Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất | Văn mẫu 12

Quang Dũng một trong những nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ, hào hùng. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn nên các bài thơ do ông sáng tác của ông đều để lại nhiều cảm xúc cho người đọc cho đến tận ngày nay. Và “Tây Tiến” là một trong những tác phẩm đặc biệt như vậy. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho quý bạn đọc mẫu bài phân tích Tây Tiến của Quang Dũng chọn lọc hay nhất giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích bài thơ Tây Tiến
Dàn ý chi tiết
1. M bài
Gii thiệu nhà thơ Quang Dũng bài thơ Tây Tiến. (Quang Dũng nhà thơ
vi giọng thơ phóng khoáng, tr trung, tươi mi. Và giọng thơ ấy đưc th hin
rõ trong bài thơ Tây tiến).
2. Thân bài
a. Kh thơ đầu
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nh v rng núi, nh chơi vơi.”
Câu cm thán th hin s tiếc nui ca tác gi v những ngày cùng binh đoàn
Tây Tiến.
“nh chơi vơi”: trơ tri, cô đc, mi nh vô định luôn thưng trc.
T biu cm “ơi” + t láy chơi vơi: âm ng tha thiết, ngân vang mãi trong
lòng ngưi.
Ni nh da diết, trào dâng, tha thiết vang lên bao trùm c không gian và thi
gian.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
ng Lát hoa v trong đêm hơi.”
“Sài Khao, Mường t” những địa danh binh đoàn đặt chân qua gi
nhng k nim v một vùng núi cao, sương m không gian thơ mộng, tr
tình.
“Dc lên khúc khuu dc thăm thm,
….………………………………………
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.”
“khúc khuỷu, thăm thm” gi s him tr, gian nan ca thiên nhiên.
“heo hút cồn mây” gợi độ cao của núi và đ sâu ca dc, vng lng, hoang vu.
‘ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” din t độ gp ghnh, trc tr ca
rng núi giúp bạn đọc hình dung ra khó khăn, gian khổ người chiến Tây
Tiến phi tri qua.
“Pha Luông, a xa khơi” đứng trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tm
mt của ngưi lính Tây Tiến cnh ng xóm Pha Luông m o trong lp
sương vô cùng thơ mng. Đây là món quà xứng đáng cho những ni lc ca
người chiến sĩ.
“Anh bn dãi du không bước na
Gc lên súng mũ b quên đời!”
Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến nản chí, mun buông
xuôi.
S ra đi ca những ngưi đồng đội là niềm đau xót cho những ngưi li.
Những con ngưi dt dào tình cm.
“Chiu chiu oai linh thác gm thét,
Đêm đêm Mưng Hch cọp trêu người.”
Ngưi chiến ngày đêm đi mt vi nguy him luôn nh rập nơi rng thiêng
nước đc.
Bng s hài c, dm các chiến coi nhng nguy hiểm đó ch nhng
tiếng gm thét, nhng s “trêu người” bên tai.
“Nh ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Ngưi chiến sĩ nhớ v ngày mùa Mai Châu: nhng ngày mùa, những gia đình
lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi c những gái nơi
đây.
b. Kh thơ 2
“Doanh tri bng lên hi đuc hoa
….………………………………..
Nhc v Viên Chăn xây hồn thơ.”
“kìa em” va ngc nhiên va say mê, vui sưng.
“man điệu”: nhng gái vi b xiêm y lng ly nhảy múa hát ca đm cht
văn hóa xứ s.
“nàng e ấp”: va e thn va tình tứ, làm duyên trong đêm liên hoan ngp tràn
tiếng hát, tiếng nhc.
V đẹp hào hoa, lãng mn: ngoài nhng lúc chiến đấu, hành quân vt v,
những người lính Tây Tiến hòa nhp cùng cuc sng của người dân nơi họ đi
qua, hết mình vi nhng cuc vui.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
….…………………………………
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
“chiều sương y, no bến bờ”: bui chiều ơng giăng trên sông c, bến b
hư ảo, hoang vu. Nh nhung da diết.
“hoa đong đưa”: làm duyên, tình t trên sông ớc như con ngưi.
Ni nh nhung, vấn vương, quyến luyến ca ngưi ra đi và ngưi li.
c. Kh thơ 3
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu mt gi oai hùm.”
