Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà chọn lọc
hay nhất
1. Dàn ý phân tích i thơ Hầu trời của Tản Đà
a. Mở bài:
- c giả: Tản Đà (1889 - 1939) n khai sinh Nguyễn Khắc Hiếu, quê
Tây, nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Ông một n thơ, nhà
văn nhà viết kịch nổi tiếng đầu thế kỷ XX của nền văn học Việt Nam;
- Tác phẩm: i thơ được in trong tập “Còn chơi” xuất bản năm 1921 trong
hoàn cảnh khuynh hướng lãng mạn khá đậm nét trong văn chương thời đại,
hội thực dân nửa phong kiến hãm, u uất, đầy rẫy cảnh ngang trái, t
đau.
- Dẫn dắt vào phân tích tác phẩm
b. Thân bài
1. Tình huống nhà thơ lên hầu trời
- Trong đêm khuya: Âm vọng của những câu thơ vang khắp ng Ngân Hà,
làm cho cả trời mất giấc ngủ -> nhà thơ được mời n trên hầu trời.
- c giả tinh tế đặt vấn đề, không câu chuyện sắp được kể đủ hấp dẫn
hay không.
- Vẫn mạnh mẽ khẳng định rằng đó một câu chuyện sự thật qua bốn câu
"Thật hồn..." loạt dấu cảm thán được sử dụng để khẳng định tính chân
thực của câu chuyện.
-> Không phải màng, chẳng hề hoảng hốt, cách nói phủ định này tạo
cảm giác ràng rằng đây một câu chuyện cấu, đồng thời cũng tạo
niềm tin vào sự thật của nó.
-> Tản Đà đã rất khéo léo sử dụng cách o đề độc đáo này, tạo ra không khí
hấp dẫn, làm tăng sự sự hứng thú của người đọc trước
những sẽ sắp được tiết lộ trong câu chuyện.
2. Diễn biến buổi hầu trời
* Thi đọc thơ cho trời chư tiên nghe
- Thi đọc thơ với lòng tận hiến cho trời các chư tiên, không khí nhà
trời chào đón thân tình:
+ Đặt ghế cho họ ngồi, chuẩn bị nước uống.
+ Các chư tiên yên lặng đứng hai bên lắng nghe.
-> Không khí trong không gian rất phù hợp với buổi đọc thơ trang nghiêm này.
- Thi đam đọc thơ, từ văn vần sang văn xuôi, từ văn thuyết lại đến
văn chơi, không giữ nguyên một phong cách. Mỗi lần đọc, ông mang lại
những cảm xúc nh liệt, khiến người nghe thích thú, thậm chí cảm giác
như "văn dài hơi tốt ran cung mây".
- Các chư tiên thích nghe thơ của thi sĩ, tán thưởng không tiết, hâm mộ
cùng. Ngay cả trời cũng không ngừng tán dương với những lời ca ngợi: "Tâm
như nở dạ, lưỡi", "Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày", "Song Thành,
Tiểu Ngọc lắng tai đứng", "Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay"...
->Tản Đà tự hào, ngạo nghễ độc đáo trong cách diễn đạt. Ông tự tin
tính, mang trong mình màu sắc lãng mạn độc đáo.
-> Thi ý thức về tài năng thơ văn của mình:
+ Tìm tri kỉ tận cõi trời, khao khát được khẳng định tài năng trước cuộc đời.
+ tưởng thoát ly mang màu sắc lãng mạn, làm nổi bật tính riêng của
ông.
* Thi giới thiệu về bản thân
- Họ tên bản thân, quê hương Sông Đà, núi Tản, vùng đất Nam Việt -> một
thi với ý thức cao về nhân tinh thần dân tộc rất sâu sắc.
- Thân thế một vị trích tiên bị đày xuống hạ giới tội ngông nhưng điều đó
không làm mờ đi tinh thần cao cả của Tản Đà.
- Ông đã trở thành nhà thơ truyền bá những giá tr thiên lương, khát vọng làm
hưng thịnh cho hạ giới.
- Ý thức trách nhiệm khao khát được gánh vác việc đời đã thúc đẩy ông
đắm chìm vào thế giới của nghệ thuật tâm hồn.
