



Preview text:
PHÂN TÍCH THU ĐIẾU CỦA NGUYỄN KHUYẾN
Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Mùa thu
thường gợi cho ta nghĩ đến một vẻ đẹp dịu dàng, êm ả, một nỗi buồn man mác hay
một nỗi niềm tha thiết. Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, đã nhắc đến
mùa thu thì không thể không kể đến chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến,
trong đó đặc sắc nhất là bài Thu điếu. Nhận xét về bài thơ này, Xuân Diệu đã từng
viết: “Bài thơ Thu vịnh là có thần hơn hết, nhưng ta vẫn phải nhận bài Thu điếu là
điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Không phải là Thu vịnh
với không gian mênh mông bát ngát mà là Thu điếu được gói gọn trong một cái ao
thu và đằng sau cảnh thu vắng lặng là nỗi niềm sâu kín của nhà thơ:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo ….
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835 mất năm 1909, quê ở Hà Nam. Ông xuất
thân trong một gia đình nhà nho nghèo. Do đỗ đầu cả ba kì thi nên Nguyễn Khuyến
được gọi là Tam Nguyên Yên Đỗ. Phần lớn cuộc đời ông là dạy học và sống thanh
bạch ở quê nhà. Nguyễn Khuyến là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm
lòng yêu nước thương dân. Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ
Nôm với số lượng lớn nhưng chủ yếu là thơ. Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu
quê hương, đất nước, gia đình, bè bạn; phản ánh cuộc sống của những con người
khổ cực, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược đồng thời bộc lộ tấm
lòng ưu ái với dân với nước. Thu điếu nằm trong chùm ba bài thơ thu: Thu vịnh,
Thu ẩm, Thu điếu được viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê
nhà. Thu điếu là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh đẹp mùa thu quê hương,
tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.
Thu điếu được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bố cục gồm 4 phần:
đề, thực, luận, kết. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên
trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút tài tình của Nguyễn Khuyến.
Bối cảnh toàn bài dường như hiện hữu trong hai câu đề. Khung cảnh của
bức tranh thu được bao trùm bởi cái lạnh lẽo của mùa thu và sự cô đơn trong lòng thi sĩ:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.
Ấn tượng đầu tiên của người đọc với hai câu đầu có lẽ là việc gieo vần “eo” đầy
đặc sắc, tinh tế và có phần mạo hiểm vì đây là vần chết trong thơ ca. Nó gợi cho ta
cảm giác không gian mỗi lúc một thu hẹp, yên tĩnh, lạnh lẽo lạ thường. Với điểm
nhìn từ gần đến xa, hình ảnh ao thu đặc trưng của vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc
Bộ hiện lên cùng với chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu “lạnh lẽo”.
Từ láy “lạnh lẽo” cho thấy bầu không khí lạnh đượm vẻ hiu hắt còn “ trong veo”
gợi tả sự trong xanh, tĩnh lặng. Tưởng chừng như trên ao thu lạnh lẽo trong veo
mọi vật sẽ không xuất hiện nhưng thật bất ngờ, có “một chiếc thuyền câu bé tẻo
teo” xuất hiện. Nghệ thuật tăng tiến làm cho chiếc thuyền câu nhỏ bé thật xinh xắn trên ao thu.
Hai câu thực là những nét vẽ làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”.
Mùa thu tiếp tục hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. “Sóng biếc” có màu
xanh trong như ngọc, dường như có một sự hoà hợp giữa độ trong veo của nước và
màu xanh của trời thu trong vắt. Còn “lá vàng” là hình ảnh và màu sắc đặc trưng
của mùa thu Việt Nam. Mỗi độ thu về, cây ngả vàng thay lá và rời cành tạo nên
một không gian thơ mộng. Hình ảnh lá vàng đã xuất hiện rất nhiều trong các tác
phẩm của văn nhân thi sĩ. Nhà thơ Lưu Trọng Lư cũng đã từng đưa hình ảnh lá
vàng vào tác phẩm của mình:
“ Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.”
Cảnh vật biến động một cách khẽ khàng. Sóng chuyển động nhẹ, vừa phải “hơi
gợn tí”. Lá thì “khẽ đưa vèo” , chuyển động nhanh, vút qua một cách nhẹ nhàng.
Với sự cảm nhận tinh tế và nghệ thuật “lấy động tả tĩnh” đã khiến cái tình nay càng
tĩnh hơn, tăng sự đượm buồn cho bức tranh thu. Nguyễn Khuyến quả là một người
có tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc mới có thể cảm nhận được
những biến đổi tinh vi như thế. Qua hai câu thực, người đọc đã cảm nhận được một
mùa thu miền Bắc rất riêng, rất đẹp. Đó là mùa thu làng quê yên bình được gợi lên
từ những hình ảnh bình dị nhất, là “cái hồn dân dã” của một nhà thơ nhân dân.