Căn bệnh st rét rng làm cho da của người lính xanh xao, beo bủng như lá cây
rng hết tóc. Tuy nhiên h vn làm ch tình thế, vn oai phong lm lit.
Chính màu xanh đó cũng giúp h ngụy trang để chiến đấu vi quân thù.
“gi oai hùm” hoàn cnh thiếu thn, khc nghiệt như thế nhưng h vn gi
vng tinh thn chiến đu, vn gi nguyên được v oai phong lm lit.
“Mt trng gi mng qua biên gii
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
“mt trừng”: lòng căm thù giặc sâu sc. h s khát khao giành chiến
thng, gi nhng gic mộng đẹp, những ước mơ đp v nơi quê hương yêu dấu
ca mình.
Trái tim ro rực u thương: tuy chiến đấu gian kh nhưng những người lính
vn luôn nh v quê nhà, v nơi người con gái h yêu thương, nhớ
nhung. Ban ngày hết lòng chiến đấu, đêm đến ôm ni nh vào gic mng.
“Rải rác biên cương mồ vin x
Chiến trường đi chẳng tiếc đi xanh”
Nhìn thng vào s tht tàn khc: nhiều người lính đã ngã xuống.
Hnhững ngưi lính tr tui, cuộc đi còn dài tuy nhiên h đã quyết định ra
đi, hi sinh tương lai, tui xuân của mình vì độc lp t do ca t quc.
“Áo bào thay chiếu anh v đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Khi ngưi chiến hi sinh, h ch được bc trong manh chiếu rách đ chôn ct
nhưng sự ra đi vinh quang đó đưc như mc áo long bào th hin s
tôn vinh.
S ra đi đó làm c i sông, đất tri lên tiếng như một li tin biệt đng thi
th hin s phn nỗ, căm hờn trước ti ác ca k thù.
S hi sinh tưởng cao đẹp của người lính đáng tự hào, tôn vinh. H
mang v đẹp lãng mn và bi tráng, hào hùng, lm lit.
d. Kh thơ cuối
“không hẹn ước” ra đi không hẹn ngày tr v, th hin s quyết tâm của ngưi
chiến sĩ.
“Hn v Sm Na chng v xuôi” dành c trái tim cho miền đất Tây Bc.
Hồi ng ca tác gi v ngày ra đi, trong lòng hừng hc khí thế chiến đấu
và tình cm tha thiết, gn bó sâu nng vi chiến trường Tây Bc.
e. Khái quát chung
Ni dung: ca ngi hình ảnh ngưi lính Tây Tiến vi v đẹp o hoa, bi tráng
đáng ngưỡng m.
Ngh thut: th thơ t do, miêu t sáng to, thú vị…
To nên hình ảnh ngưi lính Tây Tiến đa màu sắc nhưng cũng vô cùng chân
thc.
3. Kết bài
Khẳng định li giá tr của bài thơ: Tây Tiến đã để li nhiu ấn tượng sâu sc
trong lòng bạn đọc, nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vn gi nguyên giá
tr đẹp đẽ ca nó và góp phần làm phong phú kho tàng văn hc Vit Nam.
Bài mẫu phân tích bài thơ Tây Tiến
Hình ảnh người lính là đề tài quen thuộc khơi nguồn cm hứng cho các nhà văn,
nhà thơ. Quang Dũng cũng mt tác gi đóng góp quan trọng cho thơ văn
ca ch đề này qua bài thơ Tây Tiến. Bài thơ chứa đựng nhng giá trị, ý nghĩa
sâu xa, đc sc.
Tây Tiến đơn vị b đội thành lập năm 1947 nhiệm v phi hp vi b đội
Lào bo v biên gii Vit Lào, địa bàn hoạt động sut min núi Tây Bc t
Châu Mai, Châu Mc sang Sm Na cho ti min Tây Thanh Hoá. Cuối năm
1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, bài thơ những hồi tưởng ca
ông v thi kì huy hoàng của binh đoàn. Mở đầu bài thơ là nỗi nh v ngày xưa
cũ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nh v rng núi, nh chơi vơi.”
Câu cm thán th hin s tiếc nui ca tác gi v những ngày cùng binh đoàn
Tây Tiến hoạt động, chiến đấu nay đã trôi xa chỉ còn li c ni nh. Ni
nh ấy đưc khc ha bng t láy “chơi vơi”. Đó nỗi nh lênh đênh, định
nhưng luôn thường trc trong lòng người chiến sĩ. Không chỉ nh những người
đồng chí, đồng đội, anh còn nh c rng núi, nhiên nhiên, những nơi mình đã
đặt chân qua. Tt c luôn thường trc trong c, da diết, ngân vang bao trùm
c không gian và thi gian.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
ng Lát hoa v trong đêm hơi.”
