tế của Nguyễn Khoa Điềm.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất Nước còn là chiều rộng không gian địa lí – cách nhìn có lẽ không phải là mới mẻ.
Ngày xưa, Nguyễn Đình Thi viết:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”
Đó là không gia rất dài, rất rộng, rất cao mang tầm vóc sử thi tráng lệ.
Với Nguyễn Khoa Điềm:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở”
Đất nước là “nơi anh đến trường” – cuộc sống học tập, “nơi em tắm mát” – cuộc sống
sinh hoạt và góc đời thiếu nữ, là “nơi ta hẹn hò” – thắp lửa tình yêu, “nơi em đánh rơi
chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – ghi dấu kỉ niệm con người. Đó cũng là một không
gian giàu có, trù phú, bao la, đẹp và rộng: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn
núi bạc – Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi”. Nó gần với con người lắm, chiếc
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
khăn ấy là lời hát tha thiết trong đêm tương tư “Khăn thương nhớ ai – Khăn rơi xuống
đất”, gắn với lời hát điệu hò của câu huê tình xứ Bình Trị Thiên tự buổi nào.
Đất nước đồng thời là chiều dài thời gian lịch sử:
“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”
4000 năm lịch sử đã trở thành thiêng liêng với những trang sử chói lọi của cha ông:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.”
(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi)
Đến:
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”
(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Sau này Chế lan Viên viết:
“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
– Chưa đâu! Cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”
Đến Nguyễn Khoa Điềm, đó là thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Đó là
truyền thuyết về bọc trăm trứng, với nơi chim về, rồng ở, và ngày giỗ Tổ thiêng liêng.
Đó là kết quả trước tưởng tượng bay bổng của tâm hồn đầy khát vọng, đẹp một cách
gần gũi và mơ mộng, bay bổng và mĩ lệ,…mà dường như trước và sau Nguyễn Khoa
Điềm chưa ai nói được như thế.
Đất nước cũng đi vào chiều sâu trong sự riêng tư đời người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm lên Đất Nước muôn đời…”
Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì
“vẹn tròn, to lớn”. Đất nước mang tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và còn là
“cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu xương” của ta. Đất nước được nhìn từ cái
chung đến cái riêng, cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng về bề sâu, từ
cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp tự nhiên, chặt chẽ và đượm lí, đượm
tình.
Tiếp sau đó là tư tưởng đất nước của nhân dân. Một loạt những câu thơ tự do với biên
giới thơ mở rộng. Nhịp thơ chậm lại, mang không khí tâm tình trò chuyện. Nghệ thuật
liệt kê và cách điệp lại cấu trúc nhấn mạnh ý thơ và liền mạch.
Lời thơ, giọng thơ sôi nổi, thiết tha và tràn đầy nhiệt huyết, khẳng định những đóng
góp của nhân dân trong việc làm ra đất nước. Đó là núi Vọng Phu – những năm tháng
chờ đợi chung thủy sừng sững giữa trời. Đó là núi bút non nghiêng xây đắp bởi lòng
hiếu học của những tháng năm miệt mài đèn sách và hàng loạt các địa danh “Ông
Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, với niềm tự hào vời vợi trong lời ca ngợi non
sông gấm vóc, “non kỳ thủy tú”. Con người cùng bảo vật vô tri khác đã “hóa thân cho
dáng hình xứ sở” và với tác giả đó là niềm yêu kính trước công lao to lớn của nhân
dân, xây đắp “hình sông thế núi”.
Khẳng định đất nước là của nhân dân đồng thời là lời yêu cầu tình yêu đất nước, thức
tỉnh lòng tự hào và tinh thần dân tộc trong mỗi người. “Em ơi em” là lời gọi ngọt
ngào, tha thiết, trìu mến, đầy thủ thỉ tâm tình. Vậy là nói về những điều lớn lao mà
không hề sáo rỗng. Nhân dân là ai? Là những người “con gái, con trai” bằng tuổi
chúng ta, và người ra trận, kẻ ở lại, có những anh hùng “cả anh và em đều nhớ” nhưng
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
cũng có những anh hùng vô danh “Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã làm ra đất
nước”. “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”, lời thơ giống như một nén hương
tận tâm còn vương khói thắp lên cho nhân dân, dân tộc.
Trong suốt bốn nghìn năm đất nước, nhân dân ta truyền giữ hạt lúa, truyền từng ngọn
lửa, truyền giọng nói, với những tên xã, tên làng, đắp đập be bờ chống giặc ngoại
xâm. Các giá trị vật chất luôn đi kèm văn hóa tinh thần, cả kiến quốc và vệ quốc.
Những câu thơ gợi nhắc tới: tiểu đội xe không kính, những cô gái mở đường, anh giải
phóng quân:
“Em là cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?”
Hoặc:
“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào Anh, con người đẹp nhất!”
Tác giả đã chọn tư liệu văn hóa dân tộc trong ca dao, thể hiện cảm xúc, ý nghĩ. Hiện
lên rõ mồn một là chân dung tinh thần của nhân dân. Tâm hồn dân tộc gửi vào trong
dân gian gian nay trở thành chiều sâu văn hóa. Nhìn ở cả chiều dài, chiều rộng và
chiều sâu đều thấy được vai trò của nhân dân vừa làm ra vừa bảo vệ. Cho nên “Đất
Nước này là đất nước của nhân dân”.
“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là bản nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong
điệu hồn kháng chiến, là lời thúc giục tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam hôm
nay và mai sau.
Phân tích Đất nước - Mẫu 9
“… Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Mặt đường khát vọng” là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong
chiến tranh ác liệt thời chống Mỹ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm nóng - trên
chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc
động, tự hào về đất nước và nhân dân.
Trong bài “Có một thời đại mới trong thi ca”, Trần Mạnh Hảo viết: “Vào đêm giao
thừa Tết âm lịch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc động nghe trích
đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa
Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà
thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.
“Đất Nước” - là chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dài 110 câu thơ
(trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về
Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về
Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.
Từ đó, nhà thơ nhận diện phát hiện Đất Nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn
hoá, ngôn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc
đáo của chương V “Đất Nước” là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân
gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị,
hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.
Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể hiện cảm nhận:
Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt Nam:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
…
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất Nước và Nhân Dân
đều được viết hoa, trở thành “mỹ tự” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ
cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân. Chủ thể trữ tình là “anh
và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13
câu thơ là cấu trúc tổng - phân - hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của
ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch
sử,… Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ
khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của Đất Nước” được
diễn đạt một cách “mềm hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.
Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm nay”
đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”.
Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường - Nước là nơi em
tắm - Đất Nước là nơi ta hò hẹn – Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây
dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước.
Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình
yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới.
Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi
“nhớ”:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”.
Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước,
mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”, mới
tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao
lứa đôi khác:
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi.
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
(Giang Nam)
Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích
“Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân và Âu Cơ -
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng - Những ai đã khuất - Những ai bây giờ…”. Từ
huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu
thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,…
Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất Nước
vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa,
nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân
tộc và đất nước.
Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba
cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong
một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất Nước
vẹn tròn, to lớn”.
Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”…
“Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hòa nồng thắm…”. “Đất Nước vẹn
tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mỹ sâu sắc:
hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này.
Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa
đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết
dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nền truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người”
và đó là sức mạnh Việt Nam. Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh
và em hôm nay”, đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng
ngời niềm tin:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp
dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,…
cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là
cách nói của bà con xứ Huế.
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại”
xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to
đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh
nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất
đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh.
Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực
“mai này” gần. Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở
nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang
dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là
máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình,
và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu
xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:
“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.
(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của
tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san
sẻ… phải biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn đời”. Điệp ngữ
“phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn
động.
Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất
của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”,
“hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài
giới hạn thông tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.
Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng
nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất
nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của
mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm
xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:
“Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất”
(Trần Vàng Sao)
“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
(Chế Lan Viên)
Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân
thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn
thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân
tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại
mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình
ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều
mới mẻ tìm tòi.
“Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ
lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất
Nước, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có
chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân”
cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và
em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…
Phân tích Đất nước - Mẫu 10
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ thơ trẻ thời
kì chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn
và suy tư sâu lắng, giữa chất trữ tình và chất chính luận. Đoạn trích "Đất nước" đã cho
người đọc thấy rõ được những đặc điểm của thơ ông. Đặc biệt đoạn thơ đầu của bài
thơ nhà thơ đã giải thích Đất nước bằng những hình ảnh giản dị hằng ngày:
"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
....
Đất nước có từ ngày đó".
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Câu thơ đầu cất lên đầy giản dị và mộc mạc: "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi". Câu
thơ ngỡ như một câu nói bình thường, đưa người đọc trở về những hình ảnh thuở xưa
của đất nước. Tổ quốc này đã phôi thai và hình thành suốt chiều dài lịch sử, khi con
người xuất hiện, lớn lên thì đất nước đã có rồi.
"Đất nước có trong...mẹ thường hay kể."
Hình ảnh đất nước hiện lên qua những lời kể của mẹ. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa"
gợi trong chúng ta những nỗi niềm cổ tích xa xăm nhưng thật diệu kì. Nơi ấy có cô
tấm, chàng Thạch Sanh, một thế giới lung linh huyền ảo ấy ta đã có dịp lạc vào từ
thuở ấu thơ.
"Đất nước bắt đầu...bà ăn"
Đất nước vốn lao lao nhưng bây giờ cũng ẩn mình vào trong miếng trầu bà ăn. Và
chính miếng trầu ấy lại chứa đựng cả một nền văn hóa của người Việt Nam ta. Người
xưa có câu "miếng trầu là đầu câu chuyện" nó thể hiện sự giao tiếp, là tín hiệu của
hạnh phúc nhân duyên. Miếng trầu đã đi sâu và nếp cảm, nếp nghĩ của người dân Việt
từ bao đời nay. Qua hình ảnh này chúng ta cũng thấy được chiều dài của lịch sử, của
đất nước, cội nguồn nơi chúng ta sinh sống.
"Đất nước lớn lên...đánh giặc"
Tổ quốc vững mạnh và trưởng thành theo từng năm tháng, phải trải qua những năm
tháng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Câu thơ trên mang hơi thở của Thánh Gióng
là người đã sử dụng tre làng để đánh giặc. Và bất cứ một người Việt Nam nào không
thể không biết đến truyền thuyết Thánh Gióng ấy. Và với lời thơ bình dị của Nguyễn
Khoa Điềm, đất nước còn hiện lên qua những phong tục cổ truyền của người Việt
Nam:
"Tóc mẹ thì bới sau đầu"
Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xuất hiện với mái tóc búi sau trở thành nét đẹp, nét
truyền thống của phụ nữ Việt. Tập tục này không chỉ tôn lên vẻ đẹp đoan trang của
người phụ nữ mà còn thể hiện nét đẹp đặc trưng trong bản sắc văn hóa của người Việt.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng đất nước cũng gắn liền với
những đạo lý son sắc thủy chung mà tính nghĩa : "Cha mẹ...gừng cay muối mặn".
Người Việt Nam ta vốn coi trọng nghĩa tình, sống có trước có sau, đặc biệt là sự thủy
chung trong tình yêu và tình nghĩa vợ chồng. Đặc biệt, sự vận dụng câu ca dao"gừng
cay muối mặn" là sự có chủ ý của nhà thơ.
Tác giả tiếp tục phát hiện hình ảnh đất nước có mặt trong những sự vật rất đỗi bình
thường "cái kèo, cái cột thành tên". Thì ra đất nước to lớn, vĩ đại như vậy chẳng ở đâu
xa, nó gắn liền với những công việc lao động thường ngày nhất với con người.
"Hạt gạo...sàng"
Tác giả sử dụng thành ngữ "một nắng hai sương" kết hợp với phép liệt kê đã khắc sâu
sự vất vả của người nông dân để làm ra hạt thóc, hạt gạo. Đồng thời , câu thơ cũng
cho thấy những vẻ đẹp phẩm chất của người lao động Việt nam. Đó là sự chịu thương,
chịu khó, sự cần cù của người dân trên dải đất hình chữ S này.
Đất Nước đã được nhà thơ lí giải cắt nghĩa theo cảm nhận của riêng mình. Đoạn thơ
thể hiện niềm tự hào, trân trọng sâu sắc của tác giả dành cho Tổ quốc mình. Đoạn thơ
rất thành công với thể thơ tự do mỗi câu như một cảm xúc trào dâng từ đáy lòng thi sĩ.
Nhà thơ đã vận dụng thành cồn những chất liệu văn hóa văn học dân gian. Và khi kết
thúc những câu thơ ấy, trong lòng người đọc cũng xuất hiện hình ảnh đất nước vừa
quen thuộc, vừa mới lạ, vừa thiêng liêng, vừa gần gũi và biết bao mến thương.
Phân tích bài Đất nước - Mẫu 11
Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn
Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng
nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời
kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân
thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân
dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình
thức chương V của bản trường ca này.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ
trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản
dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo
vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn
đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà
bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần
thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn
thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ
trong những năm chống Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu
chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của
cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư
tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện:
trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn
hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện,
thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là
linh hồn của cả bài thơ.
Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không
khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các
chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong
tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những
chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì
diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần
chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn học
dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ
- đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của
bài thơ.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định
nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh
động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình
lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái
cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận
mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà
vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước
không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng
ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối
quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử,
truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc
Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca
dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương
diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền
với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ - ngày giỗ Tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất
Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam
thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa,
mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận
như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không
tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ
chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình
Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành
thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa
Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo
dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng
sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã
“quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch
sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói
tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con
người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những
con người bình dị, vô danh đó:
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau
những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ.
Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm
bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:
Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.
Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và
sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là
chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo
nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm
xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế
hệ mình về đất nước.
Phân tích bài Đất nước - Mẫu 12
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Trong số các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm là người rất thành công
với giọng thơ trữ tình chính luận thể hiện rõ những tâm tư của thế hệ trẻ đô thị miền
Nam.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”
Giọng thơ thủ thỉ đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân – Đất Nước, tiếp
nối mạch suy tưởng của thi ca giai đoạn trước. Đất Nước là một chủ đề xuyên suốt
bao trùm lên các tác phẩm trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các nhà
thơ nhà văn bằng tình cảm công dân đã có nhiều phát hiện mới mẻ độc đáo về Tổ
quốc, nhân dân. Tổ quốc thường được soi chiếu từ bình diện lịch sử chống ngoại xâm,
được khái quát bằng những hình tượng kỳ vĩ, khai thác triệt để chất sử thi hoành tráng.
Trong dòng chủ lưu ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lựa cách thể hiện riêng của mình,
bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào
tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất
Nước, hoà mạch thơ chính luận – trữ tình.
Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, nhà thơ đã bắt đầu bằng
những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và
tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình,
thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở
đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa
biểu trưng nhưng rất gần gũi:
Tóc mẹ thì búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá truyền thống,
mang theo hơi thở tâm tình của ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
thấm thía tình nghĩa thủy chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục với quá trình trưởng thành
của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến trường đến khoảnh khắc rung động đầu đời.
Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao ngọt ngào kỷ niệm:
Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…
Đan xen với khoảnh khắc thời gian không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ký ức cộng
đồng, với sự tổng hoà những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt.
Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào
về non sông gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu
vào tiềm thức từng người Việt :
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông
móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng…
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt, là nguồn
sức mạnh và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc đã được nhà thơ lý giải qua những
hình tượng thơ giàu tính thẩm mỹ và hàm chứa mối quan hệ Đất Nước – con người
Nhân Dân không thể tách rời. Thời gian lịch sử, không gian văn hoá hoà quyện trong
mạch thơ đầy ân tình đã phác hoạ rõ nét dần tượng đài Đất Nước. Không chỉ tiếp cận
hình tượng trong huyền sử, trong hiện thực đời sống, trong mối quan hệ cá nhân –
cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ
chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Ý thơ thật giản dị, không hề gượng ép tình cảm, khi từ mối quan hệ riêng tư để hướng
về với quan hệ cộng đồng, dân tộc. Tứ thơ độc đáo chính là từ sự mở rộng từ thế giới
của “anh và em hôm nay” đến với “mọi người”. Vẻ đẹp Đất Nước được phát hiện
thêm với những vẻ đẹp “hài hòa nồng thắm” và “vẹn tròn to lớn”. Đó cũng là sự kết
hợp hài hoà của lý trí và tình cảm con người thời đại chống Mỹ. Hơn thế nữa, những
câu thơ này còn cắt nghĩa cho vẻ đẹp tình yêu của thế hệ trẻ chống Mỹ không hề mất
đi vẻ lãng mạn, khi khoảnh khắc cầm tay hiện tại đã nghĩ về thế hệ tương lai, về một
ngày thanh bình và sự phát triển của Đất Nước với “tháng ngày mơ mộng”. Không
dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ Đất Nước với tâm hồn của từng
con người, giọng thơ tâm tình thấm thía:
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một
người lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã
thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi
trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất
Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người sẵn sàng dâng bầu
máu của tuổi thanh xuân, biết sống có trách nhiệm với thời đại và đầy khát vọng về
tương lai trường tồn của Đất Nước.
