Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận | Văn mẫu 12 Chân trời sáng tạo

Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 12 639 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 12 1 K tài liệu

Thông tin:
35 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận | Văn mẫu 12 Chân trời sáng tạo

Tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên mênh mông và quạnh hiu, hoang vắng. Qua đó còn cho ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng, một nỗi buồn vô tận giữa đất trời. Nhưng đồng thời bài thơ cùng thể hiện lòng yêu nước kín đáo mà vô cùng sâu lắng. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

132 66 lượt tải Tải xuống
Dàn ý phân tích Tràng Giang
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả Huy Cận và đặc điểm thơ Huy Cận trước cách mạng
tháng Tám: Huy Cận là một trong số những nhà thơ có nhiều đóng góp cho
phong trào thơ Mới. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thơ ông mang
nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn của một người dân ý thức sâu sắc về cảnh ngộ
của non sông đất nước và số phận con người.
Giới thiệu về bài thơ Tràng giang: Tràng giang (rút trong tập Lửa thiêng) là
một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất của Huy Cận.
2. Thân bài
a) Nhan đề và câu thơ đề từ
– Nhan đề: sử dụng từ ngữ Hán Việt cùng âm tiết mở ang gợi không gian cổ kính
và tăng thêm liên tưởng về sự rộng lớn của dòng sông.
– Câu thơ đề từ:
Trời rộng”, “sông dài” gợi nên cái rộng lớn, mênh mông của thiên nhiên, của
vũ trụ bao la
“bâng khuâng”, “nhớ” – một cảm xúc của nỗi buồn, của sự cô đơn, lạc lõng.
=> Ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên
suốt toàn bộ bài thơ.
b) Khổ 1:
– Thiên nhiên rộng lớn, mênh mông:
Hình ảnh”sóng gợn”
Hình ảnh con thuyền “con thuyền xuôi mái nước song song” càng tô đậm
thêm sự hoang vắng, cô quạnh của cảnh vật.
– Tâm trạng của chủ thể trữ tình được bộc lộ một cách trực tiếp: buồn điệp điệp”,
“sầu trăm ngả” tác giả đã diễn tả nỗi buồn dài cùng cực, như không bao giờ nguôi,
không bao giờ dứt trong tâm khảm của nhân vật trữ tình
c) Khổ 2
Bức tranh đã từng bước hoàn thiện hơn bằng những hình ảnh hết sức mới
mẻ: cồn nhỏ, gió đìu hiu, làng xa, chợ chiều, bến cô liêu gợi tả cảnh vật nhỏ
bé, cô độc, thoáng lên cái vắng lặng, lạnh lẽo cô đơn đến rợn ngợp của cảnh
vật nơi đây.
Âm thanh “tiếng chợ chiều” gợi nên sự mơ hồ, tàn tạ, hoang vắng.
“Sông dài trời rộng bến cô liêu” nhấn mạnh cái cô liêu của cảnh vật và sự
lạc lõng, trống vắng, cô đơn của con người
d) Khổ 3
Khung cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn: hàng nối hàng, mênh mông
Hình ảnh “bèo”gợi sự nổi trôi, vô định
Cấu trúc phủ định “không cầu” – “không đò” đã phủ định hoàn toàn những
con đường để kết nối với cuộc đời
e) Khổ 4
Hình ảnh thơ cổ điển “mây”, “chim” tác giả đã vẽ nên một bức tranh về quê
hương, đất nước,.
Nỗi nhớ, tình yêu quê hương, đất nước của tác giả qua hai câu thơ cuối bài.
3. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
Sơ đồ tư duy bài thơ Tràng Giang
Phân tích bài Tràng Giang - Mẫu 1
Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm
chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh
đênh. Bài thơ đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.
Tràng Giang không chỉ là một bài thơ hay của Huy Cận mà con là một trong những
bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Đôi khi người ta thường hiểu Tràng
Giang là một bài thơ miêu tả phong cảnh quê hương đất nước, thể hiện tình yêu
quê hương đất nước, nhưng đúng hơn đây là bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của
con người ngay giữa quê hương mình.
Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng của Huy Cận, xuất bản năm 19 Đúng như nhà
thơ Huy Cận từng nói, bài thơ này được sông Hồng, quãng Chèm Vẽ và những con
sông khác gợi tứ. nhưng nó là bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm
được lối ra, nên như kéo dài triền miên.
