Phân tích bài thơ Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm | Ngữ Văn 12

Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!        

Chủ đề:

Văn mẫu 12 634 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 12 1 K tài liệu

Thông tin:
20 trang 4 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài thơ Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm | Ngữ Văn 12

Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Tài liệu được sưu tầm giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!        

65 33 lượt tải Tải xuống
1 | T r a n g
PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Bài làm 1:
Đất nước luôn là tiếng gi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơica bao triu
trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua nhng li ru ngt ngào êm du,
qua những làn điệu dân ca mượt mà và nhng vần thơ sâu lắng, thiết tha rất đỗi
t hào ca bao lp thi nhân. Ta bt gp một hình tượng đất nước đau thương nhưng
vn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất du
dàng ý t trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bt gp mt cái
nhìn toàn vn, tng hp t nhiu bình din khác nhau v một đất nước ca nhân dân.
tưởng ấy đã qui tụ mi cách nhìn cm nhn ca Nguyễn Khoa Đim v đất
c. Thông qua nhng vần thơ kết hp gia cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình chính
luận, nhà thơ muốn thc tnh ý thc, tinh thn dân tc, tình cm với nhân dân, đất
c ca thế h tr Vit Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.
M đầu đon trích là giọng thơ nhẹ nhàng, th th như những li tâm tình kết
hp vi hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở v vi ci nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong nhng cái ngày xa
Ngày xưa mẹ thường hay k
Đất Nước bắt đầu t miếng tru bây gi bà ăn
Đất Nước ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Đất nước trước hết không phi là mt khái nim trừu tượng mà là nhng gì rt
gần gũi, thân thiết ngay trong cuc sng bình d ca mỗi con người. Đất Nước hin
hình trong câu chuyn c tích ngày xửa ngày xưa mẹ k, trong miếng tru ca bà,
cây tre trước ngõ… gợi lên một Đất nước Vit Nam bao dung hin hu, thy chung
sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng cùng quyết lit khi chng quân xâm
2 | T r a n g
c. Mi qu cau, miếng trầu, cây tre đều gi v mt v đẹp tinh thần Đất nước,
đều thấm đẫm ngn ngun lch sn tc.
Đất nước còn là hin thân ca nhng phong tc tập quán ngàn đời, minh chng
ca mt dân tc giu truyn thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó vi mái m
gia đình. Cha m thương nhau bằng gng cay mui mn. Gng tt nhiên cay, mui
tt nhiên là mn. Tình yêu cha m mãi mãi mn nồng như chính chân lí t nhiên kia.
Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ v mt li nhc nh thiết tha v tình nghĩa ca
một ai đó hôm nào: Tay bưng dĩa muối chén gng, Gng cay mui mặn xin đng
quên nhau.
Đất nước còn là thành qu ca công cuộc lao động vt v để sinh tồn, để dng
xây nhà ca:
Cái kèo cái ct thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, gin, sàng
Đất Nước có t ngày đó.
đây Đất nước không còn là mt khái nim trừu tượng na c th, quen
thuc và gin g biết bao. Vic tác gi s dng nhng cht liệu dân gian để th hin
suy tưởng ca mình v đất nước vi quan niệm “Đất nước của nhân dân”.
Vn bng li trò chuyn tâm tình vi mi nhân vật đối thoại tưởng tượng,
Nguyễn Khoa Điềm đã diễn gii khái niệm đất nước theo kiu riêng ca mình:
Đất là nơi anh đến trường
ớc là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nh thm.
Đất nước không ch đưc cm nhn bởi không gian địa mênh mông t rng
đến b còn được cm nhn bi không gian sinh hoạt bình thường ca mỗi người,
không gian của tình yêu đôi lứa, không gian ca ni nh thương. Ý nêm v đất nước
đưc gi ra t vic chia tách hai yếu t hợp thành là đất và nước vi nhng liên
3 | T r a n g
ng gi ra t đó. S dng li chiết t mà vn không ngô nghê, mà vn tht duyên
dáng ý nh, th gi ra cho thy mt quan nim mang những đặc điểm riêng ca
dân tc ta v khái nim đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhn mnh.
Đất m ra cho anh mt chân tri kiến thức, nước gt ra tâm hn em trong sáng
du hin. Cùng vi thi gian lớn lên đất nước tr thành nơi anh em hẹn. Không
nhng thế, đất nước còn người bn chia s nhng tình cm nh mong ca nhng
người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hp
khi anh em kết li thành ta. Chiếc khăn biểu tượng ca ni nh thương đã
tng làm bao trái tim tui tr bâng khuâng: “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống
đất …”, một ln na li khiến lòng người xúc động, bi hồi trước tình cm chân
thành ca nhng tâm hồn yêu thương say đm.
Đất Nước còn là nơi trở v ca nhng tâm hn thiết tha với quê hương. Hình
ảnh con chim phượng hoàng bay v hòn núi bạc, con ngư ông móng nước bin
khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác gi.
Đất Nước mình bình d, quen thuộc nhưng đôi khi cũng ln rng, tráng l
cùng, nhất đối vi những người đi xa. chim ham trái chín ăn xa, thì cũng
git mình nh gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng
v quê hương, hưng v ci ngun.
Đất Nước trường tn trong không gian thi gian: Thời gian đằng đẵng, không
gian mênh mông đ mãi mãi nơi dân mình đoàn t, không gian sinh tn ca
cộng đồng Vit Nam qua bao thế h. Nguyễn Khoa Điềm gi li truyn thuyết Lc
Long Quân Âu , v truyn thuyết Hùng Vương ngày gi t. Nhc li Lc
Long Quân Âu Cơ, nhắc đến ngày gi t, Nguyễn Khoa Điềm mun nhc nh
mọi người nh v ci ngun ca dân tc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Vit Nam
cũng đều hướng v đất t, nh đến dòng ging Rng Tiên ca mình.
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhc nh:
Những ai đã khuất
Nhng ai bây gi
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
4 | T r a n g
Gánh vác phần người đi trước để li
Dn dò con cháu chuyn mai sau
Cm hứng thơ của tác gi có v phóng túng, t do nhưng thật ra đây là một h
thng lp lun khá rõ ch yếu là tác gi th hin đất nước trong ba phương diện:
trong chiu rng ca không gian lãnh th đa lí, trong chiều dài thăm thm ca thi
gian lch s, trong b dày của văn hóa phong tc, li sng tâm hn tính cách
dân tc.
Ba phương diện ấy được th hin gn thng nht bt c phương diện
nào thì tưởng đất nước ca nhân dân vẫn tưởng ct lõi, như một h qui
chiếu mi cảmc và suy tưởng của nhà thơ.
c th hơn na, gần gũi hơn nữa, Đất nước ngay trong máu tht ca mi
chúng ta:
Trong anh và em hôm nay
Đều có mt phần đất nước
Đất nước đã thấm t nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mi con
ngưi, vì thế s sng ca mi cá nhân không phi là riêng ca mỗi con người mà là
ca c đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiu di sản văn hóa vật cht và
tinh thn của đất nước, phi gin và bo v để làm nên đất nước muôn đi.