“Sài Khao” nơi đoàn quân mỏi n trong lớp sương mờ dày đặc để đi đến
chiến trưng; ờng Lát” gn vi những đêm ẩm ướt đọng đầy hơi c
hương hoa. Đó những địa danh binh đoàn đi gi nhng k nim v mt
vùng núi cao, sương mờ, không gian tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng cũng
cùng thơ mng, tr tình.
“Dc lên khúc khuu dc thăm thm,
….………………………………………
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.”
T láy “khúc khuỷu, thăm thm” gi s him tr của thiên nhiên. Đưng hành
quân ca người chiến không những dài còn gp ghnh, khúc khuu, sâu
hun hút cht cha nhiu nguy him. Bên cạnh đó, ngưi lính còn phi vượt qua
nhng ngn núi cao, dc sâu vng lng, hoang vu cảm giác mũi súng chạm đến
tn tri xanh; c thế, lên cao li xung thp vô cùng khó khăn, gian kh.
Tuy nhiên, sau nhng gian kh đó, người chiến lại nhn v phần thưng
xứng đáng đó hình nh “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đứng trên cao
phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tm mt ca mình cnh làng xóm Pha Luông
m o trong lớp ơng cùng thơ mộng hiếm nơi nào được. Tuy nhiên,
bên cnh v đẹp, sư phn chấn đó cũng là những ni bun sâu thm:
“Anh bn dãi du không bước na
Gc lên súng mũ b quên đời!”
Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến nản chí, mun buông
xuôi. c s ra đi, hi sinh của những người đồng chí giống như anh em ruột
tht của mình càng làm cho người lính Tây Tiến đau xót. Cùng nhau chung
sng, chiến đấu thế nhưng lại người người đi thử hi sao không khi
bun rầu? Nhưng không thế ngưi chiến buông xuôi, đó minh
chng cho tm lòng dt dào tình cm yêu thương của h.
“Chiu chiu oai linh thác gm thét,
Đêm đêm Mưng Hch cọp trêu người.”
T láy “chiều chiều, đêm đêm” gi tn suất thường xuyên, liên tc ca nhng
gian khó. Ngưi chiến luôn phải đối mt vi nguy him rình rập nơi rừng
thiêng nước độc bng tiếng cp, bng thác d th p đi sinh mng ca h
bt c lúc nào. Tuy nhiên, h chọn cách đối mt vi chng bng s dí dm, hài
hước bằng cách coi như đó những lời trêu đùa bên tai để c gng, vng tin
chiến đấu.
Không ch nh v khó khăn, gian khổ, người lính y Tiến còn nh v nhng
k niệm cùng người dân vùng đất nơi mình đi qua:
“Nh ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Ngưi chiến sĩ nh v ngày mùa Mai Châu, nhng gia đình lên khói nấu cơm
đầu mùa, nhng hương vị nếp xôi ca và c những cô gái nơi đây. Tt c đều
nhng k niệm vô cùng đẹp đẽ, đáng yêu, đáng trân quý.
“Doanh tri bng lên hi đuc hoa
….………………………………..
Nhc v Viên Chăn xây hồn thơ.”
Ngưi chiến còn nh v những đêm liên hoan đầy nim vui, nhiu màu sc
ca doanh tri. Trong đêm tối bp bùng ngn la khuya, nhng tiếng ời đùa,
ca hát. Trước v đẹp ca những người con gái nơi đây, những anh chiến đã
phi tht lên: “kìa em” va th hin s ngc nhiên li va say mê, vui sướng.
Nhng gái vi b xiêm y lng ly nhảy múa hát ca đm chất văn hóa x s
nhưng cũng rất e thn, tình t. th thấy, ngưi lính Tây Tiến không ch anh
dũng chiến đấu mà còn biết cm nhn v đẹp ca cuc sng, của con người.
Sau đêm liên hoan vui vẻ, người chiến sĩ lại tiếp tc ra đi, hành quân chiến đấu:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
….…………………………………
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
S ra đi của người lính để lại cho người dân s tiếc nui, nh thương da diết.
ni nh ấy cũng luôn thường trực trong trái tim người ra đi. Đó buổi
chiu ơng giăng trên sông c, bến b o, hoang vu vi nhng cánh hoa
trôi lng l làm duyên, tình t như con người.