Trước hết ta chú ý đầu đề bài thơ là Tràng giang chứ không phải “Trường giang”,
để ta không lầm với sông Trường Giang (Trung Quốc), hay con sông dài nói
chung. Trong Tiếng Việt “tràng giang” thường nằm trong thành ngữ “tràng giang
đại hải”, chỉ một hiện tượng mênh mông bất tận mà trống rỗng khiến người ta chán
chường.
Mở đầu bài thơ đúng là một cảnh sông nước mênh mông bất tận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ngay câu đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về một nỗi buồn bất
tận, bằng một hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, như nỗi buồn
trùng trùng điệp điệp. Giữa tràng giang mà điểm nhìn nhà thơ tụ vào con sóng nhỏ,
tuy rất nhiều, nhưng hiện ra rồi tan, muôn thuở. Con thuyền thường là hình ảnh
tượng trưng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định, ở đây con thuyền buông mái
chèo xuôi dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “song song” với nhau chứ không
gắn bó với nhau, bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngã nào? Thuyền đi với
dòng để rồi chia li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li. “Thuyền về nước lại
sầu trăm ngả”. Thuyền buồn vì phải rẽ dòng. Nước buồn như không biết trôi về
đâu. Câu cuối đoạn này càng thể hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng,
vô định: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cái nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào
các vật nhỏ: sóng, thuyền, củi khô.
Tác giả lưu ý, không phải là cây gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi
gãy, khô xác của thân cây.
Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ
hững. Những đường nét: nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy
dòng không hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông
đó một con thuyền, một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi, bất lực. Ở đây
không chỉ thuyền buồm, cành củi khô buồn, mà cả sóng gợn, sông nước đều buồn.
Khổ thứ hai tiếp tục cái mạch thơ khổ đầu:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Một cái cồn nhỏ (lại nhỏ!) lơ thơ, vắng vẻ, lại thêm ngọn gió đìu hiu, càng thêm
vắng vẻ buồn bã hơn, như bị cuộc sống bỏ quên. Huy Cận nói, ông đã học được từ
“đìu hiu” trong câu thơ Chinh phụ ngâm “Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” cũng
nói về cảnh vắng vẻ, không người. Âm thanh của cuộc sống náo động của các
phiên chợ, của làng quê nghe rất xa vắng, chợ chiều làng xa mà lại đã càng tăng
thêm cảm giác bị bỏ quên ở đây. Hai dòng cuối càng tô đậm thêm cảm giác lạc
lõng: nắng xuống, trời lên không chỉ gợi ra khung cảnh nắng chiều mà bản thân hai
hướng lên xuống như không ăn nhập với nhau, và sông dài, trời rộng càng tăng
thêm cái vắng vẻ của bến sông. Cô liêu là vắng vẻ. Trong hai dòng này nhà thơ đã
đem đặt bên nhau những yếu tố vốn không có gì là buồn để tạo nên một cảnh buồn.
Giữa các yếu tố đó đều có đặt dấu phẩy (,).
Khổ thơ thứ ba vẫn tiếp tục mạch cảm xúc về sự hờ hững, mất hết liên lạc giữa các
sự vật. Con mắt nhà thơ nhìn vào bèo, những sinh thể nhỏ nhoi, yếu đuối giữa mặt
nước mênh mông.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Vẫn các sự vật đặt bên nhau: bèo hàng nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng hai bờ sông
mênh mông không cầu, không đò ngang, tạo thành một thế giới không liên hệ. Từ
sóng, thuyền, củi, dòng trôi, đến cồn nhỏ, làng xa chợ chiều, rồi nắng xuống, trời
lên, sông dài, trời rộng, bến vắng… mọi vật có, nhưng không vật nào có ý tìm
nhau, đến với nhau, cần đến nhau.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Lớp lớp mây cao đùn ra thành từng núi bạc. Chữ “đùn” mượn từ thơ cổ của Đỗ
Phủ, nói rằng mây trồi ra, lừng lững như núi trên trời có một vẻ đe doạ. Cánh chim
bé nhỏ (lại bé nhỏ!) nghiêng nghiêng về tổ ấm được cảm nhận như chịu sức nặng
của bóng chiều đè xuống. Bóng chiều mông lung bỗng trở thành hình có khối như
có thể cảm nhận được bằng đôi cánh nhỏ. Và cánh chim bay đi đâu cho thoát khỏi
cái bóng chiều đang đè nặng xuống mình?.