T nhng quan niệm như vậy v đất nước, phn sau ca tác phm tác gi tp
trung làm ni bật tư tưởng: Đất nước ca nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng
tạo ra Đất nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến mt cái nhìn mi m, có chiu sâu v địa lí, v nhng
danh lam thng cnh trên khp mi miền đất nước. Nhng núi Vng Phu, hòn Trng
Mái, nhng núi Bút non Nghiên… không còn là những cnh thú thiên nhiên na mà
đưc cm nhn thông qua nhng cnh ng, s phn của nhân dân, được nhìn nhn
như những đóng góp của nhân dân, s hóa thân ca những con người không tên
tui: “Những người v nh chồng còn góp cho Đất nước nhng núi Vng Phu, Cp
v chng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”, Người hc trò thng cảnh”. đây
cnh vt thiên nhiên qua cách nhìn ca Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phn
5 | T r a n g
tâm hn, máu tht ca nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt
tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mi ngn núi, dòng sông. T nhng hình nh,
nhng cnh vt, nhng hiện tượng c thể, nhà thơ qui np thành mt khái quát sâu
sc:
đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chng mang mt dáng hình, một ao ước, mt li sng ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Nhng cuộc đời đã hóa núi sông ta.
tưởng Đất c của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về
lch s bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngi các triều đại, không nói
đến những anh hùng được s sách lưu danh chỉ tập trung nói đến nhng con
người danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là ca nhân dân, ca nhng
con người vô danh bình d đó.
H đã sống và chết
Gin d và bình tâm
Không ai nh mặt đt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
H lao đng chng gic ngoi xâm, h đã giữ truyn li cho các thế h
mai sau các giá tr văn hóa, văn minh, tinh thn và vt cht của đất nước t ht lúa,
ngn la, tiếng nói, tên xã, tên làng đến nhng truyn thn thoi, câu tc ng, ca
dao. Mch cm c lng t lại đ cui cùng dn ti cao trào, làm ni bật lên tư tưởn
ct lõi ca c i thơ vừa bt ng, va gin d và độc đáo:
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước ca ca dao thn thoi
Một định nghĩa giản d, bt ng v Đất nước. Đất nước ca ca dao thn thoi
nhưng vẫn th hin những phương diện quan trng nht ca truyn thng nhân dân,
6 | T r a n g
ca dân tc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và ng tht quyết
liệt trong đấu tranh chng gic ngoi xâm.
Những câu thơ khép li tác phm ca ngi v đẹp ca cnh sắc quê hương với
mt tâm hn lạc quan phơi phới. Tt c ào t tuôn chảy trong tâm trí người đọc
nhng tí tách reo vui
Đất nước ca Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết
v Đất nước. T nhng cm nhn mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không
còn xa l, trừu tượng tr nên thân thiết nhưng vn rt thiêng liêng. Đọc Đất nước
ca Nguyễn Khoa Điềm ta không ch tìm v ci ngun dân tc còn khơi dậy tinh
thn dân tc trong mỗi con người Vit Nam trong mi thời đại.
Bài làm 2:
Nhà tnhà văn Nguyễn Khoa Đim không nhiu tác phẩm nhưng những
tập thơ của ông luôn được đc gi đón nhận và yêu thích. Trong đó không th không
nhắc đến trường ca “Mặt đường khát vọng” vô cùng ni tiếng ta thường biết đến
thông qua bài thơ “Đất Nước”. Bài thơ này đưc trích t chương V của trường ca.
Đây đuợc xem chương hay sâu sc nht. Tác gi chia đoạn thơ thành 5 khổ,
mi kh ng vi mt luận điểm, nhưng đều nhm mt mục đích đó là làm sáng t
ng: “Đất nước này Đất Nước Nhân dân”. Chính luồng tưởng này đã thôi
thúc tui tr các tnh Min Nam tham gia chiến đấu giành độc lập cho nước nhà.
Không nhng thế, đã khơi dậy nim t hào dân tc ca nhân dân ta. Bên cạnh đó,
Nguyễn Khoa Điềm trình bày rt ngh thut nhiu cm nhn, gii mi v đất nước.
T đó, ta hiểu thêm tính chính lun - tr tình ca thơ ông nói riêng tchng M
nói chung.
Câu thơ đầu của đoạn rất đỗi nh nhàng, bình d nhưng lại vô cùng hàm súc:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa m thường hay k”.
Bn t ngày xửa ngày xưa” sao quá đỗi quen thuc vi chúng ta. xut hin
trong nhng câu chuyn c tích bà k, trong nhng li ru tha thiết ca m mi khi
đêm v. T lâu nó đã như là mt yếu t không th thiếu d to nên không gian riêng
7 | T r a n g
ca nàng Tm, Hoàng T, của Mai An Tiêm… Nay, đã đi vào văn chương Vit
Nam to nên một định nghĩa rất bt ng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong Nam
Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, đất nước hin ra thông qua hình ảnh “Vua chúa
và “sách trời”:
“Nam quốc sơn hà Nam Đế
Tuyệt nhiên định phn tại thiên thư”
(Nam Quốc Sơn Hà)
Hay như trong “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của nhà thơ Nguyễn Đỉnh Chiu:
“Mt mối xa tđồ sộ, để ai chém rắn đuổi hươu; hai vng nht nguyt
chói loà đâu dung lũ treo dê bán chó”
(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuc)
Nhng t như “mối xa thư đồ sộ” hay “hai vầng nht nguyệt chói loà” đã trang
trọng hoá đất nước. Nó th hin s kì vĩ và cao cả nhưng cũng tạo mt khong cách
thiêng liêng của con người đối với Đất Nước. Nhưng với Nhuyễn Khoa Điềm thì li
khác. Nhà thơ đã xoá b khoảng cách đó. Đất nước đã hoá thân vào nhng câu
chuyn c tích hay nhng câu ca dao rất đi quen thuc hin ra tht bình d
gần gũi.
“Đất Nước bắt đầu vi miếng tru bây gi ăn
Đất Nước ln lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
T thơ này m sống li nhiu câu tc ng, ca dao truyn Trầu cau bi thương,
tình nghĩa. Qua hình ảnh “miếng trầu”, Nguyễn Khoa Điềm “nhân dân hóa” thơ
mình thêm mt bng chng v đất nước hình thành t xa xưa. Đất Nước
c ln dn lên cùng các truyn thống như trồng tre, trồng lúa, đánh đuổi gic ngoi
xâm.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha m thương nhau bằng gng cay mui mn
8 | T r a n g
Cái kèo cái ct thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Tác gi đã dành một li ngi ca, mt s trân trọng đối với tình nghĩa vợ chng
khi nói đến “cha mẹ”. Sự thu chung son st tri bao gian khó nhc nhằn được ông
đề cao. cuc sng bấp bênh, đủ mọi khó khăn vt v, ch “gừng cay” và “muối
mặn” ch ít khi ngọt ngào. Tuy nhiên “cha mẹ” vẫn dành cho nhau s yêu thương
một điều rất đáng quý. câu thơ này, thay dùng chữ “yêu” tác giả li chn t
“thương” để đưa vào. Bởi ông muốn thơ của mình gin d gn với văn học bình
dân hơn, gần vi nhân dân hơn. Cũng như tác giả n hình ảnh “gừng cay mui
mặn” từ câu ca dao:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gng cay mui mn xin đừng quên nhau”
để th hên tình cm v chng.