Bên cnh v anh dũng, mạnh m, những người lính của binh đoàn Tây Tiến
cũng những con người tình cm, lãng mn, biết yêu thương tận hưởng
niềm vui, cái đẹp ca cuc sống. Đây mt khía cạnh cùng đc bit, khác
bit của người lính Tây Tiến vi những ngưi lính khác, của phong thái thơ
Quang Dũng vi những nhà thơ khác. Chính sự khác bit này làm nên giá tr
đặc biệt cho bài thơ.
Quay tr li chiến trường, người lính Tây Tiến li tiế tục đối mt vi nhng
khó khăn, gian khổ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu mt gi oai hùm.”
Căn bệnh st rét rng làm cho da của người lính xanh xao, beo bủng như lá cây
rng hết tóc. Tuy nhiên h vn làm ch nh thế, oai phong lm lit. Chính
màu xanh đó cũng giúp h ngụy trang để chiến đấu vi quân thù làm nên
nhiu chiến công vang di. Hoàn cnh thiếu thn, khc nghiệt như thế nhưng
h vn gi vng tinh thn chiến đấu, ý chí kiên cưng.
Ngưi lính Tây Tiến cũng là những thanh niên dt dào tình cm:
“Mt trng gi mng qua biên gii
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Vi quân giặc, ngưi lính Tây Tiến nhìn h bng ánh mt, bng lòng căm thù
sâu sc. h s khát khao giành chiến thắng để được tr v quê nhà, h
luôn gi nhng gic mộng đẹp, những ước đp nht v nơi yêu dấu ca
mình. Nhng chàng trai y luôn sng vi trái tim ro rc: tuy chiến đấu gian
kh nhưng họ vn luôn nh v quê hương, v nơi có người con gái h yêu
thương đang chờ h tr v. Ban ngày hết lòng chiến đấu, đêm đến ôm ni nh
vào gic mng.
“Rải rác biên cương mồ vin x
Chiến trường đi chẳng tiếc đi xanh”
người lính Tây Tiến là s đan xen giữa cht bi tráng và lãng mn gia ý thc
thc tế suy nghĩ mộng mơ. Họ vn nhìn nhn thng vào vấn đề, v s tht
tàn khc xảy ra trước mt họ, đó sự hi sinh ca những người đồng đội. Tuy
nhiên, s mất mát đó không làm nản chí ngưi chiến sĩ, h những người tr
tuổi nhưng rất kiên cường, dũng cm, dám hi sinh c tui tr, thanh xuân
tương lai của mình cho s nghip gii phóng dân tc.
Áo bào thay chiếu anh v đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Khi ngưi chiến nằm xung, h ch đưc bc trong manh chiếu rách đ chôn
cất nhưng sự ra đi vì vinh quang đó được ví như mặc áo long bào đy oai hùng.
H hi sinh vì lí tưởng cao đẹp trong tư thế ngẩng cao đầu, hãnh din. Giọng thơ
th hin s tôn vinh, kính trong đối với người ra đi. Cả núi sông, đất tri lên
tiếng như một li tin biệt đồng thi th hin s phn nỗ, căm hờn trưc ti ác
ca k thù.
Quang Dũng đã khc ha thành công v đẹp bi tráng của người chiến trong
đoạn thơ này làm chúng ta thêm yêu mến, cm phc thu hiểu hơn v h.
h tn ti song song hòa hp gia v đẹp hào hoa lãng mng v đẹp bi
tráng to nên mt cht rt riêng, rất thơ không ln vi bt c ngưi lính nào.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
….……………………………….
Hn v Sm Na chng v xuôi.”
Một khi ngưi chiến sĩ ra đi thì không hẹn ngày tr v th hin s quyết tâm
ca h. H s tr v nhưng khi đất nước sch bóng quân thù. Những ngưi
cùng ra đi vào năm y, cùng chiến đấu trong binh đoàn y là những người cùng
ý chí, quyết tâm, linh hn h luôn ng v chiến trường, v độc lp. Bn câu
thơ là sự hồi tưởng ca tác gi v ngày ra đi, trong lòng hng hc khí thế chiến
đấu và tình cm tha thiết, gn bó sâu nng vi chiến trường Tây Bc.
