Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất - Ngữ Văn 12
Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng". Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng - Ngữ văn 12 Yêu cầu làm bài
1. Cần phải lưu ý, Quang Dũng - tác giả bài thơ - cũng như không ít chia
đoàn Tây Tiến vốn là học sinh, sinh viên Hà Nội để có cơ sở góp phần giải
thích cảm hứng bi tráng và tinh thần lãng mạn độc đáo của bài thơ này, so với
một số bài thơ cùng viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
2. Tây Tiến là sự hồi tưởng của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến, về con
người và thiên nhiên Tây Bắc ở một thời kì gian khổ mà oai hùng. Tất cả đều
được thể hiện qua một hồn thơ lãng mạn. nặng tình với quê hương, đất nước
bằng bút pháp tài hoa, độc đáo. •
Đoạn một: Thông qua cách sử dụng một loại địa danh, gợi cảm giác xa
xôi, hoang dã, cách dùng từ bạo khoẻ, cách phối âm để tạo giọng điệu lạ....
Quang Dũng vừa khắc hoạ được sinh động cảnh núi rừng hiểm trở vừa
diễn tả được nỗi vất vả, chất tinh nghịch của người lính. •
Đoạn hai: Miêu tả con người và cảnh vật Tây Bắc. Con người e ấp, tình
tứ; thiên nhiên thơ mộng, tươi mát (khác xa sự hiểm trở, dữ dội ở đoạn
đầu). Đây chính là vẻ đẹp của phương xa, xứ lạ có sức lôi cuốn mạnh mẽ
những người lính xuất thân từ học sinh, sinh viên. •
Đoạn ba: Tập trung khắc hoạ người lính bằng bút pháp lãng mạn. Họ
có diện mạo khác thường, oai phong dữ dội, có chất anh hùng của tráng sĩ
thời xưa và có một tâm hồn rất lãng mạn. Ở đây, hình ảnh người Lính còn
thể hiện rõ chất bi tráng của bải thơ. •
Bốn dòng cuối cùng của bài thơ có thể coi là lời thề quyết chiến đấu
cùng vì lí tưởng của người lính Tây Tiến.
3. Đây là bài thơ có nghệ thuật đặc sắc: nét bút tả người, tả cảnh gây tượng
mạnh, lúc thỉ gân guốc, bạo khoẻ, khi thì mềm mại, tình tứ, thủ pháp đối lập
được sử dụng linh hoạt và mang lại hiệu quả đáng kể; giọng thơ khi thì thiết
tha, khi thì hào hùng; ngôn ngữ sắc sảo, từ Hán Việt được dùng rất nghệ thuật.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng mẫu 1
Cuộc kháng chiến chống Pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ
trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước
môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuất của nhân
dân ta. Cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp
nhất là hình ảnh người lính.
Bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của Chính Hữu,
Nhớ của Hồng Nguyên..., Tây Tiến của Quang Dũng là một thi phẩm đặc sắc.
Đoàn quân Tây Tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh
niên từ khắp phố phường Hà Nội. Có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng
lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc
chiến đấu của dân tộc. Tất cả những con người ấy ra đi với lí tưởng chung
của dân tộc chiến đâu bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc. Họ ra đi không hẹn
ngày trở về chiến đấu với mục đích "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" Cái
tinh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đã từng được phản ánh trong một bài hát thời đó:
Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi,
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Trong đoàn người nô nức lên đường đi chiến đấu, trong hàng ngũ những
thanh niên trí thức ngày hôm qua có khi là những tự vệ chiến đấu trên phố
phường, chiến lũy Hà Nội, mà hôm nay đã có mặt trong đoàn quân Tây Tiến,
thấp thoáng xuất hiện một khuôn mặt: Quang Dũng, tác giả của bài thơ. Như
bao thanh niên trí thức của Hà Nội ngày ấy, Quang Dũng cũng háo hức gia
nhập đoàn quân Tây Tiến với một niềm say mê của tuổi trẻ và một chút lãng
mạn của những người thanh niên "nho sĩ quý tộc" ảnh hưởng trong Chinh phụ ngâm:
Giã nhà đeo bức chiến bào hay
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.
Cũng chính vì thế mà những thanh niên như Quang Dũng sẵn sàng chấp nhận
mọi gian khổ, hi sinh để chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng. Vào Tây
Tiến, Quang Dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và
sau đó chuyển sang đơn vị khác. Một ngày ngồi ở Phù Lưu Chanh, Quang
Dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đấu gian
nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông
cùng đơn vị từng đi qua. Nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong Quang Dũng, bật ra thành hai câu thơ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Cuộc sống chiến đấu của Tây Tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn
là những kỉ niệm hết sức sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ. Hẳn một phần
quãng đời Quang Dũng gắn bó với Tây Tiến là cuộc sống hoạt động trong
vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về Tây Tiến là nhớ ngay về sông Mã,
nhớ về rừng núi với bao kỉ niệm vui buồn, ấn tượng về một miền rừng núi
khắc nghiệt đã để lại trong tâm hồn nhà thơ dấu ẩn chẳng phai mờ. Vì thế,
Quang Dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương
lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nỗi nhớ ấy. Nhớ chơi vơi! hai liếng
chơi vơi dùng ở đây thật là đắc địa. diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không
có lượng nhưng hình như rất nặng và mênh mang đầy ắp. Cái tâm trạng nhớ
ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao: Ra về nhớ bạn chơi vơi, hoặc:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Quang Dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi
vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! Ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả
vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. Nhớ Tây
Tiến, nhớ về sông Mã và núi rừng trùng điệp, nhớ con đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Con đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi
vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cẩn suy ngẫm nội dung bên trong,
chúng ta đã có thể hình dung ra con đường mà Quang Dũng miêu tả. Kết câu
đoan thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận
như con đường xa thẳm khấp khểnh. Nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân
Tây Tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp
sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. Thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên
trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay
Sài Khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy lan biến ngay.
Đoàn quân Tây Tiến cất bước, trên con đường xa vạn dặm, với cái trắc trở,
gập ghềnh của con đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã
ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là đến độ cao chất ngất,
ngoằn ngoèo khó đi. Tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nổi khó khăn của đoàn
quân Tây Tiến khi hành quân. Nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật
là dữ dội và khắc nghiệt Quang Dũng có những cách dùng từ rất tinh tế mà
cũng hết sức tinh nghịch: núi cao chạm mây nổi thành cồn heo hút, và để diễn
tả chiều cao của núi thì chỉ ba chữ súng ngửi trời nghe thật ngộ nghĩnh. Phải
chăng đó là cách gọi của lính mà Quang Dũng ghi lại với tư cách một người
trong cuộc? Dù sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cách kết hợp thanh điệu
của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mát ta hình ảnh một miền rừng núi mà
đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua. Có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ Tây Tiến như
đứng trên nùi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong màn mưa. Những
ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. Thanh bằng của từng
chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. Rừng núi
trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của
miền rừng núi này - một miền núi rừng âm u với thú dữ đe doạ con người.
Hai chữ Mường Hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. Có một điều kì lạ
là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như Châu Thuận chẳng hạn, thì
hiệu lực câu thơ sẽ giảm sút ngay. Qua sự miêu tả của Quang Dũng, một
vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên
nhiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua trên
con đường hành quân. Cái trắc trở, gian lao của con đường Tây Tiến chợt làm
chúng ta nhớ đến câu thơ của Lí Bạch:
Thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên.
(Đường xứ Thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người
chiến sĩ Tây Tiến phải chịu đựng.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
Quang Dũng nói cái thực trên con đường Tây Tiến. Bao người chiến sĩ đã
nằm lại trên con đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là
người lính Tây Tiến đến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư thế của người
lính, chết rồi nhưng súng mũ vẫn còn đó, hành trang của người chiến sĩ vẫn
còn trong tư thế tiếp tục cuộc hành trình. Bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc
nghiệt dữ dội của con đường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đã thử thách
người chiến sĩ Tây Tiến một cách ghê gớm. Có những người lính đã vượt qua
được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. Người lính dãi
dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này đến gian khổ khác, chịu hết thử thách
này đến thử thách thác mà dường như vẫn chẳng nể hà; đến khi kiệt sức phải
gục xuống thì cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.
Cho dù Quang Dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người,
nhưng chính những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ đã đưa họ bay lên,
vượt lên trên cái gian khổ và thiếu thốn. Quang Dũng là một người trong
cuộc, rừng là chiến sĩ Tây Tiến, chính vì vậy mà nhà thơ viết về cuộc sống
gian khổ của người chiến sĩ Tây Tiến một cách hết sức cảm động. Cái khắc
nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến
sĩ Tiến phải chịu đựng và những ấn tượng không thể nào quên. Quang Dũng
về người lính Tây Tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự
khổ, hi sinh của người lính một thời. Thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội Tây
Tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. Miêu
tả nét chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi tráng”. Nói cái gian khổ để đề cao
chiến thắng nói hi sinh để nâng hình ảnh người lính lên một tầm cao thời đại
cũng là một cách “vẽ mây nảy trăng” trong hội hoạ vậy. Bởi chiến thắng có
giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? Và hình ảnh người lính
sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của
cuộc sống chiến đấu khắc nghiệt.
Lao xao sóng vỗ ngọn tùng
Gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị của chiến thắng, giá trị cả phẩm
chất con người. Giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm
vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ....
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Dường như để trả trạng thái tâm hồn chúng ta về thế cân bằng sau khi chùng
xuống trước cuộc sống chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến, Quang Dũng
hồi tưởng lại nhiều hình ảnh vui, ấm áp. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái
ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Sức nóng của nó đủ làm tâm
hổn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người
lính, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi cho ta cái cảm giác tươi vui
như đang chứng kiến lễ hội đông vui. Hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa
sung sức nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ Tây Tiến. Trong cả đoạn thơ
dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc
sống) bình như chẳng biết đến chiến tranh. Hình ảnh nhạc về Viên Chăn xây
hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính
Tây Tiến. Họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ
dội. Và mặc dù biết rằng sẽ còn liếp tục chịu đựng những gian truân, hi sinh,
người lính Tây Tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạc quan yêu đời. Có thể chỉ
ngày hôm sau một người nào đó trong số họ phải nằm lại nơi núi rừng u tịch,
nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơ đến những hình ảnh đẹp của
thi và hoạ, xây hồn thơ. Và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp
theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không lên
gân, không khiên cưỡng, mọi gian khổ hi sinh đối với người lính là chuyện
binh thường và tất yếu, vì vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu đời, vẫn sống với
lâm hồn trẻ trung, tươi mát. Cũng vậy mà người lính Tây Tiến có thể vẫn nhớ
một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. Những hình
ảnh rất binh thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người
lính sẽ quên đi. Nhưng không, họ vẫn nhớ. Những hình ảnh ấy in sâu vào tâm
hồn người lính Tây Tiến, là nguồn động viên thúc giục họ chiến đấu, dù tiếp
tục đón nhận những thử thách mới:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. li ' Đàn quân không mọc tóc! Có cách nói
nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! Như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội
Tây Tiến có trở nên quái đản không? Không đâu! Đó chính là hình ảnh oai
hùng của anh “Vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng vả lại, cái cách nói
đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ
với dáng dấp thật hùng dũng và hiên Quân không mọc tóc, quân lại xanh màu
lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng.
Những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. Ta
cảm động trước hình ảnh người sĩ Tây Tiến, và chợt nhớ đến hình ảnh người
chiến sĩ trong một số bài thơ đương thời:
Khuôn mặt đã lên màu bệnh tật,
Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
Người lính Tây Tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế
nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng
chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ
oai Cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ Tây Tiến được ghi lại bằng sự
so sánh cân bằng. Nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe doạ của cọp thì
họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của một chúa sơn lâm như thế. Câu
thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất
người lính Tây Tiến. Miêu tả khí thế chiến đấu hào hùng của người chiến
thắng một sự so sánh như thế, Quang Dũng thực sự đã hiểu người lính và đã
hòa đồng với họ. Chiến đâu dũng mãnh như thế, nhưng người lính Tây Tiến
vẫn có đời sống tâm Hà Nội hết sức tinh tế:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên
hậu phương. Phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có
thực, có mơ. Dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người con gái
Thủ đô chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước hương trời” vậy!
Người chiến sĩ của Quang Dũng ra đi, mang theo cả phong thái hào hoa của
người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sống bằng đời
sống tâm ít phong phú sau mỗi trận đánh ác liệt.