Rồi đến khi Cái kèo cái cột thành tên” thì dân tộc ta đã bước sang mt s phát
trin mi. Ngành nông nghiệp lúa nước ra đời giúp cho cuc sng nhân dân bớt
cc mặc dù cũng phải “mt nắng hai sương” theo tng ht go.
Câu cui ca kh thơ này, tác gi đúc kết và khẳng định li mt ln na v s
ra đời cùa Đất Nưc:
“Đất Nước có t ngày đó…”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác và s dng triệt để vốn văn hoá dân
gian sn có, sáng to li khiến cho người đọc cm thy rt gần gũi và bất ng. Trong
sut quá trình phát trin của Đất Nước, ta du thy bóng dáng ca những con người.
Đó là sở vng chắc để tác gi tiếp tc triển khai ởng Đất Nước này là đt
c Nhân dân 3 kh thơ sau.
Một không gian khác được tác gi m ra cùng khéo léo khi ông tách đôi 2
âm tiết “Đất Nước”.
“Đất là nơi anh đến trường
9 | T r a n g
ớc là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nh thm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Trình t nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, tưởng như tình cờ mà không sao
đảo ngược. Nếu thay đổi dưới dạng: Đất nơi em đến trường, Nước là nơi anh tắm,
cm hứng thơ sẽ tan biến. Dòng viết trên thành một câu văn xuôi rất đỗi bình thường.
Văn hoán gian là của nhân dân. Để khẳng định tư tưởng ca mình tác gi đã
vn dng cht liệu dân gian vào trong văn thơ của mình. ”Đất nước là của nhân dân”
nên việc đưa chất tr tình ca dân gian tạo được hiu qu cao trong vic xây dng
hình tượng đất nước, qua đó ta thấy được s sáng tạo cũng như độc đáo trong thơ
ca Nguyễn Khoa Điềm. Câu thơ:” Đất Nước nơi em đánh rơi chiếc khăn trong
ni nh thầm” là một ví d. Hẳn ta chưa quên câu ca dao rất đỗi ngt ngào:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt…”
Vn dng ý t câu ca dao trên, tác gi đã viết nên dòng thơ đậm cht dân gian
nhưng không kém phần độc đáo, tạo nên mt phong cách rt riêng của nhà thơ.
Hai câu thơ tiếp theo hình tượng Đất Nước được biến hoá vô cùng sinh động:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay v hòn núi bc”
ớc là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
10 | T r a n g
Con chim phượng hoàng ngư ông hai con vật linh thiêng đưc nhân
dân ta th phụng, nay đưa vào trong văn tca Nguyễn Khoa Điềm rt gn gũi.
Giữa người thần dường như không h có s ngăn cách, tt c như hoà vào nhau
bình đng. Mt ln nữa, nhà thơ đã đưa Đất Nước t ca thn linh tr thành Đất
c ca nhân dân. Và chính tư tưởng đó đã giúp tác gi khám phá Đất Nước trên
nhng khía cnh khác nhau. M đầu là “Thời gian đằng đẵng”. Xuôi theo dòng lịch
s, Nguyễn Khoa Đim ghi li nhng truyn thuyết, phong tc dân gian vn rt quen
thuc vi chúng ta.
“Đất là nơi Chim về
ớc là nơi Rồng
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bc trng
Những ai đã khuất
Nhng ai bây gi
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để li
Dn dò con cháu chuyn mai sau
Hàng năm ăn đâu ở đâu
Cũng biết cúi đầu nh ngày gi Tổ”
Song song vi quá trình tách - hp, s hài hòa trong mi quan hệ: “anh” -
“em” thành “ta” và “Chim về”, “Rồng ở” tạo nên mi tình Lc Long Quân - Âu Cơ.
Qua các câu thơ, tác giả cho ta thấy: đất nước bắt đầu hình thành, “lớn lên” như
nhng mi tình thân thiết, yêu thương. Dây là quãng thời gian thấm đẫm ci ngun,
th hiện ước muốn ngược dòng thi gian tr v ci ngun, lch s hình thành Đất
ớc. Nó khoác lên “Đất Nước” một v đẹp l lùng, lp lánh cht huyn thoại. Đất
11 | T r a n g
ớc không đơn thuần ch là núi song. Đó nơi Lạc Long Quân Âu yêu
nhau, đó nơi dân mình được sinh ra và đoàn tụ. T đó, đất nước thành không gian
ca mọi người, ca cộng đồng.
Bên cạnh đó, tác gi còn đánh thức tình cm t tiên tình yêu qhương đất
c. Thm thía nht là hai câu thơ:
“Hàng năm ăn đâu ở đâu
Cũng biết cúi đầu nh ngày gi Tổ”
Mùng 10 tháng 3 hàng năm, ngưi Vit ta phong tc Gi T Hùng Vương
để tôn vinh nhng ông vua công dựng nước. Nthơ sử dng 2 ch “cúi đầu” với
v tôn kính ngưỡng mộ. như một bàn tay kh chm vào tim thc ca mi
người con yêu nước, phương nào cũng phải biết th phng ông t tiên mình.
Nguyễn Khoa Điềm đã rất ý nh trong việc khơi gợi lòng yêu Đất Nước trong mi
con người.
Qua kh thơ thứ hai, đất nước được cm nhận như sự thng nht hài hòa gia
cái hàng ngày và vĩnh hằng, trong mi cá nhân và toàn dân tc, trong quá kh, hôm
nay và mai sau. T suy ngm trên, Nguyễn Khoa Điềm kết lun:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có mt phần Đất Nước
Khi hai đứa cm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nng thm
Khi chúng ta cm tay mọi người
Đất nước vn tròn, to ln
Mai này con ta ln lên Con s mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
12 | T r a n g
Trong mỗi chúng ta đều bóng hình của Đất Nước, gn bó rt cht ch. Thế
nên chúng ta phi biết gi gìn bo v nó. Đất Nước trn vn khi dân mình biết
ch che cho nhau, đoàn kết li. Lúc ấy Đất Nước s vô cùng mnh m, bt khut.
Nhà thơ mong muốn thế h sau này cũng s yêu quý Đất Nước, phát triển như
nhng gì thế h trước đã đang làm. Kết li kh thơ, tác giả nhn nh đến mi
ngưi:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phi biết gn bó và chia s
Phi biết hoá thân cho dáng hình x s
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Đó không chỉ là mong mun của riêng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà đó còn
nhng t tiên, ông trông đợi nơi ta, những người con ca thế h sau s c
gng thc hin. T “phải” như một mnh lệnh. Nhưng đó mệnh lnh ca trái
tim, ca ý thc trong mi chúng ta.
kh thơ thứ 3, tưởng đất nước nhân dân” còn được th hin qua cách cm
nhn sâu sắc, độc đáo về phương diện địa lý.