Bài thơ không ch khc ha thành công v đẹp hào hoa, bi tráng của ngưi lính
Tây Tiến còn mang đến cho bn đọc cách nhìn mi m v những con người
này. Bng th thơ tự do, nhng miêu t sáng to, thú v, giọng điệu hài hước,
vui tươi, nhà thơ đã làm nên một tác phẩm giàu ý nghĩa và đậm tính nhân văn.
Tây Tiến đã mang đến mt màu sc khác l góp phn làm phong phú kho tàng
thơ văn Việt Nam. Nhiều năm tháng qua đi những tác phm vn gi nguyên
vn giá tr ban đầu ca để li ấn ng sâu sc trong lòng nhiu thế h
bạn đọc.
| 1/9

Preview text:

Phân tích bài thơ Tây Tiến Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
Giới thiệu nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến. (Quang Dũng là nhà thơ
với giọng thơ phóng khoáng, trẻ trung, tươi mới. Và giọng thơ ấy được thể hiện
rõ trong bài thơ Tây tiến). 2. Thân bài a. Khổ thơ đầu
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Câu cảm thán thể hiện sự tiếc nuối của tác giả về những ngày cùng binh đoàn Tây Tiến.
“nhớ chơi vơi”: trơ trọi, cô độc, mỗi nhớ vô định luôn thường trực.
Từ biểu cảm “ơi” + từ láy chơi vơi: âm hưởng tha thiết, ngân vang mãi trong lòng người.
→ Nỗi nhớ da diết, trào dâng, tha thiết vang lên bao trùm cả không gian và thời gian.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
“Sài Khao, Mường Lát” là những địa danh mà binh đoàn đặt chân qua gợi
những kỉ niệm về một vùng núi cao, sương mờ → không gian thơ mộng, trữ tình.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
….………………………………………
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.”
“khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở, gian nan của thiên nhiên.
“heo hút cồn mây” gợi độ cao của núi và độ sâu của dốc, vắng lặng, hoang vu.
‘ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” diễn tả độ gập ghềnh, trắc trở của
rừng núi giúp bạn đọc hình dung ra khó khăn, gian khổ mà người chiến sĩ Tây Tiến phải trải qua.
“Pha Luông, mưa xa khơi” đứng ở trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm
mắt của người lính Tây Tiến là cảnh làng xóm Pha Luông mờ ảo trong lớp
sương vô cùng thơ mộng. → Đây là món quà xứng đáng cho những nỗi lực của người chiến sĩ.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông xuôi.
Sự ra đi của những người đồng đội là niềm đau xót cho những người ở lại.
→ Những con người dạt dào tình cảm.
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
Người chiến sĩ ngày đêm đối mặt với nguy hiểm luôn rình rập nơi rừng thiêng nước độc.
Bằng sự hài hước, dí dỏm các chiến sĩ coi những nguy hiểm đó là chỉ là những
tiếng gầm thét, những sự “trêu người” bên tai.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Người chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu: những ngày mùa, những gia đình
lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi và cả những cô gái nơi đây. b. Khổ thơ 2
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
….………………………………..
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”
“kìa em” vừa ngạc nhiên vừa say mê, vui sướng.
“man điệu”: những cô gái với bộ xiêm y lộng lẫy nhảy múa hát ca đậm chất văn hóa xứ sở.
“nàng e ấp”: vừa e thẹn vừa tình tứ, làm duyên trong đêm liên hoan ngập tràn tiếng hát, tiếng nhạc.
→ Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn: ngoài những lúc chiến đấu, hành quân vất vả,
những người lính Tây Tiến hòa nhập cùng cuộc sống của người dân nơi họ đi
qua, hết mình với những cuộc vui.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
….…………………………………
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”
“chiều sương ấy, nẻo bến bờ”: buổi chiều sương giăng trên sông nước, bến bờ
hư ảo, hoang vu. → Nhớ nhung da diết.
“hoa đong đưa”: làm duyên, tình tứ trên sông nước như con người.
→ Nỗi nhớ nhung, vấn vương, quyến luyến của người ra đi và người ở lại. c. Khổ thơ 3
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu mắt giữ oai hùm.”
Căn bệnh sốt rét rừng làm cho da của người lính xanh xao, beo bủng như lá cây
và rụng hết tóc. Tuy nhiên họ vẫn làm chủ tình thế, vẫn oai phong lẫm liệt.