Cái cuộc sống tâm hồn ấy là nguồn động lực giúp người lính tiếp tục chiến
đâu để giành lấy độc lập, tự do cho Tổ quốc thân thương. Và cũng vì thế,
người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. Ôi! Cái ấn tượng
bi thảm đến vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. Không hiểu sao,
cứ mỗi lần đọc đến câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước
mắt cứ rưng rưng! Trên con đường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng
biên giới đoàn quân Tây Tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những con người phải
tách ra khỏi đội hình. Những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. Câu thơ
thật là bi thảm. Nhưng câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ
đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. Nó bi tráng và hào hùng
bởi Quang Dũng nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính:
biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứ ra đi giải phóng quê nhà. Họ ra đi
chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưởng
cao đẹp: chiến đấu vì tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một
chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ lựa lông hồng:
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cách dùng từ áo bào của Quang Dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo
bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa
da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. Cũng như thế, người lính coi việc
hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. Người chiến sĩ Tây
Tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về
sau khi làm tròn nghĩa vụ. Anh về đất như một hành động tựu nghĩa của
những anh hùng. Mở đầu bài thơ là hình ảnh sông Mã, kết thúc bài thơ vẫn là
tiếng gầm thét của dòng sông này. Dòng sông tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Quang Dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí nhất khứ bất phục phản ra
đi là không trở lại). Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.
Những gian khổ, hi sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể
quên. Sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào
hùng đến mức ấy. Và cũng khó có thể có được bài thơ Tây Tiến thứ hai.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng mẫu 2 Mở bài:
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh
của những anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó
đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những
người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc
trong suốt trường kỳ lịch sử. Và “Tây Tiến” là 1 trong những bài thơ hay,
tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như
vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ
yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! *****
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” Thân bài:
Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của
ông – Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1
đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm
nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng
Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt
Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến
đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ
được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh 1 làng
ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt
bài thơ là “Nhớ Tây Tiến” nhưng về sau đổi lại thành “Tây Tiến” vì cả bài
thơ đã là một nỗi nhớ và chỉ với 2 từ “Tây Tiến” cũng đủ gợi lên nỗi nhớ -
cảm hứng chủ đạo trong toàn bộ bài thơ.
Là 1 người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, sống
và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt
trong lòng nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi
rừng đã làm cho ông không khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến
dâng trào trong kí ức của nhà thơ.
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Câu thơ như tiếng gọi chân thành, tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn
người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân
hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” không đơn thuần là 1 con sông -
nơi đã từng là địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến - mà nó đã trở
thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người
lính Tây Tiến với bao nỗi vui - buồn, được - mất. “Tây Tiến” không chỉ để
gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm sự.
Câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay
quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. Tính từ “chơi vơi” - biểu cảm
một nỗi nhớ nhẹ và rất sâu - kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu được tình cảm
nhớ nhung da diết của nhà thơ. Và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm
trí đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. Có lẽ Quang Dũng đã học tập
cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi
Nhớ chiếu bạn trải
Nhớ chăn bạn nằm”
2 câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi
nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát,
Pha Luông… - địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến - những cái tên
mang âm hưởng của rừng núi hoang vu và mang dại. Núi rừng Tây Bắc đẹp
hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt,
nơi rừng thiêng nước độc. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến
vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn
quân mỏi” nhưng tinh thần không “mỏi”. Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì Tổ
quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất
khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh “sương” vào đây để
khắc hoạ rõ hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài
lạnh lẽo. Cũng miêu tả về “sương”, Chế Lan Viên cũng đã viết trong “Tiếng hát con tàu”:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm
nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang
sơ mà ấm áp. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh
chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà
không dùng từ “chót vót”. Bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận
và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình
dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận
được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Hình ảnh nhân hoá, ẩn dụ
“ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ
nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên
nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt
nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân
guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật
cheo leo, hiểm trở. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống con đường
hiểm trở vừa vượt qua và con đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và
đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. Hình ảnh thơ thật đối xứng, câu
thơ như một đường thẳng bị bẻ gấp lại:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ
dưới lên thật hùng vĩ. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ
đẹp trữ tình nơi núi rừng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong
thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao
giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó
trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến
mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang
sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ
dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy
lãng mạn. Những câu thơ Tây Tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ
những dòng thơ trong “Chinh phụ ngâm khúc”
“Hình khe thế núi gần xa
Đứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao
Sương đầu núi buổi chiều như dữ dội
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu”
8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng
đội Tây Tiến. Qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó
đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt
của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
Hình ảnh người lính Tây Tiến là một bức tượng đài đẹp đẽ với tư thế hiên
ngang, khí phách anh hùng và có cả những say mê, ước vọng lãng mạn, đẹp
đẽ. Nhưng thơ Quang Dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của
đoàn binh Tây Tiến. Không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ Quang Dũng
dám nhìn thẳng vào những tổn thất tất yếu của con người trong cuộc chiến
tranh tàn khốc. Hình ảnh người lính Tây Tiến có những phút giây mệt mỏi:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. Bao nhiêu
sóng gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là
những phút giây đương nhiên. Người lính Tây Tiến không rũ bỏ, quay lưng
lại với kháng chiến, phải chăng phút giây phó mặc, bất cần, đầy ngạo nghễ
của người lính cũng là điều tất yếu đó sao. Các anh đã không bước tiếp được
nữa trên con đường hành quân đầy gian khổ. Có những người bạn của Quang
Dũng ngục lên súng ngủ. “Ngục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh,
biểu thị không còn sức chịu đựng được nữa. Các anh cố gượng dậy bước tiếp
nhưng không còn sức. Câu thơ: “ngục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một giấc
ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.
Cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để
lấy sức tiếp tục đường hành quân. Nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào
cũng đều nói về sự gian khổ tột cùng. Nhưng nhiều người hiểu theo cách ở
trên bởi nó phù hợp với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh Tây Tiến: chết
rồi mà vẫn ngang tàng, khí phách. Ba chữ cuối: “bỏ quên đời” thể hiện tinh
thần, thái độ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên,
nhẹ tựa lông hồng. Các anh lên đường, đến với núi rừng miền Tây và biết
rằng: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở về).
Nếu ở mấy câu đầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền Tây Bắc mênh mông
qua không gian hùng vĩ, thơ mộng của những cơn mưa rừng với độ cao chạm
đến cả mây trời của đỉnh núi Tây Bắc. Thì đến với hai câu thơ sau đây thiên
nhiên lại được khám phá theo chiều thời gian với hai từ láy “chiều chiều” và “đêm đêm”
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng
núi Tây Bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng thác gầm thét đổ xuống từ
trên cao và cứ mỗi đêm sâu lại nghe tiếng cọp gầm. Âm thanh nào cũng ghê
rợn. Quang Dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động
hóa những nhận xét của người đời. Vậy chỉ với hai câu thơ, Quang Dũng đã
phát huy tối đa trí tưởng tượng để cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng,
miền đất ấy còn chứa nhiều điều hoang sơ và huyền bí của miền rừng núi Tây
Bắc. Những hiểm nguy vẫn rình rập đâu đó, những nét dữ dội quyết liệt mà
đoàn binh Tây Tiến đã một thời vượt qua.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Chiến binh Tây Tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước
vẻ đẹp thiên nhiên và sự đằm thắm tình người. Hai câu thơ không có cảnh
thiên nhiên miền Tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. Sau
những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha.
Câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp:
lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được
dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay
ngào ngạt, khói bếp khói cơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng
đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. Chiến tranh lùi lại
vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui.
Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người Tây Bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp
mới, khác với đoạn đầu. Anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính Tây
Tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Những câu thơ đầy ánh sáng và âm thanh, có thơ và có nhạc, đối lập hoàn
toàn với những con đường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu
thốn, nhọc nhằn… Điệu nhạc hồn thơ như thăng hoa cho tâm hồn người
chiến sĩ cất cánh, hòa nhịp vào những điệu khèn, câu hát say mê. Không gian
Tây Bắc chơi vơi trong một miền tâm thức, với dáng người trên độc mộc, với
dòng nước lũ hoa đong đưa, khắc sâu, ghi tạc trong tâm hồn người chiến sĩ.
Những câu hỏi tu từ dịu nhẹ, bâng khuâng làm không gian núi rừng thêm
chơi vơi, bảng lảng trong sương, trong khói. Ngòi bút tả thực của Quang
Dũng đến đây trở nên mềm mại và uyển chuyển, chứa đựng cái tình sâu lắng, thiết tha.
Quang Dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một
đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân
dân. Quang Dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính
Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ
giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp
ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh, để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người
đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức
tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như
chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác bên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào tay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: “Sài
Khao sương lấp đoàn quân mỏi” hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn
trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình các nước thì ở đây là hình ảnh
đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của dũng
đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu
đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc. Cũng vì sốt rét rừng
mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá ngụy trang), vẻ
ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho
thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một
sức mạnh áp đảo quân thù. Cái giỏi của dũng là mô tả người lính với những
nét khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”
Với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc”
đã làm âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một
đoàn binh. Hai chữ “đoàn binh” - âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức
nghiêm trang, hùng dũng. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở
câu thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh
tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây,
nhà thơ muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh
quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng
vệ quốc trong câu thơ: “Hoành sóc giang san cáp kỷ thu – Tam quan kỳ hổ
khí thôn ngưu”. Và ngay cả Hồ Chí Minh trong “Đăng sơn” cũng viết:“Nghĩa
binh tráng khí thôn ngưu đẩu – Thể diện sài long xâm lược quân“
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương
Đông để câu thơ mang âm vang của llịch sử, hình tượng người lính cách
mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc câu thơ: “Quân
xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Người lính Tây Tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức
lãng mạn, say mê trong những giây phút thơ mộng. ở đây, có sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa tư chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức
lãng mạn. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng trở nên rất đẹp khi Quang
Dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở
hình ảnh “mắt trừng”. Hình ảnh ấy không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn
nguôi mà còn chất chứa bao khắc khoải, mong chờ. Bên giới và Hà Nội hoa
lệ có một khoảng cách rất xa xôi, người lính Tây Tiến muốn thông qua những
mộng đẹp, những khát vọng diệt thù để làm cầu nối thu gắn không gian, kéo
hẹp khoảng cách. “Dáng kiều thơm” và một Hà Nội phồn hoa xa xôi chính là
nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó không phải là một bóng dáng nào
cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình yêu đôi lứa, niềm nhớ
thương dâng trào của người lính cao hơn là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng
về Tổ Quốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ
xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Người lính Tây Tiến dẫu “mắt
trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một
“dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói
tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh
vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của
con người Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc
– những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con
người có một đời sống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ
biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa,
giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi
nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội – Thăng Long xưa. Ta
bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ: “Từ thuở mang gươm đi mở
nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một
đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một
thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây
Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ.
Quang Dũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng
cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Ngay chính trong cái chết, người lính Tây Tiến vẫn thể hiện, khẳng định
được khí phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. Người ta có thể rùng
mình ghê sợ trước cái lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn xứ” nhưng
không khỏi tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất anh hùng của đoàn
binh. Những từ Hán Việt “biên cương, chiến trường, viễn xứ, độc hành” được
sử dụng trang trọng giống như những nén tâm hương trước họ. Ngày xưa,
nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào cho các tráng sĩ thắng trận trở về, nhưng
ở thời của người lính Tây Tiến thì làm gì có chiếc áo bào nào. Vậy mà Quang
Dũng vẫn gọi những manh áo lính với một cách kiêu hãnh là “áo bào”.
Những người trong cuộc kể lại rằng ngày ấy lúc đầu có quan tài và bài niệm
nhưng sau đó lính Tây Tiến hi sinh nhiều, người bản xứ đã cho những manh
chiếu quấn thân, nhưng rồi chiếu cũng hết, họ đã mặc nguyên những chiếc áo
lính để trở về với đất mẹ. Quang Dũng muốn tránh đi sự thật đau lòng nên đã
gọi đó là chiếc áo bào. Đó là một cách nói sang trọng, an ủi người ra đi và
cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn. Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng
lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng
lệ. Với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông Mã đã luôn gắn liền và dõi theo
con đường hành quân, đẩu tranh gian khổ của đoàn binh. Sự ra đi của người
lính Tây Tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên hòa
cùng nỗi đau với con người. Sông Mã gào thét, vang vọng lên “khúc độc
hành” giống như một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ.
Sự hi sinh ấy được đặt giữa đất trời, thiên nhiên, có đất mẹ dang tay đón đợi,
có dòng sông Mã anh hùng dạo lên khúc tráng ca, đó là sự hi sinh cao đẹp, cao quý nhất.
Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân
thực, lãng mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ
ngữ mang sắc thái cổ điển, trang trọng tác giả tạo được không khí thiêng
liêng, làm cho cái chết bi tráng của người lính vang động cả thiên nhiên. Âm
hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt,
hòa với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” Kết bài:
Hơn năm mươi năm qua, bài thơ Tây Tiến vẫn còn sức quyến rũ với người
đọc hôm nay, gợi về những năm tháng không thể nào quên trong giai đoạn
kháng chiến chống Pháp. Bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang
Dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân của binh
đoàn Tây Tiến, dựng lên được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với
hào khí ngất trời trong chiến đấu và nét hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng cả tình yêu của
Quang Dũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng mẫu 3
Chiến tranh, người lính luôn là đề tài không bai giờ cũ đối với những nghệ sỹ
thời chiến. Chúng ta bắt gặp hình ảnh những người lính trong “Đồng chí” của
Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Nhưng
có lẽ ấn tượng, trữ tình và chân thực là hình ảnh người lính trong bài thơ
“Tây Tiến” của Quang Dũng. Với cách khắc họa hình tượng người lính thành
công, người đọc đã không thể quên được hình ảnh những người lính cụ hồ
thời kì kháng chiến chống pháp.