“Những người v nh chồng còn góp cho Đất Nước nhng núi Vng Phu
Cp v chng yêu nhau góp nên nhng hòn Trng mái
Gót nga của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao hồ để li
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất T Hùng Vương
Nhng con rng nm im góp dòng sông xanh thm
Người học tró nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thng cnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
13 | T r a n g
Chng mang mt dáng hình, một ao ước, mt li sng ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”
Núi Vng Phu, hòn Trng Mái ri H Long... ch thành thng cnh khi gn lin
với đời sống văn hóa dân tộc, được cm th qua tâm hn qun chúng và lch s đt
c. Theo li quy np, t nhng dn chng c thể, nhà thơ đi đến nhn xét tng
quát:
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”
Trong không gian địa lý, trên khp ruộng đồng bãi, Nguyễn Khoa Điềm đu
thy dấu tích nhân dân để li... Chính diều này đã thể hin mi liên h mt thiết gia
nhân dân và đất c.
Bốn nghìn năm đi vi Nguyễn Khoa Điềm không ch thi gian. Vi con
mt sc so của mình, nhà thơ còn nhìn thấy những điều tưởng chừng như rất bình
d nhưng lại vô cùng quan trng.
“Em ơi em
Hãy nhìn rt xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lp lp
Con gái, con trai bng tui chúng ta
Cn cù làm lng
Khi có giặc người con trai ra trn
Người con gái tr v nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
14 | T r a n g
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiu anh hùng c anh va em đều nh
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bn nghìn lớp người ging ta la tui
H đã sống và chết
Gin d và bình tâm
Không ai nh mặt đt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nếu kh 2 và 3 là cái nhìn gn, thi hin ti thì đây là cái nhìn xa, nhìn v
quá kh, theo dòng thi gian tr v buổi đầu dựng nước. Trong “Bình Ngô Đại Cáo”,
Nguyễn Trãi đã tổng kết lch s bng các triều đại:
“T Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lp
Cùng Hán, Đường, Tng, Nguyên mi bên hùng c một phương”
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không làm như vy. Ông nhn mnh vai trò ca
những người tr tui vô danh. Những người đã giữn, truyn li cho con cháu mi
giá tr tinh thn, vt cht. Không ch bo v ht lúa, ngn la, tiếng nói, tên tên
làng qua các cuộc đi xa họn quyết tâm đánh giặc bo v quê hương Đất Nước.
Bng cách này, tác gi đã trả lại Đất Nước cho những người ch chân chính, nhng
người đã góp bao công sc trong thm lng xây dựng nên Đất Nước. Đây một
cách nhìn rt mới trong thơ văn yêu nước, cng c thêm cho tư tưởng ca tác gi.
“H gi và truyn cho ta ht lúa ta trng
H truyn la qua mi nhà, t hòn than qua con cúi
H truyn giọng điệu mình cho con tp nói
15 | T r a n g
H gánh theo tên xã, tên làng trong mi chuyến di dân
H đắp đập be b cho ngừơi sau trồng cây hái trái”
Đại t “họ” được lặp đi lặp lại, đặt đầu câu làm ni bt vai trò ca nhân dân,
những ai đã làm ra sn phm vt cht, tinh thần cua Đất Nước. Hàng loat dng t
như “giữ”, ”truyền”, “gánh” đưc tác gi s dụng để tạo nên hình tượng người dân
tht lực lưỡng, khe mnh không h mt mi trong công cuc dng xây bo v
T Quốc. Nhân dân đã đem c cuộc đời đóng góp, phát trin và bo tn mi giá tr
vt chất cũng như tinh thần cho con cháu. Vy nên nói Đất Nước là ca Nhân dân
chng h sai.
Thơ ca Nguyễn Khoa Đim mt thế giới nên thơ, mộc mc rt dân dã.
lp lánh nhng câu ca dao, nhng câu chuyn c tích khi xưa. Cũng chính nh
điều đó mà ta thấy nhân dân hin din xuyên suốt toàn bài thơ. Từ nền văn hoá dân
gian y, tác gi khám phá ra v đẹp tâm hồn, tính cách ngưi Vit Nam chung thu,
có nghĩa có tình nhưng lại rt cng rn trước quân thù.
“Dy anh biết “yêu em từ thưở trong nôi”
Biết quý công cm vàng nhng ngày ln li
Biết trồng tre đợi ngày thành gy
Đi trả thù mà không s dài lâu
Ôi nhng dòng sông bắt nước t đâu
Mà khi v Đất Nước mình thì bt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm năm dáng sông xuôi…”
tưởng “Đất Nước ca nhân dân” đã quá trình phát triển lâu dài nhưng ch
đến văn học Vit Nam hiện đại, nhn thc y mới đạt tới đỉnh cao, mang mt sc
thái mi l và thuyết phc.
“Đ Đất Nước này là Đất Nước ca Nhân dân
16 | T r a n g
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước ca ca dao thn thoi”
Hai câu thơ, hai vế song song, đồng đng một cách định nghĩa mới v đất
ớc. Đỉnh cao ca tính chính lun cm c tr tình hi t trong câu: “Để Đất
Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Chân lý y th hiện đầy đủ trong ca dao. Bi vy,
ngoài vic nhn mnh qua t “để”, tác giả còn láy lại điệp khúc “Đất Nước ca ca
dao thn thoại”. Đây kết qu tt yếu ca mt thời đại nhân dân thc slàm ch đi
mình, làm ch Đất Nước.
Qua đoạn thơ, ta thấy s vn dng sáng tạo văn học dân gian ca Nguyn Khoa
Đim. Ông ít lp lại nguyên văn thường s dng tng ý, tng hình ảnh thơ của
người xưa. Giọng chính lun - tr tình phù hp vi ni dung tác phm. Thực ra,
ởng đất nước nhân dân đã hình thành t lâu. Nguyễn Khoa Điềm chng cao tm
tưởng y diễn đạt bng ngôn t, giọng điệu mới, độc đáo. Ông tạo được mt
đoạn thơ hiện đại đậm đà bản sc dân gian. Bi vậy, thơ Nguyễn Khoa Điềm va
quen va l và có sc thuyết phc cao.
Bài làm 3:
Cùng với các nhà thơ thế h chng M lúc by gi, Nguyễn Khoa Điềm cũng
ng ngòi bút ca mình đến mt ch đề ln lao ca thơ ca đương thời đó chính là
đất nước. Tuy nhiên hình ảnh “đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không ch
đau thương mất mát hay ch nhng cảnh sơn hùng “đất nước” hiện
lên trn vn qua những suy nghĩ cm nhn hết sc mi mẻ. Đoạn trích “Đất nước”
trong trường ca Mặt đường khát vọng” chính là mt định nghĩa đủ đầy v đất nước
và qua đó cũng thể hin sâu sắc tư tưởng ct lõi ca tác phẩm: Đất nước là ca nhân
dân.
