-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh chọn lọc hay nhất
Quê hương là nguồn cảm hứng bất tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là của Tế Hanh - một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến với những bài thơ viết về quê hương miền Nam thân yêu với tình cảm chân thành và rất sâu lắng. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích bài thơ Quê hương của nhà thơ Tế Hanh chọn lọc hay nhất
Phân tích bài thơ Quê Hương của nhà thơ Tế Hanh chọn lọc hay nhất
Quê hương là nguồn cảm hứng bất tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là của Tế Hanh -
một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông
được biết đến với những bài thơ viết về quê hương miền Nam thân yêu với tình cảm chân thành
và rất sâu lắng. Người ta có thể thấy trong thơ ông hơi thở nồng nàn của người dân xứ biển, hay
một dòng sông đầy nắng những buổi chiều gắn liền với tình yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ.
Bài thơ “Quê hương” là một kỉ niệm tuổi thơ sâu sắc, là tác phẩm mở đầu cho cảm hứng về quê
hương trong thơ Tế Hanh, được viết bằng tất cả tình yêu đối với chất thơ mạnh mẽ, hào hùng. Bài
thơ “Quê hương” được sáng tác năm 1939 lúc Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương
tha thiết. Ông đã vẽ ra 1 bức tranh tươi sáng, sinh động về 1 làng quê miền biển với những người
con làng chài khỏe khoắn, chan chứa nhựa sống bằng giọng thơ gợi cảm, hào hùng, hình ảnh phong phú và ý nghĩa.
Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ kết hợp cả hai kiểu vần liên tục và vần ôm, phần nào thể
hiện nhịp sống của một làng chài ven biển:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bủa vây cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, ban mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Nếu như quê hương trong tâm trí những người con đất Việt là mái đình, là gốc đa, giếng nước sân
đình, là bát canh rau muống cà dầm tương thì quê hương trong tâm trí Tế Hanh là một làng chài
trên một cù lao giữa sông và biển, làng chài dập dềnh sóng vỗ. Cảnh làng quê như mở ra trước mắt
ta thật sinh động với “Trời trong - gió nhẹ - sớm mai hồng”. Không gian như kéo dài ra, bầu trời
như cao hơn, tràn ngập ánh sáng. Bầu trời trong xanh, gió hiu hiu, ánh nắng hồng nhẹ nhàng chạm
lên những giọt bình minh đang đến báo hiệu một ngày mới lại bắt đầu, một ngày mới tràn đầy hy
vọng, Một ngày mới với đầy ắp sự hăng hái, phấn khởi của biết bao người trên những con thuyền
đã căng buồm ra biển khơi:
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Nếu như ở trên là tả cảnh thì đây là câu thơ vẽ lên một hình ảnh lao động sôi nổi, năng động. Con
thuyền được so sánh với "con tuấn mã" phi nước đại trên thảo nguyên càng làm cho câu thơ mạnh
mẽ hơn, thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi của người dân chài. Câu thơ còn sử dụng các động từ
mạnh như “hăng”, “phăng”, “vượt” thể hiện một cách ấn tượng khí thế hiên ngang, dữ dội của con
thuyền, toát lên sức sống căng tràn, hừng hực khí thế. Vượt qua sóng gió. Đánh bại biển khơi. Con
thuyền ra khơi với một tư thế vô cùng kiêu hãnh và oai phong hùng tráng:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…
Từ hình ảnh thiên nhiên, tác giả liên tưởng đến “hồn người”. Phải là một tâm hồn nhạy cảm trước
cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng quê, Tế Hanh mới có thể viết được như vậy.
Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay đã trở nên bao la trong thiên nhiên. Cánh buồm
trắng đón gió vượt trùng khơi như tâm hồn con người hướng về một tương lai tươi sáng. Có lẽ nhà
thơ chợt nhận ra rằng hồn quê hương đang ở trong cánh buồm. Hình ảnh trong đoạn thơ trên vừa
nên thơ, vừa hùng vĩ, vừa miêu tả chính xác hình thức, vừa gợi được cái hồn của sự vật.
Ta thấy phép so sánh ở đây không chỉ làm cho sự miêu tả thêm sinh động. diệu kỳ mà còn gợi ra
một vẻ đẹp bay bổng đầy trang trọng. Ấy chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu rõ hơn
qua câu thơ này là bao nhiêu tình cảm thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của ngư dân đã
gửi gắm vào cánh buồm no gió. Dấu chấm lửng ở cuối câu thơ cho ta ấn tượng về một không gian
mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa mênh mông sóng nước, hình ảnh những con người trên con thuyền
nhỏ bé không hề đơn độc một mình, mà trái lại như thấy mình chủ động, làm chủ bản chất của chính mình.
Toàn bộ bài thơ ngập tràn khung cảnh quê hương và những người dân chài ra khơi đánh cá, thể
hiện một cuộc sống tấp nập người sôi động, niềm phấn khởi, hy vọng và lạc quan trong ánh mắt
của mỗi ngư dân. Sự mong đợi, niềm vui công việc vào ngày mới với nhiều kết quả tốt tiếp tục
được thể hiện qua khổ thơ tiếp theo:
Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về
Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Các tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên vẻ rộn ràng, tấp nập của những cánh buồm căng buồm đón
đoàn thuyền đánh cá trở về. Người đọc như được thực sự sống trong bầu không khí ấy, lắng nghe
tấm lòng cảm tạ trời đất đã cho sóng yên, biển lặng để ngư dân trở về bình an đầy thuyền, thấy
“những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không mô tả tỉ mỉ công việc đánh cá của người
ngư dân nhưng bằng lời thơ của mình, người ta có thể dễ dàng hình dung trong thơ của ông hình
ảnh những người lao động không biết mệt mỏi để gặt hái những thành tựu trước biển khơi. Sau
chuyến ra khơi, hình ảnh đoàn thuyền và mọi người trở về nơi nghỉ ngơi:
Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Có thể nói đây là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với bút pháp tả thực, hình ảnh
“làn da ngăm rám nắng” dường như đã để lại ấn tượng rất sâu sắc về vẻ đẹp rắn rỏi của người ngư
chài bám biển, thì câu thơ sau lại được miêu tả với cảm giác rất lãng mạn “ Cả thân hình nồng thở
vị xa xăm”. Thân hình vạm vỡ của người đánh cá là thấm đượm hơi thở của biển, vị mặn mòi của
đại dương bao la. Nét đặc sắc của đoạn thơ là gợi được cả tâm hồn và tầm vóc của con người xứ
biển, hai câu thơ tả con thuyền nằm bất động trên bến cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo.