Bài thơ cũng chính là nỗi nhớ của chính tác giả về những năm tháng chiến
tranh ác liệt nơi chiến trường xưa. Bài thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Phù Lao Chanh là mảnh đất mà trước đây đoàn quân đã từng đi qua. Quang
Dũng cùng rất nhiều thanh niên khác ở Hà Thành đã xếp bút nghiên lên
đường ra chiến trường theo tiếng gọi của tổ quốc. Câu thơ cất lên như một
tiếng gọi tha thiết về quá khứ từng trải qua. Sông Mã là con sông lớn, in dấu
nhiều cuộc chiến tranh đổ lửa cũng như để lại bao nhiêu hoài niệm thời xa
vắng của tác giả. Nỗi nhớ trong lòng tác giả là một nỗi nhớ “chơi vơi”. Một
từ ngữ rất nhẹ nhưng dường như lại khiến cho nỗi nhớ thêm đầy, không thể nào vơi đi bớt.
Quang Dũng đã cụ thể hóa nỗi nhớ đó bằng những hình ảnh còn đọng lại
trong ký ức về vùng đất chiến tranh ác liệt này:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Với những địa danh quen thuộc như “Sài Khao” và “Mường Lát” gợi nhớ về
những năm tháng chiến tranh đó. Hai câu thơ với giọng rất êm, hình ảnh rất
thi vị, nhẹ nhàng khiến cho người đọc cảm nhận được sự thi vị và lắng sâu.
Đoàn quân Tây Tiến hành quân trong khói sương mù mịt, cái lạnh dường như
len lỏi vào sâu trong tim. Một khung cảnh lãng mạn, trữ tình giữa chiến tranh
ác liệt thật khiến nhiều người ngưỡng mộ. Đó chính là một sự cảm nhận tinh
tế và sâu sắc về thiên nhiên giữa núi rừng thăm thẳm.
Giữa thiên nhiên thơ mộng, trữ tình, hình ảnh kì vĩ, bao la của thiên nhiên và
đất trời được phác họa qua nét bút của tác giả khiến cho người đọc cảm nhận
được cuộc sống gian khổ, cuộc chiến khó khăn của đoàn quân. Từ ngữ “khúc
khuỷu”, “thăm thẳm” đã phần nào diễn tả được sự gồ ghề, khó khăn, khập
khiễng của núi rừng. Có cảm giác như đoàn quân phải vượt qua bao nhiêu
ngọn núi, đối mặt với bao nhiêu hiểm nguy mới có thể giành được chiến thắng.
Có một hình ảnh rất đẹp, rất lãng mạn hiện lên “súng ngửi trời”. Thật thi vị
và trữ tình. Hình ảnh “súng ngửi trời” là một hình ảnh mang tính chất nghệ
thuật cao, gợi nên khung cảnh thật nên thơ. Nó hoàn toàn đối lập với cuộc
chiến tranh đang diễn ra ác liệt ở ngoài kia.
Chiến địa ác liệt, thiên nhiên hùng vĩ và nguy hiểm là những thử thách mà
đoàn quân Tây Tiến cần vượt qua để chiến thắng được kẻ thù. Dù trong mưa
bom bão đạn nhưng đoàn quân vẫn luôn lạc quan.
Câu thơ cuối cùng dường như lắng lại, bình dị, êm đềm:
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Một câu thơ toàn vần bằng gợi lên những lúc nỗi lòng của đoàn quân không
vướng bận bất cứ điều gì. Câu thơ diễn tả trận mưa rơi nhẹ tênh, phủ trắng
xóa giữa núi rừng. Màn mưa ấy che kín lối đi, phủ kín những con đường mà đoàn quân đi qua.
Sự tàn khốc ác liệt của thiên nhiên còn được diễn tả một cách gân guốc:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời
Thiên nhiên giữa núi rừng qua nét bút của Quang Dũng đã phần nào gợi lên
sự khắc nghiệt, khó khăn, gian khổ, đầy những hiểm ngụy. Và có rất nhiều
chiến sỹ, nhiều đồng đội đã phải bỏ mình nơi đó, tuổi trẻ dở dang ước mơ dở
dang. Sự trầm lắng của câu thơ tạo cho cả bài thơ sự thành kính và thiêng
liêng đối với những người đã khuất.
Nối tiếp dòng cảm xúc đó là nỗi nhớ về những năm tháng êm đềm, với những
con người bình dị, nghĩa tình nơi đấy. Những kỉ niệm khó lòng quên được:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa…
Hình ảnh những mái nhà tranh khi chiều muộn về có những làn khói trắng lan
tỏa ra tạo thành từng lớp trắng lảng bảng ở trên núi. Nhớ mùa nếp xôi ấm
lòng, gần gũi biết bao nhiêu. Những thước phim đó cứ cuồn cuộn, chảy mãi
trong lòng người lính Tây Tiến.
Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện lên ngày càng rõ nét và chân thực:
Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm.
Một nét vẽ thật táo bạo, chân thực về lính Tây Tiến. Sự gian khổ, sự khắc
nghiệt của thời tiết đã khiến cho những thanh niên Hà Thành trai tráng trở
nên mạnh mẽ, chai lì. Mặc dù “không mọc tóc” nhưng nét dữ dằn cũng khiến
cho quân giặc phát sợ. Họ vẫn hiên ngang, mạnh mẽ chống chọi lại với quân
thù và thời tiết khắc nghiệt/. Dù cuộc chiến có đầy bão giông thì vẫn không
khiến cho những người lính thôi mơ mộng, Họ từng là những thanh niên Hà
Thành xếp bút nghiên lên đường đi đánh trận, ở nơi xa vẫn có những bóng
dáng để họ nhớ, họ mong, làm động lực để họ bước tiếp. Đây là điều đáng
trân trọng đối với những người lính.
Quang Dũng nhận ra sự khắc nghiệt của chiến tranh, những mất mát phải
đánh đổi, những hi sinh phải đối mặt:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Có lẽ đây là đoạn thơ hào hùng, mang âm hưởng bi tránh nhất bài thơ. Những
người chiến sỹ đã anh dũng nằm lại với đồng đội, với đất mẹ. Tuổi xuân của
họ còn đó nhưng vì đất nước mà hi sinh thì “chẳng tiếc”. Những con người
vô danh nhưng họ luôn sống mãi trong lòng người ở lại.
Họ ra đi nhưng lời hẹn ước hòa bình ngày xưa sẽ để những người còn ở lại
tiếp bước mà chiến đấu và cống hiến hết mình.
Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng thực sự gieo vào lòng người nhiều cảm
xúc. Là sự ngưỡng mộ, khâm phục cũng như xót xa cho những gì đã xảy ra trong chiến tranh.
Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng mẫu 4
Tây Tiến là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời
9 năm kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm sung đánh giặc vừa
làm thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang
Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước
sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn đầy thử thách gian lao.
Tây Tiến nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân
yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi
nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:
"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha
thiết sâu lắng, bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nốt nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi
vơi" cháy bỏng khôn nguôi. Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng song Mã, nhớ
núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây Tiến – một đơn vị bộ đội đã hoạt động
tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La – biên giới Việt
Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến
bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương
hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Những Sài Khao, Mường Lát… những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in
dấu chân đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong "sương lấp", trong "đêm hơi" mịt
mù, lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô
cùng gian khổ. Ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn
quân mỏi" giữa cái biển sương mù của núi rừng miền Tây; "đoàn quân mỏi"
tưởng như bị "lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất
ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi mệt, cái gian khổ như
đã tiêu tan. Sau thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong
tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy
thử thách: "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc
khuỷu", "thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo
hút". Những tầm cao của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách
chí can trường như chặn bước tiến của đoàn quân:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng
như những nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những
dốc, những cồn mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những
tháng ngày: "áo vải chân không đi lùng giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng
ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ
trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh
kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được đo bằng: "Ngàn thước lên cao /
Ngàn thước xuống". Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp,
đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao "
ngàn thước", các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những
nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm
xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm hồn người lính trẻ rất
lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Những gì đã xảy ra trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ
ấy? Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa.
Gục lên sung mũ bỏ quên đời!".
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi
dầu", trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân
yêu đã "không bước nữa" … vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên
đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên
súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống
trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ còn đội
trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ
"không bước nữa", "gục lên"…, "bỏ quên đời!", nhưng vẫn trào lên nỗi xót
xa, thương tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của
Quang Dũng tuy nói đến cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy,
thảm thương trái lại, trong sự tiếc thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc
lập, tự do mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến
trường, trong tư thế lẫm liệt "gục lên súng mũ…" như vậy.
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có
mưa ngàn, muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng
tự ngàn đời mang cái vẻ hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều
nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng "gầm thét" của thác, của
"cọp true người". Trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ Pha
Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. Chốn rừng
thiêng ẩn dấu nhiều bí mật "oai linh", được nhân hóa như tăng thêm phần dữ
dội. Thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để thử thách chí can trường
các chiến binh Tây Tiến:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp
của tình quân dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của
"mùa em thơm nếp xôi". Trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói,
của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà con dân
bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng "nhớ ôi" gợi lên nhiều bâng khuâng,
vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về "hội đuốc hoa" và những
chiều sương cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà
thơ tự hỏi mình "có thấy" và "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của
những chàng lính chiến được nói đến thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ
"kìa" là đại từ để trở từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ánh lửa đuốc
bập bùng, sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái miền Tây Bắc,
những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đem đến cho
những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình quân dân thắm
thiết. Có tiếng khèn "man điệu" của núi rừng, có khúc nhạc du dương "xây
hồn thơ". Có dáng điệu duyên dáng "e ấp" của "nàng", của những "bông hoa
rừng" đang múa xòa, đang múa lăm- vông:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ,
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ".
Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, cháy rực lên từ
những ngọn đuốc trong đêm "hội đuốc hoa". Cũng có nghĩa là tưng bừng rộn
ràng qua tiếng khèn "man điệu", qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca Thái, dân ca Lào.
Nhớ Tây Tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những con
thuyền độc mộc, nhớ đến "hồn lau nẻo bến bờ". Nhớ nhiều, nhớ mãi "dáng
người trên độc mộc", nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ "Trôi dòng
nước lũ hoa đong đưa". Nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của đời
người lính trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết được những
vần thơ mang hương sắc núi rừng xa lạ, tươi đẹp và thơ mộng như thế. Âm
điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất
nhạc, chất thơ họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tính thẩm mĩ độc đáo của ngòi
bút thơ Quang Dũng, đồng thời khắc họa vẻ đẹp tâm hồn các chiến sĩ Tây
Tiến: trong gian khổ và thử thách, trong gian truân và chết chóc, học vẫn lạc
quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.
Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất trong bài "Tây Tiến" đã thể hiện
sự cảm nhận và diễn tả tinh tế, tài hoa vẻ đẹp thiên nhiên và tình người, đồng
thời lại rất mực hồn nhiên từng làm mê say người đọc:
"Người đi Châu mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ,
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa".
Phần thứ ba, Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về
đoàn binh Tây Tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong
những cồn mây trong màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo cao, dốc
thẳm, "áo vải chân không đi lùng giặc đánh", bỗng bất ngờ xuất hiện:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến
tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông
chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản
đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao
mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ
tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt:
"dữ oai hùm". Cũng là một cách nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca
sức mạnh Việt Nam: "Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu" (Phạm Ngũ Lão), "Tỳ
hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu), "Sĩ tốt kén tay tì hổ -
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh" (Nguyễn Trãi), … Và những năm đầu kháng chiến
chống Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ mang sức mạnh Việt Nam từ nghìn xưa ra tận
trận với chí khí lẫm liệt, nếm trải biết bao cay đắng ngọt bùi, bao thiếu thốn
gian truân, từng đánh những trận đánh đẫm máu giữa rừng sâu. Quang Dũng
đã kế thừa một cách sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc để viết nên những vần thơ hòa sảng như vậy.
Đoàn binh Tây Tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh
viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. Là "Những chàng trai chưa
trắng nợ anh hùng…" ra đi đánh giặc với bao "mộng" và "mơ" tuyệt đẹp:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Mộng chiến công. Mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. "Mắt
trừng" gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung
hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những
người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. Nhớ về phố cũ trường
xưa, mơ về một tà áo đẹp, một "dáng kiều thơm", nơi Hà Nội thân yêu.
Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" thể hiện chất tài tử, hào hoa của
người lính Tây Tiến. Còn người chiến sĩ trong bài "Đồng Chí" của Chính
Hữu, thì nỗi nhớ hướng về ruộng nương, về "gian nhà không mặc kệ gió lung
lay", về giếng nước gốc đa… Nỗi nhớ của anh Vệ quốc quân trong bài thơ
"Nhớ" của Hồng Nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
“Ba năm rồi gửi lại quê hương, Mái lều gianh, Tiếng mõ đêm trường, Luống cày đất đỏ,
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
Qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cái mộng mơ của người lính thời trận mạc là nông
dân, hay tiểu tư sản thành thị đều đẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cái mộng mơ
ấy đều biểu lộ một tình yêu quê hương thắm thiết. Nếu có ai đó cho rằng câu
thơ của Quang Dũng mang theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản…
thì mới thật buồn thay. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng
định cái hay riêng của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm
chân dung "anh bộ đội Cụ Hồ" trong kháng chiến chống Pháp.
Cái giá của độc lập, tự do được đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phách của dân
tộc, được ghi nhận bằng xương máu của nhân dân, mà trước hết là xương
máu của hàng ngàn, hàng vạn người lính trên chiến trường. Cái ý tưởng cao
đẹp: "Tổ quốc hay là chết" đã được Quang Dũng thể hiện bằng những vần
thơ bi tráng lay động lòng người:
"Rải rác bên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành".
Có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với
"áo bào thay chiếu" rất bình dị, chẳng có "da ngựa bọc thây" như những tráng
sĩ thời xưa, các anh đã thanh thản "về đất", vĩnh viễn nằm trong lòng mẹ - Tổ
quốc thân yêu. Các anh đã "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Hai chữ "về
đất" rất sáng tạo. Tiếng thác sông Mã "gầm lên" vang vọng giữa núi rừng như
dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. Nó như tiếng kèn trong bài "Chiêu
hồn liệt sĩ", như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc
thái của một lời thề cao cả, thiêng liêng. Đặt cái chết của những anh hùng vô
danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ, câu
thơ "rải rác biên cương mồ viễn xứ" đã làm cho nỗi đau mất mát hi sinh càng
thêm mênh mang, càng được nâng lên tầm lẫm liệt, bi tráng. Cao cả hơn nữa
là lí tưởng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc được khẳng định như một
lời thề, một niềm tin mãnh liệt: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
"Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy" (Chế Lan Viên). Những câu thơ
trên đây của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ Tây Tiến,
với những đồng đội dã bỏ mình vì Tổ quốc, đã oanh liệt hi sinh giữa núi rừng
biên cương Việt – Lào. Quang Dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính Tây
Tiến mang chí khí những anh hùng vô danh, những anh hùng thời đại, ra trận
với "tình sông núi", với quyết tâm "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Họ
đã đi tiếp con đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ vững sơn hà
xã tắc. Họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc
quan. Họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả
"đời xanh" hiến dâng cho nhân dân và đất nước. Nhà thơ đã làm rung lên
niềm thương tiếc, tự hào!
Sau này trong bài thơ "Sông Lào" cũng nói về những "nấm mồ viễn xứ" của
những người con ưu tú khắp mọi miền quê, Chế Lan Viên xúc động, nghẹn ngào:
"Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ Gặp nghìn nấm mộ
Và trăm bản Lào bom Mĩ đốt ra tro!
Ngủ lại Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sông Hồng
Ngủ lại Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ
Bóng khộp, bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ.
Chàng trai Nghĩa Bình ngủ ở Xê – kông
Nén hương thơm lẫn với hương rừng
Những cô gái Lào đến thăm phần mộ
Các anh chưa từng cầm tay và múa lăm – vông…"
Đúng là "Có cái chết hóa thành bất tử" (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam,
trong đó có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả
cảm và sự hi sinh oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh.
Khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. Vẫn là tiếng
lòng rung lên theo hoài niệm. Biết bao thương nhớ khôn nguôi:
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi".
Mùa xuân ấy, khi "Tiếng kèn kháng chiến vang dậy non sông" (Hồ Chí
Minh), đoàn binh Tây Tiến xuất quân. Họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước:
"Nhất khứ bất phục hoàn". Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Các anh đã giã biệt quê hương.
Những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? Bạn bè, đồng đội
thân yêu, những ai đó "Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi". Nhưng quê hương
vẫn đời đời ôm ấp bóng hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn Tây Tiến.
Bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
Có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. Thơ hay
không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là Đèo Cả của Hữu
Loan, là Nhớ của Hồng Nguyên, Đồng chí của Chính Hữu, Tây Tiến của
Quang Dũng, và nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.
Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm
súng bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống
Pháp. Với bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa, phong độ hào hùng của
nhà thơ – chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và
lòng người hình ảnh người chiến sĩ vô danh Thăng Long – Hà Nội, của dân
tộc Việt Nam anh hùng. Trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm
hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ cùng những
chiến sĩ vinh quang trong đoàn binh Tây Tiến. Bài làm mẫu 5
Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng,
xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp. Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in
thơ chung vời Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau:
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập
trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được
chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù
Lưu Chanh (Hà đông) anh viết bài thơ Tây Tiến.
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến.
Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ
đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ớ Thượng
Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân
Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền
tây Thành Hoá sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thành Hoà.
Những nơi này, lúc đó, còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đông là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều
tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên (Quang Dũng
thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ,
ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy
vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi
thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ
vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ.
Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường
điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên
ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ.
Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm
nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang
sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người miền Tây càng tô
đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể
hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả
cho lí tưởng chung của cộng đồng, của toàn dân tộc.
Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi luỵ. Cái bi được
thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất
lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và
những người yêu thơ. Nhưng sau đó, do quan niệm có phần đơn giản và ấu trĩ
nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn
ành hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong một thời gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc
đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học,
bài thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.
Bài thơ gồm bốn đoạn thơ:
Đoạn l: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung
cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.
Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh
sông nước miền Tây thơ mộng.
Đoạn: Chân dung của người lính Tây Tiến.
Đoạn 4: Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
Mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà
thơ. Bài thơ được viết trong một nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng
đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên
nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của
Quang Dũng về Tây Tiến; những kí ức, những kí niệm được tái hiện lại một
cách tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác
như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngòi bút tinh tế và tài hoa của Quang
Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sổng động và người đọc có cảm
tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những hồi tưởng ấy.
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ (2) da diết, bao trùm lên
cả không gian và thới gian:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành
tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình
tượng hoá nỗi nhớ; khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng
dày, … liên tiếp xuất hiện những câu thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ) (3). Chỉ
bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất
đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây – địa
bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị
tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã điền tả thật đắc
địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ
“ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa
có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi
thành cồn “heo hút”. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như
đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả
dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn
xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những người
lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một
không gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà
như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba
câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét
rất mềm mại (câu thứ tư toàn thành bằng). Quy luật này cũng giống như cách
sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử
dụng một gang màu lạnh làm dịu lại như xoa mát cả khổ thơ.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến
mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa, – Đứt thôi lại
nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu
thơ trong bài Thục đạo nan câu Lí Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả
lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thướng thành thiên!).
Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây
được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không
gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ
khủng khiếp đối với con người:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng,
hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm,
cọp dữ,… Những tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch),
những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên
nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ớ
cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình nên thế giới
khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miễn tây tổ quốc.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
“Nhớ ôi Tây Tiến thơ lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội
suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản
làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói còn nghi
ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt
những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một
cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng
hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ,
thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở
đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển
chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu
sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy
được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh,
huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một
buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang.
Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng
bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà
cũng rất mộng, rất ảo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt
đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng
khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất
ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc
nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn
nghệ là những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ
xiêm áo lộng lẫy (“xiêm áo tự bao giờ”), vừa e thẹn, vừa tình tứ (“nàng e ấp”)
trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn vía
những chàng trai Tây Tiến.
Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây
ngất, thì cảnh sông nước miền Tây lại gợi lên được cảm giác mênh mang, mờ ảo:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông
nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu
sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của
một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hoà hợp với con người,
những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.
Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên
xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây (“có
thấy hồn lau nẻo bến bờ”). Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người
đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.
Đọc, phân tích Tây Tiến, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi
mơ, của âm nhạc (4). Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu
cất lên tự tân hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến. Hơn ở
đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến
mức khó mà tách biệt. Với ý nghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài
thơ Tây Tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.
Trên cái nên hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên
dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình
tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện vời một vẽ đẹp đầy chất bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xành màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những
người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể khái quát được gương
mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của
bức tượng đài, chúng hoà quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ
nhau tạo nên vẻ đẹp bí tráng – thần thái chung của cả bức tượng đài.
Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh
sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Còn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với
những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, – Trên má anh vàng nghệ”
cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây
Tiến không hề che giấu những gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm
nghèo và sự hi sinh lớn lao cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó,
qua ngòi bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái
nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những người
lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng
tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một sự thực nghiệt ngã.
Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh
nhau giáp lá cả với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ
xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang
Dũng vẫn toát lên về oai phong, dữ dằn của những còn hổ nơi rừng thiêng.
Sự oai phong lẫn liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ (mắt trừng
gửi mộng) của họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút của Quang Dũng,
không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều của
Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề
ngoài của họ là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khát khao yêu đương
(“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Như vậy, trong khổ thơ này, Quang
Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ
bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả
thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính
Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi luỵ. Cảm hứng
của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình
tượng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên
qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh
lẽo, xa xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ
kính; trang trọng: “Rải rác bên cương mồ viễn xứ”; mặt khác, chính cái bi
thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của
những người lính Tây Tiến (“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”). Họ có vẻ
tiều tuỵ, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng
dấp của những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự thật bi
thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả manh
chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc trong những
tấm áo bào sang trọng (5). Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về
đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi
sinh của người lính Tây Tiến không bi luỵ mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm
đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí
chung của một thời Tây Tiến, tinh thần chung của những người lính Tây Tiến.
Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thắm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần
trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm
của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những
nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.
Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào
hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy. Bài làm mẫu 6
Quang Dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng,
lãng mạn những sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc
cho đến tận ngày nay. Và "Tây Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.
Tây Tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên hà
thành. Đoàn quân được thành lập đầu năm 1947 và đại đội trưởng không ai
khác chính là Quang Dũng. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị
khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ" Nhớ Tây Tiến" sau in trong
"Mây đầu ô" đổi tên thành Tây Tiến. Nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng
mạn và bi tráng của từng câu thơ. Mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"
Tác giả gọi tên dòng sông Mã- một nhân chứng theo suốt bước chân hành
quân của đoàn quân. Quang Dũng nhớ về đồng đội, "nhớ về rừng núi". Nỗi
nhớ ấy cứ cồn cào, da diết để rồi bật lên thành tiếng gọi "Tây Tiến ơi". Đặc
sắc nghệ thuật của hai câu thơ đầu chính là cách gieo vần "ơi" và từ láy "chơi
vơi". Bằng sự thành công của đặc sắc ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được nỗi lòng
của mình. Nỗi nhớ của ông cứ miên man, cồn cào, da diết khôn nguôi. Nỗi
nhớ từ tận đáy lòng rồi bật lên vang vọng.
Nhớ về Tây Tiến là nhớ đến những khó khăn gian khổ suốt chặng đường
hành quân. Một loạt các địa danh được nhà thơ nhắc đến ở những câu tiếp:
Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Đây đều là
những địa danh heo hút, hoang vu, là những minh chứng cho chặng đường
đầy gian khổ của người lính Tây Tiến.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"
Hai câu thơ này thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của Quang
Dũng. Trong đêm lạnh ở vùng cao, sương giăng phủ kín, mặc dù đã "mỏi"
nhưng con đường hành quân hiện ra vẫn đẹp, vẫn thơ mộng "hoa về trong
đêm hơi". Những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ sự khắc nghiệt của thiên nhiên
trên đường hành quân. Một loạt các từ ngữ diễn tả sự gập ghềnh của hành
trình ấy đã diễn tả một cách chân thực về thiên nhiên hoang sơ nơi rừng núi:"
dốc lên khúc khuỷu, dốc xuống thăm thẳm đường đi heo hút". Câu thơ "dốc
lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm" như bị chặt đôi đã diễn tả thật rõ sự gập
ghềnh của núi, của chặng đường đi. Điều đó càng được tăng lên gấp bội nhờ
"ngàn thước lên cao ngàn thước xuống". Chặng đường ấy cứ trùng trùng điệp
điệp nối tiếp nhau. Thế nhưng trước thiên nhiên hoang sơ kĩ vĩ ấy là hình ảnh
"súng ngửi trời". Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp, lãng mạn của chàng lính Tây
Tiến. Giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ vác súng trên vai.
Câu thơ giúp người đọc cảm thấy như mũi súng có thể chạm đến đỉnh trời.
Hình ảnh này khẳng định ý chí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi
tầm cao mà đi tới "khó khăn nào cũng vượt qua- kẻ thù nào cũng đánh thắng".