3. Tâm sự của nhà thơ về cảnh ngộ trần gian, về nghề văn của mình
- Khi trời hỏi về tình hình văn chương ới hạ giới, thi không do dự nói
lên cảnh ngộ của mình khi theo đuổi nghề văn trong hội thực dân phóng
kiến:
+ không tấc đất cắm dùi
+ văn chương bị rẻ rúng
+ làm chẳng đủ ăn
+ bị o ép đủ chiều
-> Nghề văn cũng một nghề kiếm sống nhưng bèo bọt, cuộc sống cực,
nghèo khó
-> Giọng thơ chua chát, xót xa
4. Cảm xúc khi về lại trần gian
- Hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cũng khát vọng của ông: Truyền thiên
lương
+ Tản Đà cho thấy tâm hồn lãng man nhưng không hề xa rời cuộc sống.
+ Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống
ấm no hạnh phúc hơn.
+ Khao khát được gánh vác trách nhiệm -> Một cách tự khẳng định mình
trước thời cuộc.
-> Phong cách thơ đan xen lãng mạn hiện thực.
c. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung nghệ thuật của bài thơ
- Nêu nhận xét, cảm nhận chung của em
- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ liên tưởng của mỗi nhân.
2. Phân tích i thơ Hầu trời của Tản Đà chọn lọc hay nhất
Tản Đà, một nhà thơ đặc biệt, được xem như "người của hai thế kỉ" học
vấn, lối sống sự nghiệp văn chương đều đậm dấu ấn. Thơ văn của ông
gây ấn tượng bởi điệu tâm hồn mới mẻ, hiện diện của "cái tôi" lãng mạn bay
bổng cảm thương ưu ái. Trong lúc văn chương hạ giới chỉ còn lại tàn cuộc,
Tản Đà lối đi riêng, m về nguồn thơ ca dân gian dân tộc, đồng thời
sáng tạo độc đáo tài hoa. Thơ văn của ông cái gạch nối giữa hai thời đại
văn học dân tộc: Trung đại hiện đại. Sáng tác tiêu biểu của ông trong thời
kỳ này phải kể đến bài thơ Hầu trời.
Bài thơ mở đầu bằng bốn câu thơ đầy ấn tượng, tạo ra một mối nghi ng để
khơi gợi sự của người đọc:
“Đêm qua chẳng biết hay không
Chẳng phải hoảng hốt không mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên sướng lạ lùng”
"Bốn câu thơ đã y ấn tượng mạnh với người đọc khi tạo ra một cảm giác
hồ, n lời kể thể một trí tưởng tượng hoặc bịa đặt, không biết đúng
hay sai. Tuy nhiên, ngay sau đó, tác giả bổ sung ba câu thơ tiếp theo như
những lời khẳng định kiên định, chắc chắn như đinh đóng cột, lặp đi lặp lại
như muốn củng cổ lòng tin (với hai lần phủ định 'chẳng phải', 'không' bốn
lần khẳng định 'thật…'). Điều này tạo nên một cảm giác rằng câu chuyện
tác gi sắp kể thật, đồng thời mang tính hấp dẫn đặc biệt, khiến không
ai thể bỏ qua. Những lời khẳng định phủ định này thể hiện sự chắc
chắn tâm tình của tác giả, khi ông diễn tả cảm giác "sướng lạ lùng" khi
được mời lên thiên đình đọc thơ cho Trời chư tiên nghe. Cảm giác này kết
hợp với lối viết m hỉnh, dỏm của c giả làm cho bài thơ trở nên hấp dẫn
đáng để khám phá thêm.
Nhà t Tản Đà tiếp tục kể chuyện về việc ông được mời lên thiên đình để
đọc thơ cho Trời chư tiên nghe. Cảnh tượng này được tác giả miêu tả một
cách tuần tự, ràng cực kỳ sinh động. Khi lên thiên đình, thi Tản Đà
như được Trời sắp đặt ngồi "ghế bành n tuyết vân", được phục vụ nước
nhấp giọng nhận lệnh "Văn đọc văn nghe" từ chính Trời. Trong cảnh
đọc thơ cho Trời, tác giả đã tạo nên một bức tranh hùng tràn đầy phép
mầu về cõi tiên, nơi n được tôn vinh ca ngợi với tình yêu thương
cảm mến từ chư tiên. Cảm giác phấn khích tự hào khi làm nghệ tài
hoa được thể hiện mạnh mẽ thông qua vẫn thơ của c giả:
“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”
Vừa đọc, nhà thơ vừa tự đắc:
“Văn dài hơi tốt ran cung mây
Trời nghe trời cũng lấy làm hay
…..
Văn đã giàu thay lại lắm lối…”
Chư tiên nghe xong rất xúc động hâm mộ:
“Tâm như mở dạ, lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay
….