M đầu bài thơ là li tâm tình sâu lng đưa ta về vi ci ngun:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong nhng cái ngày xa
Ngày xưa mẹ thường hay k
17 | T r a n g
Đất nước bắt đầu bng miếng tru bây gi bà ăn
Đất nước ln lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc m thì bới sau đầu
Cha m thương nhau bằng gng cay mui mn
Cái kèo cái ct thành tên
Ht go phi mt nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có t ngày đó…
Trong đoạn thơ này ca Nguyễn Khoa Điềm có th thấy răng, đất nước không
phi cái gì trừu tượng, xa xôi đất nước chính là nhng gì thân thuc và gần gũi
nht. Trong câu chuyn ngày xửa ngày xưa, trong miếng tru của bà ăn, trong dáng
tre bt khuất kiên cường, trong nhng phc tc tp quán, trong ht go nu nhng
bữa cơm hàng ngày… đều hin hình lên một đt nước Vit Nam anh hùng, tình
nghĩa, giản d thân thương nhất. Đây có thể nói một định nghĩa v đất nước
hoàn toàn mi và hoàn toàn thiết thc nht, rõ ràng nht.
Vi Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ nhng khong gii hn v
không gian địa mà đây còn chiều dài thi gian lch s chiều sâu văn
hóa. Không nhng thế, “đất nước”n là tình yêu đôi lứa, có trong tình yêu đôi lứa:
Đất là nơi anh đến trường
ớc là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nh thm…
Đất nước tách riêng, tng phần đều tượng trưng cho những điều gần gũi
nhất. nơi anh đến trường, nơi em tm hàng ngày. Thế nhưng khi “ta hẹn”
thành một đôi trọn vẹn thì cũng như đất nước gp li vn tròn. Vi phát hin mi
m này, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng: Đất nước không ch bên ta, xung quanh
ta và còn có c trong ta.
18 | T r a n g
Đất nước là nơi khởi đầu cho nhng câu chuyện xa xưa, cho những câu ca dao
tc ngữ, điển tích điển c tt thy mi s sinh thành. Hình ảnh “con chim phưng
hoàng”, “núi Đen, Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” là nhng minh chng cho
đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến ca chúng ta. Nh v đất nước cũng chính là
nh v ci ngun, hiểu được sao chúng ta được sinh ra. Chính thế, đất nước
trong ý nim ca Nguyễn Khoa Điềm còn là s tiếp ni truyn thng:
Những ai đã khuất
Nhng ai bây gi
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để li
Dn dò con cháu chuyn mai sau
Trong anh và em hôm nay
Đều có mt phần đất nước
Biết bao thế h cha ông ta đã ngã xuống để boa v đất nước, bo v núi sông
b cõi. Đó cả mt chiu dài lch s hào hùng rt t hào ca dân tc ta. Chính
thế, con cháu đời sau phi tiếp tc gìn gi truyn thng y. Truyn thống yêu nước,
thương nòi, sn sàng chiến đấu để ba v non sông cho nhng thế h v sau. Và cho
đến hôm nay, “trong và em” “đu có mt phần đất nước”. Phần đất nước y là phn
máu tht, là mt phn trách nhim phi gi gìn xây dng, phần tình yêu đ bo v
đất nước cho con cháu mai sau.
những người đã không qun ngại thân mình hy sinh cho đất nước, làm
nên đất nước cho nên:
đâu trên khắp rung đồng gò bãi
Chng mang mt dáng hình, một ao ước, mt li sng ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Nhng cuộc đời đã hóa núi sông ta
19 | T r a n g
Khi nói v 4000 năm lch s của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không h k v
những vương triều hay nhng anh hùng ni tiếng mà li nhn mạnh “người làm ra
đất nước” lại chính những con người bình d danh. Chính h ch không phi
ai khác đã gìn gi truyn li ht lúa, ngn la, tiếng nói, ngôn ng cho đời sau.
t chính những con người danh làm nên đất nước bao năm qua đã giúp tác gi
khẳng định:
Đất nước này là đất nước ca nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước ca ca dao thn thoi
Với câu thơ sau, hai vế song song nhân dân đất nước li càng khẳng định đất
c chính kết tinh nhng giá tr tinh thần cao quý trong đời sng trí tu tình
cm ca nhân dân. Nhng giá tr ấy đã kết tinh li trong nhng câu ca dao, tc ng,
trong nhng câu chuyn thn thoi c tích của cha ông ta để lại. Đinh nghĩa về đất
ớc đến đây vừa gin d nhưng cũng vừa ln lao, sâu sc.
Đất nước đã được khẳng định là của nhân dân và cũng là của anh, ca em, và:
Em ơi em Đất Nước là máu xương ca mình
Phi biết gn bó và san s
Phi biết hóa thân cho dáng hình x s
Làm nên Đất Nước muôn đời
Đoạn thơ thân tình như một li nhn nh thiết tha, chân thành: s sng ca
chúng ta không ch do cha m sinh thành mà cònđất nước nuôi dưỡng. Chính vì
thế mi chúng ta cn phi trách nhim gìn gi, phát trin truyn li cho
nhng thế h tiếp theo.
Đất nước được xem là một đề tài, cm hng ch đạo của thơ ca thời kháng
chiến chống Mĩ. Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thc sâu sc vai trò và s đóng góp to
ln ca nhân dân trong cuc đấu tranh trường kì và vô cùng ác lit này. Chính vì thế
mà tư tưởng đất nước ca nhân dân t trong văn hc truyn thống đã được nhà thơ
20 | T r a n g
phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân ch sâu sc. Cht liệu văn hóa dân gian được
s dng nhun nhuyn, biến đổi linh hoạt đầy sáng tạo chính là nét đặc sc thẩm
và thng nht với tư tưởng “đất nước của nhân dân, Đất nước ca ca dao thn thoại”
của bài thơ.
| 1/20

Preview text:

PHÂN TÍCH BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN KHOA ĐIỀM Bài làm 1:
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu
trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu,
qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi
tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng
vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu
dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái
nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân.
Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất
nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính
luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất
nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết
hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất
gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước hiện
hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà,
cây tre trước ngõ… gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung
và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm 1 | T r a n g
lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước,
đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.
Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng
của một dân tộc giầu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm
gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối
tất nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia.
Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của
một ai đó hôm nào: Tay bưng dĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau.
Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.
Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen
thuộc và giản gị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện
suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.
Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng,
Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nươc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng
đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người,
không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý nịêm về đất nước
được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên 2 | T r a n g
tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lối chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên
dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của
dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.
Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng
dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không
những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những
người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp
khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã
từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống
đất …”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân
thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.
Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình
ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển
khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả.
Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ
vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng
giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng
về quê hương, hướng về cội nguồn.
Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không
gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của
cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc
Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc
Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở
mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc . Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam
cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.
Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:
Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái 3 | T r a n g
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ
thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện:
trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời
gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.
Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện
nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ qui
chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.
Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con
người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là
của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và
tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.
Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập
trung làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những
danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống
Mái, những núi Bút non Nghiên… không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà
được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận
như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên
tuổi: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, Cặp
vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”, “Người học trò thắng cảnh”. Ở đây
cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần 4 | T r a n g
tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt
tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh,
những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về
lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói
đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con
người vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những
con người vô danh bình dị đó.