Phần mở đầu của chương Đất Nước được cấu tứ trên cơ sở gắn bó giữa các vẻ đẹp
riêng biệt, độc đáo và giàu sức biểu cảm để làm nên vẻ đẹp chung tổng hoà thành hình
tượng Đất Nước kỳ vĩ và giàu sức thuyết phục với bạn đọc. Nhà thơ đã trữ tình hoá
vấn đề mang tính chính luận, nhằm trả lời những câu hỏi lớn mà dân tộc đang phải tìm
lời đáp trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng độc lập tự do, cuộc chiến đấu của lương tri
chống lại thế lực bạo tàn.
Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục
toả sáng, giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày
tháng hào hùng nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua
góp phần khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người
trong khát vọng đưa Đất Nước đi xa đến những tháng ngày mơ mộng.
Phân tích bài Đất nước - Mẫu 13
Đất nước là hình tượng trữ tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật của nhiều thế hệ nhà thơ
Việt Nam. Có một thực tế: mỗi lần đất nước đặt trước những thử thách thì hình tượng
đất nước lại ngời sáng trong văn học với những phát hiện mới mẻ độc đáo. Trường ca
Mặt đường khát vọng với trích đoạn Đất Nước là một minh chứng đẹp đẽ cho quy luật
này. Trong trích đoạn nói trên, những cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
đạt tới một tầm vóc triết học sâu sắc.
Trước tiên, đất nước hiện lên trong chiều dài của thời gian. Thời gian trong trích đoạn
Đất Nước đầy ắp những hình tượng huyền thoại lấy từ trong truyền thuyết, phong tục
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
dân gian. Nhờ sự xuất hiện của hình tượng thời gian này đất nước hiện lên trong chiều
sâu thẳm của thời gian nguồn cội, đầy thiêng liêng thành kính.
Bên cạnh “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông”. Có không gian gắn với
sự sinh tồn của cả cộng đồng: “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Có không gian gắn
bó với cuộc đời riêng tư của mỗi cá nhân; “Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi
em tắm”... Sự song hành của các không gian như thế gợi lên hình tượng đất nước như
là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân. Đất Nước thiêng
liêng mà cũng thật gần gũi gắn bó.
Đất nước còn hiện lên trong bề sâu văn hóa - phong tục, lối sống, mang đậm bản sắc
Việt Nam. Chiều sâu văn hóa luôn ẩn hiện trong toàn bộ trích đoạn. Từ một nét phong
tục: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho đến nghi thức thiêng liêng của ngày giỗ Tổ. Tuy
nhiên, chiều sâu văn hóa hiện lên thấm thía và đẹp đẽ nhất với những phát hiện và
ngợi ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam: yêu đắm say mà chung thủy; trọng
nghĩa tình nhưng vì thế mà quyết liệt, không khoan nhượng trước kẻ thù.
Tư duy triết học hướng tới khám phá, nhận thức cái thống nhất. Tầm vóc triết học
trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ: từ ba bình diện không
gian - thời gian - văn hóa, nhà thơ đã tìm ra hạt nhân gắn kết làm nên tính chính thể
của hình tượng đất nước. Cái hạt nhân gắn kết này, không gì khác, đó chính là quan
niệm: đất nước của nhân dân.
Tư tưởng đất nước của nhân dân là cơ sở đem lại những khám phá mới mẻ, độc đáo
của Nguyễn Khoa Điềm về hình tượng đất nước. Từ quan niệm đất nước của nhân
dân. Lịch sử của đất nước không còn là lịch sử của các triều đại, các anh hùng mà là
lịch sử của hàng nghìn lớp người “không ai nhớ mặt đặt tên - Nhưng họ đã làm ra đất
nước”. Không gian đất nước cũng được tạo hình từ những “ao ước”, “lối sống" của
ông cha từ bao đời nay. Cũng chính nhân dân là người đã sáng lập, giữ gìn dòng chảy
văn hóa của đất nước: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng - Họ truyền lửa.. - Họ
truyền giọng điệu... - Họ gánh theo tên xã, tên làng...”. Một mật độ lớn các động từ
được xếp cạnh nhau làm nổi lên hình tượng thật tầm vóc và kì vĩ của nhân dân -
những người “làm ra Đất Nước”.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Tư tưởng đất nước của nhân dân đã có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử
văn học dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu...). Trong văn học cách mạng, tư
tưởng đất nước của nhân dân cũng đã được nhiều nhà thơ đề cập đến (Bài thơ Hác
Hải, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy). Tuy nhiên, để
tư tưởng này trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào mọi biểu hiện nhỏ bé tinh
tế nhất của hình tượng đất nước thì đó là một đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa
Điềm. Nó cho thấy sự kế thừa và kết tinh ở một trình độ mới của tư tưởng đất nước
của nhân dân trong văn học.
Đoạn thơ mở đầu trích đoạn là một minh chứng sống động cho những đặc sắc trong
cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Hiện lên qua đoạn thơ là hình tượng đất nước mênh mang trong thời gian. Nét đặc sắc
là ở chỗ chiều sâu thời gian ấy được gợi lên trước tiên từ những “ngày xửa ngày xưa”
trong lời kể của mẹ. Đây không phải là thời gian lịch sử chính xác với những niên đại
cụ thể. Nó là thứ thời gian mơ hồ, ảo diệu trong trí tưởng tượng của trẻ thơ. Nó không
định vị chính xác nhưng giúp ta cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về sự trường tồn của
đất nước.
Gương mặt của đất nước được hình dung từ những gì gần gũi bình dị trong cuộc sống
thường ngày. Có cái gì thật chia ly, tường tận trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm. Từ một cách búi tóc, một câu ca dao đến những sự vật bình dị: cái kèo,
cái cột. Ngay cả đối với những vật tưởng rất mực bé nhỏ như “hạt gạo” thì tác giả vẫn
có sự cảm nhận thật sâu sắc từ những thời điểm cụ thể: “một nắng hai sương” - “xay”
- “giã” - “giần” - “sàng”. Với cách cảm nhận này, đất nước trở thành bầu khí quyển
bao bọc lấy cuộc sống của mỗi con người. Ở đâu, trong bất kì biểu hiện nhỏ bé nào
cũng mang hình đất nước. Đất nước được kéo gần lại thân quen, gắn bó máu thịt với
con người.
Góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong đoạn thơ là một
ngôn ngữ thấm đẫm chất liệu và hương sắc của văn hóa dân gian. Ngôn ngữ không
bao giờ chỉ là ngôn ngữ. Đằng sau ngôn ngữ là một quan niệm. Ngôn ngữ mang đậm
màu sắc văn hóa dân gian, ở đây là sự thấm nhuần quan niệm đất nước của nhân dân.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nói cách khác, quan điểm đất nước của nhân dân không chỉ là suy tưởng bên trong mà
còn được hiện thực hóa bằng chính hình thức và ngôn ngữ thơ.
Giọng điệu thơ trầm lắng, chất chứa suy tư. Vừa như bộc bạch giải bày vừa như tự nói
với chính mình. Một giọng điệu như thế khiến hình tượng đất nước hiện lên vừa trang
nghiêm thành kính, vừa gần gũi thân thiết.
Phân tích bài Đất nước - Mẫu 14
Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có
những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn
màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước
bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì
Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất
Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn
màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu
sắc nhất qua chín câu thơ đầu.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã
chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần
thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu
muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về
phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có
rồi”. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu,
có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của
câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về
sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.Hai câu
thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa
là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu
truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta
lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ.
Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích,
thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn
nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết
yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người,
nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
(Truyện cổ nước mình)
Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi
nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích
trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu
chuyện này mà nên.
Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000
năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật
chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu,
tục nhuộm răng đen cũng ra đời:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
(Hoàng Cầm)
Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành
từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất
Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ
đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà
đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc n
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến
hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo
vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử
Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn
Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi
làng quê.
Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà
chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất
khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc
"Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi:
"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".
Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục
của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ
với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một
vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao
động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ
nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời:
gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu
năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của
cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng.
Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ
của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà
vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi
gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục
đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Thành ngữ
“Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long
đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù,
chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay - giã - dần - sàng” là quy trình sản xuất ra hạt
gạo.
Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất
vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn
nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn
người đã làm ra nó:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ
ngày đó”.“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có
truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những
câu hát dân ca”.
Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải
yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu
đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân
gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông
nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp ngữ
Đất Nước được nhắc lại nhiều lần.
Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính, thiêng liêng… Tất cả
làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc,
giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ
triết lí. Đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước.
Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn
hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của
tư tưởng Đất Nước của nhân dân.
Phân tích bài Đất nước - Mẫu 15
Đất nước” là một trong những bài thơ hay nói về khát vọng yêu nước trong mỗi một
con người Việt Nam. Dưới đây là bài phân tích về các trích đoạn trong bài thơ “Đất
Nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
(…) Đất Nước có từ ngày đó”.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Những
năm 1970, 1971,… ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị - Thiên; trường ca
“Mặt đường khát vọng” được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương V “Đất Nước”
trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”.
Phần đầu 42 câu tác giả nhận diện Đất Nước có nguồn gốc lâu đời. Tục ăn trầu, cổ
tích Trầu - Cau, truyền thuyết Thánh Gióng dùng gốc tre đánh đuổi giặc Ân mà “mẹ
thường hay kể”:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Nhà thơ cảm nhận Đất Nước trong dòng chảy thời gian “đằng đẵng”, trên không gian
địa lí “mênh mông”, qua sự tích “Trăm trứng” và giỗ Tổ Hương Vương. Nhà thơ bằng
giọng tâm tình đã dẫn hồn ta ngược thời gian bốn nghìn năm trở về cội nguồn Đất
Nước:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và u Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
(…) Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.
Tục “bới tóc xăm mình” của người Lạc Việt, câu ca dao “gừng cay muối mặn” nói về
đạo vợ chồng, ngôn ngữ dân tộc hình thành, phát triển, nên “cái kèo, cái cột thành
tên”, công việc cấy cày làm ăn “xay, giã, giần, sàng” được chỉ rõ. Cội nguồn “Đất
Nước có từ ngày đó”. Đất Nước trong quá khứ mang vẻ đẹp kì diệu, huyền thoại:
“Đất là nơi “con chim Phượng Hoàng bay về hòn núi bạc”
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nước là nơi “con cá Ngư Ông móng nước biển khơi”.
Đất Nước hiện tại gắn bó yêu thương với mọi người, “trong anh và em hôm nay - Đều
có một phần Đất Nước”. Mai này Đất Nước nhiều “mơ mộng”. Yêu nước là nghĩa vụ
thiêng liêng:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”.
Phần thứ hai có 68 câu (Văn 12 chỉ trích học 47 câu) nói về tư tưởng “Đất Nước của
Nhân Dân”. Nhân Dân sáng tạo ra Đất Nước. Các danh lam thắng cảnh đều biểu
tượng cho phẩm chất cao đẹp, “lối sống” của ông cha như tình nghĩa vợ chồng thủy
chung, tình yêu lứa đôi thắm thiết, sức mạnh quật khởi, tinh thần đại đoàn kết của dân
tộc, truyền thống hiếu học của Nhân Dân ta:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
99 con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.
Núi Bút non Nghiên, vịnh Hạ Long, ông Đốc Ông Trang… đều do Nhân Dân ta “góp
cho”, “cùng góp cho”, “góp tên” - mà Đất Nước đẹp tươi, hùng vĩ. “Bốn nghìn lớp
người” đã đem mồ hôi, xương máu ra xây dựng và bảo vệ Đất Nước: “Khi có giặc
người con trai ra trận - Người con gái trở về nuôi cái cùng con - Ngày giặc đến nhà thì
đàn bà cũng đánh”. Nhân Dân đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Họ là
những con người vô danh mà vĩ đại:
“Họ đã sống và chết
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Nhân Dân là người sản xuất “giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”. Nhân Dân đã sáng
tạo ra ngôn ngữ “truyền giọng điệu của mình cho con tập nói”. Nhân Dân đã diệt thù
trong giặc ngoài để giữ gìn Đất Nước, làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân
Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Tóm lại, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ,
phong tục, ngôn ngữ để cảm nhận về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước, khẳng định
Nhân Dân vĩ đại đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Chương “Đất Nước”
chứa chan tình yêu và niềm tự hào dân tộc.
Đoạn thơ 9 câu dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất Nước” thuộc trường ca
“Mặt đường khát vọng” (1971) của Nguyễn Khoa Điềm:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
………………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó”.
Đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất
Nước. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng như kể
chuyện cổ tích, như dẫn hồn ta ngược thời gian trở về cội nguồn Đất Nước và dân tộc.
Bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” dùng rất khéo:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Khi ta lớn lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”.
Chữ “có” trong “đã có rồi”, “Đất Nước có trong những cái…” đã làm cho ý thơ khẳng
định, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích Trầu - Cau gợi lên hình ảnh Đất
Nước. Nước xa xưa, “Đất Nước bắt đầu”… Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết sự
vươn mình của dân tộc, đánh dấu sức mạnh quật khởi “Đất Nước lớn lên”. Câu thơ
mở rộng đến 12, 13 chữ, với cách gieo vần lưng (đầu - trầu, ăn - dân) nên vẫn thanh
thoát, giàu âm điệu:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Hai chữ “lớn lên” liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai thành
một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược. Rồi nhà thơ nói
đến phong tục và đạo lí tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Phong tục “búi tóc” của người
Lạc Việt. Câu ca dao nói về đạo vợ chồng: “Tay bưng chén muối đĩa gừng - Gừng cay
muối mặn xin đừng quên nhau” đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
Chuyện “ngày xửa ngày xưa” nhưng vẫn hiện diện trên “tóc mẹ”, trong tình thương
của “cha mẹ” bây giờ. “Đất Nước đã có rồi”, “Đất Nước có…”, “Đất Nước bắt đầu”,
“Đất Nước lớn lên” và Đất Nước đang hiện diện quanh ta, gần gũi ta. Tiếp theo, nhà
thơ lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ dân tộc để nói về nguồn gốc lâu đời của
Đất Nước. Mỗi vật dụng đều có một cái tên riêng: “Cái cột, cái kèo thành tên”.
Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Nghề trồng lúa nước tạo nên nền văn
minh sông Hồng. Khi hạt gạo được sáng tạo nên bằng công sức “một nắng hai sương”,
thì ngôn từ “xay, giã, giần, sàng” cũng xuất hiện. Tiếng Việt là của quý lâu đời của
Đất Nước ta, Nhân Dân ta. Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm thật ý vị:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”.
Lấp lánh trong đoạn thơ là hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá khứ của Đất Nước “ngày
xửa ngày xưa” đồng hiện trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Có Đất Nước anh hùng
“biết trồng tre mà đánh giặc”. Có Đất Nước cần cù trong lao động sản xuất: “Hạt gạo
phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Có nền văn hóa giàu bản sắc, nền văn
hiến rực rỡ hội tụ qua thuần phong mĩ tục (tục ăn trầu, tục bới tóc), qua tục ngữ ca dao
“gừng cay muối mặn”, qua cổ tích thần thoại, truyền thuyết.
Đoạn thơ 9 câu, 85 chữ mà không hề có một từ Hán Việt nào. Ngôn từ bình dị, cách
nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có
miếng trầu, cây tre, tóc mẹ,… Có “gừng cay muối mặn”, cái kèo, cái cột, hạt gạo,
v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì
phong phú, liên tưởng thì bao la.
Đoạn thơ đã “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào
về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: “tổng - phân - hợp”; mở đầu là câu “Khi ta lớn lên
Đất Nước đã có rồi”, khép lại đoạn thơ là câu “Đất Nước có từ ngày đó”. Tính chính
luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ
mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.