Chính màu xanh đó cũng giúp họ ngụy trang để chiến đấu với quân thù.
“giữ oai hùm” hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt như thế nhưng họ vẫn giữ
vững tinh thần chiến đấu, vẫn giữ nguyên được vẻ oai phong lẫm liệt.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
“mắt trừng”: lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ là sự khát khao giành chiến
thắng, gửi những giấc mộng đẹp, những ước mơ đẹp về nơi quê hương yêu dấu của mình.
Trái tim rạo rực yêu thương: tuy chiến đấu gian khổ nhưng những người lính
vẫn luôn nhớ về quê nhà, về nơi có người con gái mà họ yêu thương, nhớ
nhung. Ban ngày hết lòng chiến đấu, đêm đến ôm nỗi nhớ vào giấc mộng.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Nhìn thẳng vào sự thật tàn khốc: nhiều người lính đã ngã xuống.
Họ là những người lính trẻ tuổi, cuộc đời còn dài tuy nhiên họ đã quyết định ra
đi, hi sinh tương lai, tuổi xuân của mình vì độc lập tự do của tổ quốc.
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Khi người chiến sĩ hi sinh, họ chỉ được bọc trong manh chiếu rách để chôn cất
nhưng sự ra đi vì vinh quang đó được ví như mặc áo long bào → thể hiện sự tôn vinh.
Sự ra đi đó làm cả núi sông, đất trời lên tiếng như một lời tiễn biệt đồng thời
thể hiện sự phẫn nỗ, căm hờn trước tội ác của kẻ thù.
→ Sự hi sinh vì lí tưởng cao đẹp của người lính đáng tự hào, tôn vinh. Họ
mang vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, hào hùng, lẫm liệt. d. Khổ thơ cuối
“không hẹn ước” ra đi không hẹn ngày trở về, thể hiện sự quyết tâm của người chiến sĩ.
“Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi” dành cả trái tim cho miền đất Tây Bắc.
→ Hồi tưởng của tác giả về ngày ra đi, trong lòng hừng hực khí thế chiến đấu
và tình cảm tha thiết, gắn bó sâu nặng với chiến trường Tây Bắc. e. Khái quát chung
Nội dung: ca ngợi hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, bi tráng đáng ngưỡng mộ.
Nghệ thuật: thể thơ tự do, miêu tả sáng tạo, thú vị…
→ Tạo nên hình ảnh người lính Tây Tiến đa màu sắc nhưng cũng vô cùng chân thực. 3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị của bài thơ: Tây Tiến đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc
trong lòng bạn đọc, nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá
trị đẹp đẽ của nó và góp phần làm phong phú kho tàng văn học Việt Nam.
Bài mẫu phân tích bài thơ Tây Tiến
Hình ảnh người lính là đề tài quen thuộc khơi nguồn cảm hứng cho các nhà văn,
nhà thơ. Quang Dũng cũng là một tác giả có đóng góp quan trọng cho thơ văn
của chủ đề này qua bài thơ Tây Tiến. Bài thơ chứa đựng những giá trị, ý nghĩa sâu xa, đặc sắc.
Tây Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ
Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Cuối năm
1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, bài thơ là những hồi tưởng của
ông về thời kì huy hoàng của binh đoàn. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ về ngày xưa cũ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Câu cảm thán thể hiện sự tiếc nuối của tác giả về những ngày cùng binh đoàn
Tây Tiến hoạt động, chiến đấu nay đã trôi xa chỉ còn lại kí ức và nỗi nhớ. Nỗi
nhớ ấy được khắc họa bằng từ láy “chơi vơi”. Đó là nỗi nhớ lênh đênh, vô định
nhưng luôn thường trực trong lòng người chiến sĩ. Không chỉ nhớ những người
đồng chí, đồng đội, anh còn nhớ cả rừng núi, nhiên nhiên, những nơi mình đã
đặt chân qua. Tất cả luôn thường trực trong kí ức, da diết, ngân vang bao trùm
cả không gian và thời gian.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
“Sài Khao” là nơi đoàn quân mỏi mòn trong lớp sương mờ dày đặc để đi đến
chiến trường; Mường Lát” gắn với những đêm ẩm ướt đọng đầy hơi nước và
hương hoa. Đó là những địa danh mà binh đoàn đi gợi những kỉ niệm về một
vùng núi cao, sương mờ, không gian tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng cũng vô
cùng thơ mộng, trữ tình.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
….………………………………………
Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.”
Từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở của thiên nhiên. Đường hành
quân của người chiến sĩ không những dài mà còn gập ghềnh, khúc khuỷu, sâu
hun hút chất chứa nhiều nguy hiểm. Bên cạnh đó, người lính còn phải vượt qua
những ngọn núi cao, dốc sâu vắng lặng, hoang vu cảm giác mũi súng chạm đến
tận trời xanh; cứ thế, lên cao lại xuống thấp vô cùng khó khăn, gian khổ.
Tuy nhiên, sau những gian khổ đó, người chiến sĩ lại nhận về phần thưởng
xứng đáng đó là hình ảnh “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đứng ở trên cao
phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm mắt của mình là cảnh làng xóm Pha Luông
mờ ảo trong lớp sương vô cùng thơ mộng hiếm nơi nào có được. Tuy nhiên,
bên cạnh vẻ đẹp, sư phấn chấn đó cũng là những nỗi buồn sâu thẳm:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông
xuôi. Và cả sự ra đi, hi sinh của những người đồng chí giống như anh em ruột
thịt của mình càng làm cho người lính Tây Tiến đau xót. Cùng nhau chung
sống, chiến đấu là thế nhưng lại có người ở người đi thử hỏi sao không khỏi
buồn rầu? Nhưng không vì thế mà người chiến sĩ buông xuôi, mà đó là minh
chứng cho tấm lòng dạt dào tình cảm yêu thương của họ.
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”
Từ láy “chiều chiều, đêm đêm” gợi tần suất thường xuyên, liên tục của những
gian khó. Người chiến sĩ luôn phải đối mặt với nguy hiểm rình rập nơi rừng
thiêng nước độc bằng tiếng cọp, bằng thác dữ có thể cướp đi sinh mạng của họ
bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, họ chọn cách đối mặt với chứng bằng sự dí dỏm, hài
hước bằng cách coi như đó là những lời trêu đùa bên tai để cố gắng, vững tin chiến đấu.
Không chỉ nhớ về khó khăn, gian khổ, người lính Tây Tiến còn nhớ về những
kỉ niệm cùng người dân ở vùng đất nơi mình đi qua:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Người chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu, những gia đình lên khói nấu cơm
đầu mùa, những hương vị nếp xôi của và cả những cô gái nơi đây. Tất cả đều là
những kỉ niệm vô cùng đẹp đẽ, đáng yêu, đáng trân quý.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
….………………………………..
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.”
Người chiến sĩ còn nhớ về những đêm liên hoan đầy niềm vui, nhiều màu sắc
của doanh trại. Trong đêm tối bập bùng ngọn lửa khuya, những tiếng cười đùa,
ca hát. Trước vẻ đẹp của những người con gái nơi đây, những anh chiến sĩ đã
phải thốt lên: “kìa em” vừa thể hiện sự ngạc nhiên lại vừa say mê, vui sướng.
Những cô gái với bộ xiêm y lộng lẫy nhảy múa hát ca đậm chất văn hóa xứ sở
nhưng cũng rất e thẹn, tình tứ. Có thể thấy, người lính Tây Tiến không chỉ anh
dũng chiến đấu mà còn biết cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống, của con người.
Sau đêm liên hoan vui vẻ, người chiến sĩ lại tiếp tục ra đi, hành quân chiến đấu:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
….…………………………………
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”
Sự ra đi của người lính để lại cho người dân sự tiếc nuối, nhớ thương da diết.
Và nỗi nhớ ấy cũng luôn thường trực trong trái tim người ra đi. Đó là buổi
chiều sương giăng trên sông nước, bến bờ hư ảo, hoang vu với những cánh hoa
trôi lững lờ làm duyên, tình tứ như con người.
Bên cạnh vẻ anh dũng, mạnh mẽ, những người lính của binh đoàn Tây Tiến
cũng là những con người tình cảm, lãng mạn, biết yêu thương và tận hưởng
niềm vui, cái đẹp của cuộc sống. Đây là một khía cạnh vô cùng đặc biệt, khác
biệt của người lính Tây Tiến với những người lính khác, của phong thái thơ
Quang Dũng với những nhà thơ khác. Chính sự khác biệt này làm nên giá trị đặc biệt cho bài thơ.