Lòng quê là lòng nhớ quê hương, lấy từ hai chữ hương tâm, chứ không phải tấm
lòng chất phác, quê mùa. Dợn là gợi lên, như ta nói sóng gợn chỉ một chất lỏng xao
động chuyển động dâng lên, cuốn xuống. Dợn dợn là thấp, ý nói hô ứng với mấy
chữ “sóng gợn”, “điệp điệp” ở dòng đầu bài thơ. Chính vì vậy mà nhà thơ phiền
lòng khi thấy người ta đọc chệch thành dợn dợn hay rờn rợn làm mất nghĩa câu
thơ.
Cả câu này có nghĩa là lòng nhớ quê hương dâng mãi lên khi phóng tầm mắt nhìn
con nước. Chữ vời, cũng hay, ta cảm thấy như gặp ý câu Kiều:
Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà?
Lòng nhớ quê được gợi lên từ mây trắng, từ cánh chim chiều, nhưng mạnh hơn là
từ con nước. Và nhà thơ kết thúc bài thơ bằng câu: “Không khói hoàng hôn cũng
nhớ nhà”. Viết về câu thơ này chứng tỏ Huy Cận đã biết có câu thơ Thôi Hiệu
trong bài Hoàng Hạc lâu do Tản Đà địch: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên
sông khói sóng cho buồn lòng ai”. Nhà thơ dựa ý thơ Thôi Hiệu để nói ý mình.
Nhiều người, kể cả nhà thơ, khi đọc đến câu này đều nói rằng Huv Cận buồn hơn
Thôi Hiệu, bởi Thôi Hiệu trong “khói sóng” mới nhớ nhà, còn Huy Cận thì ngược
lại, “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Thực ra, ai buồn hơn ai làm sao mà
xác định được. Điều quan trọng là Huy Cận có một ý thơ khác. Xưa Thôi Hiệu
buồn vì cõi tiên mờ mịt, quê nhà cách xa, khói sóng trên sông gợi lên cảnh mù mịt
mà sầu. Nay Huy Cận buồn trước không gian hoang vắng, sóng gợn tràng giang
khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp. Xưa Thôi Hiệu tìm giấc mơ
tiên chỉ thấy hư vô, lòng khát khao một cõi quê hương thực tại. Nay Huy Cận một
mình đối diện với khung cảnh vô tình, gợn lên nỗi khát khao quê nhà ấm áp. Một
đằng là ý thức về thực tại, một đằng là ý thức về tình người.
Tràng giang là một bài thơ buồn, dòng nào cũng buồn. Cái buồn toát ra từ những
vật bé mọn, như những kiếp người cô đơn, lạc lõng giữa không gian bao la. Nhưng
Tràng giang là một bài thơ vẽ lên một phong cảnh đẹp, giàu màu sắc (núi bạc, bờ
xanh, bãi vàng), nhiều đường nét hùng vĩ, mở ra vô tận (buồn điệp điệp, sâu chót
vót, sông dài, trời rộng…), nhiều tương phản, nhiều động từ chỉ sức sống rộn ràng:
sóng gợn, mây đùn, thuyền về, nước lại, nắng xuống, trời lên… Cái buồn của bài
thơ rõ ràng không phải do cảnh vật tàn phai, không gian chật hẹp tù túng mọi vật
chết chóc, ngưng đọng. Cái buồn như toát ra từ cấu tạo của thế giới, từ cái đẹp
thiếu tình người, từ một sự mất mát các mối liên hệ có tính phổ quát gây nên. Một
cái buồn đậm màu triết lí. Nỗi buồn này cũng phản ánh sự đổi thay của đời sống
hội: xã hội cộng đồng truyền thống với vô vàn mối dây liên hệ đã đứt tung để thay
vào một xã hội đô thị với những cái tôi rời rạc, bơ vơ.
Phân tích Tràng giang ngắn nhất - Mẫu 2
Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam, ông là người chiến sĩ
cách mạng và những tâm sự về thời cuộc đã được thể hiện mạnh mẽ trong các tác
phẩm của ông, khi ông đang viễn cảnh ngắm những sự vật trôi trên dòng sông
Tràng Giang dài sâu thẳm nó biểu hiện những tiếng lòng của con người.