Phân tích bài Đất nước - Mẫu 16
Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh
cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều
tác giả chọn đưa vào tác phẩm của mình mới những vần thơ, lời văn chân thành tha
thiết, thấm đẫm hào khí dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ
trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cũng chọn cho mình đề tài đất
nước, giữa những năm tháng cuộc chiến đấu của nhân dân đang vào lúc cao trào sục
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
sôi máu lửa. Thế nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đặt nặng trong tác phẩm của mình
màu sắc tuyên truyền, không ồn ào, rộn rã mà ông cho riêng cho mình một chất giọng
êm dịu, thiết tha, gần gũi và thân thuộc. Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước bằng
một cách rất riêng, bằng một cảm xúc mới lạ giữa thời chinh chiến “hoa lửa”, ông
nhìn nhận Tổ quốc từ những điều giản dị, từ những con người rất đỗi bình thường. Sử
dụng thành công giọng thơ mang tính triết luận trữ tình, đặc biệt là sự kết hợp với các
chất liệu văn hóa dân gian lấy từ vốn hiểu biết rộng lớn của nhà thơ về văn hóa ngàn
đời của dân tộc. Tất cả đã tạo nên một Đất Nước với vẻ giản dị, thân thương, Đất
Nước của nhân dân, một Đất Nước bước ra từ những câu chuyện kể, những truyền
thuyết, những phong tục tập quán của 4000 năm văn hiến tự hào.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trong trích đoạn Đất Nước, đầu tiên tác giả đi vào phân tích và làm rõ vấn đề Đất
Nước có từ bao giờ. Trong 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất
Nước đã có từ rất lâu đời, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ
tích đã có từ những ngày xửa, ngày xưa. Câu “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây
giờ bà ăn” gợi cho chúng ta nhớ đến sự tích Trầu Cau, khơi gợi lại truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là tình nghĩa anh em sâu đậm, tình nghĩa vợ chồng son
sắt thủy chung. Không chỉ vậy từ hình ảnh miếng trầu bà ăn tác giả còn gợi lại những
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
cái phong tục đẹp của nhân dân ta ấy là tục ăn trầu nhuộm răng có có từ thuở vua
Hùng dựng nước và giữ nước. Cùng với sự tích Trầu Cau, thì qua câu thơ “Đất Nước
lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” tác giả lại tiếp tục gợi nhắc chúng ta
nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu
nước, bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Như vậy, có thể thấy rằng
Đất Nước hình thành từ nền tảng là tình nghĩa sâu nặng của dân tộc, thế nhưng Đất
Nước chỉ có thể lớn lên khi nhân dân ta có được tinh thần yêu nước, có được lòng
dũng cảm, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm để giữ nước. Đi từ những câu
chuyện cổ tích, những truyền thuyết xa xưa thì tác giả lại tiếp tục chỉ ra Đất Nước có
từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục. “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc
người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà, các
mẹ thời xưa. Mà dù cho đã qua hàng ngàn năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ, mấy
chục năm trời Pháp thuộc, thế nhưng cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm viết Trường ca
Mặt đường khát vọng, búi tóc ấy vẫn giữ cho mình dáng vẻ ban đầu không đổi, vẫn
kiên cường trụ vững sau gáy của người phụ nữ Việt Nam. “Cha mẹ thương nhau bằng
gừng cay muối mặn”, chính là đại diện cho truyền thống coi trọng tình nghĩa vợ
chồng, càng trong những thử thách, gian lao thì vợ chồng lại càng trở nên thương yêu
và gắn kết bền chặt với nhau hơn.
Thứ ba nữa, Đất Nước có từ rất lâu đời được hình thành cùng với tiến trình phát triển
của con người Việt Nam trong cuộc sống đời thường. “Cái kèo cái cột thành tên”, từ
chỗ con người ta sống tạm bợ trong những hang đá thô sơ, từ nhân dân ta đã bắt đầu
chủ động hơn trong cuộc sống biết xây dựng nên các mái nhà che mưa, che nắng cho
mình. Rồi “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần, sàng”, ta cũng thấy được từ
cái chỗ nhân dân ta sống phụ thuộc vào thiên nhiên với công việc hái lượm bấp bênh,
thì người Việt Nam đã bắt đầu biết đến nền văn minh lúa nước, biết tạo ra hạt thóc hạt
gạo làm lương thực chính để phục vụ cuộc sống. Và cuối cùng sau khi dùng ba ý trên
để trả lời cho câu hỏi Đất Nước có từ khi nào, tác giả đã chốt lại bằng câu thơ “Đất
Nước có từ ngày đó”, “ngày đó” là ngày những truyền thuyết, cổ tích ra đời, là ngày
chúng ta có thuần phong mỹ tục, là ngày mà chúng ta biết trồng tre diệt giặc, cũng là
ngày bà con người Việt Nam ta biết dựng nhà, trồng lúa. Có thể nói Đất Nước mà
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nguyễn Khoa Điềm gợi lại thông qua các chất liệu văn hóa dân gian lâu đời của dân
tộc đã đem đến cho người đọc những xúc cảm gần gũi, thân thuộc và bình dị, để lại
trong tâm hồn con người cảm giác tha thiết và gắn bó vô cùng.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”
Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình
tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo
cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự,
tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người
đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về
phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví ““Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi
em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời
thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong
nỗi nhớ thầm”, tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và
em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra
thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất Nước trở
thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi. Không chỉ thế
“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc...Đất Nước là nơi dân mình
đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu ở trên ta thấy một Đất
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng
vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc,
được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Và cuối cùng dù đi đâu về đâu
thì phượng hoàng cũng phải về núi, cá ngư ông thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc
Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất Nước. Như vậy có thể tóm gọn lại Đất
Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng
một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính
xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi
nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân
tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng
dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua
Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha
thiết, phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
gìn non sông gấm vóc, và luôn nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính,
trân trọng.
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong
mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những
phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất
Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi
ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con người phải có trách nhiệm
xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng thắm”.
Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”,
phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên
một “đất nước vẹn trong to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ
vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở
chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
Phân tích bài Đất nước - Mẫu 17
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước
chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng
ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh,
đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất
nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa
Điềm
Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử.
Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của
cảm xúc chính tác giả.
Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với
những ngày đầu mới khai sinh:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.
Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái
niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi
chúng ta. Tác giả sử dụng từ "khi" để đánh dấu sự ra đời của khái niệm "đất nước". Từ
khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lý giải
nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu
nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những "ngày xưa ngày xưa". Đó như một nốt
nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ:ngày xửa, ngày xưa"
đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết
rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh
giặc. Là những con người đó làm nên đất nước...
Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt
Nam.
Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của
công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó
Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt
của con người như "kèo, cột" đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị,
rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.
Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất
nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khan trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không chỉ hiện hiển trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con
người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả
đã cắt nghĩa "đất nước" thành hai từ "đất" và "nước" để lý giải cụ thể ý nghĩa của từng
từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được
tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn
hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất
nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà
người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh "con chim phượng hoàng", "núi bà
đen, bà điểm", "lạc long quân âu cơ" chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều
thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. NHớ về cội nguồn, nhớ về những ngày
xưa vất vả chính là đạo lý, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân
ta.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định.
Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải
cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía
cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức
đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.
Hơn hết tác giả còn khẳng định
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách
nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của
đất nước này.
Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể
phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế.
Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã
xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay.
Phân tích bài thơ Đất nước - Mẫu 18
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim
con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua
những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào
của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời
lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ
trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn
vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng
ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông
qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ
muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ
trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với
hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện hình
trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre
trước ngõ... gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son
tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả
cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn
nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của
một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia
đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất
nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia.
Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của
một ai đó hôm nào: Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng
quên nhau.
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà
cửa:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và
giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng
của mình về đất nước với quan niệm "Đất nước của nhân dân".
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn
Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lý mênh mông từ rừng đến bể
mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không
gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được
gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi
ra từ đó. Sử dụng lối chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý
nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta
về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu
hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không
những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những
người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp
khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn - biểu tượng của nỗi nhớ thương - đã từng
làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: "Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất...",
một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của
những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con
chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang
phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước
mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất
là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc
cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng
về cội nguồn.
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian
mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng
Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và
Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội
nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất
tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.
Phân tích Đất nước - Mẫu 19
Từ bao đời nay, đất nước luôn là đề tài muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ, nhà
văn từ khắp mọi miền, tình yêu quê hương đất nước dường như đã đi vào từng câu
hát, từng lời văn, lời thơ. Không giống như đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Hoàng
Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài đất nước hiện lên thật
đầy đủ và trọn vẹn. Bài thơ "Đất nước" của tác giả xoay quanh cuộc sống sự gần gũi,
bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường,
mạnh mẽ vươn lên trên mọi sóng gió.
Ngay từ đầu, những vần thơ đầy nhẹ nhàng, bình dị đến thân thương đã dẫn dắt người
đọc trở về thuở sơ khai, khi đất nước mới được sinh ra:
"Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó... "
Bằng những lời thơ bình dị mà tinh tế, khái niệm "Đất nước" đã được nêu lên thật cụ
thể. Đất nước hiện ra thật đẹp đẽ, giản đơn mộc mạc hơn bao giờ hết, không biết có từ
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
bao giờ, chỉ biết trong những câu chuyện mẹ kể từ rất bé thì đất nước đã có rồi. Người
đọc như được dẫn dắt trở về với quá khứ, với những điều thân quen đầy nhưng nhớ
"ngày xửa ngày xưa", một khoảng
Không gian dài đằng đẵng hiện lên, thật xa vời nhưng cũng gần gũi đến lạ thường.
Không xác định được một mốc dấu cụ thể, chính xác. Tiếp theo, đất nước được hiện
lên qua miếng trầu bà ăn, qua hình ảnh những lũy tre xanh bên làng quanh năm mưa
nắng nhọc nhằn. Đất nước đã lớn lên và vượt qua bao khó khăn từ khi người dân mình
biết trồng tre đánh giặc, bảo vệ xóm làng, bảo vệ từng tấc đất thân yêu của quê hương.
Hay cả những hình ảnh thật đơn giản, nhưng lại có một tình cảm dào dạt chan chứa, là
hình ảnh mẹ bới tóc sau đầu, cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Rồi cả
những hình ảnh mộc mạc tưởng như vô tri, vô giác nhưng lại mang một linh hồn của
sự sống "cái cột", "cái kèo", hạt gạo tinh trắng tượng trưng cho hình ảnh đẹp đẽ của
đất nước trải qua biết bao thăng trầm, chông gai.
Đất nước được thấy qua cái nhìn đơn giản của người dân lao động chất phác, chân lấm
tay bùn nhưng tình cảm vẫn luôn nồng nàn, đằm thắm.
Bằng những lời thơ bình dị như thế, đất nước tiếp tục được nhà thơ vẽ ra qua cái nhìn
của một tình yêu trong sáng, thuần khiết lứa đôi:
"Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm"
Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm,
Đất Nước là nơi hẹn hò, là nỗi nhớ thầm da diết. Một sự hội tụ đầy tương xứng đẹp đẽ
đến bất ngờ, sự nảy mầm và ra hoa kết trái của Đất-Nước như chính tình yêu xanh
tươi được vun đúc để tạo thành nỗi nhớ vô bến bờ. Đất nước được hình thành từ chính
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
những tình yêu lứa đôi chung thủy, mặn nồng hòa quyện vào tình yêu to lớn của quê
hương đất nước.
Không phải là một khoảng không thênh thang, rộng lớn bao la, Đất nước còn hiện hữu
trong chính không gian sinh hoạt, cuộc sống bình dị của người dân:
"Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng"
Như quay ngược thời gian, mảnh đất đầu tiên đã có, những người con đất việt đầu tiên
đã đặt chân lên cái nền móng của quê hương từ thời tổ tiên Lạc Long Quân và Âu Cơ:
"Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"
Cội nguồn của một dân tộc hào hùng dần lộ ra qua những lời thơ quá rõ ràng của tác
giả. Khẳng định chắc chắn rằng đất nước đã có từ rất lâu, từ thời Lạc Long Quân và
Âu cơ, những người tổ đã khai hoang nên mảnh đất màu mỡ, xanh tươi của cuộc sống
với biết bao trang sử hào hùng, lẫm liệt.
Hay đất nước lại trở về với sự gần gũi quanh ta, về với mái nhà của sự yêu thương,
che chở:
"Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn"
Tác giả như khẳng định một trách nhiệm to lớn cho thế hệ đi sau, nó như một cây cầu
còn dang dở trên con đường đi tới ngày mai của đất nước. Không chỉ có vậy, đất nước
vẹn tròn, to lớn khi tất cả mọi người cùng nắm tay, cùng nhau xây dựng, vun đắp nên
một đất nước hòa bình, tươi đẹp.
Và hơn thế nữa, đất nước sẽ còn đi xa, đi tới những chân trời mộng mơ, và mãi trường
tồn vững vàng:
"Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời... "
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Gánh nặng như được sẻ chia cho thế hệ sau, giữ gìn đất nước hòa bình và luôn thật
tươi đẹp để có thể vươn xa hơn trong tương lai. Như một lời nhắn nhủ đầy tha thiết,
dạy cho con cháu phải biết sống và đấu tranh cho chính quê hương thân yêu, san sẻ và
gắn bó cùng đất nước như chính xương thịt, ruột gan của mình để làm nên Đất Nước
muôn đời.
Đi sâu vào từng ngõ ngách trên đất nước Việt Nam, tác giả đã vẽ nên một bức tranh
toàn cảnh với đầy đủ những núi non trập trùng, hiên ngang như chính dáng hình đất
nước, cả những dòng sông sâu thẳm, nước xanh một màu. Đất Nước hiện hữu khắp
mọi nơi, tác giả như muốn nói rằng đất nước là do nhân dân làm nên từ muôn đời
bằng chính tình yêu nồng thắm, chân thành:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta"
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Bằng ngòi bút ví von mà chân thực tác giả Nguyễn Khoa Điềm lần lượt vẽ nên những
chiến công hiển hách của cha ông ta. Là hình ảnh những người con đất Việt hi sinh cả
tuổi xuân, cả cuộc đời mình để góp xương, góp máu cho Đất nước, để lại con thơ, vợ
hiền da diết ngóng trông. Là tình yêu vững bền như những tảng đá lớn, đứng hiên
ngang chẳng ngại gió mưa. Những vết dấu oai hùng, dũng mãnh bước qua để đời đời
còn nhắc mãi,... Đất nước có một phần xương máu của những con người bất khuất,
trung kiên, một đời vì Đất nước, nguyện hi sinh tất cả để đất nước được trường tồn
hơn bốn nghìn năm và lâu hơn thế. Vẽ ra bức tranh toàn cảnh rộng lớn của đất nước,
sự tươi đẹp của non sông gắn liền với những trang sử hào hùng của cả một dân tộc.
Để làm nên một người anh hùng thì có biết bao nhiêu người anh hùng đã ngã xuống,
mà không ai biết tên họ, không ai còn nhớ. Để làm ra đất nước những vị anh hùng dân
tộc đã ngã xuống không một chút do dự, nuối tiếc, sẵn sàng đánh đổi tất cả để thấy
được sự tươi đẹp của Đất Nước mai sau.
Phân tích Đất nước - Mẫu 20
Mặt đường khát vọng là tập trường ca hùng tráng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn
thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971. Bản trường ca khái quát quá trình thức tỉnh
của tuổi trẻ các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam. Họ nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế
quốc Mỹ; hướng về nhân dân, về đất nước; ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình,
đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn
trích Đất Nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.
Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày sự cảm nhận và lý giải của tác giả
về đất nước, cũng đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của cả bản trường ca, đó
là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân". Trình tự triển khai mạch suy nghĩ và cảm xúc
của tác giả khá chặt chẽ nhưng cũng rất phóng túng. Đoạn thơ mở đầu bằng những lời
định nghĩa say sưa về đất nước. Tiếp đó là sự hình dung về đất nước qua chiều dài
thời gian - lịch sử, qua về rộng của không gian - lãnh thổ địa lí và qua chiều sâu văn
hóa - phong tục, lối sống, tính cách của người dân Việt Nam, với một niềm tự hào sâu
sắc. Từ ba bình diện này, lời thơ hào hứng, giàu chất suy tư hướng đến tư tưởng chủ
đạo: "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân". Mạch cảm xúc và suy tư của bài thơ trôi
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
chảy một cách tự nhiên, vừa chặt chẽ vừa đầy hứng khởi, đồng thời lại cũng có những
vang động sâu xa.
Trong phần đầu của đoạn trích, bằng hình thức trữ tình - chính luận, nhà thơ đã đưa ra
định nghĩa riêng của mình về đất nước bằng những cảm nhận về đất nước trong cổ
tích, ca dao. Lời thơ định nghĩa thoát khỏi những khái niệm khó khăn để trở thành một
cuộc chuyện trò gần gũi, thân mật mà bay bổng. Mức độ đậm đặc của các chất liệu lấy
từ cổ tích, truyền thuyết, ca dao, dân ca, huyền thoại.... tạo cho đoạn thơ đầu một âm
hưởng đầy quyến rũ. Những câu thơ như:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "Ngày xửa ngày xưa..."mẹ thường hay kể
Đoạn thơ đầu làm mờ đi khái niệm đất nước là của các vương triều. Ngay từ lúc sơ
khai, nó đã là của nhân dân. Định nghĩa đất nước bằng sự lựa chọn chất liệu từ văn
hóa dân gian, đó là một ẩn ý của Nguyễn Khoa Điềm bời văn hóa dân gian của nhân
dân. Cách định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm là một sự khám phá mới mẻ, độc đáo
tạo ra sự hấp dẫn và thú vị đối với người đọc.
Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã chạm được vào những gì
thiêng liêng nhất, lớn lao nhất nhưng cũng lại gần gũi và thân thiết nhất đối với mỗi
chúng ta. Nõ dễ gợi cho ta những suy ngẫm về quá khứ, về lòng tự hào dân tộc. Và
bởi thế, nó thức tỉnh ý thức dân tộc và tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với
nhân dân trong mỗi chúng ta.