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
Anh gánh lên đây bán chợ
Trời cũng đánh giá cao không ngớt lời tán dương:
“Trời lại phê cho “Văn thật tuyệt”!
Văn trần được thế c hắc ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao bang
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng! Tỉnh như sương
Đầm như mưa sa lạnh như tuyết!”
Nhà thơ Tản Đà thật sự rất tự tin tỏ ra khí phách khi mượn lời của chư
tiên Trời để khen ngợi thơ của mình. Từ giọng thơ hài hước, dỏm
nhưng không kém phần cao ngạo, ta thể nhìn thấy tâm hồn chất phác
thẳng thắn của thi này. Ông t tin vào tài năng của mình dám mạnh dạn
bộc lộ "cái tôi" riêng, i tôi của một nghệ đích thực. Tản Đà cũng mang
trong mình một tinh thần ngông cuồng, sẵn lòng tìm đến tận trời cao để khẳng
định bản thân tài năng trước mặt Ngọc Hoàng thượng đế chư tiên. Điều
đó thể hiện niềm khao khát chân thành trong tâm hồn của thi sĩ, muốn được
công nhận được ghi danh vào danh tiếng đại. Giữa chốn văn chương thị
phi, nơi thân phận của nhà n thường bị coi thường khinh bỉ, ông
không thể tìm thấy người tri kỉ, tri âm, vậy đã quyết định lên tận cõi tiên
để thỏa nguyện ước của mình.
Tản Đà cũng đã vẽ lên một bức tranh rất chân thực cảm động về chính
cuộc đời mình nhiều nhà văn khác cuộc đời cực, tủi hổ của người
nghệ tài hoa trong hội thực dân phong kiến lúc ấy”
“Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không
Nhờ trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó
Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán đường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu….”
Cuộc đời của Tản Đà thực sự gian khổ khó khăn: nghèo khó, không
mảnh đất để đậu chân, thân phận bị coi thường, cuộc sống khó khăn thiếu
thốn, bị ép buộc gò ép từ nhiều phía... Bức tranh hiện thực đó giúp người
đọc hiểu được tại sao Tản Đà lại cảm thấy "đời đáng chán," ông thường
than thở "trần thế em nay chán nửa rồi." Tất cả những khó khăn gian truân
trong cuộc sống khiến ông cảm thấy thế giới này không đáng sống, không
thỏa mãn niềm khao khát cao đẹp trong lòng. Chính vậy, Tản Đà quyết
định tìm đến cõi tri âm tận trời cao, tìm đến Hằng Nga, Ngọc Hoàng chư
tiên để thỏa mãn khao khát của mình. Ông tin rằng đó, bản thân thể tìm
thấy sự công nhận giá trị thực sự, không còn phải chịu đựng những ép,
khinh bỉ hay đánh đổi trong cuộc sống hiện thực. Đó nơi ông thể tìm
thấy niềm tin sự cao quý trong tâm hồn, thoát khỏi những cảm giác thất
vọng khát khao ích thế gian phù phiếm.
Bài t "Hầu Trời" của Tản Đà thật sự độc đáo hay, mang đậm nét mới
rất tiêu biểu cho tính chất "giao thời" trong nghệ thuật thơ của ông. Qua bài
thơ này, ta thể nhận ra xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những
năm hai mươi của thế kỉ XX. Nhìn vào "Hầu Trời," chúng ta thấy rằng Tản
Đà không trực tiếp đề cập đến những vấn đ hội bằng từ ngữ thẳng thắn
hay sâu sắc. Thay vào đó, ông sử dụng mật thi pháp, những u thơ hài
hước lời đùa, để truyền đạt những tâm tư, niềm khao khát tâm hồn
trong cuộc sống của mình. Những vấn đề hội, khó khăn, những cảm c
không hài lòng về cuộc sống đều hiện diện ẩn giấu trong từng câu thơ tinh tế
của ông. Bằng cách này, Tản Đà đã thể hiện sự thông minh tinh tế trong
cách tiếp cận nghệ thuật, làm cho bài thơ "Hầu Trời" trở nên hấp dẫn đầy
ý nghĩa. Bài thơ này không chỉ một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc còn
chứa đựng thông điệp sâu sắc về cuộc sống hội, tạo nên một dấu ấn
đặc biệt trong sự phát triển của thơ Việt Nam trong thời kỳ đó.