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ
mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa,
ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca
dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởn
cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:
Đất nước này là Đất nước nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại
Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại
nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, 5 | T r a n g
của dân tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết
liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với
một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui…
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết
về Đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, Đất nước không
còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước
của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh
thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại. Bài làm 2:
Nhà thơ nhà văn Nguyễn Khoa Điềm không có nhiều tác phẩm nhưng những
tập thơ của ông luôn được độc giả đón nhận và yêu thích. Trong đó không thể không
nhắc đến trường ca “Mặt đường khát vọng” vô cùng nổi tiếng mà ta thường biết đến
thông qua bài thơ “Đất Nước”. Bài thơ này được trích từ chương V của trường ca.
Đây đuợc xem là chương hay và sâu sắc nhất. Tác giả chia đoạn thơ thành 5 khổ,
mỗi khổ ứng với một luận điểm, nhưng đều nhằm một mục đích đó là làm sáng tỏ tư
tưởng: “Đất nước này là Đất Nước Nhân dân”. Chính luồng tư tưởng này đã thôi
thúc tuổi trẻ các tỉnh Miền Nam tham gia chiến đấu giành độc lập cho nước nhà.
Không những thế, nó đã khơi dậy niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta. Bên cạnh đó,
Nguyễn Khoa Điềm trình bày rất nghệ thuật nhiều cảm nhận, lý giải mới về đất nước.
Từ đó, ta hiểu thêm tính chính luận - trữ tình của thơ ông nói riêng và thơ chống Mỹ nói chung.
Câu thơ đầu của đoạn rất đỗi nhẹ nhàng, bình dị nhưng lại vô cùng hàm súc:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.
Bốn từ “ngày xửa ngày xưa” sao quá đỗi quen thuộc với chúng ta. Nó xuất hiện
trong những câu chuyện cổ tích bà kể, trong những lời ru tha thiết của mẹ mỗi khi
đêm về. Từ lâu nó đã như là một yếu tố không thể thiếu dể tạo nên không gian riêng 6 | T r a n g
của nàng Tấm, Hoàng Tử, của Mai An Tiêm… Nay, nó đã đi vào văn chương Việt
Nam tạo nên một định nghĩa rất bất ngờ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong Nam
Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt, đất nước hiện ra thông qua hình ảnh “Vua chúa” và “sách trời”:
“Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư” (Nam Quốc Sơn Hà)
Hay như trong “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của nhà thơ Nguyễn Đỉnh Chiểu:
“Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt
chói loà đâu dung lũ treo dê bán chó”
(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Những từ như “mối xa thư đồ sộ” hay “hai vầng nhật nguyệt chói loà” đã trang
trọng hoá đất nước. Nó thể hiện sự kì vĩ và cao cả nhưng cũng tạo một khoảng cách
thiêng liêng của con người đối với Đất Nước. Nhưng với Nhuyễn Khoa Điềm thì lại
khác. Nhà thơ đã xoá bỏ khoảng cách đó. Đất nước đã hoá thân vào những câu
chuyện cổ tích hay những câu ca dao rất đỗi quen thuộc và hiện ra thật bình dị và gần gũi.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Tứ thơ này làm sống lại nhiều câu tục ngữ, ca dao và truyện Trầu cau bi thương,
tình nghĩa. Qua hình ảnh “miếng trầu”, Nguyễn Khoa Điềm “nhân dân hóa” thơ
mình và có thêm một bằng chứng về đất nước hình thành từ xa xưa. Và Đất Nước
cứ lớn dần lên cùng các truyền thống như trồng tre, trồng lúa, đánh đuổi giặc ngoại xâm.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn 7 | T r a n g
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Tác giả đã dành một lời ngợi ca, một sự trân trọng đối với tình nghĩa vợ chồng
khi nói đến “cha mẹ”. Sự thuỷ chung son sắt trải bao gian khó nhọc nhằn được ông
đề cao. Vì cuộc sống bấp bênh, đủ mọi khó khăn vất vả, chỉ có “gừng cay” và “muối
mặn” chứ ít khi ngọt ngào. Tuy nhiên “cha mẹ” vẫn dành cho nhau sự yêu thương là
một điều rất đáng quý. Ở câu thơ này, thay vì dùng chữ “yêu” tác giả lại chọn từ
“thương” để đưa vào. Bởi vì ông muốn thơ của mình giản dị và gần với văn học bình
dân hơn, gần với nhân dân hơn. Cũng như tác giả mượn hình ảnh “gừng cay muối mặn” từ câu ca dao:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
để thể hịên tình cảm vợ chồng.
Rồi đến khi “Cái kèo cái cột thành tên” thì dân tộc ta đã bước sang một sự phát
triển mới. Ngành nông nghiệp lúa nước ra đời giúp cho cuộc sống nhân dân bớt cơ
cực mặc dù cũng phải “một nắng hai sương” theo từng hạt gạo.
Câu cuối của khổ thơ này, tác giả đúc kết và khẳng định lại một lần nữa về sự
ra đời cùa Đất Nước:
“Đất Nước có từ ngày đó…”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác và sử dựng triệt để vốn văn hoá dân
gian sẵn có, sáng tạo lại khiến cho người đọc cảm thấy rất gần gũi và bất ngờ. Trong
suốt quá trình phát triển của Đất Nước, ta dều thấy bóng dáng của những con người.
Đó là cơ sở vững chắc để tác giả tiếp tục triển khai tư tưởng Đất Nước này là đất
Nước Nhân dân ở 3 khổ thơ sau.
Một không gian khác được tác giả mở ra vô cùng khéo léo khi ông tách đôi 2
âm tiết “Đất Nước”.
“Đất là nơi anh đến trường 8 | T r a n g
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn”
Trình tự “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, tưởng như tình cờ mà không sao
đảo ngược. Nếu thay đổi dưới dạng: Đất là nơi em đến trường, Nước là nơi anh tắm,
cảm hứng thơ sẽ tan biến. Dòng viết trên thành một câu văn xuôi rất đỗi bình thường.
Văn hoá dân gian là của nhân dân. Để khẳng định tư tưởng của mình tác giả đã
vận dụng chất liệu dân gian vào trong văn thơ của mình. ”Đất nước là của nhân dân”
nên việc đưa chất trữ tình của dân gian tạo được hiệu quả cao trong việc xây dựng
hình tượng đất nước, qua đó ta thấy được sự sáng tạo cũng như độc đáo trong thơ
của Nguyễn Khoa Điềm. Câu thơ:” Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong
nỗi nhớ thầm” là một ví dụ. Hẳn ta chưa quên câu ca dao rất đỗi ngọt ngào:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt…”
Vận dụng ý từ câu ca dao trên, tác giả đã viết nên dòng thơ đậm chất dân gian
nhưng không kém phần độc đáo, tạo nên một phong cách rất riêng của nhà thơ.
Hai câu thơ tiếp theo hình tượng Đất Nước được biến hoá vô cùng sinh động:
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” 9 | T r a n g
Con chim phượng hoàng và cá ngư ông là hai con vật linh thiêng được nhân
dân ta thờ phụng, nay đưa vào trong văn thơ của Nguyễn Khoa Điềm rất gần gũi.