Phần sau của đoạn thơ từ "Những người vợ nhớ chồng" đến hết đoạn trích là phần tập
trung làm nổi bật tư tưởng "Đất nước của nhân dân". Trong phần này, tư tưởng đã quy
tụ mọi cách nhìn nhận và đưa đến những phát hiện sâu sắc và mới mẻ của tác giả về
địa lí, lịch sử và văn hóa của đất nước.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Quả là những phát hiện rất mới về thiên nhiên đất nước. Những núi Bút, non Nghiên,
núi Vọng Phu, hòn Trống Mái... vốn đã rất quen thuộc nay bỗng trở nên thật lạ. Nó
không phải là sản phẩm của tạo hóa mà là tâm hồn, là số phận của nhân dân. Đến đây,
thiên nhiên, tạo hóa không phải là cái làm nảy sinh ra những câu chuyện đầy huyền
thoại mà chính những câu chuyện về những tâm hồn, những số phận của con người
trong quá khứ làm cho những danh thắng kia có tâm hồn, làm cho nó sống mãi. Cái
nhìn rất thơ của tác giả đi đến một khái quát đầy thấm thía:
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...
Tiếp nối những câu thơ khám phá độc đáo về thiên nhiên là những câu thơ khám phá
vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam, cũng như vai trò, vị trí của con người Việt Nam
trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những con người yêu
thương sâu sắc, thủy chung tình nghĩa; là những con người cần cù lao động, anh hùng
trong đánh giặc; là những con người "không ai nhớ mặt đặt tên" nhưng chính họ "đã
làm ra Đất Nước". Họ là những người âm thầm làm nên lịch sử, âm thầm gìn giữ
những nét văn hóa của dân tộc qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử dân tộc.
Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đó là một chân lý. Một chân lý đã được nhận thức trong suốt quá trình phát triển dài
lâu của lịch sử nhưng chỉ đến văn học Việt Nam hiện đại, nó mới đạt đến đỉnh cao,
mới cất lên thành những tuyên ngôn đầy tự hào và hang động sâu xa.
Phân tích Đất nước - Mẫu 21
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim
con người . Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua
những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào
của bao lớp thi nhân . Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời
lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ
trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp một cái nhìn toàn
vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư tưởng
ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước . Thông
qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ
muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ
trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước .
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với
hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước .
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc .
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người . Đất Nước hiện hình
trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre
trước ngõ ... gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược . Mỗi quả
cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn
nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của
một dân tộc giàu truyền thống văn hóa , giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia
đình . Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn . Gừng tất nhiên là cay, muối tất
nhiên là mặn . Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia .
Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của
một ai đó hôm nào : Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng
quên nhau .
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà
cửa :
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và
giản dị biết bao . Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng
của mình về đất nước với quan niệm "Đất nước của nhân dân" .
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn
Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình :
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc
khăn trong nỗi nhớ thầm.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể
mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không
gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được
gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi
ra từ đó . Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý
nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta
về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh .
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu
hiền . Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn . Không
những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những
người đang yêu . Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp
khi anh và em kết lại thành ta . Chiếc khăn - biểu tượng của nỗi nhớ thương - đã từng
làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng : "Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất ...",
một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của
những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương . Hình ảnh con
chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang
phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả . Đất Nước
mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất
là đối với những người đi xa . Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ
gốc cây đa lại về . Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương,
hướng về cội nguồn .
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian : Thời gian đằng đẵng, không gian
mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng
Việt Nam qua bao thế hệ . Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân
và Âu Cơ , về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ . Nhắc lại Lạc Long Quân và
Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về
cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về
đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình .
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở :
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng , tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống
lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện : trong
chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch
sử, trong bề dày của văn hóa - phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc .
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì
tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi , nó như một hệ qui chiếu mọi
cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ .
Và cụ thể hơn nữa , gần gũi hơn nữa , Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng
ta :
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người,
vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả
đất nước . Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần
của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời .
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng : Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra
Đất nước .
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh
lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước . Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên ... không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được
cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là
những đóng góp của nhân dân , sự hóa thân của những con người không tên tuổi :
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ
chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái" , "Người học trò thắng cảnh" . Ở đây cảnh
vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm
hồn, máu thịt của nhân dân . Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã
ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi , dòng sông . Từ những hình ảnh, những
cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc :
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử
bốn nghìn năm của đất nước . Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến
những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô
danh, bình thường, bình dị . Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người
vô danh bình dị đó .
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau
các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa,
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao . Mạch
cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của
cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo :
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng
vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân
tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quý trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt
trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm
hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách
reo vui ...
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về Đất
nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không còn xa lạ,
trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng . Đọc Đất nước của
Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần
dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại .
Phân tích Đất nước - Mẫu 22
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước
chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng
ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh,
đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất
nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh
được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa
Điềm
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử.
Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của
cảm xúc chính tác giả.
Bài thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với
những ngày đầu mới khai sinh:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc.
Đất nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái
niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi
chúng ta. Tác giả sử dụng từ "khi" để đánh dấu sự ra đời của khái niệm "đất nước". Từ
khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải
nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu
nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những "ngày xưa ngày xưa". Đó như một nốt
nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ :ngày xửa, ngày
xưa" đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ
biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh
giặc. Là những con người đó làm nên đất nước...
Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt
Nam.
Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của
công cuộc lao động để xây dựng và phát triển:
Cái kèo cái cột thành tên
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã giần sàng
Đất nước có từ ngày đó
Một một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt
của con người như "kèo, cột" đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị,
rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn.
Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất
nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khan trong nỗi nhớ thầm
Đất nước không chỉ hiện hiển trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con
người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả
đã cắt nghĩa "đất nước" thành hai từ "đất" và "nước" để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng
từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được
tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.
Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn
hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất
nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà
người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh "con chim phương hoàng", "núi bà
đen, bà điểm", "lạc long quân âu cơ" chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều
thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. NHớ về cội nguồn, nhớ về những ngày
xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân
ta.
Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong sự hình thành và phát triển, bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định.
Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải
cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.
Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía
cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức
đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.
Hơn hết tác giả còn khẳng định
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách
nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của
đất nước này.
Đất nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Một quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể
phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế.
Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã
xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nay:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Lại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa "đất nước", những con người đó họ
dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại.
Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng
đắn và sâu sắc nhất về đất nước:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Thật vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc
về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu sắc.
Như vậy Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã
khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi
con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn còn sống mãi
trong lòng người đọc.
Phân tích Đất nước - Mẫu 23
Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn
Khoa Điềm về vai trò và những hy sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng
nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân
thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng "Đất nước của nhân
dân, Đất nước của ca dao thần thoại" là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình
thức chương V của bản trường ca này.
Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ
trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản
dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo
vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống văn hóa, lịch sử hàng ngàn
đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà
bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần
thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn
thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ
trong những năm chống Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu
chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của
cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư
tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện:
trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn
hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện,
thống nhất chặt chẽ với nhau trong một "hệ quy chiếu". Đất nước của nhân dân vốn là
linh hồn của cả bài thơ.
Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không
khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các
chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong
tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những
chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kỳ
diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần
chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo văn học
dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
- đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của
bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định
nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh
động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần
gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình
lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua "miếng trầu bây giờ bà ăn", qua cái kèo, cái
cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là cài gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận
mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà
vấn đề dân tộc nói lên như một vấn đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước
không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng
ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối
quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử,
truyền thông, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc
Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương
diện truyền thống, văn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc
sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền
với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày dỗ tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất
Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam
thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa,
mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận
như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không
tuổi: "Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ
chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái". "Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình
Bút non Nghiên". Cả đến "Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành
thắng cảnh", ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa
Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo
dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã
"quy nạp" thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch
sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói
tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con
người vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những
con người bình dị, vô danh đó:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau
những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa,
tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ.
Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm
bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo.
Phân tích Đất nước - Mẫu 24
Cùng với các nhà thơ trong thế hệ chống Mỹ lúc bấy giờ, Nguyễn Khoa Điềm dường
như cũng hướng ngòi bút của mình đến một chủ đề lớn lao của thơ ca đương thời đó
không gì khác chính là đất nước. Tuy nhiên, có thể nói rằng hình ảnh “đất nước” trong
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có đau thương mất mát hay chỉ có những cảnh sơn
hào hùng vĩ mà “đất nước” hiển hiện lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết
sức mới mẻ. Qua đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của
ông thì đây chính là một định nghĩa đủ đầy về đất nước và qua đó cũng thể hiện sâu
sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân.
Mở đầu bài thơ chính là một lời tâm tình sâu lắng đưa ta về với cội nguồn:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này của Nguyễn Khoa Điềm dường như ta có thể thấy rằng, đất nước
không phải là cái gì trừu tượng, xa xôi khó nắm bắt mà đất nước chính là những gì
thân thuộc và gần gũi nhất. Đất nước có từ trong những câu chuyện ngày xửa ngày
xưa, trong miếng trầu của bà ăn, trong ống tre bất khuất kiên cường, trong những phục
tục tập quán, trong hạt gạo nấu những bữa cơm hàng ngày… đều hiện hình lên một đất
nước Việt Nam rất đỗi anh hùng, tình nghĩa, giản dị mà thân thương nhất. Và đây có
thể nói chính là một định nghĩa, định danh về đất nước hoàn toàn mới và hoàn toàn
thiết thực nhất, rõ ràng nhất.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ là những khoảng giới hạn về
không gian địa lý chật hẹp nữa mà ở đây nó còn có chiều dài thời gian lịch sử và chiều
sâu văn hóa. Không những thế, “đất nước” còn chính là tình yêu đôi lứa, có trong tình
yêu đôi lứa:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…
Đất và nước dường như tách riêng, và từng phần đều lại như đã tượng trưng cho
những điều gần gũi nhất. “Là nơi anh đến trường” hay “là nơi em tắm” hàng ngày.
Thế nhưng để rồi khi “ta hò hẹn” thành một đôi trọn vẹn thì cũng như đất nước gộp lại
vẹn tròn lại thành một. Và có thể nói rằng với phát hiện mới mẻ này, Nguyễn Khoa
Điềm đã chỉ ra rằng Đất nước không chỉ bên ta, xung quanh ta và còn có cả ở trong ta
nữa.
Đất nước còn chính là nơi khởi đầu cho những câu chuyện xa xưa, cho những câu ca
dao tục ngữ, điển tích điển cố và tất thảy mọi sự sinh thành. Và hình ảnh đặc sắc “con
chim phượng hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” là những
minh chứng độc đáo cho đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến của chúng ta. Nhớ về
đất nước cũng như chính là một cách để ta có thể nhớ về cội nguồn, hiểu được vì sao
chúng ta được sinh ra. Chính vì thế, đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm
còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Dặn dò con cháu chuyện mai sau…
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Biết bao thế hệ anh cha ta đã hi sinh, đã ngã xuống để bảo vệ đất nước, bảo vệ núi
sông bờ cõi. Đó còn chính là cả một chiều dài lịch sử hào hùng rất tự hào của dân tộc
ta. Chính vì thế, con cháu đời sau phải tiếp tục gìn giữ truyền thống ấy. Với một
truyền thống yêu nước, thương nòi, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ non sông
cho những thế hệ về sau. Và cho đến thời đại của ngày hôm nay, “trong và em” “đều
có một phần đất nước”. Dường như chính phần đất nước ấy là phần máu thịt, là một
phần trách nhiệm phải giữ gìn và xây dựng, phần tình yêu để bảo vệ đất nước cho con
cháu mai sau.
Vì có phải những người đã không quản ngại thân mình hy sinh cho đất nước, làm nên
hình hài của đất nước cho nên:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Khi nói về 4000 năm lịch sử oanh liệt hào hùng của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm
không hề kể về những vương triều to lớn hay những anh hùng nổi tiếng mà lại nhấn
mạnh “người làm ra đất nước” lại chính là những con người bình dị đời thường và họ
là những người vô danh. Chính họ chứ không phải ai khác, không phải là một ông vua
bà chúa nào, họ đã gìn giữ và truyền lại hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ cho đời
sau. Và từ chính những con người vô danh làm nên đất nước bao năm qua đã giúp tác
giả khẳng định một chân lý:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại
Đối với câu thơ sau, hai vế dường như song song nhân dân – đất nước lại càng khẳng
định đất nước chính là kết tinh những giá trị tinh thần cao quý trong đời sống trí tuệ và
tình cảm của nhân dân. Những giá trị ấy cũng như đã kết tinh lại trong những câu ca
dao, tục ngữ, trong những câu chuyện thần thoại cổ tích của cha ông ta để lại. Và định
nghĩa về đất nước đến đây vừa giản dị nhưng cũng vừa lớn lao, sâu sắc biết bao nhiêu.
Phân tích Đất nước - Mẫu 25
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu
nước và cách mạng ở thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa
Thiên – Huế. Quê gốc của ông ở làng An Cựu, xã Thủy An. Ông học tập và trưởng
thành trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, rồi trở về Nam tham
gia chiến đấu chống Mĩ. Sau 1975, Nguyễn Khoa Điềm hoạt động văn nghệ và chính
trị ở Huế.
Ông được bầu làm Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam khóa V và Bộ trưởng Bộ Văn
hóa – Thông tin. Từ năm 2001 đến 2006, ông là ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung
ương Đảng, Trưởng Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương. Nguyễn Khoa Điềm thuộc
thế hệ các nhà thơ mà tài năng và tên tuổi được khẳng định trong thời kì chống Mĩ cứu
nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng về
đất nước, về dân tộc. Năm 2000, ông vinh dự được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về
văn học nghệ thuật.
Tác phẩm chính: Đất ngoại ô (thơ, 1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974),
Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (thơ, 1986), Cõi lặng (thơ, 2007). Trường ca Mặt đường
khát vọng được tác giả sáng tác ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm
1974, nội dung phản ánh sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm bị chiếm ở miền
Nam đang xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ
xâm lược; đồng thời thể hiện những suy ngẫm và quan điểm của nhà thơ về đất nước,
dân tộc.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đoạn trích Đất Nước nằm ở phần đầu chương V của trường ca là một trong những
đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Tác giả bày tỏ suy
nghĩ và tình cảm tha thiết, sâu sắc của bản thân về đất nước trên nhiều bình diện địa lí,
lịch sử, văn hóa, phong tục… với tư tưởng bao trùm: Đất Nước của Nhân dân
Đoạn trích chia làm hai phần: Phần một: Từ đầu đến… Làm nên Đất Nước muôn đời:
cảm nhận của tác giả về đất nước trên các phương diện cuộc sống của con người: địa
lí, lịch sử, văn hóa, phong tục. Phần hai: Tác giả đúc kết nên một chân lí khái quát:
Đất Nước của Nhân dân.
Giữa hai phần gần như không có sự tách biệt rõ ràng về nội dung vì ở phần nào tác giả
cũng thể hiện sự cảm nhận về Đất Nước trên nhiều mặt, nhưng mỗi phần có một trọng
tâm khác nhau trong nội dung tư tưởng và cảm xúc. Ở phần 1, Đất Nước được tác giả
cảm nhận từ những gì gần gũi, bình dị trong cuộc sống hằng ngày, sau đó mở rộng ra
với Thời gian đằng đẵng – Không gian mênh mông trong những truyền thuyết về thời
dựng nước. Cuối cùng, cảm nhận của nhà thơ hướng vào sự hiện diện của Đất Nước
trong mỗi con người; từ đó nhắc nhở trách nhiệm của mỗi công dân đối với Đất Nước.
Ở phần sau, Đất Nước được nhà thơ đúc kết thành quan niệm: Đất Nước của Nhân
dân, chính Nhân dân đã làm nên đất nước. Khái niệm Đất nước được gợi nên từ những
thắng cảnh thiên nhiên, những địa danh gắn với những tên người bình dị… Đất Nước
gắn với bề dày lịch sử bốn nghìn năm với những lớp người không nhớ mặt đặt tên.
Họ từng sống rất giản dị và bình tâm, nhưng cũng chính họ là những người đã làm nên
Đất Nước, truyền lại cho con cháu muôn đời. Cuối cùng, mạch suy tưởng của tác giả
dẫn đến một chân lí khái quát: Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần
thoại.
Khác với các nhà thơ trước, khi viết về đất nước thường dùng những hình ảnh kì vĩ,
mĩ lệ, mang tính biểu tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn cách thể hiện rất tự nhiên và
bình dị:
Khi ta lớn tên Đất Nước đã có rồi
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…”mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này, Nguyễn Khoa Điềm bày tỏ cảm xúc và suy tưởng của mình về
Đất Nước dưới hình thức trò chuyện tâm tình, tạo ra một cảm giác gần gũi, thân thiết.
Nhà thơ lấy chất liệu từ văn hóa dân gian, từ ca dao, tục ngữ, từ đời sống quen thuộc
hằng ngày. Bởi vậy nên không gian nghệ thuật được mở rộng ra nhiều chiều và hình
tượng thơ trở nên trữ tình, bay bổng.