Nhà thơ không chỉ nhìn thấy con thuyền bất động trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Như
một người đánh cá, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe vị muối
của đại dương thấm vào từng thớ thịt của thân tàu. Con thuyền trở nên chuyển động hơn, nó không
còn là vật vô tri vô giác mà đã trở thành người bạn của ngư dân.
Quả thực, không phải người con làng chài thì sao có thể viết được hay như thế, tình tứ như thế.
Những câu thơ trải ra như thế khi tâm hồn Tế Hanh hết mình tan vào cảnh vật để lắng nghe. Có
tiếng gió nhè nhẹ trong ngày mới, có tiếng sóng xô bờ bạc trắng, có tiếng chợ cá và những âm
thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền. Có lẽ cái chất mặn mòi này cũng đã thấm sâu vào
da thịt, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành một nỗi ám ảnh đầy bâng khuâng diệu kỳ. Cái tinh tế và
cái tài của Tế Hanh là ở chỗ ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh" như
một ‘mảnh hồn làng’ trên ‘cánh buồm giương’…
Thơ Tế Hanh là một thế giới rất gần, thường ta chỉ nhìn thấy nó một cách mơ hồ, thế giới cảm xúc
mà ta đã âm thầm trao cho cảnh vật: sự mệt mỏi và say sưa của con thuyền trở về bến…”Nói lên
từ đáy lòng từ tấm lòng" là khi nhà thơ bày tỏ tình cảm của người con xa quê, hướng về quê hương, hướng về đất nước:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá
Nếu không có những câu thơ này, có lẽ chúng ta sẽ không biết nhà thơ đang ở xa quê hương. Người
đọc có thể nhìn thấy một cảnh tượng miền biển rất sống động trước mắt, nhưng thực chất hình ảnh
thơ lại được viết ra từ tâm trí xa xôi của một cậu học trò - nhà thơ trong quá khứ. Có thể nhận ra
rằng quê hương luôn trong tiềm thức của nhà thơ, quê hương luôn hiện hữu trong từng suy nghĩ
và cảm xúc của Tế Hanh bất kể ở đâu, thời điểm nào.
Nỗi nhớ quê hương da diết biến thành lời nói rất đỗi giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”.
Quê hương là mùi biển mặn, quê hương là làn nước trong xanh, màu cá bạc, cánh buồm vôi. Màu
sắc của quê hương là màu sắc sống động nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh thích những hương vị đặc
trưng của quê hương đầy quyến rũ và ngọt ngào.
Thơ Tế Hanh bình dị như chính con người ông, bình dị như người dân quê hương miền biển - khỏe
khoắn và sâu lắng. Từ hình ảnh thơ hiện lên một hình tượng thiên nhiên trong sáng, thơ mộng và
hùng vĩ về cuộc sống lao động hàng ngày của con người. Nếu như người ta đã quen liên tưởng
giữa quê hương và đồng bằng, thì Quê hương của Tế Hanh như thổi một làn sóng biển nồng nàn
vào chủ đề tình yêu quê hương đất nước của phong trào thơ mới Việt Nam thời kỳ này. Bài thơ để
lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày đường bên dòng sông lấp lánh sóng và
nắng vàng. Hồn sông biển ấy đã là nguồn cảm hứng cho Tế Hanh từ thuở "hoa niên” đến những
ngày tập kết ngoài Bắc. Vẫn còn đó tình quê hương sâu lắng, ấm áp của người con xa quê:
Tôi dang tay ôm nước vào lòng
Sông mở nước ôm tôi vào dạ
Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả
Kẻ sớm hôm chài lưới ven sông
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bến sông
(Nhớ con sông quê hương – 1956)
Bằng một tâm hồn giản dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng không hề có những
suy nghĩ nhàm chán về cuộc đời, trốn chạy thực tại, đắm mình trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà
thơ lúc bấy giờ. Thơ Tế Hanh là hồn thơ hòa quyện với hồn nhân dân, hồn dân tộc, “cánh buồm
giương to như mảnh hồn làng”. “Quê hương” - hai tiếng thân thương, thiêng liêng nhất, trong sáng
nhất, xuất hiện trong thơ của Tế Hanh một cách rất giản dị mà thân thương. Quê hương Quảng
Ngãi đọng trong tâm hồn người con xa xứ - Tế Hanh - luôn hiện lên với vẻ cường tráng, tự hào và
khát khao. Bài thơ có giọng điệu khỏe khoắn, hình ảnh sinh động gây hứng thú cho người đọc,
ngôn ngữ hùng hồn gợi một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”. "Quê hương" của Tế Hanh đã
thực sự sống trong lòng người đọc, sống trong lòng dân tộc, sống hòa cùng vị mặn mòi của biển khơi.