Giữa người và thần dường như không hề có sự ngăn cách, tất cả như hoà vào nhau
bình đẳng. Một lần nữa, nhà thơ đã đưa Đất Nước từ của thần linh trở thành Đất
Nước của nhân dân. Và chính tư tưởng đó đã giúp tác giả khám phá Đất Nước trên
những khía cạnh khác nhau. Mở đầu là “Thời gian đằng đẵng”. Xuôi theo dòng lịch
sử, Nguyễn Khoa Điềm ghi lại những truyền thuyết, phong tục dân gian vốn rất quen thuộc với chúng ta.
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu ở đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Song song với quá trình tách - hợp, là sự hài hòa trong mối quan hệ: “anh” -
“em” thành “ta” và “Chim về”, “Rồng ở” tạo nên mối tình Lạc Long Quân - Âu Cơ.
Qua các câu thơ, tác giả cho ta thấy: đất nước bắt đầu hình thành, “lớn lên” như
những mối tình thân thiết, yêu thương. Dây là quãng thời gian thấm đẫm cội nguồn,
thể hiện ước muốn ngược dòng thời gian trở về cội nguồn, lịch sử hình thành Đất
Nước. Nó khoác lên “Đất Nước” một vẻ đẹp lạ lùng, lấp lánh chất huyền thoại. Đất 10 | T r a n g
Nước không đơn thuần chỉ là núi song. Đó là nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ yêu
nhau, đó là nơi dân mình được sinh ra và đoàn tụ. Từ đó, đất nước thành không gian
của mọi người, của cộng đồng.
Bên cạnh đó, tác giả còn đánh thức tình cảm tổ tiên tình yêu quê hương đất
nước. Thấm thía nhất là hai câu thơ:
“Hàng năm ăn đâu ở đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Mùng 10 tháng 3 hàng năm, người Việt ta có phong tục Giỗ Tổ Hùng Vương
để tôn vinh những ông vua có công dựng nước. Nhà thơ sử dụng 2 chữ “cúi đầu” với
vẻ tôn kính và ngưỡng mộ. Nó như một bàn tay khẽ chạm vào tiềm thức của mỗi
người con yêu nước, dù ở phương nào cũng phải biết thờ phụng ông bà tổ tiên mình.
Nguyễn Khoa Điềm đã rất ý nhị trong việc khơi gợi lòng yêu Đất Nước trong mỗi con người.
Qua khổ thơ thứ hai, đất nước được cảm nhận như sự thống nhất hài hòa giữa
cái hàng ngày và vĩnh hằng, trong mỗi cá nhân và toàn dân tộc, trong quá khứ, hôm
nay và mai sau. Từ suy ngẫm trên, Nguyễn Khoa Điềm kết luận:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng” 11 | T r a n g
Trong mỗi chúng ta đều có bóng hình của Đất Nước, gắn bó rất chặt chẽ. Thế
nên chúng ta phải biết giữ gìn và bảo vệ nó. Đất Nước trọn vẹn khi dân mình biết
chở che cho nhau, đoàn kết lại. Lúc ấy Đất Nước sẽ vô cùng mạnh mẽ, bất khuất.
Nhà thơ mong muốn thế hệ sau này cũng sẽ yêu quý Đất Nước, phát triển nó như
những gì thế hệ trước đã và đang làm. Kết lại khổ thơ, tác giả nhắn nhủ đến mọi người:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và chia sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Đó không chỉ là mong muốn của riêng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà đó còn
là những gì tổ tiên, ông bà trông đợi nơi ta, những người con của thế hệ sau sẽ cố
gắng thực hiện. Từ “phải” như là một mệnh lệnh. Nhưng đó là mệnh lệnh của trái
tim, của ý thức trong mỗi chúng ta.
Ở khổ thơ thứ 3, tư tưởng “đất nước nhân dân” còn được thể hiện qua cách cảm
nhận sâu sắc, độc đáo về phương diện địa lý.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhựng núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên những hòn Trống mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao hồ để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học tró nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi 12 | T r a n g
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”
Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái rồi Hạ Long... chỉ thành thắng cảnh khi gắn liền
với đời sống văn hóa dân tộc, được cảm thụ qua tâm hồn quần chúng và lịch sử đất
nước. Theo lối quy nạp, từ những dẫn chứng cụ thể, nhà thơ đi đến nhận xét tổng quát:
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”
Trong không gian địa lý, trên khắp ruộng đồng gò bãi, Nguyễn Khoa Điềm đều
thấy dấu tích nhân dân để lại... Chính diều này đã thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa
nhân dân và đất nước.
Bốn nghìn năm đối với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là thời gian. Với con
mắt sắc sảo của mình, nhà thơ còn nhìn thấy những điều tưởng chừng như rất bình
dị nhưng lại vô cùng quan trọng. “Em ơi em Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh 13 | T r a n g
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh va em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nếu ở khổ 2 và 3 là cái nhìn gần, thời hiện tại thì ở đây là cái nhìn xa, nhìn về
quá khứ, theo dòng thời gian trở về buổi đầu dựng nước. Trong “Bình Ngô Đại Cáo”,
Nguyễn Trãi đã tổng kết lịch sử bằng các triều đại:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không làm như vậy. Ông nhấn mạnh vai trò của
những người trẻ tuổi vô danh. Những người đã giữ gìn, truyền lại cho con cháu mọi
giá trị tinh thần, vật chất. Không chỉ bảo vệ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã tên
làng qua các cuộc đi xa mà họ còn quyết tâm đánh giặc bảo vệ quê hương Đất Nước.
Bằng cách này, tác giả đã trả lại Đất Nước cho những người chủ chân chính, những
người đã góp bao công sức trong thầm lặng xây dựng nên Đất Nước. Đây là một
cách nhìn rất mới trong thơ văn yêu nước, củng cố thêm cho tư tưởng của tác giả.
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói 14 | T r a n g
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho ngừơi sau trồng cây hái trái”
Đại từ “họ” được lặp đi lặp lại, đặt ở đầu câu làm nổi bật vai trò của nhân dân,
những ai đã làm ra sản phẫm vật chất, tinh thần cua Đất Nước. Hàng loat dộng từ
như “giữ”, ”truyền”, “gánh” được tác giả sử dụng để tạo nên hình tượng người dân
thật lực lưỡng, khỏe mạnh không hề mệt mỏi trong công cuộc dựng xây và bảo vệ
Tổ Quốc. Nhân dân đã đem cả cuộc đời đóng góp, phát triển và bảo tồn mọi giá trị
vật chất cũng như tinh thần cho con cháu. Vậy nên nói “Đất Nước là của Nhân dân” chẳng hề sai.
Thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một thế giới nên thơ, mộc mạc và rất dân dã.
Nó lấp lánh những câu ca dao, những câu chuyện cổ tích khi xưa. Cũng chính nhờ
điều đó mà ta thấy nhân dân hiện diện xuyên suốt toàn bài thơ. Từ nền văn hoá dân
gian ấy, tác giả khám phá ra vẻ đẹp tâm hồn, tính cách người Việt Nam chung thuỷ,
có nghĩa có tình nhưng lại rất cứng rắn trước quân thù.