Đất Nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, từ lời kể chuyện ngày xửa ngày
xưa của mẹ, từ các phong tục tập quán có từ lâu đời: Miếng trầu bây giờ bà ăn, Tóc
mẹ thì bới sau đầu. Đất Nước có từ khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Đất
Nước hình thành từ tình nghĩa vợ chồng thủy chung, Cha mẹ thương nhau bằng gừng
cay muối mặn, từ quá trình lao động bền bỉ của dân tộc; từ hình ảnh hạt gạo ta ăn hằng
ngày thấm đẫm mồ hôi một nắng hai sương.
Câu thơ: Cái kèo cái cột thành tên diễn tả thời gian hơn là không gian. Phải bao năm
tháng những vật dụng hằng ngày trong nhà mới có tên để gọi. Đấy cũng là quá trình
sinh thành của Đất Nước từ không đến có, từ nhỏ hẹp tới lớn lao. Tất cả những điều
đó làm cho khái niệm Đất Nước trở nên gần gũi, thân thiết đối với mỗi con người.
Có thể coi đoạn thơ mở đầu là câu trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có tự bao giờ? Lịch
sử lâu đời của đất nước Việt Nam được cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
triều đại phong kiến hay các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các
truyền thống có từ xa xưa: Trầu cau (miếng trầu bây giờ bà ăn), Thánh Gióng (dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc… đến nền văn minh lúa nước sống Hồng cùng
những phong tục, tập quán có từ lâu đời. Đó chính là Đất Nước được cảm nhận từ
chiều sâu, từ bề dày của văn hóa và lịch sử.
Phân tích Đất nước - Mẫu 26
Nguyễn Khoa Điềm một cây bút tài năng, thơ ông giàu cảm xúc, đậm chất chiêm
nghiệm, suy tư, đi vào chiều sâu triết lí. Trong hệ thống sáng tác của ông, nổi bật nhất
chính là trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đoạn trích trong sách giáo khoa được trích
từ phần đầu của chương V, có tên là Đất nước đã nói lên nguồn gốc cũng như truyền
thống vẻ vang của dân tộc.
Trong phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Khoa điềm đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Đất
nước là gì?” và “Đất nước có từ bao giờ?”. Với câu hỏi đầu tiên, tác giả đem đến cho
người đọc câu trả lời: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi/ …/ Đất Nước lớn lên khi
dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Như vậy, với cách giải thích hết sức gần gũi,
thân thuộc, đậm chất dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã cho người đọc thấy đất nước đã
có từ lâu đời, từ những câu chuyện cổ tích dung dị mà ta vẫn nghe hàng ngày; là sự
tích trầu cau đượm tình vợ chồng, thắm thiết tình anh em; là truyền thuyết Thánh
Gióng cậu bé vụt lớn nhổ cây bên đường đánh tan giặc Ân. Không chỉ vậy đất nước
còn gắn liền với những phong tục tập quán đẹp đẽ của cha ông: “Tóc mẹ thì bới sau
đầu/ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.Hình ảnh người phụ nữ Việt
Nam duyên dáng, gọn gàng với búi tóc được búi cao sau đầu, đây là nét văn hóa đặc
trưng của người dân Việt Nam. Tác giả cũng đã vận dụng tài tình “gừng cay muối
mặn” để thấy rõ tình nghĩa thủy chung, hôn nhân bền chặt sâu sắc của cha ông ta thuở
trước. Để làm rõ khái niệm đất nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục cho ta thấy đất
nước đã có từ rất lâu trong tiến trình phát triển của cuộc sống đời thường: là khi chúng
ta dựng nhà, sinh con đẻ cái: Cái kèo cái cột thành tên, cách đặt tên đơn giản này cũng
xuất phát từ quan niệm của ông cha ta, đặt tên xấu cho dễ nuôi; là nền văn minh lúa
nước: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng. Phải trải qua rất nhiều
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
giai đoạn khác nhau mới có thể tạo nên hạt gạo trắng, hạt cơm thơm ngon, ngọt bùi.
Và lời thơ kết đoạn thật nhẹ nhàng: “Đất nước có từ ngày đó”. Ngày đó là ngày có sự
kết hợp của phong tục, truyền thống, văn hóa được tạo dựng trong một thời gian lâu
dài.
Sau khi trả lời câu hỏi đất nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục truy
nguyên, để tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi thứ hai: “Đất nước là gì?”. Những tưởng
rằng đất nước là những gì cao siêu, xa vời, khác thường, nhưng không, đối với
Nguyễn Khoa Điềm không gian đất nước lại được tái hiện hết sức bình dị, gần gũi với
cuộc sống hàng ngày của con người: “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em
tắm”; đất nước là không gian của tình yêu đôi lứa, để đôi ta hò hẹn và nhung nhớ nhau
trong chiếc khăn lỡ đánh rơi; không chỉ vậy, đất nước còn là nơi trở về của những
người con có tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng: “Đất là nơi con chim phượng
hoàng bay về hòn núi bạc/ Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”; và đất
nước còn là không gian sinh sống của biết bao thế hệ cha ông. Đất nước hiện lên vừa
giản dị, là nơi gầy dựng cuộc sống yên ấm hạnh phúc, lại vừa lớn lao, vĩ đại.
Không chỉ cảm nhận đất nước ở chiều không gian, mà tác giả còn cảm nhận cả ở chiều
dài lịch sử từ quá khứ “đằng đẵng”, đất nước hào hùng, với sự ngã xuống của nhiều
người, đem lại bình yên cho quê hương, xây dựng phong tục tập quán và “gánh vác
phần người đi trước ở lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau”. Trong hiện tại, đất nước
giản dị gần gũi, trong mỗi con người đều có một phần của đất nước, và khi có sự đoàn
kết của tất cả mọi người sẽ đem lại một đất nước vẹn tròn, đầy đủ và tràn đầy sức
mạnh nhất: “Khi chúng ta nắm tay mọi người/ Đất nước vẹn tròn to lớn”. Ở đây thi
nhân đã rất tinh tế khi đi từ cái riêng, tình cảm cá nhân: “khi hai đứa cầm tay/ Đất
nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm” để đi đến cái lớn lao, tập thể là đất nước vẹn
tròn to lớn. Còn sợi dây nào bền chặt hơn sợi dây tình cảm, sợi dây ấy sẽ gắn kết tất cả
mọi người với nhau tạo nên một đất nước vững bền. Không dừng lại ở đó, ông còn
hướng ánh mắt mình đến tận tương lai để hi vọng, để tin tưởng vào tương lai tươi sáng
của đất nước: “Mai này con ta lớn lên/ Con sẽ mang đất nước đi xa/ Đến những tháng
này mơ mộng”. Và từ đó ông nêu lên trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ
thế hệ trẻ đối với đất nước: “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”.
Trước hết, ông khẳng định đất nước là xương máu của mình, của cha ông để lại, bởi
vậy vận mệnh của đất nước nằm trong tay mỗi chúng ta. Hai câu thơ sau như một
mệnh lệnh “phải biết” cống hiến sức mình cho sự nghiệp chung của đất nước. Và câu
thơ cuối là lời gọi đầy tha thiết “em ơi em” thể hiện sự chân thành, bởi vậy mà sức lan
tỏa càng trở nên mạnh mẽ hơn.
Nếu như trong phần đầu tiên của tác phẩm là hành trình Nguyễn Khoa Điềm cắt
nghĩa, lí giải, truy nguyên nguồn gốc của đất nước thì đến phần còn lại của đoạn trích
ông đi tìm “Ai đã là người làm nên Đất nước”. Đoạn thơ thể hiện rõ nét và sâu sắc
nhất tư tưởng đất nước nhân dân của ông. Với Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân chính là
người đã làm ra Đất Nước nên “Đất nước này là Đất Nước của nhân dân”. Tư tưởng
này không chỉ đến Nguyễn Khoa Điềm mới có, mà cách đón hàng trăm năm, Nguyễn
Trãi cũng đã từng khẳng định: “Phúc chu thủy tín dân do thủy” (Lật thuyền mới biết
dân như nước). Đối với Nguyễn Khoa Điềm ông không chỉ dừng lại ở lời khẳng định,
mà còn lần lượt chứng minh trên các phương diện địa lý, lịch sử và văn hóa.
Trước hết là trên phương diện không gian địa lí, thi sĩ cảm nhận đất nước qua những
danh lam, thắng cảnh, là núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, đất tổ Hùng Vương. Đoạn thơ
có sự xuất hiện với mật độ dày đặc của những địa danh quen thuộc, gần gũi đã làm
nên bức tranh sống động về thiên nhiên quê hương đất nước. Đồng thời, nó còn gợi
liên tưởng sâu xa về vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam ẩn chứa trong dáng hình
sông núi. Đặc biệt, kết cấu đoạn thơ rất lạ và độc đáo, dù có độ dài ngắn khác nhau
nhưng chúng đều có chung một cấu trúc: chia làm hai vế và giữa các vế được nối kết
bằng từ: góp, góp cho, góp nên, góp mình. Qua đó đã khẳng định, đằng sau vẻ đẹp của
hình sông, dáng núi là sự cống hiến, hy sinh thầm lặng của biết bao thế hệ con người
cho đất nước hôm nay.
Bốn câu thơ cuối khiến cho tầm khái quát của đoạn thơ được nâng lên một bước: Và ở
đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/ Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối
sống ông cha/ Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy/ Những cuộc đời
đã hóa núi sông ta. Bốn câu thơ là lời khẳng định cho sự hóa thân thần kì và bền bỉ
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
của nhân dân vào bóng hình, vào sự tồn vong của đất nước. Không phải những thế lực
siêu nhiên, mà giản dị hơn nhiều, chính nhân dân là người đã tạo dựng, đã đặt tên, ghi
dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất này.
Trên phương diện thời gian lịch sử, nhìn vào bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước,
Nguyễn Khoa Điềm càng thấm thía hơn công lao to của cha ông khi xây dựng đất
nước, nhất là lớp người trẻ tuổi. Đó là những con người bình dị, năm tháng nào cũng
có, cũng giống như anh và em của hôm nay. Khi đất nước yên bình, họ hiền lành và
chăm chỉ trong công việc lao động để xây dựng đất nước, đưa đất nước đi lên sánh
ngang với bè bạn quốc tế: Năm tháng nào cũng người người, lớp lớp/ Con gái, con trai
bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng. Còn khi giặc xâm lược, họ sẵn sàng mang hết
sức trẻ để chiến đấu: Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái
cùng con/ Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh. Giản dị và bình tâm, họ chiến đấu
không phải để lập công trạng lưu danh muôn đời mà vì mong muốn quê hương được
bình yên. Họ sống giản dị và bình tâm, cống hiến âm thầm và lặng lẽ. Họ không có
gương mặt và tên tuổi, nhưng chính họ đã làm nên Đất Nước.
Không chỉ sống, chiến đấu, bảo vệ đất nước mà cha ông ta còn làm nên những giá trị
tinh thần để lại cho con cháu mai sau: là hạt lúa, là ngọn lửa, giọng điệu, tên làng tên
xã, … Chính họ đã làm và giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống cho dân tộc. Câu
thơ cho thấy niềm tự hào và lòng biết ơn to lớn của tác giả đối với cha ông, nhân dân
trong suốt bốn nghìn năm lịch sử.
Cuối cùng trên phương diện văn hóa, khẳng định tư tưởng Đất Nước của nhân dân, tác
giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú của văn học dân gian, mà tiêu biểu là ca dao
để chứng minh. Ông đã chọn ba câu ca dao tiêu biểu nhất từ kho tàng thơ ca dân gian
để ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn Việt, vẻ đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc: trong tình yêu
luôn say đắm: Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi; quý trọng tình nghĩa hơn những
giá trị vật chất tầm thường: Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội; kiên trì bền bỉ
trong đấu tranh đến ngày toàn thắng: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà
không sợ dài lâu. Và bài thơ khép lại trong những suy ngẫm và cảm nhận tinh tế của
Nguyễn Khoa Điềm về vẻ đẹp thơ mộng của non sông đất nước.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đất nước đã thể hiện những suy ngẫm vô cùng sâu sắc, những tình cảm tha thiết của
ông dành cho đất nước. Đồng thời tư tưởng đất nước của nhân dân bao trùm toàn bộ
tác phẩm, cho thấy nhận thức đúng đắn và long biết ơn sâu sắc của ông đối với thế hệ
đi trước. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và trữ tình, vận dụng linh
hoạt chất liệu văn hóa dân gian, nhịp thơ linh hoạt góp phần tạo nên thành công cho
tác phẩm.
Phân tích Đất nước - Mẫu 27
Đất nước là hình tượng trữ tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật của nhiều thế hệ nhà thơ
Việt Nam. Có một thực tế: mỗi lần đất nước đặt trước những thử thách thì hình tượng
đất nước lại ngời sáng trong văn học với những phát hiện mới mẻ độc đáo. Trường ca
Mặt đường khát vọng với trích đoạn Đất Nước là một minh chứng đẹp đẽ cho quy luật
này. Trong trích đoạn nói trên, những cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
đạt tới một tầm vóc triết học sâu sắc.
Trước tiên, đất nước hiện lên trong chiều dài của thời gian. Thời gian trong trích đoạn
Đất Nước đầy ắp những hình tượng huyền thoại lấy từ trong truyền thuyết, phong tục
dân gian. Nhờ sự xuất hiện của hình tượng thời gian này đất nước hiện lên trong chiều
sâu thẳm của thời gian nguồn cội, đầy thiêng liêng thành kính.
Bên cạnh “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông”. Có không gian gắn với
sự sinh tồn của cả cộng đồng: “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Có không gian gắn
bó với cuộc đời riêng tư của mỗi cá nhân; “Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi
em tắm”... Sự song hành của các không gian như thế gợi lên hình tượng đất nước như
là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân. Đất Nước thiêng
liêng mà cũng thật gần gũi gắn bó.
Đất nước còn hiện lên trong bề sâu văn hóa - phong tục, lối sống, mang đậm bản sắc
Việt Nam. Chiều sâu văn hóa luôn ẩn hiện trong toàn bộ trích đoạn. Từ một nét phong
tục: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho đến nghi thức thiêng liêng của ngày giỗ Tổ. Tuy
nhiên, chiều sâu văn hóa hiện lên thấm thía và đẹp đẽ nhất với những phát hiện và
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
ngợi ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam: yêu đắm say mà chung thủy; trọng
nghĩa tình nhưng vì thế mà quyết liệt, không khoan nhượng trước kẻ thù.
Tư duy triết học hướng tới khám phá, nhận thức cái thống nhất. Tầm vóc triết học
trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ: từ ba bình diện không
gian - thời gian - văn hóa, nhà thơ đã tìm ra hạt nhân gắn kết làm nên tính chính thể
của hình tượng đất nước. Cái hạt nhân gắn kết này, không gì khác, đó chính là quan
niệm: đất nước của nhân dân.
Tư tưởng đất nước của nhân dân là cơ sở đem lại những khám phá mới mẻ, độc đáo
của Nguyễn Khoa Điềm về hình tượng đất nước. Từ quan niệm đất nước của nhân
dân. Lịch sử của đất nước không còn là lịch sử của các triều đại, các anh hùng mà là
lịch sử của hàng nghìn lớp người “không ai nhớ mặt đặt tên - Nhưng họ đã làm ra đất
nước”. Không gian đất nước cũng được tạo hình từ những “ao ước”, “lối sống" của
ông cha từ bao đời nay. Cũng chính nhân dân là người đã sáng lập, giữ gìn dòng chảy
văn hóa của đất nước: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng - Họ truyền lửa.. - Họ
truyền giọng điệu... - Họ gánh theo tên xã, tên làng...”. Một mật độ lớn các động từ
được xếp cạnh nhau làm nổi lên hình tượng thật tầm vóc và kì vĩ của nhân dân -
những người “làm ra Đất Nước”.
Tư tưởng đất nước của nhân dân đã có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử
văn học dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu...). Trong văn học cách mạng, tư
tưởng đất nước của nhân dân cũng đã được nhiều nhà thơ đề cập đến (Bài thơ Hác
Hải, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy). Tuy nhiên, để
tư tưởng này trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào mọi biểu hiện nhỏ bé tinh
tế nhất của hình tượng đất nước thì đó là một đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa
Điềm. Nó cho thấy sự kế thừa và kết tinh ở một trình độ mới của tư tưởng đất nước
của nhân dân trong văn học.
Đoạn thơ mở đầu trích đoạn là một minh chứng sống động cho những đặc sắc trong
cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Hiện lên qua đoạn thơ là hình tượng đất nước mênh mang trong thời gian. Nét đặc sắc
là ở chỗ chiều sâu thời gian ấy được gợi lên trước tiên từ những “ngày xửa ngày xưa”
trong lời kể của mẹ. Đây không phải là thời gian lịch sử chính xác với những niên đại
cụ thể. Nó là thứ thời gian mơ hồ, ảo diệu trong trí tưởng tượng của trẻ thơ. Nó không
định vị chính xác nhưng giúp ta cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về sự trường tồn của
đất nước.