Cả bài thơ là những lời thơ đượm buồn và nó bao trùm lên không gian của cả bài
thơ, với lời thơ thiết tha nhẹ nhàng, nó làm nên những giá trị thơ vô cùng mạnh mẽ
và da diết, tác giả đã mở đầu bài thơ với cung bậc cảm xúc đậm buồn và mang
những nét riêng:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Hình ảnh mở đầu của bài thơ đó là tác giả mượn hình ảnh của sóng để nói lên tâm
trạng của chính bản thân mình, sóng gợn tràng giang những nỗi buồn man mác,
dòng nước trôi đi để lại những cảm xúc và tình cảm nồng cháy trong hình tượng
thơ, mượn sóng để nói về sự tác động của ngoại cảnh đến tâm hồn của chính mình,
những nỗi buồn được nhân lên gấp đôi, nó điệp điệp khúc khúc ngân nga lên
những nhịp sống riêng và mang màu sắc giá trị của sự sống con người.
Hình ảnh thơ đậm chất lãng mạn nó thu hút con người vào những vòng cuốn riêng,
và tạo lên những ưu tư sâu sắc cho những cảm xúc lãng mạn với những lời thơ hay,
nói mang những lời tự nói để diễn tả tâm trạng của chính bản thân mình, dòng
nước trôi đi qua những con sóng làm vỗ bờ cát càng làm cho hình ảnh thơ mộng và
huyền bí hơn, những giá trị to lớn mạnh mẽ mà lời thơ đem lại nó mang chất thơ
nhưng lại ngập tràn đượm buồn những cảm xúc. Tràng giang đây là con sông dài,
và những tình người bao la mênh mông đang bị sóng nước mênh mang làm cho có
tâm trạng cô đơn thơ mộng. Với hình ảnh thơ hay tác giả đã vẽ ra những lời thơ
hay và mang đậm màu sắc, những hình ảnh thơ mang giá trị to lớn để diễn t
những hình ảnh mang chất nhạc buồn.
Nỗi buồn mênh mang cùng với khoảng không gian vô tận làm cho tâm trạng của
con người có chút mông lung và đầy ắp những nỗi buồn, những hình ảnh thơ mang
giá trị và đậm sức sống nó cũng thể hiện được những tình cảm mạnh mẽ của con
người đối với cuộc sống, đối với thiên nhiên. Những hình ảnh trên một dòng sông
Trường Giang rộng mênh mang làm cho con người có những cảm giác rất lạ,
những con thuyền đang trôi trên những dòng nước. Ở đây tác giả đã sử dụng những
cụm từ láy như điệp điệp hay song song để diễn tả mức độ tăng lên của sự vật, điệp
điệp để diễn tả tâm trạng buồn rầu và nó mang những nỗi buồn lớn lao đến vô tận
của con người, những hình ảnh thơ mang đậm cảm xúc cũng đã diễn tả được sâu
sắc những hình ảnh mang đậm màu sắc và thi vị của cuộc sống.
Những con thuyền đang xuôi mái, ở đây nó cũng biểu hiện những trạng thái tự
nhiên của những sự vật trên sông, nhưng hình ảnh con thuyền xuôi mái dưới dòng
nước, đang có chút gợn sóng, mà sóng ở đây là tác giả thổi hồn mình vào làm cho
lời thơ nó có chất buồn và mang những điều kì lạ, khi thuyền cập bến về, thì những
dòng nước lại buồn, ở đây tác giả đã nhân hóa lên dòng xong biết buồn, chính dùng
biện pháp này để nói lên tâm trạng của chính bản thân mình, những hình ảnh mang
giá trị to lớn và vô cùng sâu sắc đối với mỗi người, hình tượng thơ mang những giá
trị về sự sống và màu sắc, ở đây mượn hình ảnh của thuyền và dòng sông để nói
lên tâm trạng của chính tác giả khi ngắm nhìn dòng sông Trường Giang dài và
rộng, những lời thơ mang chất nhạc buồn làm gia tăng lên những giá trị cảm xúc
của tác giả, trên dòng sông đó tác giả còn quan sát thấy những cành củi khô đang
dạt dào trôi trên những dòng nước, tác giả đã dùng một biện pháp đảo ngữ để nói
về số phận lênh đênh chưa biết trôi dạt về đâu của con người, củi một cành khô lạc
mấy dòng, với sự sử dụng ngôn ngữ đậm giá trị, nó làm gia tăng lên mức độ biểu
cảm của lời thơ đối với cả bài thơ.