Đến hai câu luận, với điểm nhìn từ xa đến gần, không gian như được mở
rộng ra về chiều cao và chiều sâu:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.”
Hình ảnh “tầng mây lơ lửng” gợi độ dày và chiều sâu, lơ lửng là trạng thái di
chuyển nhẹ, ở khoảng lưng chửng. Còn “ trời xanh ngắt” khắc hoạ sắc xanh của
mùa thu, gợi nên một bầu trời cao và rộng hơn. Ngoài ra, hình ảnh làng quê VN
còn được hiện lên với “ngõ trúc quanh co” uốn khúc, “khách vắng teo” không tiếng
động, không một bóng người. Cách gieo vần “eo” một lần nữa gợi cảm giác heo
hút, cô đơn, gợi một không gian thanh vắng, yên ả. Tất cả tạo nên cảnh thu tĩnh
lặng, buồn cô tịch, hiu hắt trong hai câu luận.
Xuyên suốt sáu câu thơ đầu, tác giả đã cho ta thấy bức tranh thu với điểm
nhìn từ gần đến xa và từ xa về gần. Đến hai câu kết, tác giả kết thúc bài thơ bằng
sự xuất hiện của con người câu cá trong không gian thu tĩnh lặng với tư thế “tựa gối buông cần”:
“Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”
Hình ảnh người thi sĩ xuất hiện với tư thế tựa gối, trong trạng thái trầm tư mặc
tưởng. Nhà thơ ngồi câu cá nhưng thật ra chẳng hề quan tâm đến việc câu cá nên
mới “buông cần” để ngắm cảnh thu và chờ đợi cá cắn câu “lâu chẳng được”. Toàn
bài thơ là một không gian tĩnh lặng đến câu cuối mới xuất hiện tiếng động-tiếng cá
“đớp động dưới chân bèo”. Không gian phải yên tĩnh lắm, lòng người phải trong
trẻo lắm mới nghe được âm thanh nhỏ nhẹ như vậy. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên
từ một cái "động" rất nhỏ. Đây là nghệ thuật lấy "động" tả "tĩnh", một thủ pháp
nghệ thuật gợi tả quen thuộc của thơ trung đại. Nói câu cá nhưng thật ra không
phải bàn chuyện câu cá mà đang suy tư về thời thế. Tuy thi nhân quay lưng với
triều đình, chọn cách quy ẩn để phản đối chính quyền thối nát, tuy thi nhân nhàn
nhã với cuộc sống nhàn tản nhưng thực tế trong lòng khát khao được làm điều gì
đó “động”, làm điều gì đó để thay đổi cục diện bức bối này, để đất nước tươi đẹp,
nhân dân khỏi lầm than . Bản thân nhà thơ luôn bế tắc, mệt mỏi. Hai câu cuối thể
hiện tâm trạng sâu lắng, nỗi lòng canh cánh ẩn dấu bên trong dáng vẻ ung dung, tự
tại của nhân vật trữ tình. Lòng người quạnh hiu chẳng cớ nào cảnh lại tươi vui, nhộn nhịp:
“ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.”
Bằng bút pháp thuỷ mặc và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh phong
cảnh cùng với việc vận dụng tài tình nghệ thuật đối, nghệ thuật lấy động tả tĩnh,
cách gieo vần “eo” hết sức thành công, Nguyễn Khuyến đã tái hiện lại bức tranh
làng quê vô cùng sinh động, gần gũi nhưng man mác buồn. Một tâm thế an nhàn và
thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, đất nước. Đồng thời, Thu điếu còn để lại
trong ta bài học quý giá bao đời nay. Lòng tự tôn dân tộc không cho phép ta đầu
hàng trước kẻ địch. Hãy như Nguyễn Khuyến, không ham hư vinh chốn quan
trường mục nát, không vì vài chức vụ mà bán rẻ lương tâm, bán rẻ đồng bào. Thế
hệ thanh thiếu niên chúng ta được sống trong hoà bình hiện nay hãy cố gắng xây
dựng đất nước phát triển ngày một lớn mạnh.
Tóm lại, Thu điếu là tác phẩm xuất sắc nhất trong chùm thơ thu của
Nguyễn Khuyến. Có thể nói tác phầm này là một kiệt tác trong nền văn học trung
đại Việt Nam. Bài thơ vừa sử dụng bút pháp nghệ thuật cổ điển vừa có những sáng
tạo riêng, từ ngữ giản dị, trong sáng, hình ảnh đậm chất dân tộc. Thu điếu như vẽ
ra trước mắt ta bức tranh mùa thu làng quê đồng bằng Bắc Bộ. Bức tranh thu ấy
được vẽ nên bằng tấm lòng yêu quê hương tha thiết, bằng tình yêu cuộc sống thanh
cao, tĩnh lặng chốn thôn quê của cụ Tam Nguyên Yên Đổ. Thành công của bài thơ
này đã chứng tỏ tâm hồn tinh tế, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Khuyến đúng như
Xuân Diệu đã nhận xét: “Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”.