Gương mặt của đất nước được hình dung từ những gì gần gũi bình dị trong cuộc sống
thường ngày. Có cái gì thật chia ly, tường tận trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm. Từ một cách búi tóc, một câu ca dao đến những sự vật bình dị: cái kèo,
cái cột. Ngay cả đối với những vật tưởng rất mực bé nhỏ như “hạt gạo” thì tác giả vẫn
có sự cảm nhận thật sâu sắc từ những thời điểm cụ thể: “một nắng hai sương” - “xay”
- “giã” - “giần” - “sàng”. Với cách cảm nhận này, đất nước trở thành bầu khí quyển
bao bọc lấy cuộc sống của mỗi con người. Ở đâu, trong bất kì biểu hiện nhỏ bé nào
cũng mang hình đất nước. Đất nước được kéo gần lại thân quen, gắn bó máu thịt với
con người.
Góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong đoạn thơ là một
ngôn ngữ thấm đẫm chất liệu và hương sắc của văn hóa dân gian. Ngôn ngữ không
bao giờ chỉ là ngôn ngữ. Đằng sau ngôn ngữ là một quan niệm. Ngôn ngữ mang đậm
màu sắc văn hóa dân gian, ở đây là sự thấm nhuần quan niệm đất nước của nhân dân.
Nói cách khác, quan điểm đất nước của nhân dân không chỉ là suy tưởng bên trong mà
còn được hiện thực hóa bằng chính hình thức và ngôn ngữ thơ.
Giọng điệu thơ trầm lắng, chất chứa suy tư. Vừa như bộc bạch giải bày vừa như tự nói
với chính mình. Một giọng điệu như thế khiến hình tượng đất nước hiện lên vừa trang
nghiêm thành kính, vừa gần gũi thân thiết.
Phân tích Đất nước - Mẫu 28
Đất nước là một đề tài lớn thường gợi lên những cảm hứng mãnh liệt đối với thi nhân,
nhất là vào thời điểm nền độc lập dân tộc đứng trước những thử thách lớn lao. Đoạn
trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm cũng ra
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
đời trong một hoàn cảnh tương tự như vậy. Đó là những năm tháng kháng chiến chống
Mĩ cứu nước sôi sục, cuộc sống của mỗi cá nhân luôn luôn gắn liền với vận mệnh của
đất nước. Viết trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm muốn góp một
tiếng nói nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ ở vùng tạm chiếm miền Nam. Đoạn trích Đất Nước
thuộc chương V của trường ca, đây cũng là phần hay nhất của bản trường ca này, có
thể hiện sự nhận thức sâu sắc của một thế hệ thanh niên Việt Nam về đất nước. Chính
nhận thức ấy đã trở thành một điểm tựa để mỗi người tự suy nghĩ về trách nhiệm của
mình đối với đất nước.
Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ
chính luận thể hiện cảm nhận “Đất Nước của Nhân dân”. Sở dĩ gọi là chính luận bởi
trong bài thơ này nhà thơ muốn bàn luận về đất nước, về nhân dân. Đó là những khái
niệm về đất nước vừa quen thuộc vừa mới mẻ nhưng tác giả không dừng lại ở chỗ lí
giải đất nước là gì, nhân dân là gì mà ông còn muốn bày tỏ những tình cảm sâu nặng
của mình đối với đất nước, đối với nhân dân. Sự kết hợp giữa hai phương diện này
một cách nhất quán đã làm cho bài thơ vừa mang chất chữ tình, vừa mang chất chính
luận. Toàn bộ đoạn trích được chia thành những khổ và những đoạn nhỏ để trả lời cho
mỗi câu hỏi và giữa các câu hỏi ấy được liên kết với nhau khá chặt chẽ. Khởi đầu là
những câu hỏi về thời gian, tác giả muốn đưa bạn đọc trở về quá khứ để tìm trong lịch
sử cái thời điểm mà đất nước ra đời:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên…
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Trong một đoạn thơ ngắn mà xuất hiện một loạt các trạng từ chỉ thời gian: “ngày xửa,
ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Gắn liền với những trạng từ đó là những miếng
trầu bà vẫn thường ăn hàng ngày, nghĩa là đất nước có từ rất lâu đời, từ thuở xa xưa
trong văn hóa dân gian, trong phong tục tập quán, trong tình yêu của mỗi gia đình,
trong từng hạt gạo. Sau mỗi câu hỏi xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa
Điềm đã tìm câu trả lời cho một câu hỏi quen thuộc hơn. Đất là gì? Đây không phải là
câu hỏi mới mẻ và Nguyễn Khoa Điềm không phải là người đầu tiên đặt câu hỏi này.
Người ta đã từng có những định nghĩa trong lịch sử, trong địa lí, trong dân tộc học.
Trong văn học, từ lâu lắm rồi, người ra cũng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước
là gì? Cái mới của Nguyễn Khoa Điềm chính là đi tìm một câu trả lời của riêng mình,
của thế hệ mình. Ở đoạn thơ tiếp theo, nhà thơ liên tiếp đưa ra những nhận định của
mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước thật giản dị và cũng thật độc đáo, thật trữ tình và có sức hấp dẫn, lôi cuốn
bạn đọc một cách mạnh mẽ. Nhưng có lẽ bài thơ không chỉ viết cho tuổi trẻ, không chỉ
cho những người yêu nhau mà viết cho tất cả mọi người. Định nghĩa Đất Nước được
kéo dài nhưng lại kiến giải rất đơn giản, rất có lí và đầy thuyết phục. Đó là những kiến
giải trên hai trục không gian và thời gian, “thời gian đằng đẵng, không gian mênh
mông”, giữa cái thời gian và không gian ấy hiện ra một đất nước với dáng vẻ hùng vĩ
với hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá như ông móng
nước biển khơi”.
Đó là một không gian trữ tình hùng vĩ của đất nước. Ở đây tác giả trở về với truyền
thuyết và dùng truyền thuyết để cắt nghĩa đất nước là gì.
Đất là nơi Chim về
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Nước là nơi Rồng ở.
Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào t trong bọc trăm trứng, đất nước tạo ra mọi
người, tất cả mọi thế hệ, những người đang sống, những người đã khuất. Nhưng ở nơi
nào thì mọi người dân ở đất nước này cũng cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước vừa
linh thiêng rộng lớn nhưng cũng vừa gần gũi thân thuộc. Đất nước có trong anh, trong
em và trong tất cả mọi người, trong thế hệ đã khuất, trong thế hệ hôm nay và trong thế
hệ mai sau. Bao giờ cũng có một đất nước vẹn tròn tình nghĩa. Vẫn là giọng chính
luận khúc chiết mà lời thơ đằm thắm chứa chan bao tìm cảm:
Em ơi đất nước là máu xương của mình
….
Làm nên đất nước muôn đời…
Đọc những câu thơ này của Nguyễn Khoa Điềm, ta chợt nhớ đến một câu thơ của Chế
Lan Viên, một người cũng rất hay đưa những khái quát trong thơ khi nghĩ về đất nước.
Chế Lan Viên và Nguyễn Khoa Điềm thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng dường như có
một sự gặp gỡ nào đó khi nói về tình yêu lớn lao của mỗi người về đất nước. Nguyễn
Khoa Điềm viết “Đất Nước là máu xương của mình”, vì thế mà phải “biết hóa thân
cho dáng hình xứ sở” thì Chế Lan Viên viết:
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Chính luận cần sự minh xác bởi những lí lẽ thuyết phục sẽ làm người ta tin, chất chữ
tình để làm con người ra xúc động yêu thương. Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa
Điềm khi nói về đất nước chính là sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và chất chữ
tình từ những hình ảnh chi tiết cụ thể mà nâng dần lên tầm khái quát.
Ở phần thứ hai của bài thơ xuất hiện một loạt những hình ảnh, những chi tiết cụ thể
khi nói về đất nước, một phát hiện độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi nhà thơ chỉ ra
những yếu tố để góp thành đất nước. Ở đây có một loạt tên hùng vĩ, một đất nước bao
la, một đất nước với truyền thống ngàn năm trong lịch sử không phải là một cái gì đó
lớn lao, to tát mà là những thứ gần gũi, quen thuộc đối với mọi người. Công lao để
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
góp nên đất nước không thuộc về riêng ai, không chỉ có anh hùng vĩ nhân mới có công
làm nên đất nước mà cả những người con bình thường, những con người vô danh sống
âm thầm lặng lẽ nhưng chính họ đã góp cho đất nước cuộc sống của mình. Đó là
những người yêu nhau góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên” và cả những con vật
bình thường như con gà, con cóc nhưng lại có đủ sức để góp cho đất nước một Hạ
Long đẹp huyền thoại. Những cái tên gọi bình thường của những người dân Việt Nam
như “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” làm nên những địa danh nổi tiếng của
đất nước.
Từ những phát hiện rất mới mẻ và độc đáo này, tác giả đã đi đến một khái quát sâu sắc
và xúc động:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Tác giả không dừng lại ở đây coi như một sự kết thúc cho những cảm nhận và suy
ngẫm về đất nước, cảm xúc và những suy ngẫm trải dài bởi dường như động tới bất kì
cái gì cũng là nói về đất nước, từ những người con trai ra trận, con gái ở nhà nuôi cái
cùng con. Trong số họ đã có những người trở thành anh hùng. Tuy nhiên, đất nước
không chỉ được làm nên bởi bốn nghìn lớp người ‘họ đã sống và chết – giản dị và bình
tâm – không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm nên Đất Nước”. Tác giả muốn bày tỏ
niềm biết ơn sâu sắc đối với những con người vô danh, với những việc làm thầm lặng,
giản dị và quen thuộc nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Chính họ đã truyền lại cho
ta hạt lúa ta trồng, đã cho ta ngọn lửa, cho con ta tiếng nói… Sau những suy ngẫm,
nhà thơ đi đến kết luận: Đất nước này là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại,
đất nước của tất cả mọi người, trong đó có cả những anh hùng và cả những người vô
danh. Họ không để lại một dòng tên trong lịch sử, không một tượng đài, một tấm bia
lưu danh nhưng lại cho đất nước một cuộc đời bình dị và chính những sự bình dị ấy đã
làm nên một đất nước lớn lao mạnh mẽ, làm nên một đất nước trường tồn với thời
gian và hùng vĩ trong một không gian bao la, rộng lớn.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là ở chỗ nhà thơ đã huy
động toàn bộ vốn hiểu biết phong phú của mình trong những năm còn ngồi trên ghế
nhà trường ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa và những trải nghiệm của chính nhà thơ trong
những ngày tham gia phong trào học sinh sinh viên chống Mĩ ngụy ở thành phố Huế
và cả những năm tháng bị tù đày trong nhà tù của Mĩ ngụy. Bằng cảm xúc chân thành
và suy nghĩ sâu sắc, nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc những cảm nghĩ rất riêng của mình
về đất nước, góp phần làm phong phú thêm hình tượng đất nước trong văn học nói
chung và trong thơ ca nói riêng. Đất không phải là tiếng nói của riêng nhà thơ mà là
cảm nhận của một thế hệ thanh niên trong thời kì chống Mĩ về đất nước. Đây cũng là
một sự thể hiện, một nét độc đáo trong giọng điệu của Nguyễn Khoa Điềm, đó là sự
kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất chính luận.
Phân tích bài thơ Đất nước - Mẫu 29
Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”
Hai tiếng “Đất nước” nhỏ bé thôi, nhưng mỗi khi nó vang lên làm rạo rực biết bao trái
tim của người thi nhân. Chính vì thế, “Đất Nước” đã đi vào thơ ca, trở thành cảm
hứng bất tận, Đất Nước trong thơ Nguyễn Đình Thi là “những cánh đồng thơm mát,
những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa” lớn lao và đẹp đẽ.
Nhưng “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là những hình ảnh gần gũi đến lạ, với
những khía cạnh hết sức thân thuộc, bình dị thông qua bản trường ca mang tên “Mặt
đường khát vọng” mà tiêu biểu là trích đoạn “Đất Nước” trong chương thứ năm. Với
hình tượng trung tâm là đất nước, thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và
suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thưc, tinh thần
dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ trong những năm kháng
chiến đầy gian khổ.
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả sáng tác và hoàn thành ở chiến khu
Trị Thiên vào năm 1971. Tác phẩm dường như đã mang đến sự thức tỉnh cho tuổi trẻ
miền Nam vùng đô thị tạm chiếm, thức tỉnh về sứ mệnh của thế hệ mình xuống đường
đấu tranh để giải phóng đất nước. Đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của bản
trường ca này. Đoạn trích là suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên nhiều
khía cạnh, với tư tưởng chủ đạo “đất nước của nhân dân”. Thơ của Nguyễn Khoa
Điềm giàu chất suy tư cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của một người trí thức, tích
cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Có lẽ vì vậy mà tư tưởng “đất nước
của nhân dân” được nhà thơ gửi gắm một cách sâu sắc trong đứa con tinh thần của
mình.
Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là những hình ảnh gần gũi đến lạ, đó là ảnh
tượng miếng trầu miệng bà nhai, là câu chuyện cổ tích hằng đêm mẹ thường kể, là búi
tóc của mẹ… là những hình ảnh quá đỗi bình dị, thân quen thường nhật đến lạ.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày
xưa…” mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước
lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ
thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một
nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó…
Để lý giải cho cội nguồn đất nước, Nguyễn Khoa Điềm ngay từ khi mở đầu bài thơ đã
đưa ra một lời khẳng định chắc chắn:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có từ bao giờ không ai trong chúng ta biết cả, chỉ biết rằng từ lúc lọt lòng mẹ
cho đến khi nhận thức được thế giới xung quanh thì đất nước đã và đang tồn tại. Mở
đầu bài thơ đó là cách xưng hô “ta” vang lên một cách tự hào. Tác giả đã đại diện cho
cả một thế hệ có ý thức, có trách nhiệm đi tìm hiểu cội nguồn của đất nước. Câu thơ
được viết dưới hình thức khẳng định, kết hợp với cụm từ “đã có rồi” thể hiện niềm tự
hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy nghìn năm lịch sử. Nguyễn Trãi
cũng từng khẳng định trong “Bình Ngô đại cáo”:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Như nước đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”
Vì vậy khi ta lớn lên đất nước đã có rồi, hiện diện xung quanh chúng ta với những gì
yêu thương nhất. Bằng việc khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước, Nguyễn Khoa
điềm đã mở ra không gian cổ tích, nơi có tiếng đồng vọng về một thời xa xưa bằng
một lời kể “ngày xửa ngày xưa” trong câu chuyện cổ tích của mẹ:
“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa… mẹ thường hay kể”.
Tác giả đã nhắc đến cụm từ chỉ thời gian “ngày xửa ngày xưa”. Đó là thời gian trừu
tượng mơ hồ, không ai biết từ bao giờ chỉ biết nó đã rất xa xôi. Chắc chúng ta không
còn xa lạ với cụm từ ấy nữa. Bởi cụm từ này là mở đầu của những câu chuyện cổ tích,
vẽ lên trong tiềm thức của người đọc: hình ảnh của cô Tấm bước ra từ quả thị, chàng
Thạch Sanh tốt bụng cứu người, Thánh Gióng kiên cường bất khuất… những câu
chuyện ấy đã trở thành một dòng nước mát tưới đẫm lên tuổi thơ của mỗi người. Đó là
một buổi đêm thanh bình của làng quê, là tiếng võng kẽo kẹt, là âm thanh của tiếng
quạt mo đong đưa, mà dịu dàng hơn là tiếng kể chuyện cổ tích của bà, của mẹ đã đưa
con vào giấc ngủ. Những câu chuyện đó là luồng gió mát nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con
người. Chính vì thế nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có viết:
Tôi yêu chuyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu sa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
Đất nước là tiếng đồng vọng từ hàng nghìn năm lịch sử, nhưng để tồn tại qua ngần ấy
năm thì đất nước cũng “bắt đầu”, cũng “lớn lên” kiên cường bất khuất:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Để khẳng định nền văn hóa lâu đời của đất nước tác giả đã sử dụng thành công nghệ
thuật đối lập “bắt đầu” với “bây giờ”. “Bắt đầu” là quá khứ, “bây giờ” là hiện tại tạo
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
nên mối quan hệ chặt chẽ, tạo nên khoảng thời gian liên tục tiếp nối nhằm khẳng định
tập tục ăn trầu đã có từ xa xưa và vẫn duy trì cho đến ngày nay. “Miếng trầu là đầu
câu chuyện” là biểu tượng của sự bắt đầu trọn vẹn, suôn sẻ, là vật không thể thiếu
trong bất kỳ lễ hội đình đám, lễ nghi. “Đất nước” hiện lên là hình ảnh to lớn kỳ vĩ
nhưng lại được cảm nhận từ một miếng trầu nhỏ bé bởi miếng trầu có vai trò ý nghĩa
quan trọng trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Miếng trầu đã nhắc
người đọc gợi nhớ đến một câu chuyện được coi là cổ xưa nhất của Việt Nam “Sự tích
trầu cau”. Hơn nữa “miếng trầu” xuất hiện trong những dịp lễ tết trọng đại trong thờ
cúng tổ tiên. Nó cũng là sợi tơ để kết nối tình yêu đôi lứa:
“Miếng trầu ăn ngọt như đường
Đã ăn lấy quả thì thương lấy người”
Tác giả đã cảm nhận đất nước từ một hình ảnh nhỏ bé nhưng nó là hiện thân của
phong tục đẹp đẽ đã có từ lâu đời của con người Việt Nam. Một đất nước chỉ thực sự
vững bền khi trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, trải qua quá trình chiến đấu
gian lao, vất vả. Với hình tượng cây tre gắn bó lâu đời với người dân Việt Nam từ
ngàn xưa:
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tác giả đã nói đến sự trưởng thành và phát triển của đất nước trải dài 4000 năm lịch
sử qua nghệ thuật ẩn dụ đất nước “lớn lên”. Tác giả đã mượn hình tượng của cây tre
để nhắc nhở cho người đọc về một truyền thống vô cùng quen thuộc đối với người dân
Việt. Trong đời sống sinh hoạt, xe làm đồ dùng gần gũi, khi có chiến tranh: cây tre
chất phác giản dị ấy là biểu tượng cho tinh thần kiên cường bất khuất của dân tộc ta.