Giữa thiên nhiên hoang sơ ấy, tinh thần người chiến sĩ vẫn rất vững vàng:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
Bằng ngòi bút chân thực, Quang Dũng đã tái hiện sự thật đau thương của
cuộc hành quân. Đã biết bao người đã ra đi "anh bạn dãi dầu không bước
nữa". Nhưng hình ảnh ấy qua lời thơ Quang Dũng không hề bi thương mà
hào hùng "gục lên súng mũ bỏ quên đời". Người chiến sĩ hào hùng hi sinh
bên súng mũ trong tư thế hiên ngang "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh".
Hình ảnh người chiến sĩ hi sinh đã đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận
ngày nay. Quả đúng không ngoa "tượng đài tự do được xây bằng máu và
nước mắt". Những khó khăn mới lại đến với đoàn quân. Đó là hiểm nguy
rừng núi, chốn hoang sơ luôn rình rập "cọp trêu người", "thác gầm thét".
Nhưng không vì thế mà người lính Tây Tiến nao núng. Trái lại họ còn lạc
quan nhớ đến sự ấm áp của con người nơi đây "nhớ ôi Tây Tiến cơm lên
khói-Mai Châu mùa em thơm nếp xôi". Cặp từ sáng tạo "mùa em" đã chứa
bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.
Thơ Quang Dũng đâu chỉ có hiện thực khắc nghiệt mà còn có phút lãng mạn, vui tươi:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có thấy dáng người trên Độc Mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Đoạn thơ này làm thay đổi không khí của toàn bài. Với âm hưởng vui tươi lạc
quan, tác giả đã cho người đọc thấy sự hào hoa của người lính Tây Tiến. Đêm
liên hoan văn nghệ thắm đượm tình dân quân đã in hằn trong tâm trí Quang
Dũng khiến ông không thể nào quên. Hình ảnh những cô gái Thái xinh đẹp
trong xiêm áo, e ấp trong điệu nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải ngỡ
ngàng "kìa em". Bằng tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã vẽ lên viễn cảnh mơ
mộng của Châu Mộc trong chiều sương với "hồn lau", "hoa đong đưa". Phải
chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh cô lái đò trên dòng nước lũ? Nét duyên
dáng thơ ngây của con người và cảnh vật đã được vẽ thành bức họa tuyệt trần qua thơ của Quang Dũng.
Nối tiếp mạch thơ là hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Bút pháp tả thực lại một lần nữa được Quang Dũng thực hiện triệt để. "Đoàn
binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá" là kết quả của những trận sốt rét
rừng. Thời kì này, chiến sĩ của ta chiến đấu trong hoàn cảnh hết sức khó khăn,
thiếu thốn lương thực, thuốc men, ngay cả trang bị chiến đấu "áo anh rách vai
quần tôi có vài mảnh vá”, "chân không dày"… Chiến sĩ ta nhiều khi chết
bệnh còn hơn chết trận. Nhưng dù với dáng vẻ như vậy, người lính Tây Tiến
vẫn hiên ngang, uy hùng không hề yếu ớt " dữ oai hùm", "mắt trừng". Đoạn
thơ thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn và bi tráng của nhà thơ. Quyết tâm giết
giặc "gửi mộng qua biên giới" không làm giảm sự lãng mạn của người lính.
Họ vẫn nhớ về quê hương, vẫn nhớ về người con gái Hà thành.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Một mùi chết chóc sực lên ở đoạn thơ này. Một màu sắc ảm đạm, u uất bao
trùm khổ thơ. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó hiện lên bi tráng mà
không bi lụy. Cái chí khí của người lính đã được bộc lộ rõ ràng. Họ quyết
tâm đi "chẳng tiếc đời xanh" để đem lại nền độc lập cho dân tộc. Họ ngã
xuống nhưng vẫn mang trong mình bầu máu nóng nhiệt huyết. "Áo bào thay
chiếu anh về đất" như một cách nói giảm nói tránh. Người chiến sĩ ngã xuống
là về với đất mẹ bao la. Một lần nữa, hình ảnh sông Mã lại hiện lên như tiễn
đưa linh hồn người lính.
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường đi thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Quang Dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của người lính Tây Tiến.
Họ ra đi không hề "hẹn ước". Họ đã ra đi không hẹn ngày trở về, họ quyết
tâm dành lại độc lập cho dân tộc. Tinh thần " một đi không trở lại" của người
lính Tây Tiến cũng như những anh bộ đội cụ Hồ lúc bấy giờ.
Bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã
tạo ra một thi phẩm tuyệt vời. Chân dung người lính Tây Tiến đã được khắc
họa rất rõ qua lời thơ và nỗi nhớ của tác giả dành cho tiểu đội của mình. Quả
thực, "Tây Tiến" xứng đáng là bản anh hùng ca của chùm thơ cách mạng Việt Nam thời bấy giờ. Bài làm mẫu 7
Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những dư vang dư hình của nó thì vẫn luôn còn
đó, sống mãi bên đời. Người ta sẽ chẳng thể quên “có cái chết đã hóa thành
bất tử” khi gặp ở trang thơ Tố Hữu, càng không thể quên hình ảnh người
chiến sĩ “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” đã in sâu trong thơ Chính Hữu.
Tự bao giờ, người lính đã trở thành những tượng đài bất tử như thế trong thơ?
Đi qua gian khó, bước tới vinh quang, những người lính Tây Tiến cũng trở
thành những hình tượng “còn mãi”, “sống mãi”, “đẹp mãi”. Ta gặp lại họ
trong những vần thơ thấm đẫm cảm xúc mà Quang Dũng gửi lại đoàn quân,
cùng theo đó là bao nỗi nhớ…
Vốn là một trong những chiến sĩ của đoàn quân, Quang Dũng viết bài thơ
bằng tất cả nỗi nhớ một người đồng chí, một người từng cộng khổ và sánh
vai, chứ không phải của một người miền xuôi từng lên thăm miền ngược. Nỗi
nhớ gửi từ Phù Lưu Chanh gọi về bao cảm xúc…
Nhớ về Tây Tiến, trước hết là nhớ về những tháng ngày đoàn quân ròng rã
trên chặng đường hành quân. Nỗi nhớ trào dâng ngay từ những câu mở đầu:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Tiếng gọi thân thương đi cùng bước chân kí ức. Sông Mã – nơi chứng kiến và
chia sẻ những buồn vui. Sông Mã – nơi đựng đầy những kỉ niệm và hoài ức.
Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu
tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Nỗi nhớ trải rộng theo thời gian và ngút ngàn
trong không gian, theo những cung đường Tây Bắc.
Hiện lên trong nỗi nhớ là bức tranh về núi rừng Tây Bắc vừa hoang vu, hiểm
trở, lại vừa thơ mộng, trữ tình. Cái hoành tráng dữ dội hiện lên ngay ở những
cái tên mới mẻ lạ lẫm: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch; ở
những hình ảnh thiên nhiên độc đáo, lạ thường: sương lấp, cồn mây, heo hút,
khúc khuỷu…Bằng lối diễn tả độc vận, lối phối thanh bằng trắc linh hoạt,
Quang Dũng đã diễn tả thành công cái thế heo hút của đèo cao, cái thế mênh
mang của mây rừng. Đọc những câu thơ, ta như mường tượng ra những nơi
thâm sơn cùng cốc, nơi hang cùng thủy tận, nơi đoạn đường trúc trắc, nơi đèo
cao gồ ghề mà đoàn quân từng đi qua. Trong câu thơ Quang Dũng viết:
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ta nhìn thấy cả một dốc núi mở ra,
hai miền không gian đối cực nới dài, cao chót vót và sâu khôn cùng. Những
hiểm trở ấy của cảnh rừng từng có lần ta gặp trong thơ Thế Lữ:
“Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội.”
Nơi rừng thiêng nước độc cũng từng có bao tuổi xanh phải bỏ lại, bao mất
mát hi sinh luôn còn đó, để khi nhớ lại người ta vẫn phải nhói lòng:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”
Hai chữ “dãi dầu” dồn tụ trong đó bao nhiêu gian lao. Nói đến hi sinh, nhà
thơ không tô đậm cái buồn thương mà nhấn vào cái kiêu bạc của những
người lính vốn xuất thân từ Hà Thành hoa lệ. Bởi thế mà dẫu là bỏ lại tuổi trẻ
nơi chiến trường khi đầu hãy còn xanh thì những người lính vẫn phải nhìn
thấy trong đó những động lực để bước tiếp.
Và như một lẽ tất nhiên, với những con người nhạy cảm như người lính Tây
Tiến, không khi nào họ chỉ nhìn thấy cái khốc tàn của núi rừng. Ngay trong
sự hoang vu, hiểm trở, những vẻ đẹp trữ tình vẫn ngời lên lấp lóa dưới đôi
mắt tinh tế của những chàng trai Hà Thành. Đó là kí ức “Mường Lát hoa về
trong đêm hơi”, là nỗi nhớ thấp thoáng về “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Một đêm hơi với hoa về trong tay, nó lãng mạn biết nhường nào. Là “đêm
hơi” chứ không phải đêm khuya, cũng không phải đêm sương, dường như nó
vừa gợi thời gian, vừa gợi một cảm giác mờ ảo – mờ đi trong tâm hồn người
chiến sĩ. Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” được buông nhẹ ra bởi
một loạt những thanh bằng như làm dịu lại nhịp thơ, gợi cảm giác bâng
khuâng, nhè nhẹ, vừa gần gũi, vừa ấm áp tình thân, tựa bước chân dừng nghỉ
sau những chặng đường dài. Nhớ về cái nên thơ ấy, nhà thơ không bỏ quên
cảm giác ấm áp tỏa ra từ hương vị riêng của núi rừng, được gợi lên từ thứ
“cơm lên khói” vẫn đượm mùi “thơm nếp xôi”.
Kí ức chiến tranh không chỉ lưu giữ những chiến công, những tàn tích, mà
còn lưu giữ bao kỉ niệm đẹp về tình quân dân thắm thiết, về những chặng
đường dừng chân yêu thương ngọt ngào. Tây Tiến trên những chặng đường
dừng chân sau bao ngày hành quân nhọc nhoài tự bao giờ cũng trở thành một
phần không thể bỏ quên trong nỗi nhớ. Hồi ức về những đêm liên hoan dần dần sống dậy:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Đoạn thơ lung linh, rộn rã với đuốc, hoa, với nếp xiêm áo dịu dàng của các
cô gái vùng cao đang uốn lượn theo tiếng khèn dìu dặt, bổng trầm như nâng
lên hồn rừng sâu núi thẳm. Hai chữ “bừng lên” thật giàu ý nghĩa, giàu sức gợi.
Bừng lên trong những ngọn đuốc sáng, bừng lên trong niềm vui người lính
Hà Thành đến từ xứ lạ phương xa, bừng lên trong tiếng reo vui khi người phụ
nữ bất ngờ hiện ra vừa lộng lẫy, vừa tình tứ. “Đuốc hoa” mà người lính mang
về trên tay, là hoa lửa đuốc thắp sáng như ngọn đèn rừng, hay là chúc hoa
vẫn rọi sáng niềm tin người chiến sĩ? Những đêm liên hoan cứ ấm nồng như
thế không chỉ rực rỡ sắc màu của lửa đuốc, của xiêm áo mà còn rộn rã âm
thanh của “khèn lên”, của “nhạc về”. Những câu thơ thắm tình quân dân, tựa
như cá gặp nước, tựa như con một nhà. Từng hơn một lần ta gặp thứ tình cảm
ấm nồng êm đẹp đó trong thơ:
“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ” Hay:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”
Nhưng nếu những câu thơ của Hoàng Trung Thông và Tố Hữu viết bằng cảm
hứng hiện thực với những hình ảnh dịu dàng thì câu thơ của Quang Dũng lại
mang một vẻ đẹp bay bổng lãng mạn. Âm hưởng lãng mạn đó còn tiế tục
ngân dài ở những câu thơ sau:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.”
Xa Tây Tiến, nhà thơ không bao giờ quên những nét đặc trưng của cảnh, của
người nơi đèo cao núi thẳm. Những chiều sương bảng lảng hoàng hôn, bạt
ngàn sắc trắng hoa lau, những ngọn lau phơ phất như bàn tay vẫy gọi dáng
người trên độc mộc. Âm điệu thơ ở đây thay đổi, không còn vui tươi như
trong đêm liên hoan lửa trại mà dần trở nên man mác bâng khuâng. Hình ảnh
thơ cũng không còn rực rỡ tươi sáng mà trở nên ảo mờ, mơ hồ. Những nét
dáng mảnh mai duyên dáng từ lâu đã trở thành linh hồn riêng của Tây Bắc.
Một Mai Châu mênh mang sương sớm, phơ phất hồn lau, đong đưa dòng
nước. Sự quyện hòa giữa cảnh và người qua vài nét chấm phá đã đủ gọi về
không khí Tây Bắc đầy lãng mạn, đọng lại trong nỗi nhớ bao cảm xúc chơi
vơi. Thấm đẫm trong từng nét vẽ là một hoài niệm sâu nặng khó quên, bâng
khuâng không nói hết. Tất cả đã thay bằng lời “có thấy”, “có nhớ” ngọt ngào chân thành.