Preview text:

Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà chọn lọc hay nhất
1. Dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà a. Mở bài:
- Tác giả: Tản Đà (1889 - 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở Hà
Tây, nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Ông là một nhà thơ, nhà
văn và nhà viết kịch nổi tiếng đầu thế kỷ XX của nền văn học Việt Nam;
- Tác phẩm: Bài thơ được in trong tập “Còn chơi” xuất bản năm 1921 trong
hoàn cảnh khuynh hướng lãng mạn khá đậm nét trong văn chương thời đại,
xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy cảnh ngang trái, xót đau.
- Dẫn dắt vào phân tích tác phẩm b. Thân bài
1. Tình huống nhà thơ lên hầu trời
- Trong đêm khuya: Âm vọng của những câu thơ vang khắp sông Ngân Hà,
làm cho cả trời mất giấc ngủ -> nhà thơ được mời lên trên hầu trời.
- Tác giả tinh tế đặt vấn đề, không rõ câu chuyện sắp được kể có đủ hấp dẫn hay không.
- Vẫn mạnh mẽ khẳng định rằng đó là một câu chuyện là sự thật qua bốn câu
"Thật hồn.. " và loạt dấu cảm thán được sử dụng để khẳng định tính chân thực của câu chuyện.
-> Không phải là mơ màng, chẳng hề hoảng hốt, cách nói phủ định này tạo
cảm giác rõ ràng rằng đây là một câu chuyện hư cấu, đồng thời cũng tạo
niềm tin vào sự thật của nó.
-> Tản Đà đã rất khéo léo sử dụng cách vào đề độc đáo này, tạo ra không khí
kì bí và hấp dẫn, làm tăng sự tò mò và sự hứng thú của người đọc trước
những gì sẽ sắp được tiết lộ trong câu chuyện.
2. Diễn biến buổi hầu trời
* Thi sĩ đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
- Thi sĩ đọc thơ với lòng tận hiến cho trời và các chư tiên, không khí ở nhà
trời chào đón thân tình:
+ Đặt ghế cho họ ngồi, chuẩn bị nước uống.
+ Các chư tiên yên lặng đứng hai bên lắng nghe.
-> Không khí trong không gian rất phù hợp với buổi đọc thơ trang nghiêm này.
- Thi sĩ đam mê đọc thơ, từ văn vần sang văn xuôi, từ văn thuyết lí lại đến
văn chơi, không giữ nguyên một phong cách. Mỗi lần đọc, ông mang lại
những cảm xúc mãnh liệt, khiến người nghe thích thú, thậm chí có cảm giác
như "văn dài hơi tốt ran cung mây".
- Các chư tiên thích mê nghe thơ của thi sĩ, tán thưởng không tiết, hâm mộ vô
cùng. Ngay cả trời cũng không ngừng tán dương với những lời ca ngợi: "Tâm
như nở dạ, cơ lè lưỡi", "Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày", "Song Thành,
Tiểu Ngọc lắng tai đứng", "Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay"...
->Tản Đà tự hào, ngạo nghễ và độc đáo trong cách diễn đạt. Ông tự tin và cá
tính, mang trong mình màu sắc lãng mạn độc đáo.
-> Thi sĩ ý thức rõ về tài năng thơ văn của mình:
+ Tìm tri kỉ ở tận cõi trời, khao khát được khẳng định tài năng trước cuộc đời.
+ Tư tưởng thoát ly mang màu sắc lãng mạn, làm nổi bật cá tính riêng của ông.
* Thi sĩ giới thiệu về bản thân
- Họ tên bản thân, quê hương Sông Đà, núi Tản, vùng đất Nam Việt -> là một
thi sĩ với ý thức cao về cá nhân và tinh thần dân tộc rất sâu sắc.
- Thân thế là một vị trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông nhưng điều đó
không làm mờ đi tinh thần cao cả của Tản Đà.
- Ông đã trở thành nhà thơ truyền bá những giá trị thiên lương, khát vọng làm hưng thịnh cho hạ giới.
- Ý thức trách nhiệm và khao khát được gánh vác việc đời đã thúc đẩy ông
đắm chìm vào thế giới của nghệ thuật và tâm hồn.