“Dạy anh biết “yêu em từ thưở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm năm dáng sông xuôi…”
Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” đã có quá trình phát triển lâu dài nhưng chỉ
đến văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức ấy mới đạt tới đỉnh cao, mang một sắc
thái mới lạ và thuyết phục.
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân 15 | T r a n g
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Hai câu thơ, hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa mới về đất
nước. Đỉnh cao của tính chính luận và cảm xúc trữ tình hội tụ trong câu: “Để Đất
Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Chân lý ấy thể hiện đầy đủ trong ca dao. Bởi vậy,
ngoài việc nhấn mạnh qua từ “để”, tác giả còn láy lại điệp khúc “Đất Nước của ca
dao thần thoại”. Đây là kết quả tất yếu của một thời đại nhân dân thực sựlàm chủ đời
mình, làm chủ Đất Nước.
Qua đoạn thơ, ta thấy sự vận dụng sáng tạo văn học dân gian của Nguyễn Khoa
Điềm. Ông ít lặp lại nguyên văn mà thường sử dụng từng ý, từng hình ảnh thơ của
người xưa. Giọng chính luận - trữ tình phù hợp với nội dung tác phẩm. Thực ra, tư
tưởng đất nước nhân dân đã hình thành từ lâu. Nguyễn Khoa Điềm chỉ nâng cao tầm
tư tưởng ấy và diễn đạt nó bằng ngôn từ, giọng điệu mới, độc đáo. Ông tạo được một
đoạn thơ hiện đại đậm đà bản sắc dân gian. Bởi vậy, thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa
quen vừa lạ và có sức thuyết phục cao. Bài làm 3:
Cùng với các nhà thơ thế hệ chống Mỹ lúc bấy giờ, Nguyễn Khoa Điềm cũng
hướng ngòi bút của mình đến một chủ đề lớn lao của thơ ca đương thời đó chính là
đất nước. Tuy nhiên hình ảnh “đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ
có đau thương mất mát hay chỉ có những cảnh sơn hà hùng vì mà “đất nước” hiện
lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết sức mới mẻ. Đoạn trích “Đất nước”
trong trường ca “Mặt đường khát vọng” chính là một định nghĩa đủ đầy về đất nước
và qua đó cũng thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân.
Mở đầu bài thơ là lời tâm tình sâu lắng đưa ta về với cội nguồn:
Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa
Ngày xưa mẹ thường hay kể 16 | T r a n g
Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất nước có từ ngày đó…
Trong đoạn thơ này của Nguyễn Khoa Điềm có thể thấy răng, đất nước không
phải là cái gì trừu tượng, xa xôi mà đất nước chính là những gì thân thuộc và gần gũi
nhất. Trong câu chuyện ngày xửa ngày xưa, trong miếng trầu của bà ăn, trong dáng
tre bất khuất kiên cường, trong những phục tục tập quán, trong hạt gạo nấu những
bữa cơm hàng ngày… đều hiện hình lên một đất nước Việt Nam anh hùng, tình
nghĩa, giản dị mà thân thương nhất. Đây có thể nói là một định nghĩa về đất nước
hoàn toàn mới và hoàn toàn thiết thực nhất, rõ ràng nhất.
Với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ là những khoảng giới hạn về
không gian địa lý mà ở đây nó còn có chiều dài thời gian lịch sử và chiều sâu văn
hóa. Không những thế, “đất nước” còn là tình yêu đôi lứa, có trong tình yêu đôi lứa:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…
Đất và nước tách riêng, từng phần đều tượng trưng cho những điều gần gũi
nhất. Là nơi anh đến trường, là nơi em tắm hàng ngày. Thế nhưng khi “ta hò hẹn”
thành một đôi trọn vẹn thì cũng như đất nước gộp lại vẹn tròn. Với phát hiện mới
mẻ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng: Đất nước không chỉ bên ta, xung quanh
ta và còn có cả ở trong ta. 17 | T r a n g
Đất nước là nơi khởi đầu cho những câu chuyện xa xưa, cho những câu ca dao
tục ngữ, điển tích điển cố và tất thảy mọi sự sinh thành. Hình ảnh “con chim phượng
hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” là những minh chứng cho
đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến của chúng ta. Nhớ về đất nước cũng chính là
nhớ về cội nguồn, hiểu được vì sao chúng ta được sinh ra. Chính vì thế, đất nước
trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:
Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
Biết bao thế hệ cha ông ta đã ngã xuống để boa vệ đất nước, bảo vệ núi sông
bờ cõi. Đó là cả một chiều dài lịch sử hào hùng rất tự hào của dân tộc ta. Chính vì
thế, con cháu đời sau phải tiếp tục gìn giữ truyền thống ấy. Truyền thống yêu nước,
thương nòi, sẵn sàng chiến đấu để bỏa vệ non sông cho những thế hệ về sau. Và cho
đến hôm nay, “trong và em” “đều có một phần đất nước”. Phần đất nước ấy là phần
máu thịt, là một phần trách nhiệm phải giữ gìn và xây dựng, phần tình yêu để bảo vệ
đất nước cho con cháu mai sau.
Vì có những người đã không quản ngại thân mình hy sinh cho đất nước, làm nên đất nước cho nên:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta 18 | T r a n g
Khi nói về 4000 năm lịch sử của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không hề kể về
những vương triều hay những anh hùng nổi tiếng mà lại nhấn mạnh “người làm ra
đất nước” lại chính là những con người bình dị vô danh. Chính họ chứ không phải
ai khác đã gìn giữ và truyền lại hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ cho đời sau.
Và từ chính những con người vô danh làm nên đất nước bao năm qua đã giúp tác giả khẳng định:
Đất nước này là đất nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại
Với câu thơ sau, hai vế song song nhân dân – đất nước lại càng khẳng định đất
nước chính là kết tinh những giá trị tinh thần cao quý trong đời sống trí tuệ và tình
cảm của nhân dân. Những giá trị ấy đã kết tinh lại trong những câu ca dao, tục ngữ,
trong những câu chuyện thần thoại cổ tích của cha ông ta để lại. Đinh nghĩa về đất
nước đến đây vừa giản dị nhưng cũng vừa lớn lao, sâu sắc.
Đất nước đã được khẳng định là của nhân dân và cũng là của anh, của em, và:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
Đoạn thơ thân tình như một lời nhắn nhủ thiết tha, chân thành: sự sống của
chúng ta không chỉ do cha mẹ sinh thành mà còn vì đất nước nuôi dưỡng. Chính vì
thế mỗi chúng ta cần phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó và truyền lại cho
những thế hệ tiếp theo.
Đất nước được xem là một đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì kháng
chiến chống Mĩ. Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to
lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh trường kì và vô cùng ác liệt này. Chính vì thế
mà tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã được nhà thơ 19 | T r a n g
phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Chất liệu văn hóa dân gian được
sử dụng nhuần nhuyễn, biến đổi linh hoạt đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ
và thống nhất với tư tưởng “đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài thơ. 20 | T r a n g