Vì thế tre được ca ngợi: tre xung phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng giữ nước giữ
mãi nhà tranh, giữ đồng lúa chín,… tre anh hùng lao động! tre anh hùng chiến đấu!
Hơn nữa hình tượng cây tre đã nhắc nhớ cho người đọc về truyền thuyết Thánh Gióng
đánh đuổi giặc Ân, về quá trình bảo vệ tổ quốc. Đó cũng là truyền thống ngàn đời của
dân tộc yêu nước chống ngoại xâm. Cây tre là nhân chứng lịch sử cho biết bao trận
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
đánh oai hùng, cho biết bao máu, nước mắt và mồ hôi của dân tộc ta trên chặng đường
gìn giữ độc lập.
Đất nước của Nguyễn Khoa điểm hiện lên với muôn vàn khía cạnh của cuộc sống đời
thường. Khép lại quá trình chiến đấu gian lao của dân tộc, tác giả tiếp tục đưa người
đọc tiếp cận với những hình ảnh vô cùng giản dị:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Tác giả đã đề cập đến một tập tục búi tóc sau đầu của người phụ nữ Việt Nam cho gọn
gàng để tiện cho lao động sản xuất, lâu dần trở thành một nét đẹp thanh lịch dịu dàng
của người phụ nữ. Hình ảnh búi tóc gọn gàng sau gáy mẹ những buổi bẻ bắp, làm
nương, những ngày xay gạo nuôi quân, là hình tượng của người phụ nữ, là hậu
phương vững chắc cho gia đình. Trong ca dao cũng từng xuất hiện hình ảnh này:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho bối rối dạ anh”
Và đó là lý do vì sao mà tình cảm vợ chồng của những con người sống trên mảnh đất
ấy lạnh nồng nàn chung thủy đến vậy:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Bằng câu ca dao thân thương “gừng cay muối mặn”, cuộc sống gia đình của những
con người sống trong đất nước hiện lên thật đẹp đẽ. Đó là gia vị quen thuộc trong bữa
ăn của người Việt. Nó còn là vị thuốc chữa bệnh cho người bình dân. Thành ngữ ấy
được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ vừa nhẹ nhàng, vừa thấm thía. Muối tất
nhiên phải mặn, gừng chắc chắn cay, chúng đều là những sự thật hiển nhiên, những
chân lý không thể thay đổi được, cũng như tình cảm thủy chung trời bể của đôi ta,
không biết đến khi nào phai nhạt. Tác giả đã lấy vị mặn của muối, vị cay của gừng để
nói đến tình cảm thủy chung son sắt tình nghĩa vợ chồng. Đó cũng chính là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chính vì thế, hình ảnh ấy không còn xa lạ trong ca dao
Việt Nam:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hẵng còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Có xa nhau đi nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Đóng lại trang thơ về những tình cảm thuỷ chung mặn nồng, Nguyễn Khoa Điềm đã
mang độc giả tiếp cận với phong tục đặt tên và cuộc sống lao động sản xuất của con
người nơi đất nước:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Với quan niệm đặt tên con không bao giờ đẹp sẽ bảo vệ chúng khỏi sự hủy phá của
ma quỷ, những người làm cha làm mẹ đã mượn hình tượng cái kèo cái cột đầy thân
quen. Hơn hết người Việt có phong tục tập quán đặt tên cho con bằng những sự vật
cần gũi gắn bó trong đời sống hằng ngày. Cái kèo cái cột là biểu tượng cho sự bền
vững của mái ấm gia đình mà gia đình ấy lại là những phần tử nhỏ của xã hội. Theo
người Việt xưa họ dùng cái kèo cái cột giằng vào nhau giữ cho ngôi nhà thêm bền
chặt.
Thực vậy, sự phát triển của đất nước luôn gắn liền với sự phát triển quá trình lao động
sản xuất. Với nền văn minh lúa nước lâu đời, những người dân nơi đây “bán mặt cho
đất, bán lưng cho trời”, một nắng hai sương trải qua xay, giã, giần, sàng mới ra hạt
gạo trắng ngần thơm ngát:
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Qua nghệ thuật liệt kê một loạt các động từ xay, giã, giần, sàng đã diễn tả được cụ thể
quá trình làm ra hạt gạo. Hòa trong âm điệu dồn dập mạnh mẽ của quá trình lao động
sản xuất là tiếng cối vang lên đều đặn, là những giọt mồ hôi rơi trên hạt gạo trắng
ngần. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự khó khăn vất vả. Câu thơ đã diễn tả
một cách sinh động sự khó khăn, vất vả của người nông dân, khi làm ra những hạt
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
cơm ngọt bùi. Thấm trong từng hạt gạo nhỏ bé là vị mặn của mồ hôi, vị cay của sự
nặng nhọc và vất vả. Chính vì thế câu thơ phảng phất lời nhắn nhủ của cha ông xưa:
“Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Câu thơ cuối vang lên ngắn gọn súc tích, kết luận và khẳng định một cách chắc chắn
đất nước đã có từ lâu đời:
Đất Nước có từ ngày đó…
Khổ thơ được viết theo cấu trúc tổng phân hợp đã làm nên chất trữ tình chính luận
trong thơ của Nguyễn Khoa điềm.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất trữ tình chính luận. Với lối thơ vừa lãng mạn, vừa
suy tư ấy, tác giả khi cảm nhận về bản chất của đất nước cũng đem đến cho ta nhiều
cảm xúc mới:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Tác giả đã sử dụng điệp cấu trúc theo khoảng định nghĩa: đất nước là, nước là, đất
nước là. Từ đó giúp tác giả trình bày quan điểm cách nhìn cảm xúc mới mẻ về “đất
nước”. Hơn thế nữa đất nước được sử dụng chiết tự từ độc đáo, tách “đất nước” ra làm
hai thành tố để định nghĩa rồi sau đó gộp lại. Đất nước là nước, là đất, là muôn hình
vạn trạng của đời sống nhân dân, và rồi lại hài hòa trong một chỉnh thể thống nhất là
tổ quốc, dân tộc. “Đất là nơi anh đến trường”: đó là không gian quen thuộc của anh, là
nơi hằng ngày anh đến trường để tiếp thu tri thức làm chủ cuộc sống gắn bó với những
kỷ niệm thời ấu thơ. “Nước” là không gian riêng tư là dòng sông em tắm mát, gợi lên
hình ảnh thân thuộc đẹp đẽ. Qua cách diễn giải ấy khiến cho người đọc hình dung cụ
thể đất nước là nơi ta lớn lên, sinh hoạt và học tập. Nhưng khi tách ra, đất nước lại gắn
bó với những kỷ niệm riêng tư của mỗi con người. Còn khi gộp lại đất nước là không
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
gian chung của anh và em: nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm. Đất nước hòa nhập là một trở thành không gian hò hẹn là nơi chắp cánh cho tình
yêu đôi lứa. Câu thơ ấy đã phảng phất trong ca dao của cha ông xưa:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai”
Hay ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm có sự gặp gỡ với những cảm nhận đầy sâu sắc của
nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn:
“Nếu anh đi với người yêu
Chỉ xin anh nhớ một điều nhỏ thôi
Con đường ta đã dạo chơi
Xin đừng đi với một người khác em
Hàng cây nay đã lớn lên
Vươn cành để lá êm đềm chạm nhau
Hai ta ai biết vì đâu
Hai con đường sẽ xa nhau xa hoài
Nếu cùng người khác dạo chơi
Xin anh hãy tránh nẻo vui ban đầu” .
(Con đường)
Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lý giải:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư
ông móng nước biển khơi”
Câu thơ đã đưa người đọc đi theo mạch cảm xúc để đến với những không gian đất
nước thân thương. Đó là hình ảnh của con chim phượng hoàng, hình ảnh con cá ngư
ông, hình ảnh hòn núi bạc, nước biển khơi. Tất cả đều mang âm hưởng dân gian gợi ra
một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Đất nước không chỉ được đo bằng chiều dài lãnh
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
thổ mà còn được đo bằng cả khúc ca ngọt ngào, bằng sự ngân vang của câu hát. Đất
nước ta là đất của rừng vàng, là nước của biển bạc. Từ đó tác giả đã cảm nhận không
gian địa lý của đất nước là rừng vàng biển bạc, là núi sông bờ cõi rộng lớn hùng vĩ
giàu có. Bên cạnh đó còn là niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về non sông gấm vóc quê
hương, thật trù phú, tươi đẹp, yên ả, thanh bình.
Sự trù phú giàu đẹp đó gắn liền với thời gian đằng đẵng:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Tác giả đã sử dụng thành công hai từ láy “đằng đẵng”, “mênh mông”. “ Đằng đẵng” là
chỉ thời gian dài vô tận , liên tục, bền bỉ, mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, xương
máu để xây dựng, bảo vệ bờ cõi đất nước thành dải đất hình chữ S cho nhân dân mình
đoàn tụ trong yêu thương tự hào. Còn “mênh mông” gợi lên một không gian bao la
rộng lớn trù phú của rừng vàng biển bạc, của núi non bờ cõi. Từ đó tác giả đã cảm
nhận đất nước qua chiều dài thời gian và chiều rộng không gian. Không chỉ vậy đất
nước còn là nơi dân mình đoàn tụ. Cách gọi “dân mình” vang lên thật tự nhiên nhưng
không kém phần thân thương, trìu mến yêu quý và tự hào. Chính vì thế đất nước là
không gian sinh tồn của biết bao cộng đồng thế hệ người dân Việt:
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.
Ở đoạn thơ này những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết như
chim, rồng, Lạc long Quân, Âu Cơ, bọc trứng cùng tụ về trong một trường liên tưởng
của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: tác giả đã nhắc đến
truyền thuyết, nguồn gốc của con người Việt Nam là được mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trăm
trứng nở ra trăm con. Năm mươi con theo cha xuống biển làm nghề chài lưới, năm
mươi con theo mẹ làm nghề trồng rau, nuôi tằm. Mặc dù ở cách xa nhau nhưng vẫn
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
gắn bó làm tròn bổn phận với non sông đất nước. Đó là một nét đẹp tạo nên bản sắc
văn hóa của con người Việt. Để từ đó tất cả các dân tộc trong đất nước đều là anh em
trong mối quan hệ ruột thịt. Đọc khổ thơ chúng ta thấm thía một lời nhắn nhủ về tình
non sông đất nước, về cội nguồn truyền thống của ông cha ta.
Đất nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan, mà tươi rói
cảm xúc. Bởi đất nước không chỉ là sự thống nhất của các yếu tố lịch sử, địa lý, văn
hóa, phong tục, mà đất nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi
phương diện, là sự tiếp nối của các thế hệ:
Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần
người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Qua cách sử dụng điệp ngữ kết hợp điệp cấu trúc nghệ thuật đối những “ai đã khuất”
với “những ai bây giờ” để khẳng định những thế hệ nối tiếp nhau. Tác giả đã liệt kê
một loạt những động từ: yêu nhau, sinh con đẻ cái, gánh vác, dặn dò,…. Từ đó nhà
thơ đã cụ thể hóa những trách nhiệm, nhiệm vụ to lớn thiêng liêng với đất nước. Đặc
biệt trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta
vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề của cha ông để lại, vừa phải
dặn dò con cháu chuyện mai sau một cách ân cần, chu đáo để có thế hệ sẽ tiếp tục đưa
đất nước đi xa đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh:
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Vì sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn lập nghiệp ở bất cứ đâu. Nhưng trong sâu
thẳm tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang dòng máu Việt. Trong những giờ khắc
thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với quê hương đất nước lại trỗi dậy nồng nàn.
Từ “hằng năm” mở đầu hai câu thơ đã khẳng định thời gian lặp lại, liên tiếp. Câu thơ
phảng phất lời dặn dò của cha ông ta:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Hai chữ cuối đầu trong câu thơ đong đầy sự thành kính, thiêng liêng, đem đến cảm
nhận: dường như mọi thế hệ người dân Việt, từ những ai đã khuất đến những ai bây
giờ còn sống và làm việc đều im lặng cúi đầu hướng về nguồn cội tổ tiên. Đó là truyền
thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta, một truyền thống tốt đẹp quý báu.
Từ sự gắn bó sâu sắc của nhân dân với đất nước, nhà thơ đã phát hiện một chân lý
giản dị mà sâu sắc: đất nước là sự thống nhất của nhiều yếu tố, cái riêng và cái chung,
cá nhân và cộng đồng, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng. Đất nước luôn có trong mỗi
con người, là trách nhiệm của cả công dân đất nước:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Nhà thơ Sóng Hồng từng nhận xét: “Thơ là tình cảm, lý trí kết hợp một cách nhuần
nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm ấy và lý trí ấy được diễn đạt bằng những hình
tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường”. Qua
những dòng thơ trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy ở đó không chỉ đơn thuần là
những vần thơ mà còn là tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của tác giả. Tác giả đã gửi gắm
tâm tư của mình vào đất nước, “đất nước trong anh và em hôm nay”. Đặc biệt hơn đó
là cách xưng hô “anh em” ngọt ngào tha thiết với một giọng thơ thủ thỉ, tâm tình.
“Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm cũng đã sáng tạo ra một đối tượng như vậy để
giãi bày khi nghe tin quê hương kinh Bắc bị tàn phá:
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống”
Vì sao trong anh và em lại có một phần đất nước? Đất nước có trong mỗi con người,
sự gắn bó không thể tách rời. Bởi đất nước là nơi ta sinh ra, là nơi ta lớn lên gắn bó
với những kỷ niệm tuổi ấu thơ. Đất nước nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người. Vì vậy
đất nước hiện hữu trong mỗi cá nhân. Chúng ta cũng đã gặp tư tưởng ấy trong tác
phẩm “Quê hương” của Giang Nam:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần máu thịt của em tôi”
Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật điệp cấu trúc theo kiểu đối xứng “khi… Đất
nước…”. Từ đó giúp tác giả có thể bộc lộ được sự cảm nhận về đất nước trong mối
quan hệ toàn diện khác nhau, kết hợp với động từ “cầm tay” được điệp lại hai lần. Khi
hai người cầm tay nhau là lúc thấu hiểu được nhau, yêu thương, san sẻ mọi khó khăn
ngọt bùi với nhau. Nói cách khác khi anh và em cầm tay là đó có sự giao thoa cảm
xúc, giao thoa giữa tình yêu đất nước sự hai trái tim. Đó là mối quan hệ cá nhân gắn
bó yêu thương. Còn động từ cầm tay xuất hiện lần thứ hai thể hiện một mối quan hệ
cộng đồng dân tộc đó là sự đoàn kết thân thiết. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng tính
từ “hài hòa nồng thắm” và “vẹn tròn to lớn”, vừa thể hiện được tình cảm riêng tư lại
vừa thể hiện được tình cảm lớn lao tình cảm của đất nước của dân tộc qua nghệ thuật
tăng tiến.
Qua những câu thơ trên tác giả tiếp tục khám phá những điều mới mẻ về đất nước, tác
giả chỉ ra mối quan hệ giữa cá nhân với đất nước: khi vòng tay rộng mở, đất nước
không chỉ là sự kết nối giữa cá nhân với cá nhân mà là sự kết nối giữa cộng đồng dân
tộc. Từ thế giới của anh và em nhỏ bé họ đã vượt qua để đến với cái ta chung với tình
cảm hữu ái, đoàn kết.