3. Tâm sự của nhà thơ về cảnh ngộ ở trần gian, về nghề văn của mình
- Khi trời hỏi về tình hình văn chương dưới hạ giới, thi sĩ không do dự mà nói
lên cảnh ngộ của mình khi theo đuổi nghề văn trong xã hội thực dân phóng kiến:
+ không tấc đất cắm dùi
+ văn chương bị rẻ rúng + làm chẳng đủ ăn + bị o ép đủ chiều
-> Nghề văn cũng là một nghề kiếm sống nhưng bèo bọt, cuộc sống cơ cực, nghèo khó
-> Giọng thơ chua chát, xót xa
4. Cảm xúc khi về lại trần gian
- Hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cũng là khát vọng của ông: Truyền bá thiên lương
+ Tản Đà cho thấy tâm hồn lãng man nhưng không hề xa rời cuộc sống.
+ Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.
+ Khao khát được gánh vác trách nhiệm -> Một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
-> Phong cách thơ đan xen lãng mạn và hiện thực. c. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
- Nêu nhận xét, cảm nhận chung của em
- Mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân.
2. Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà chọn lọc hay nhất
Tản Đà, một nhà thơ đặc biệt, được xem như "người của hai thế kỉ" vì học
vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều đậm dấu ấn. Thơ văn của ông
gây ấn tượng bởi điệu tâm hồn mới mẻ, hiện diện của "cái tôi" lãng mạn bay
bổng và cảm thương ưu ái. Trong lúc văn chương hạ giới chỉ còn lại tàn cuộc,
Tản Đà có lối đi riêng, tìm về nguồn thơ ca dân gian và dân tộc, đồng thời
sáng tạo độc đáo và tài hoa. Thơ văn của ông là cái gạch nối giữa hai thời đại
văn học dân tộc: Trung đại và hiện đại. Sáng tác tiêu biểu của ông trong thời
kỳ này phải kể đến bài thơ Hầu trời.
Bài thơ mở đầu bằng bốn câu thơ đầy ấn tượng, tạo ra một mối nghi ngờ để
khơi gợi sự tò mò của người đọc:
“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải hoảng hốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng”
"Bốn câu thơ đã gây ấn tượng mạnh với người đọc khi tạo ra một cảm giác
mơ hồ, như lời kể có thể là một trí tưởng tượng hoặc bịa đặt, không biết đúng
hay sai. Tuy nhiên, ngay sau đó, tác giả bổ sung ba câu thơ tiếp theo như
những lời khẳng định kiên định, chắc chắn như đinh đóng cột, lặp đi lặp lại
như muốn củng cổ lòng tin (với hai lần phủ định 'chẳng phải', 'không' và bốn
lần khẳng định 'thật…'). Điều này tạo nên một cảm giác rằng câu chuyện mà
tác giả sắp kể là thật, và đồng thời mang tính hấp dẫn đặc biệt, khiến không
ai có thể bỏ qua. Những lời khẳng định và phủ định này thể hiện sự chắc
chắn và tâm tình của tác giả, khi ông diễn tả cảm giác "sướng lạ lùng" khi
được mời lên thiên đình đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe. Cảm giác này kết
hợp với lối viết hóm hỉnh, dí dỏm của tác giả làm cho bài thơ trở nên hấp dẫn
và đáng để khám phá thêm.
Nhà thơ Tản Đà tiếp tục kể chuyện về việc ông được mời lên thiên đình để
đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe. Cảnh tượng này được tác giả miêu tả một
cách tuần tự, rõ ràng và cực kỳ sinh động. Khi lên thiên đình, thi sĩ Tản Đà
như được Trời sắp đặt ngồi "ghế bành như tuyết vân", được phục vụ nước
nhấp giọng và nhận lệnh "Văn sĩ đọc văn nghe" từ chính Trời. Trong cảnh
đọc thơ cho Trời, tác giả đã tạo nên một bức tranh hùng vĩ và tràn đầy phép
mầu về cõi tiên, nơi mà văn sĩ được tôn vinh và ca ngợi với tình yêu thương
và cảm mến từ chư tiên. Cảm giác phấn khích và tự hào khi làm nghệ sĩ tài
hoa được thể hiện mạnh mẽ thông qua vẫn thơ của tác giả:
“Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”
Vừa đọc, nhà thơ vừa tự đắc:
“Văn dài hơi tốt ran cung mây
Trời nghe trời cũng lấy làm hay …..
Văn đã giàu thay lại lắm lối…”
Chư tiên nghe xong rất xúc động hâm mộ:
“Tâm như mở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay ….
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
Anh gánh lên đây bán chợ “
Trời cũng đánh giá cao và không ngớt lời tán dương:
“Trời lại phê cho “Văn thật tuyệt”!
Văn trần được thế c hắc có ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao bang
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển
Êm như gió thoảng! Tỉnh như sương
Đầm như mưa sa lạnh như tuyết!”