Quay trở lại chiến trường, người lính Tây Tiến lại tiế tục đối mặt với những khó khăn, gian khổ:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu mắt giữ oai hùm.”
Căn bệnh sốt rét rừng làm cho da của người lính xanh xao, beo bủng như lá cây
và rụng hết tóc. Tuy nhiên họ vẫn làm chủ tình thế, oai phong lẫm liệt. Chính
màu xanh đó cũng giúp họ ngụy trang để chiến đấu với quân thù và làm nên
nhiều chiến công vang dội. Hoàn cảnh thiếu thốn, khắc nghiệt như thế nhưng
họ vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu, ý chí kiên cường.
Người lính Tây Tiến cũng là những thanh niên dạt dào tình cảm:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Với quân giặc, người lính Tây Tiến nhìn họ bằng ánh mắt, bằng lòng căm thù
sâu sắc. Ở họ là sự khát khao giành chiến thắng để được trở về quê nhà, họ
luôn gửi những giấc mộng đẹp, những ước mơ đẹp nhất về nơi yêu dấu của
mình. Những chàng trai ấy luôn sống với trái tim rạo rực: tuy chiến đấu gian
khổ nhưng họ vẫn luôn nhớ về quê hương, về nơi có người con gái mà họ yêu
thương đang chờ họ trở về. Ban ngày hết lòng chiến đấu, đêm đến ôm nỗi nhớ vào giấc mộng.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Ở người lính Tây Tiến là sự đan xen giữa chất bi tráng và lãng mạn giữa ý thức
thực tế và suy nghĩ mộng mơ. Họ vẫn nhìn nhận thẳng vào vấn đề, về sự thật
tàn khốc xảy ra trước mắt họ, đó là sự hi sinh của những người đồng đội. Tuy
nhiên, sự mất mát đó không làm nản chí người chiến sĩ, họ là những người trẻ
tuổi nhưng rất kiên cường, dũng cảm, dám hi sinh cả tuổi trẻ, thanh xuân và
tương lai của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Khi người chiến sĩ nằm xuống, họ chỉ được bọc trong manh chiếu rách để chôn
cất nhưng sự ra đi vì vinh quang đó được ví như mặc áo long bào đầy oai hùng.
Họ hi sinh vì lí tưởng cao đẹp trong tư thế ngẩng cao đầu, hãnh diện. Giọng thơ
thể hiện sự tôn vinh, kính trong đối với người ra đi. Cả núi sông, đất trời lên
tiếng như một lời tiễn biệt đồng thời thể hiện sự phẫn nỗ, căm hờn trước tội ác của kẻ thù.
Quang Dũng đã khắc họa thành công vẻ đẹp bi tráng của người chiến sĩ trong
đoạn thơ này làm chúng ta thêm yêu mến, cảm phục và thấu hiểu hơn về họ. Ở
họ tồn tại song song và hòa hợp giữa vẻ đẹp hào hoa lãng mạng và vẻ đẹp bi
tráng tạo nên một chất rất riêng, rất thơ không lẫn với bất cứ người lính nào.
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
….……………………………….
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Một khi người chiến sĩ ra đi thì không hẹn ngày trở về thể hiện sự quyết tâm
của họ. Họ sẽ trở về nhưng là khi đất nước sạch bóng quân thù. Những người
cùng ra đi vào năm ấy, cùng chiến đấu trong binh đoàn ấy là những người cùng
ý chí, quyết tâm, linh hồn họ luôn hướng về chiến trường, về độc lập. Bốn câu
thơ là sự hồi tưởng của tác giả về ngày ra đi, trong lòng hừng hực khí thế chiến
đấu và tình cảm tha thiết, gắn bó sâu nặng với chiến trường Tây Bắc.
Bài thơ không chỉ khắc họa thành công vẻ đẹp hào hoa, bi tráng của người lính
Tây Tiến mà còn mang đến cho bạn đọc cách nhìn mới mẻ về những con người
này. Bằng thể thơ tự do, những miêu tả sáng tạo, thú vị, giọng điệu hài hước,
vui tươi, nhà thơ đã làm nên một tác phẩm giàu ý nghĩa và đậm tính nhân văn.
Tây Tiến đã mang đến một màu sắc khác lạ góp phần làm phong phú kho tàng
thơ văn Việt Nam. Nhiều năm tháng qua đi những tác phẩm vẫn giữ nguyên
vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.