Tây Tiến nhìn từ chiều sâu kỉ niệm thật có những hồi ức khó quên. Những có
lẽ đậm sâu nhất lòng Quang Dũng là dáng dấp người lính Tây Tiến từ lâu
được khắc tạc thành những anh hùng bất tử trong trí nhớ. Bắt đầu là nhớ về
hình ảnh những đoàn binh không mọc tóc:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
Bài thơ làm sống dậy hình ảnh của một đoàn quân Vệ quốc. Bước chân họ in
trên khắp các nẻo đường đất nước. Họ tình nguyện dấn thân vào cuộc kháng
chiến, gian khổ lắm lúc vượt quá sức chịu đựng của những chàng trai Thủ đô
mới từ giã mái trường, góc phố. Một sự thật trần trụi và khắc khổ về người
lính thời chiến hiện ra: Họ sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, thiếu ăn,
thiếu thuốc, sốt rét liên miên đến rụng tóc, trọc đầu, da xanh tái. Quang Dũng
chỉ phản ánh lại hiện thực chứ không hề cường điệu. Đâu phải riêng Quang
Dũng mới nhắc về sự thật ấy. Tố Hữu cũng từng đau lòng mà viết: “Giọt giọt
mồ hôi rơi/ Trên má anh vàng nghệ”. Nhưng vốn mang trong mình khí chất
của người chinh phu tráng sĩ, Quang Dũng nói về cái bi chỉ cốt để gợi cái
tráng. Người chiến sĩ chủ động “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không
mọc”. Ta nghe trong đó chút dí dỏm tươi vui, cũng là niềm lạc quan không ngại khổ ngại khó.
Quyết tâm giết giặc, gian khổ đói rét không làm giảm chất lãng mạn vốn có
trong từng chiến sĩ. Giữa những cuộc hành quân chiến đấu, họ vẫn dành riêng
cho mình dăm ba phút để nhớ về quê hương, nhớ về những bóng dáng thân
yêu: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Tâm hồn lãng mạn đưa các anh về cùng những giấc mơ. Là mơ chứ không
phải nhớ, là cảm xúc nằm trong tiềm thức chứ không phải trong ý thức, đó là
động lực để cho các anh cầm chắc tay súng, như nhà thơ Nguyễn Đình Thi
từng nói về cảm xúc ấy:
“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.”
Nhớ về đồng đội, Quang Dũng cũng không né tránh những mất mát hi sinh,
nhưng hẳn rằng Tây Tiến là một trong số ít bài thơ viết về điều đó một cách
thấm thía bằng cảm hứng bi tráng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sống Mã gầm lên khúc độc hành.”
Chốn biên cương nơi bom rơi đạn nổ đã lấy đi bao xương máu, để lại những
nấm mồ xanh đã hóa thành bất tử. Nhìn thẳng vào sự thật, ta thấy ở đó bao
mất mát hi sinh. Nhưng nhìn xa hơn sự thật, ta thấy đằng sau sự hi sinh là chí
khí người anh hùng “chẳng tiếc đời xanh”, dám quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh. Đời xanh là tuổi trẻ với bao nhiêu hoa mộng. Đẹp là thế, hứa hẹn nhiều
là thế nhưng các chiến sĩ ta chẳng tiếc mà nhiệt thành hiến dâng cho Tổ quốc.
Hỏi có sự hi sinh nào cao quý hơn, đáng ca ngợi hơn? Một lần nữa, Quang
Dũng khắc tả được tinh thần của những chinh phu tráng sĩ thời xưa:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”
Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa
bọc thây và coi đó là vinh quang tột đỉnh, còn chiến sĩ Tây Tiến thì “áo bào
thay chiếu anh về đất.” Nhịp điệu câu thơ chậm rãi và trang trọng. Một chi
tiết rất thực được nhắc đến trong câu thơ thấp thoáng phong vị cổ này là hình
ảnh áo bào thay chiếu. Không có manh chiếu, các anh “về đất” bằng chiếc áo
bào. Ta không thấy ở đó sự thiếu thốn mà chỉ thấy khí chất của người anh
hùng sánh ngang tầm với non sông. Âm thanh của sông Mã gầm lên vừa như
tiếng khóc của thiên nhiên đất trời, vừa như khúc nhạc kì vĩ đưa cái chết của
người lính vào cõi trường cửu.
Những câu thơ cuối khép lại bài được viết như những dòng thường ghi trên
mộ chí, cũng là lời hẹn thế của một người lính từng gắn bó sâu nặng với đoàn quân:
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường đi thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Đã ra đi là không ước hẹn ngày về, đã ra đi là quyết tâm tới đích. Cái tinh
thần “một đi không trở lại” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả
đoàn quân Tây Tiến. Không vấn vương, bịn rịn chuyện riêng tư, tất cả cho
nhiệm vụ cứu nước. Tây Tiến mùa xuân ấy đã trở thành điểm hẹn cho mọi
trái tim nhung nhớ luôn muốn trở về.
Tây Tiến là vừa là khúc tráng ca, vừa là khúc trầm ca, vừa mang vẻ đẹp hào
hoa, vừa chứa vẻ đẹp hào hùng. Quang Dũng đã góp thêm cho nền thi ca
kháng chiến một tuyệt phẩm về người lính mà ai đi qua cũng phải lưu lại
những ấn tượng cho riêng mình. Bài làm mẫu 8
Tình đồng chí, tình đồng đội keo sơn gắn bó luôn là một đề tài muôn thuở
cho các nhà thơ tìm về miền đất nhiều kí ức. Trải qua biết bao thăng trầm của
lịch sử, những sự hi sinh, gian lao vất vả mà người chiến sĩ đã trải qua để
mang lại cuộc sống yên bình cho bao người, họ còn bộc lộ những nét đáng
yêu, tinh nghịch đậm chất lính. Quang Dũng cũng đã hòa mình vào với “chất
lính cụ Hồ” để xây dựng nên bức tượng đài người lính vừa đẹp, vừa hùng
tráng mà đầy khí phách:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi …
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Bài thơ “Tây Tiến” như một kí ức đẹp mỗi khi ta nhớ tới Quang Dũng. Tây
Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp
với quân đội Lào chống quân đội của thực dân Pháp. Chiến sĩ trong đoàn
quân này phần đông là thanh niên Hà Nội. Cuối năm 1948, Quang Dũng
chuyển sang đơn vị khác. Rời xa binh đoàn Tây Tiến chưa được lâu, tại Phù
Lưu Chanh, với nỗi lòng nhớ Tây tiến da diết, ông viết bài “Nhớ Tây Tiến”,
sau ông đổi tên thành “Tây Tiến”. Bài thơ được tin trong tập “Mây đầu ô”.
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã thốt lên:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Hòa mình vào nỗi nhớ dai dẳng không hồi kết, địa danh Tây Tiến gắn liền
với con sông Mã hào hùng nó không chỉ là một người bạn thân thiết với mỗi
người lính mà nó còn là một chứng nhân lịch sử. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại
ở câu thơ thứ hai nhấn mạnh nỗi nhớ da diết. Đặc biệt, khi kết hợp với từ láy
“chơi vơi” càng tạo điểm nhấn kéo dài nỗi nhớ ấy, nó như thấm nhuần vào
từng ngõ ngách tâm trí của nhà thơ.
Nỗi nhớ ấy tiếp tục bao trùm lên những câu thơ tiếp theo của Quang Dũng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Trong những khổ thơ này, chúng ta đặc biệt nhấn mạnh đến các địa danh đã
đi cùng năm tháng với người lính: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…
Những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã từng đi qua, dừng chân nghỉ ngơi.
Nhà thơ đã sử dụng một lọat từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”
để miêu tả địa hình khó khăn mà người lính phải hành quân qua. Bên cạnh đó,
hình ảnh “súng ngửi trời” như là một chi tiết đắt giá sáng rõ nhất cho cả khổ
thơ trên. Súng biểu tượng cho chiến tranh, lại đang “ngửi trời”, khát vọng hòa
bình, tự do của loài người. Đây cũng là một nét tinh nghịch của người lính
trong thơ Quang Dũng. Đứng trên đỉnh dốc cao, hun hút, họ nhìn xuống
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” thấy tiên nhiên thật hùng vĩ, tráng lệ
nhưng cũng đậm chất trữ tình “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Chỉ với 8 câu thơ đầu, Quang Dũng đã lột tả được nỗi nhớ về thiên nhiên Tây
Tiến, về người lính Tây Tiến vừa đẹp đẽ lại chân thực. Nhà thơ tiếp tục lia
ngòi bút sắc bén của mình để phác họa hình ảnh người lính có những lúc mệt mỏi:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Hình ảnh người lính Tây Tiến trên đường hành quân có những lúc tưởng
chừng như phải khuất phục trước thiên nhiên hay hi sinh “gục lên mũi súng
bỏ quên đời”. Có người cho rằng ý của nhà thơ ở chỗ này thể hiện các anh
chiến sĩ do mỏi mệt quá nên gục xuống nghỉ ngơi nhưng cũng có người cho
rằng họ hi sinh, họ chìm vào một giấc ngủ ngàn thu tươi đẹp. Nhưng dù nhìn
vào khía cạnh nào ta cũng thấy sự khốc liệt của thiên nhiên, của chiến tranh
đã đưa đẩy những người chiến sĩ vào vòng xóay của sự đấu tranh sống còn vì
tương lai của đất nước. Từ láy “chiều chiều”, “đêm đêm” càng lột tả được sự
hoang sơ, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc, nơi luôn đầy rẫy những khó khăn,
thử thách đang rình rập người lính. Để rồi đoàn quân Tây Tiến vẫn vượt qua:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu Mùa em thơm nếp xôi”
Hai câu thơ rất đỗi giản dị miêu tả cuộc sống thi vị hàng ngày với hình ảnh
“cơm lên khói”,” nếp xôi”.
Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về đoàn quân hào hùng ấy ới nét lãng mạng,
hào hoa pha chút tinh nghịch:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên mang điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Câu thơ có cả hình ảnh, âm nhạc “khèn”, ánh sáng của ngọn “đuốc”, đối lập
hoàn toàn với những cảnh khó khăn nguy hiểm mà người lính đã trải qua ở phần trên.
Nhà thơ không chỉ chú trọng tới hình ảnh người lính đã mang màu sắc lãng
mạn mà còn khắc họa chân dung bức tượng đài người lính sừng sững oai
phong với ngôn ngữ gai góc, sắc nhọn mà chân thực:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Chỉ với 8 câu thơ Quang Dũng đã lột tả được sự gian khổ, khắc nghiệt của
thời tiết núi rừng Tây Bắc với căn bệnh sốt rét hoành hành khiến cho đoàn
binh “không mọc được tóc”. Rồi họ vẫn mơ mộng, nhớ về người thân nơi
quên nhà, nhớ tới người thân của họ nơi tiền tuyến. Họ không chỉ phải đối
mặt với thời tiết kinh hoàng mà họ còn phải đánh đổi cả mạng sống của mình
để bảo vệ quê hương. Hình ảnh ẩn dụ “áo bào” thay chiếu như mang một nỗi
niềm xót xa. Những người chiến sĩ đã anh dũng hi sinh thân mình, họ đã anh
dũng nằm lại với đất mẹ. Đất mẹ ôm ấp vỗ về họ như những đứa con cần
được bao bọc, chở che. Đây là đọan thơ mang âm hưởng hào hùng bi tráng
nhất bài thơ. Đến cả “Sông Mã” cũng phảibgầm lên bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn.
“Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Kết thúc bài thơ là một nỗi buồn còn đọng lại trong lòng người đọc – một nỗi
buồn nhẹ nhàng nhưng thấm thía. Tây Tiến vẫn như đang mời gọi, gieo vào
lòng nhà thơ một cảm giác khó nói thành lời.
Phận tích Tây Tiến của Quang Dũng, chúng ta có thể hình dung ra hình ảnh
thiên nhiên hùng vĩ mà tráng lệ đồng thời cũng xây dựng một bức tượng đài
người lính hùng dũng đáng ngợi ca, khâm phục. Bằng ngòi bút sắc sảo, giọng
thơ sâu lắng nhiều tình cảm, “Tây Tiến” như một ngọn gió mới thổi vào thơ
ca Việt Nam một luồng gió mới – một miền kí ức hào hùng sâu sắc. Bài làm văn mẫu 9
Trong nền thơ ca kháng chiến Việt Nam giai đoạn 1945-1954 Quang Dũng là
một trong những nhà thơ tiêu biểu. Ông là một nhà thơ đa tài, nổi bật hơn cả
là lĩnh vực thơ văn với tập thơ nổi tiếng “Mây đầu ô”, trong đó đặc sắc hơn
cả là bài thơ Tây Tiến.