Tác giả còn quan sát được rất nhiều thứ đang tồn tại xung quanh một dòng sông
này, với những hình ảnh của cồn cát nhỏ, những ngọn gió đìu hiu thổi:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”
Những ngọn gió vẫn đang nhẹ thổi trên dòng sông, làm cho lòng người có những
cảm giác man mác, và sóng vỗ trên những rặng liễu và đìu hiu những nỗi buồn
man mác của con người, giá trị thơ để lại cho chúng ta đó là những hình ảnh mang
đậm giá trị và màu sắc thơ giàu sức biểu cảm nó đã mang lại được những giá trị to
lớn, lơ thơ đã nói về mức độ thưa thớt của sự vật hiện tượng, và trong không gian
yên tĩnh đó xuất hiện những tiếng của làng xa đang buồn vãn chợ chiều… trên cao
tác giả đang ngắm nhìn những ánh sáng hiu hắt và những ánh nắng từ trên cao rọi
xuống, hình ảnh thơ thật dài, thơ mộng, và tạo nên những sức sống mạnh mẽ và thu
hút lòng người, giá trị của lời thơ mang màu sắc quê hương, những bến cô liêu
những dòng sông dài đậm chất buồn và cả cảm xúc về những nỗi nhớ, và sự mênh
mang của đất trời.
Những hình ảnh thư mang giá trị to lớn khi nói về những sự phiêu bạt và không
định hình, dùng thiên nhiên để nói lên tâm trạng của chính mình, đây là phong
cách nghệ thuật độc đáo và thu hút được sự hấp dẫn của người nghe, hình tượng
thơ giàu giá trị, nó mang những cung bậc riêng và những tâm trạng riêng biệt sâu
sắc dành cho mỗi người:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Ở đây câu thơ đã mang đậm cảm xúc về số phận lênh đênh chưa biết đi về đâu của
con người, những hình ảnh đó biểu hiện những cung bậc cảm xúc giàu giá trị và nó
mang những lời thơ sâu lắng đem lại niềm tin yêu và những khoảnh khắc đáng nhớ
trong con người, những hình tượng thơ mang màu sắc của thiên nhiên của dòng
sông, những cánh bèo trôi dạt trên dòng sông diễn tả những số phận hẩm hiu không
biết đi về đâu của tác giả, một khoảng không gian mênh mông sâu lắng, và những
cảm xúc khó tả của con người, những tình cảm đó vẫn lặng lẽ, tiếp những bãi vàng,
đó là những bãi cát trên biển xanh đó là những dòng sông rợp bóng mát.
Cả bài thơ là những lời bộc bạch tâm trạng buồn cô đơn của tác giả, ở đây tác giả
đã dùng hình tượng thiên nhiên để diễn tả cảm xúc của mình.
Phân tích bài thơ Tràng Giang - Mẫu 3
Cù Huy Cận (1919-2005), bút danh Huy Cận là một trong những đại biểu xuất sắc
nhất của phong trào thơ Mới, đồng thời cũng là một nhà thơ có nhiều đóng góp to
lớn cho nền văn học Việt Nam xuyên suốt qua từng giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Trước cách mạng tháng 8, thơ Huy Cận thường mang một nỗi sầu bi da diết, vô
tận, bao trùm trong trời đất mà người ta vẫn nói đùa rằng lúc mang thai ông hẳn mẹ
ông đã phải rơi lệ nhiều nên con trai bà mới có một tâm hồn sầu não, ảm đạm như
thế. Tràng Giang là một trong những bài thơ nổi bật nhất trong phong trào thơ Mới,
đồng thời cũng là sáng tác tiêu biểu và xuất sắc nhất đại diện cho phong cách sáng
tác của Huy Cận giai đoạn này. Bài thơ nhuốm màu cổ điển của thơ Đường đồng
thời cũng mang những nét hiện đại, lãng mạn của thơ Pháp thể hiện sâu kín nỗi
buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước thế sự khi bản thân tác giả đang bế
tắc trước viễn cảnh đất nước đau thương.