Nhà thơ Tản Đà thật sự rất tự tin và tỏ ra có khí phách khi mượn lời của chư
tiên và Trời để khen ngợi thơ của mình. Từ giọng thơ hài hước, dí dỏm
nhưng không kém phần cao ngạo, ta có thể nhìn thấy tâm hồn chất phác và
thẳng thắn của thi sĩ này. Ông tự tin vào tài năng của mình và dám mạnh dạn
bộc lộ "cái tôi" riêng, cái tôi của một nghệ sĩ đích thực. Tản Đà cũng mang
trong mình một tinh thần ngông cuồng, sẵn lòng tìm đến tận trời cao để khẳng
định bản thân và tài năng trước mặt Ngọc Hoàng thượng đế và chư tiên. Điều
đó thể hiện niềm khao khát chân thành trong tâm hồn của thi sĩ, muốn được
công nhận và được ghi danh vào danh tiếng vĩ đại. Giữa chốn văn chương thị
phi, nơi mà thân phận của nhà văn thường bị coi thường và khinh bỉ, ông
không thể tìm thấy người tri kỉ, tri âm, và vì vậy đã quyết định lên tận cõi tiên
để thỏa nguyện ước mơ của mình.
Tản Đà cũng đã vẽ lên một bức tranh rất chân thực và cảm động về chính
cuộc đời mình và nhiều nhà văn khác – cuộc đời cơ cực, tủi hổ của người
nghệ sĩ tài hoa trong xã hội thực dân phong kiến lúc ấy”
“Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó
Giấy người, mực người, thuê người in
Mướn cửa hàng người bán đường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu….”
Cuộc đời của Tản Đà thực sự gian khổ và khó khăn: nghèo khó, không có
mảnh đất để đậu chân, thân phận bị coi thường, cuộc sống khó khăn và thiếu
thốn, bị ép buộc và gò ép từ nhiều phía... Bức tranh hiện thực đó giúp người
đọc hiểu được tại sao Tản Đà lại cảm thấy "đời đáng chán," và ông thường
than thở "trần thế em nay chán nửa rồi." Tất cả những khó khăn và gian truân
trong cuộc sống khiến ông cảm thấy thế giới này không đáng sống, không
thỏa mãn niềm khao khát cao đẹp trong lòng. Chính vì vậy, Tản Đà quyết
định tìm đến cõi tri âm tận trời cao, tìm đến Hằng Nga, Ngọc Hoàng và chư
tiên để thỏa mãn khao khát của mình. Ông tin rằng ở đó, bản thân có thể tìm
thấy sự công nhận và giá trị thực sự, không còn phải chịu đựng những gò ép,
khinh bỉ hay đánh đổi trong cuộc sống hiện thực. Đó là nơi ông có thể tìm
thấy niềm tin và sự cao quý trong tâm hồn, thoát khỏi những cảm giác thất
vọng và khát khao vô ích ở thế gian phù phiếm.
Bài thơ "Hầu Trời" của Tản Đà thật sự độc đáo và hay, mang đậm nét mới và
rất tiêu biểu cho tính chất "giao thời" trong nghệ thuật thơ của ông. Qua bài
thơ này, ta có thể nhận ra xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những
năm hai mươi của thế kỉ XX. Nhìn vào "Hầu Trời," chúng ta thấy rõ rằng Tản
Đà không trực tiếp đề cập đến những vấn đề xã hội bằng từ ngữ thẳng thắn
hay sâu sắc. Thay vào đó, ông sử dụng mật thi pháp, những câu thơ hài
hước và lời đùa, để truyền đạt những tâm tư, niềm khao khát và tâm hồn
trong cuộc sống của mình. Những vấn đề xã hội, khó khăn, những cảm xúc
không hài lòng về cuộc sống đều hiện diện ẩn giấu trong từng câu thơ tinh tế
của ông. Bằng cách này, Tản Đà đã thể hiện sự thông minh và tinh tế trong
cách tiếp cận nghệ thuật, làm cho bài thơ "Hầu Trời" trở nên hấp dẫn và đầy
ý nghĩa. Bài thơ này không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn
chứa đựng thông điệp sâu sắc về cuộc sống và xã hội, tạo nên một dấu ấn
đặc biệt trong sự phát triển của thơ Việt Nam trong thời kỳ đó.
Document Outline

  • Phân tích bài thơ Hầu Trời của Tản Đà chọn lọc hay
    • 1. Dàn ý phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà
    • 2. Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà chọn lọc