Bài thơ Tây Tiến thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về thiên nhiên Tây Bắc hùng
vĩ mà lãng mạn, yên bình:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Nhà thơ gọi tên sông Mã – cong sông chảy qua một số tỉnh miền tây Thanh
Hóa, là con sông gắn liền với cuộc trường chinh của người lính Tây Tiến. Bởi
thế cho nên trong cảm nhận của nhà thơ con sông như một chứng minh lịch
sử, một người bạn đồng hành trong suốt cuộc hành trình. Nhưng giờ “sông
Mã xa rồi…” tất cả những kỷ niệm của một thời bão lửa đã lùi xa vào quá
vãng. Tuy vậy nỗi nhớ về đồng đội vẫn luôn nóng hổi, tươi nguyên như ngày
nào để rồi tác giả phải thốt lên “Tây Tiến ơi”. Nhà thơ gọi tên đoàn quân Tây
Tiến như gọi tên những người thân yêu ruột thịt nhất của mình. Chỉ một từ
“ơi” ấy thôi người đọc như cảm nhận được những cảm xúc dồn nén, những
nỗi nhớ niềm thương tha thiết, cháy bỏng của nhà thơ. Cùng với nỗi nhớ về
đoàn quân Tây Tiến là nỗi nhớ về rừng núi thiên nhiên:
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Chỉ một dòng thơ thôi nhưng với điệp từ “nhớ” ta như thấu hiểu những cảm
xúc trong lòng nhà thơ. Nhà thơ nhớ về cảnh sắc thiên nhiên, nhớ về nơi in
dấu bao bước chân của đoàn quaqan Tây Tiến với nỗi nhớ “chơi vơi”. Quang
Dũng thật tài tình khi đong đầy tất cả những cung bậc tình cảm, cảm xúc
trong nỗi nhớ ấy. “Nhớ chơi vơi” ấy là nối nhớ không rõ nét, không xác định,
khó nắm bắt, một nỗi nhớ khiến con người ta có thể thoát khỏi thực tại để
chìm đắm trong những kỷ niệm ngày xưa. Trong ca dao cũng từng có những nỗi nhớ như vậy:
“Ra về nhớ mãi chơi vơi”
Hay Xuân Diệu cũng từng viết:
“Tương tu nâng lòng lên chơi vơi”
Tuy vậy nỗi nhớ “chơi vơi” trong thơ Quang Dũng lại có sức ám ảnh thật lớn,
đọng lại trong lòng người đọc một ấn tượng không phai nhòa. Hai câu thơ
mang chút gì đó bang khuâng, hoài niệm gợi lại những kỷ niệm thân thương.
Ta như thấu hiểu hơn tâm hồn của một nghệ sĩ, Quang Dũng dương như đang
bứt mình khỏi thực tại để đắm chìm trong những nỗi nhớ “chơi vơi”.
Từ nỗi nhớ ấy, hình ảnh đoàn quân Tây Tiến hiện về:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
Biết bao địa danh được nhắc đến trong bài thơ, đã từng có ý kiến cho rằng:
‘những tên đất, tên làng, bao cái tên đọc lên mà muốn khóc”, đó là nơi đã in
dấu bước chân mà đoàn quân từng đi qua mỗi một vùng đất, địa danh như
nhân chứng sống cho cuộc hành trình của đoàn quân. Từ câu thơ trên ta như
hình dung được thật rõ nết cuộc hành trình. Đoàn quân Tây Tiến đi trong
sương mù dày đặc của núi rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp
sương huyền ảo. Hình ảnh “sương lấp” gợi sự khắc nghiệt của thời tiết, khí
hậu miền tây. Trong suốt cuộc hành trình của mình họ phải đi trong sương
mù dày đặc do đó không tránh khỏi cảm giác mệt mỏi.
Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của thời tiết thì
câu dưới lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn n gười lính:
“Mường Lát hao về trong đêm hơi”
Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ. Nếu như bao người
nói hoa nở thì nhà thơ lại nói “hoa về”, “hao về” là một sự nhân hóa độc đáo
khôn cùng. Những đóa hoa xuất hiện trong “đêm hơi”, lạ lẫm thay, sao không
phải là đêm sương? Phải chăng nếu trong đêm sương lạnh giá ta sẽ không thể
nhìn thấy hoa. Để rồi, nhà thơ để hoa về trong “đêm hơi”. Qua hai chữ “đêm
hơi” ta như hình dung ra mooth không gian lung linh huyền ảo của núi rừng
nơi đây. Trong không gian ấy hoa muôn sắc màu trở nêm đẹp hơn, lộng lẫy
hơn. Hai câu thơ như hai nết vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của
mảnh đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vô cùng. Và
có lẽ những người lính Tây Tiến hẳn phải tinh tết, lãng mạn lắm mới có thể
cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây, Những khó khăn của hoàn cảnh
sống không làm mất đi ở họ nết phong phú trong thế giới tâm hồn. Như vậy,
bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được cảm xúc của “Tây tiến” nhớ
cảnh bao nhiêu thì nhớ người bấy nhiêu, đặc biệt là nỗi nhớ đồng đội – những
con người đã cùng nhau vào sinh ra tử, xông pha nơi trận mạc bão bùng.
“Dốc lên khúc khửu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xống
Nhà ai Pha Luông Mưa Xa khơi”
Bốn câu thơ được đánh giá là những câu thơ tuyệt bút, thể hiện sự tài hoa của
Quang Dũng, phối thanh, gieo vần, sử dụng từ láy. Đồng thời đó chính là bắc
tranh ký thác cảnh thiên nhiên miền Tây hung vĩ, dữ dội vô cùng. Trong câu
thơ thứ nhất mật độ thanh trắc dày đặc đã tạo nên cái trúc trắc, không bằng
phẳng trong từng câu chữ. Phải chăng đó là cái gập ghềnh uốn khúc của con
đường. Các cặp từ “dốc” gợi hình ảnh những con dốc trùng điệp, gian nan,
khó nhọc vô cùng. Và nếu như “khúc khửu” gợi những con dốc trắc trở gập
ghềnh thì “thăm thẳm” không chỉ gợi độ cao mà còn gợi chút gì đó lạnh lẽo
heo hút bởi độ cao của vực sâu. Đường hành quân gian nan biết bao, ta như
nghe thấy từng hơi thở gấp gáp, nhọc nhằn của những người lính. Họ đi trên
đường hành quân mà như đang bồng bềnh giữu biển mây, mũi súng chạm trời.
Câu thơ không những gợi độ cao mà còn thể hiện chút gì đó tinh nghịch, hồn
nhiên, hóm hỉnh đầy chất lính. Con đường giờ đây bỗng trở nên xa tít, nhưng chưa hết:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Nhờ thơ đặt dấu phẩy giữa câu thơ hay chăng là 1 dụng ý nghệ thuật, dấu
phẩy ấy khiến cho câu thơ như gập làm đôi để ta hình dung về một con
đường gấp khúc với muôn vàn gian nan trắc trở. Câu thơ được viết với thủ
pháp nghệ thuậ đối lập độc đáo. Con đường như gấp khúc ngàn thước, ngàn
thước… Lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng mặt vì một
bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn. Rõ ràng
thiên nhiên tây bắc rất giữ dội, nó như thử thách lòng quả cảm, ý chí sắt đá
của con người. Người lính Tây Tiến hẳn rất can trường, dũng cảm thì mới
vượt qua những khó khăn ấy. Câu thơ dường như tả cảnh nhưng để tô đậm
tầm vóc ý chí người lính Tây tiến.
Nếu như ba câu thơ trên được gieo nhiều thanh trắc thì câu dưới lại được tạo
nên bởi hàng loạt thanh bằng:
“Nhà ai pha luông mưa xa khơi”
Những người lính Tây tiến đôi lúc dừng chân trên cuộc hành trình. Họ dừng
chân để hướng con mắt nhìn về những ngôi nhà sàn của nhân dân nép mình
trong những triền núi, thung lũng sâu xa. Đâu đó trên đường hành quân,
những người lính nhìn thấy những ngôi nhà sàn hình ảnh ấy dường như mang
lại sự ấm lòng cho những người con nơi chiến trường gian khổ.
Quang Dũng đã miêu tả rất chân thực cuộc hành quân của những người lính.
Dường như những tên đất, tên làng kia đã trở nên quá đỗi thân thuộc với họ.
Để rồi hình ảnh những người lính hiện lên thật ấn tượng.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên sung mũ bỏ quên đời”
Đã từng có người cho rằng, trong hai câu thơ này người lính gục sung mà
ngủ nhưng cũng có ý kiến cho rằng người lính “không bước nữa” ấy là họ hi
sinh. Đặt trong chỉnh thể ta nên hiểu những người lính đã hi sinh. Sự hi sinh
ấy của họ thanh thản, nhẹ nhàng. Với họ chết chỉ là đôi bàn chân không bước
nữa, chết chỉ là chìm sâu vào giấc ngủ. Người lính ở đây hi sinh trong tư thế
hành quân: mũ vẫn trên đầu, sung vẫn cầm trên tay. Dường như ta đã từng
gặp người lính hi sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ:
“Và anh chết khi đang đứng bắn
Máu anh phun như lửa đạn cầu vồng” (Lê Anh Xuân)
Tuy chìm đắm trong tư thế hi sinh đẹp đẽ của những người lính nhưng hình
ảnh cảnh sắc thiên nhiên miền tây bắc vẫn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
Thiên nhiên miền tây được miêu tả qua âm thanh của tiếng tác gầm thét tiếng
cọp trêu người, hai câu thơ gợi sự dữ dội của chốn rừng thiêng nước độc,
thâm sâu cùng cốc. Đặc biệt với những từ láy chỉ thời gian “chiều chiều, đêm
đêm” người đọc dường như thấu hiểu phần nào nỗi khó khăn gian nan vất vả
mà người lính Tây tiến phải trải qua. Thiên nhiên miền tây bắc càng khắc
nghiệt bao nhiêu thì những người lính càng can trường bấy nhiêu. Quang
Dũng đã viết về cuộc hành quân của những người lính tây tiến bằng chính sụ
thấu hiểu của một người từng trải.
“Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Trên đường hành quân người lính nhớ những bữa cơm ấm áp tình đồng đội,
nhớ tới hương vị của tình quân dân. Mùa thơm nếp xôi quấn quýt, vấn vị vào
tâm trí con người. Dường như trong câu thơ của Quang Dũng ta vẫn cảm
nhận được mùi thơm của nếp xôi, kỷ niệm đã qua rồi mà như vẫn còn tươi mới đây thôi.
Hai câu thơ khép lại với hình ảnh núi cao vực thẳm, mùi hương thơm của nếp
xôi vương vấn để mở ra một thời gian khác trong đoạn tiếp theo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo từ bao giờ
Khèn lên mang điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên-chăn xây hồn thơ”
Đêm hội tràn đầy ánh sáng, ánh sáng của những bó đuốc như bông hoa lửa
trong đêm tràn đầy màu sắc, nhộn nhịp, rồn ràng âm thanh của tiếng khèn
man điệu. Nếu như cảnh sắc thiên nhiên miền tây gợi cái heo hút thâm u của
núi rừng thì giờ đây tất cả đã lùi xa. Những người lính được chìm đắm trong
tiếng khèn man điệu, trong những điệu nhạc rộn ràng, tươi vui.
Trong khung cảnh thiên nhiên đất trời ấy, người lính Tây tiến hiện lên với vẻ
đẹp hào hung và hào hoa:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
Đến đây hình ảnh người lính mới được hiện lên một cách trọn vẹn, nhà thơ sử
dụng từ ‘đoàn binh” cùng nhịp thơ chắc khỏe mang đậm hào khí.
Đoàn binh được miêu tả hết sức dị thường: “Tây tiến đoàn binh không mọc
tóc”, bệnh sốt rwts đã làm cho tóc của những người linh không mọc được.
“Quân xanh màu lá” đây có thể hiểu là mày xanh của lá ngụy trang hay bệnh
sốt rét đã làm cho nước da của người lính trở nên xanh xao.
Phải chăng ta nên hiểu đó chính là những di chứng của bệnh sốt rét. Trên
đường hành quân những người lính phải đi qua bao chốn rừng thiêng nước
độc, thử hỏi làm sao họ tránh khỏi căn bệnh sốt rét quái đản kia.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Cái mộng ở đây chính là cái mộng chiến đấu lập công cho đất nước. Từ “Mắt
trùng” gợi ý chí chiến đấu quyết tâm của người lính Tây tiến, khao khát được
xả thân vì từng tấc đất của quê hương tổ quốc… ánh lên khát vọng hoài bão lớn lao của tuổi trẻ.