Sau khi nêu nhận thức về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước, nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện niềm tin trọn vẹn của mình vào thế hệ tương lai,
những mầm non của đất nước. Ước mơ về thế hệ sau, thế hệ tương lai sẽ mang đất
nước đi xa, kế tục phát huy tinh hoa văn hóa nước nhà là điều bất cứ ai cũng mong
muốn:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
“Mai này” là thời gian của tương lai, “con ta” là con của tác giả hay đó là thế hệ mai
sau, thế hệ tương lai. Chỉ hai từ đó thôi đó thể hiện được tình cảm yêu thương trìu
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
mến, hy vọng và tin cậy vào thế hệ trẻ. Còn “lớn lên” là sự phát triển là sự trưởng
thành cả về mặt thể chất tư tưởng và suy nghĩ. Khi chúng lớn chúng sẽ “mang đất
nước đi xa”. Động từ “mang” kết hợp với “đất nước” khiến cho người đọc hình dung,
“Đất nước” không chỉ là khái niệm trừu tượng mơ hồ, mà đất nước trở nên hữu hình
gắn bó với bổn phận, trách nhiệm của mỗi con người. Nhưng đất nước ấy còn đi xa
hơn nữa. Đó là ẩn dụ sự phát triển của đất nước ra thế giới ra năm châu bốn bể, để có
thể sánh vai với các cường quốc. Có lẽ cụm từ “những tháng ngày mơ mộng” được đặt
ở cuối câu, thể hiện những ngày tháng tươi đẹp hòa bình, hạnh phúc. Chắc tác giả
đang nhắc nhở về trách nhiệm của thế hệ mai sau phải phát triển đất nước, đồng thời
đó là niềm tin vào tương lai tươi sáng của cả một dân tộc.
Ngoài ra, đó cũng là lời nhắc nhở về ý thức trách nhiệm của mỗi con người đối với đất
nước:
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Giọng thơ tha thiết, sâu lắng với cách gọi “em ơi em” như một hình thức tâm tình của
đôi lứa yêu nhau tạo những lời thơ bay bổng, thấm thía mà cũng chính là lời tự nhủ,
lời tự dặn mình. Nguyễn Khoa Điềm tạo thơ hóa những vấn đề chính trị, khiến cho
tính chính luận không hề khô khan, không còn mang màu sắc giáo huấn mà là lời tự
nhủ, tự dặn chân thành xuất phát từ trái tim. Tác giả lại đưa ra những cảm nhận sâu
sắc, mới mẻ về đất nước trong câu thơ: “đất nước là máu xương của mình”. Có những
tượng đài bất tử về đất nước xuất hiện trong thi ca nhưng khi nói đất nước về đời
người thì có lẽ chỉ có Nguyễn Khoa Điềm. “Máu, xương” là hai thành tố không thể
thiếu trong sự sống của mỗi con người. Như vậy đất nước gắn bó máu thịt, đất nước
có vai trò ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá nhân. Bởi như Chế Lan Viên đã từng viết:
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như cha mẹ ta như vợ như chồng
Tiếp đến tác giả đã nhấn mạnh khắc sâu và ý thức và trọng trách của mỗi con người
qua điệp cấu trúc câu cầu khiến kết hợp với điệp ngữ “phải biết”. Tác giả đã liệt kê
một loạt các động từ mạnh theo chiều tăng tiến: gắn bó, san sẻ, hóa thân. “Gắn bó” là
chúng ta phải dành cho đất nước một tình yêu tha thiết sâu nặng và chung thủy. Còn
“san sẻ” là mỗi người phải biết chia sẻ gánh vác trách nhiệm với sự khó khăn của đất
nước. Phần cuối cùng “hóa thân” là mức độ cao nhất, sẵn sàng hy sinh, dâng hiến tuổi
xuân để làm nên mùa xuân của đất nước. Đúng như trong lời ca của Trương Quốc
Khánh:
“Là người tôi nguyện chết cho quê hương”
Từ đó lời thơ như từng đợt sóng xô vào lòng người đọc, từng đợt từng đợt, để khắc
sâu trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước. Tác giả đã viết bằng giọng điệu trữ tình
tha thiết khiến cho lời thơ thấm thía đi vào lòng người đọc không bị khô khan, cứng
nhắc. Từ đó nhà thơ nhắc nhở mỗi con người phải biết góp sức mình để làm nên sự
trường tồn của đất nước. Đặt trong hoàn cảnh khi bài thơ ra đời, đoạn thơ có tác dụng
to lớn trong việc cổ vũ, động viên khơi dậy tinh thần trách nhiệm, đặc biệt là thế hệ trẻ
cùng cống hiến cho đất nước. Tới đây, ta chợt nhớ đến tình cảm của Xuân Diệu, một
tình yêu tổ quốc đến tột cùng tồn tại nơi “dòng huyết chảy”:
Tình yêu tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến lúc tột cùng là dòng huyết chảy
Nguyễn Khoa Điềm đã có một sự phát hiện và đóng góp mới mẻ vào tư tưởng đất
nước của nhân dân: tư tưởng đất nước của nhân dân trên bình diện địa lý không gian.
Nhà thơ đã gửi ánh nhìn của mình vào tất cả các danh lam thắng cảnh của đất nước,
mà mỗi địa danh đều có những câu chuyện riêng, những tâm hồn riêng:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ
chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương Những con
rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình
núi Bút non Nghiên. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng
cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở
đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối
sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã
hóa núi sông ta…
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê một loạt các địa danh: núi Vọng Phu, hòn trống
mái, đất tổ Hùng Vương, ông đốc, ông Trang, bà đen, ba điểm,. Tất cả những địa danh
ấy được sắp xếp từ Bắc xuống Nam, được liệt kê một cách dày đặc. Tất cả đều là
những địa danh nổi tiếng, những cảnh đẹp, những kỳ quan thiên nhiên của đất nước.
Từ đó tác giả đã vẽ lên một bức tranh khiến cho đoạn thơ như một bản đồ địa lý giúp
người đọc hình dung được sự rộng lớn, giàu đẹp của đất nước. Từ đó thể hiện niềm tự
hào của tác giả, đặt trong bối cảnh đế quốc Mỹ đang tìm cách xâm lược và chia rẽ
nước ta, đoạn thơ còn có ý nghĩa khẳng định về sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc.
Không chỉ thế tác giả còn sử dụng điệp từ “góp” đến bảy lần, nhằm nhấn mạnh được
vai trò tầm quan trọng của người dân bình thường trong việc hình thành nên dáng núi
hình song, diện mạo hình hài của đất nước. Có lẽ thông thường các danh lam thắng
cảnh là do bàn tay của kiến tạo tự nhiên. Nhưng trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, từ
thời ông cha ta đã phủ lên những danh lam thắng cảnh ấy, những câu chuyện huyền
thoại. Chính cuộc đời số phận của người dân đã tạo nên danh lam thắng cảnh, và tư
tưởng ấy được phát triển một cách đọc viết trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Núi Vọng Phu, hòn trống mái không chỉ là những địa danh góp nét đẹp cho dáng núi,
hình sông mà chúng tự bao giờ đã hóa thành những câu chuyện trong thơ Nguyễn
Khoa Điềm: hình ảnh người vợ chờ chồng đến hóa đá tạo thành núi Vọng Phu ở Lạng
Sơn, câu chuyện những cặp vợ chồng yêu nhau làm nên hòn trống mái, làm nên đất
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
nước nồng thắm, nhân tình. Đó là truyền thống thủy chung tình nghĩa son sắt vợ
chồng.
Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, đất nước còn hiện lên cùng những truyền thuyết
những hình ảnh của người anh hùng Việt Nam:
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Hai câu thơ đã giúp chúng ta liên tưởng đến khí phách của con người Việt Nam: gót
ngựa Thánh Gióng, chín mươi chín con voi. Hình ảnh thấm đậm tinh thần yêu nước đã
được tác giả sử dụng kết hợp với các động từ: đi qua, để lại, góp mình tạo nên một nét
tự hào rất riêng, rất thiêng liêng, sông núi, về khí phách, và sức mạnh đậm chất Việt
Nam và tự hào cả và truyền thống văn hóa. Đó là truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre
đánh đuổi giặc Ân, gót ngựa sắt để lại ao đầm. Đây là truyền thống yêu nước chống
ngoại xâm từ hàng ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, câu thơ thứ hai
đã gọi lên một huyền thoại: xung quanh ngọn núi Hy Cương nơi có các đền thờ vua
hùng có chín chín ngọn đồi. Đó là chín mươi chín con voi quây quần chầu mình về đất
tổ. Đây là truyền thống uống nước nhớ nguồn, luôn hướng về nguồn cội với một tấm
lòng thành kính thiêng liêng.
Tiếp đến tác giả đã nhắc về một truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam:
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo giúp cho Đất
Nước mình núi Bút non Nghiên. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long
thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm
Nguyễn Khoa điềm đã khéo léo nhắc lại thời sự tích của tháp Bút, non Nghiên, nhắc
lại người học cho nghèo nên núi Bút, non Nghiên để làm rõ truyền thống hiếu học
truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc. Đó là biểu tượng của vẻ đẹp trí tuệ, đạo đức
và cả đời sống tâm linh của con người Việt Nam. Con cóc con gà những con vật tưởng
chừng như nhỏ bé, bình thường này cũng góp một phần hồn cho vẻ đẹp thơ mộng, trữ
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
tình của đất nước. Và từ bao giờ trên đất nước ta mọc lên vô vàn ngọn núi mang tên
bà Đen, bà Điểm, ông Trang, ông Đốc hay mang tên của những người dân khác nữa
đó là những con người hóa thân tạo nên đất nước hôm nay:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một
lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời
đã hóa núi sông ta…
Đoạn thơ được viết theo kết cấu quy nạp làm nổi bật chất trữ tình trong thơ chính luận
của Nguyễn Khoa Điềm. Câu thơ thứ nhất dường như khái quát về mặt không gian đó
là tất cả mọi nơi trên đất nước. Dù đi về đâu ta cũng có thể thấy được những cuộc đời
đã hóa núi sông, mỗi nơi đều là một địa chỉ văn hóa được tạo nên bởi nhân dân. Qua
nghệ thuật liệt kê kết hợp với điệp từ một tác giả đã khẳng định tất cả mọi nơi đều có
sự hiện hữu của nhân dân. Tiếp đến thán từ “ôi” đã vang lên thể hiện một tình cảm
trào dâng mãnh liệt không thể kìm nén được mà bật lên thành lời. Bởi có lẽ đây là
niềm tự hào khi đất nước đã trải qua một thời gian lịch sử dân tộc vô cùng dài bốn
ngàn năm:
“Hỡi sông Hồng khúc hát bốn ngàn năm
Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng”
Có lẽ tác giả đã khẳng định chính cuộc đời, số phận, tính cách, tâm hồn của nhân dân
đã làm nên đất nước. Đó là sự hóa thân là sự góp hồn cho những địa danh đưa chúng
vào đời sống dân tộc tự bao giờ.
Sau khi bày tỏ những suy tư về quan điểm đất nước của nhân dân thì nhà thơ tiếp tục
nhìn vào chiều dài lịch sử trong bốn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đầy
niềm tự hào, hạnh phúc. Ở chín câu thơ tiếp theo, nhà thơ nhấn mạnh từ những con
người vô danh, không tên, không tuổi nhưng đã tạo dựng nên đất nước bình yên như
hôm nay:
Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn ngàn năm Đất Nước Năm tháng nào cũng người
người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà
cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn ngàn lớp người
giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã sử dụng loại gọi đầy tâm tình “em ơi em” như đi vào
cảm xúc của tất cả mọi người. Em là nhân vật trữ tình không xác định, có thể hiểu đây
là sự phân thân của tác giả thể độc thoại với chính mình. Nhà thơ đang nhìn vào lịch
sử bốn năm và tự hào về những cô gái, chàng trai xung phong ra mặt trận mặt thời nào
cũng có. Năm tháng nào cũng người người “lớp lớp” ấy là minh chứng cho những
cũng hiến trực tiếp của biết bao thế hệ đi trước, những con người bình dị, vô danh,
những tuổi thanh xuân kiên cường, anh dũng.
Cụm từ chỉ thời gian không xác định “năm tháng nào” kết hợp với từ “lớp lớp” chỉ số
nhiều, các danh từ chung “con gái, con trai” tạo nên những vần thơ bình dị nhưng giàu
sức gợi cảm. Nhân dân các thế hệ từ lớp này đến lớp khác đã nối tiếp nhau đứng lên
giữ gìn quê hương, xứ sở bằng mồ hôi, công sức và xương máu của mình:
Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc
đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Câu thơ ấy khiến chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của những người phụ nữ kiên
cường, dũng cảm thời kháng chiến. Đó là Hai bà Trưng đã vùng lên đập tan chính
quyền đô hộ của nhà Đông Hán, hay bà Triệu đã đánh đuổi quân Ngô giành lại giang
sơn,… đó cũng có thể là chị Võ Thị Sáu – nữ anh hùng lực lượng vũ trang trẻ nhất,…
Nhưng khi thời bình, họ lại là những người phụ nữ âm thầm, lặng lẽ làm hậu phương
vững chắc cho chiến sĩ ngoài mặt trận. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước,
nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh
vai trò của những con người vô danh:
“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời
họ:
“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Trước hết, nhân dân là người tạo nên những giá trị văn minh vật chất cho đất nước:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”. Trong hạt lúa bé nhỏ ấy có mồ hôi công sức
lao động của những người nông dân vất vả dãi dầu một nắng hai sương, có sự kết tinh
của Đất và Nước, của bão giông, nắng lửa. Không chỉ thế, trong hạt gạo nhỏ bé ấy còn
là mồ hôi, nước mắt và cả những sự hi sinh thầm lặng cho lao động. Đất Nước ấy hiện
lên là đất nước của lao động sản xuất, của những con người cần cù, chịu khó, của
những cánh đồng lúa bao la, rộng lớn:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”.
Nhân dân đã giữ và truyền cho ta những nét đẹp trong lao động và văn hóa như thế.
Hơn hết họ còn “truyền lửa qua mỗi ngôi nhà”, “ từ hòn than qua con cúi”. Họ chính
là những người gìn giữ ngọn lửa nồng đượm hơi ấm của tình làng nghĩa xóm. Câu thơ
ấy dường như chứa đầy sự suy ngẫm, sự trải nghiệm về vai trò của nhân dân ẩn sâu
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
trong từng câu chữ. Tất cả đều làm nên một truyền thống quý báu của dân tộc. Đó là
truyền thống hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau được hình thành từ ngàn đời xưa.
Nhân dân còn “truyền giọng điệu cho con mình tập nói”. Theo dòng chảy không
ngừng của thời gian, ông bà, cha mẹ đã truyền cho con tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc.
Bởi ngôn ngữ là một tài sản vô giá của một quốc gia. Nó là vật báu, là tiếng nói tâm
hồn, là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là kết quả của quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước: Trong một nghìn năm nhân dân ta sống dưới
thời Bắc thuộc, Trung Quốc luôn tìm cách đồng hóa dân tộc ta. Nhưng với ý thức và
lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nhân dân ta vẫn giữ được ngôn ngữ, tiếng nói của dân tộc
mình. Có thể nói, tiếng nói là tấm lụa bạch hứng vong hồn của biết bao thế hệ đã qua,
là tiếng nói tinh thần, tâm hồn của ông cha ta từ ngàn đời truyền lại cho con cháu.
Tiếng Việt của ta rất giàu và đẹp “tiếng tha thiết nói thường nghe như hát/ Kể mọi
điều ríu rít bằng âm thanh”. Những người mẹ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
cũng là truyền cho con tình yêu với ngôn ngữ, văn hóa, bản sắc dân tộc. Từng ngôn từ,
câu chữTiếng Việt đã tạo nên sự gắn kết của cả một cộng đồng quốc gia, dân tộc:
“Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/
Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời”.
Không có nhân dân, đất nước ta không thể có kho tàng ngôn ngữ diệu kì đến thế.
Nhân dân còn là người “gánh tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Câu thơ gợi
nhắc lại những năm tháng gian lao của cộng đồng người dân Việt trong công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước. Họ đã phát bờ, mở cõi, khai hoang, lấn biển để dựng xây
phát triển đất nước như ngày hôm nay.
Không chỉ là gìn giữ, xây dựng đất nước, mà những con người tưởng chừng như bình
dị ấy lại ngày đêm chống ngoại xâm và diệt nội thù:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh đầy đau thương và anh dũng
Văn mẫu 12: Phân tích bài thơ Đất nước
“Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.
Chính vì thế, điệp từ “có… thì” đã cho thấy một sự tự nguyện dâng hiến cả tuổi xuân
để làm nên mùa xuân của đất nước. Họ hết mình ra trận vì nền độc lập, tự do của dân
tộc. Từ “họ” được lặp lại nhiều lần đứng ở những đầu câu thơ đã khẳng định vai trò
quan trọng của nhân dân trong lịch sử, và gợi lên những lớp người nối tiếp thay nhau
lao động, xây dựng và bảo vệ giữ gìn độc lập dân tộc.
Tất cả đều khép lại trong mạch cảm xúc trào dâng, tất cả đã minh chứng cho một chân
lí mà Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao thần thoại”.
Hai câu thơ là định nghĩa về đất nước giản dị mà sâu sắc. Những cảm xúc, suy ngẫm
của nhà thơ cứ dồn tự dần để rồi cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt
lõi: “Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” vì nhân dân là người chiến đấu, xây dựng,
bảo vệ đất nước này bằng mồ hôi, xương máu của mình. Không có nhân dân sẽ không
có phong tục, tập quán, truyền thống, lối sống nghĩa tình, thủy chung, cao đẹp.
„
Bấm Tải xuống để xem toàn bộ.