“Rải rác biên cương mộ viễn xứ”
Giữa lúc thơ ca giai đoạn kháng chiến chống pháp tránh nói về sự hi sinh mất
mát thì Quang Dũng lại nói nhiều về điều đó, bởi chiến tranh nào tránh khỏi
sự mất mát hi sinh. Trong câu thơ trên nhà thơ sử dụng nhiều từ hán việt làm
sang trọng cái chết của người lính. Nơi biên cươi của tổ quốc có biết bao nấm
mồ vô danh. Những người lính tây tiến là những người lính vô danh nhưng
họ đã làm ra đất nước. Chính vì vậy lời thơ không chùng xuống mà hào hung
hơn ở những câu thơ tiếp theo:
“chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Câu thơ nói về cái đẹp trong lý tưởng sống của người lính tây tiến, các anh đã
dâng hiến đời mình không hề tiếc vì khúc khải hoàn ca của đất nước của dân
tộc: “chẳng tiếc” vừa gợi sự ngang tang, khẩu khí, bất cần, câu thơ như một
câu nói cửa miệng của người lính.
Biết bao người đã ra đi, đã sống theo phương châm quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh đó là Vũ Xuân, là Đặng Thùy Trâm:
“chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi 20 làm sao chẳng tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20
Thì làm gì còn tổ quốc”
(Trường ca những người đi tới biển)
Những người lính đã hi sinh vì phương châm ấy, bởi vậy Quang Dũng đã tiễn đưa họ:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Tây tiến gầm lên khúc độc hành”
“áo bào” vốn là chiếc áo quan trọng vua ban cho chiến sĩ ngày xưa khi ra trận.
Thực tế những người lính tây tiến không hề có áo bào bọc thây khi khâm
liệm. Trong hình dung của Quang Dũng, các anh về với đất mẹ trong chiếc áo
sang trọng của tráng sĩ ngày xưa. Hình ảnh áo bào ấy vừa làm sang trọng cái
chết của người lính vừa an ủi những người còn sống. Lời thơ không gợi sự bi
lụy, yếu mềm, đau thương dù là viết về sự hi sinh mất mát. Tiễn đưa người
lính về với đất mẹ thân yêu có tiếng gầm của dòng sông Mã:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nếu như trong văn tế nghĩa sĩ Cần Duộc, văn tế Trương Quỳnh Như là tiếng
khóc của con người dành cho con người thì ở đâu Quang Dũng nói về tiếng
khóc của thiên nhiên. Đây chính là khúc tráng ca anh hùng tử sĩ, một nghi
thức tiễn đưa rất thiêng liêng. Không phải là tiếng khóc của con người mà là
tiếng khóc của thiên nhiên, những gì mà các anh đã làm mãi trường tồn.
Những người lính Tây tiến biết rằng ra đi sẽ chẳng ngày về, sẽ phải đối diện
với con đường thăm thẳm, chia phôi nhưng vẫn đi vì tổ quốc cần họ.
Quang Dũng đã viết về người lính tây tiến với tất cả nỗi nhớ, niềm thương,
sự ngưỡng mộ, sự tự hào xen lẫn niềm xót xa tiếc nuối. Nhà thơ viết bằng bút
pháp hiện thực và lãng mạn nhưng nghiêng nhiều về lãng mạn. Bài thơ độc
đáo trong việc xây dựng hình ảnh, gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp. Tất cả đã
làm sống lại trong lòng người đọc một thời kỳ không thể nào quên của dân
tộc. Đọc Tây tiến ta sẽ thấu hiểu hơn vẻ đẹp của những người lính chống
pháp, hiểu hơn về đất nước ta một thời kỳ trận mạc, hiểu hơn giá trị của hòa
bình của sự mất mát hi sinh để ta trân trọng hơn những ngày tháng được sống
trong độc lập, tự do hôm nay. Bài làm văn mẫu 10
Quang Dũng là một nhà thơ rất đặc biệt, bởi ông không chỉ là một nhà thơ
cầm bút sáng tác mà còn là một người lính cầm súng đánh giặc. Có lẽ bởi vì
vậy mà những bài thơ của Quang Dũng luôn gắn liền với hình ảnh những
người lính, cũng là những người đồng đội của ông. Nổi bật nhất trong các
sáng tác của ông là bài thơ Tây Tiến. Với bút pháp lãng mạn xen lẫn với tả
thực, bài thơ đã khắc họa thật thành công hình ảnh đoàn binh Tây Tiến với
khí thế hiên ngang, tâm hồn thơ mộng trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
Mở đầu bài thơ là tiếng gọi tha thiết với đoàn quân của mình được vang lên
trong tâm thức của nhà thơ:
'Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi."
Nhớ về đồng đội của mình, nhà thơ nhớ ngay đến con sông Mã, nó là con
sông đã cùng những người chiến sĩ đi qua bao khó khăn, thử thách, là chứng
nhân lịch sử cho cuộc chiến đấu anh dũng, oai hùng của các anh. Bởi lẽ, dòng
sông Mã là con sông chảy dọc theo một loạt các địa điểm mà những người
lính hành quân ở vùng biên giới phía Bắc: Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Lạng
Sơn. Mỗi một nơi dừng chân mà người lính đi qua, họ có thể không nhớ hết
nhưng hình ảnh con sông luôn in hằn trong tâm thức của những người chiến
sĩ. Nhớ về sông Mã, nhà thơ cất tiếng gọi thân thương: "Tây Tiến ơi!" Nỗi
nhớ như tràn về, nhà thơ nhớ núi rừng, nhớ những người bạn đồng hành trong
những năm tháng gian lao, một nỗi nhớ chơi vơi không nắm bắt được. Bao
nhiêu kỉ niệm dần hiện lên trong trí nhớ của Quang Dũng:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi."
Nếu ở hai câu thơ đầu, khi kí ức chưa rõ ràng, nhà thơ nhớ về hình ảnh hiện
hữu nhiều nhất là con sông Mã thì ở đây, mọi thứ đã dần hiện ra rõ nét hơn.
Tác giả nhắc lại những tên làng, tên bản, nơi những người chiến sĩ dừng chân.
Đêm xuống, đoàn binh Tây Tiến đã thấm mệt sau cả một ngày dài chinh
chiến. Trong khoảnh khắc dừng chân ngắn ngủi, người lính vẫn cảm nhận
được thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc thật thơ mộng, trữ tình "Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Những chặng đường hành quân khó khăn, gian khổ khiến người lính mỏi mệt
được khắc họa ở các câu thơ tiếp theo:
"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút"
như vẽ lên một khung cảnh thiên nhiên với địa hình hiểm trở, như thách thức
sự chịu đựng của con người. Núi rừng Tây Bắc hoang vu, khó lường với
những khó khăn chồng chất dọc trên đường hành quân của người lính. Nhà
thơ đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập: "Ngàn thước lên
cao" - "Ngàn thước xuống", gợi tả độ cao cũng như độ sâu hiểm hóc, chỉ một
bước sẩy chân cũng có thể để lại hậu quả khôn lường. Nhưng trong khó khăn
ấy, qua con mắt của người lính, ta vẫn thấy có chút gì đó thật thơ mộng "súng
ngửi trời". Đứng trên độ cao có thể nhìn thấy mọi cảnh vật, người lính đánh
mắt nhìn ra phía xa, thấy một căn nhà của bản làng như là nỗi nhớ với quê
hương của mình: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Phải chịu đựng vô vàn những thách thức, đã có lúc người lính gục xuống:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Cụm từ "bỏ quên đời" cho thấy khí thế bất khuất, oai hùng của các anh, trong
phút giây nghỉ chân dọc đường, người lính quên hết mọi âu lo bộn bề của
cuộc sống. Hình ảnh thơ còn ngụ ý nói đến cái chết của những người lính, họ
đã hi sinh vì Tổ quốc nhưng nhà thơ lại miêu tả sự hi sinh ấy thật hiên ngang.
Những tưởng bao khó khăn của người lính chỉ dừng lại ở đó, nhưng Quang
Dũng còn hé lộ thêm cho người đọc những hiểm nguy khác mà đoàn binh
Tây Tiến phải đối mặt:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
"Thác gầm thét" và "cọp trêu người" là hai hình ảnh nhân hóa khắc họa
những hiểm nguy đe dọa tính mạng người lính. Vượt lên nghịch cảnh đó,
người chiến sĩ nhớ đến những gì đã thúc đẩy các anh có động lực để bước tiếp:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
Hai câu thơ cuối của khổ thơ đầu tiên là hình ảnh thơ đầy thi vị. Nỗi nhớ lại
cất thành lời "nhớ ôi" là một nỗi nhớ da diết của người lính, các anh nhớ về
những bữa cơm thơm mùi khói, mùi nếp của những người dân nơi núi rừng
Tây Bắc đã tiếp đón các anh. Dù thiếu thốn nhưng họ vẫn chiêu đãi các anh
bằng những gì chân thành nhất, làm sao quên được những bữa cơm thắm
đượm tình dân - quân chỉ có trong lịch sử.
Khổ thơ thứ hai của bài thơ là những kỉ niệm của người lính trong đêm liên hoan văn nghệ:
"Doanh trại bừng lên ngọn đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ"
Cụm từ "bừng lên" gợi tả một không khí vui tươi, náo nhiệt, những người
chiến sĩ cùng với người dân thắp sáng ngọn đuốc, làm nhà thơ liên tưởng đến
hình ảnh "ngọn đuốc hoa". Câu chữ, lời thơ tình tứ "kìa em" cho thấy cách
xưng hô thân mật, gợi tả tình cảm thắm thiết giữa quân và dân. Người lính
say mê những khúc hát, điệu nhảy của người dân tộc ở nơi đây. Đó là những
khúc hát dân ca Thái, dân ca Lào. Tất cả như xây đắp nên tâm hồn người lính,
khiến cho họ trở nên lãng mạn, bay bổng hơn bao giờ hết. Chất thơ của người
chiến sĩ được thể hiện qua cái nhìn với thiên nhiên ở 4 câu thơ tiếp theo:
"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"
Hình ảnh "người đi" là sự chia tay của người lính với những người dân đã
cưu mang họ, người lính ra đi trong một chiều sương mờ ảo. Trong làn sương
ấy thấp thoáng những hình ảnh "cỏ lau", "dáng người trên độc mộc" và đặc
biệt là hình ảnh "hoa đong đưa". Thiên nhiên hiện lên thật buồn, đó là nỗi
buồn man mác, lưu luyến khi phải chia xa. Người lính phải tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ.
Nhà thơ Quang Dũng miêu tả hình ảnh chân dung người lính Tây Tiến thật
ngang tàn ở khổ thơ cuối:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Chân dung người lính hiện lên thật khác lạ "không mọc tóc". Nhà thơ đã đảo
từ "không" lên phía trước, cách nói "không mọc tóc" chứ không phải "tóc
không mọc" cho thấy tinh thần bất khuất, hiên ngang của người chiến sĩ Tây
Tiến. Quân xanh màu lá ngụ ý chỉ làn da xanh xao của họ. Như vậy, người
lính phải chịu những cơn sốt rét rừng, khiến cho làn da của họ không còn
hồng hào mà trở nên xanh xao, gầy guộc cùng với mái tóc rụng hết. Trong
hiện thực tàn khốc đó, người lính vẫn thản nhiên, ung dung với khí thế ngang
tàn, không thèm mọc tóc.
Nhưng nhà thơ Quang Dũng không chỉ miêu tả chân dung người lính Tây
Tiến mà còn cho thấy tâm hồn của họ:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Người lính nhớ về quê hương tha thiết. Khi nhớ về quê hương, trong tâm
thức của người chiến sĩ hiện ra hình ảnh "dáng kiều thơm", đó có lẽ là hình
ảnh người yêu, người đang mong ngóng ngày họ trở về. Nhưng họ cũng
chẳng rõ ngày mình trở về có được toàn vẹn hay không:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ ...........
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"
Cái chết, sự ra đi vì quê hương, đất nước là minh chứng cho việc các anh đã
chiến đấu hết mình. Ở nơi chiến trường kia, biết bao người lính đã hy sinh
không tiếc tuổi xuân của mình cho dân tộc. Hình ảnh "áo bào thay chiếu" cho
thấy sự tiếc thương của nhà thơ dành cho họ, các anh đã yên tâm về với đất
mẹ thân thương, để được đất mẹ chở che mãi mãi. Chứng kiến chặng đường
của người lính, nay lại chứng kiến cả cái chết của các anh, sông Mã như gầm
lên đau xót, tiếng thét vang lên mang âm hưởng tiếc thương sâu sắc với cuộc
đời còn dài ở phía trước của họ. Nhưng dù có biết trước rằng mình có thể sẽ
hy sinh, người lính Tây Tiến vẫn chẳng thể nào bỏ cuộc, bởi thiên nhiên núi
rừng Tây Bắc đã lấy đi tâm hồn, chiếm được trái tim của các anh mất rồi:
"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi."
Bài thơ Tây Tiến với ba khổ thơ, lần lượt khắc họa những khó khăn, những
khoảnh khắc vui tươi cũng như chân dung và tâm hồn người lính. Qua đó làm
hiện lên cho ta hình ảnh một đoàn binh oai hùng, bất khuất trong thời kì chiến
tranh. Ta thầm cảm ơn những anh hùng ấy vì đã chiến đấu ngoan cường, đem
về cho đất nước nền độc lập như ngày hôm nay.