Nhan đề “Tràng giang”, là một nhan đề hay khi gợi mở ra không gian rộng lớn
bằng cách điệp vần “ang”, tạo cảm giác kéo dài, âm thanh vang vọng, thoát xa
trong trời đất, đồng thời nhan đề hán việt này cũng mang đến cho tác phẩm sắc thái
cổ kính, trầm lặng, chất chứa nhiều tâm tư, nỗi buồn sâu kín. Lời đề từ “Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài”, gợi ra cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là nỗi bâng
khuâng, buồn bã, chất chứa nhiều tâm sự của con người khi đứng trước một vùng
trời sông nước quá đỗi rộng lớn, mà con người lại chỉ như hạt cát nhỏ, lạc lõng,
chơ vơ, không biết phải đi đâu về đâu, không biết bản thân tồn tại, trong trời đất
này có nghĩa lý gì. Điều đó khiến ta liên tưởng đến hoàn cảnh đầy đau thương của
đất nước lúc bấy giờ, Huy Cận bản thân là một trí thức tiểu tư sản, nhưng trước thế
sự rối ren lại trở nên bế tắc, không thể tìm thấy con đường sáng, và khi đứng trước
sông nước mênh mông, ông lại càng cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Điều đó thực đúng
với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi mà cổ nhân tìm về với thiên
nhiên để tìm sự đồng điệu, giao cảm, thì Huy Cận lại lấy thiên nhiên mà bộc lộ
những nỗi niềm sâu kín, đem đến cho người đọc những rung cảm mới mẻ, hấp dẫn.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Ở khổ thơ đầu tiên ta thấy mở ra là hình ảnh một bức tranh sông nước buồn vắng
và ảm đạm, vẻ đẹp cổ điển của bài thơ cũng được thể hiện một cách rõ nét. Hình
ảnh “tràng giang” tức là một con sông vừa rộng lại vừa dài, tưởng chừng như kéo
dài đến vô tận, thế nhưng lòng sông lại hết sức yên tĩnh, dòng sông lớn thế mà
sóng chỉ gợn nhẹ, mang đến cảm giác phẳng lặng, hiu hắt tựa như cảnh “dòng nước
buồn thiu” của Hàn Mặc Tử. Không chỉ vậy cái buồn còn được bộc lộ một cách
trực tiếp và rõ ràng trong mấy từ “buồn điệp điệp”, tức là cái buồn nỗi buồn, chồng
chất lên nhau lẫn vào từng gợn sóng lăn tăn của dòng sông một cách ẩn nhẫn, âm
thầm, trông có vẻ mờ nhạt nhưng thực tế lại sâu sắc vô cùng.
Hình ảnh “Con thuyền xuôi mái nước song song/Thuyền về nước lại sầu trăm
ngả”, đó là một cảnh tượng gợi ra nhiều nỗi cô đơn, thuyền qua thuyền lại biết bao
lần, nhưng chưa chắc một lần thuyền hiểu được nỗi lòng sông, nỗi lòng con nước.
Vốn dĩ thuyền – nước hô ứng, phối hợp với nhau ấy nhưng khi vào thơ Huy Cận
dường như chúng lại chẳng giao hòa, cứ song song với nhau, rồi “thuyền về nước
lại” càng gợi sự chia lìa, xa cách, nghe não lòng, đau xót. Thêm nữa từng con
thuyền ấy lại vướng biết bao nỗi sầu, và dường như nó còn chuyên chở cả nỗi sầu
mênh mông của người, của cảnh đi khắp trăm ngả, không dừng đợi.
Câu cuối đoạn “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, chính là tâm sự, là nỗi niềm, là
thân phận của tác giả. Giữa mênh mông sóng nước như thế, lại chỉ có một nhánh
củi khô nhẹ, trơ trọi, đơn độc lênh đênh không biết trôi dạt về đâu. Cũng như chính
Huy Cận hoang mang, lạc lõng trước thời cuộc, không có tiếng nói, sức ảnh hưởng,
không biết rồi mai đây số phận đẩy đưa, thời thế đất nước sẽ ra sao, bất lực và bế
tắc vô cùng. Bên cạnh vẻ đẹp hiện đại khi tác giả khéo léo bộc lộ cái tôi, nỗi buồn
cá nhân trước thế sự, thì vẻ đẹp cổ điển còn được in đậm bằng các từ láy “điệp
điệp”, “song song”, những từ hán việt “sầu”, “tràng giang” mang đến cho bức tranh
thiên nhiên sông nước vẻ đẹp cổ kính, đượm buồn.
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Sang đến khổ thơ thứ hai cảnh sông nước mênh mông đã được thay thế bằng một
khung cảnh khác, không gian được thu hẹp hơn, thế nhưng dường như nỗi buồn lại
càng trở nên đậm đặc hơn, bao trùm kín kẽ từng cảnh vật. Huy Cận tiếp tục sử
dụng bút pháp quen thuộc trong Đường thi khi sử dụng các từ láy vần liên tiếp “lơ
thơ”, “đìu hiu”, “chót vót”, diễn tả trọn vẹn được sự cô quạnh, hoang vắng của
cảnh vật. Ở câu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”, rõ ràng những cồn cát đã nhỏ, ấy thế
mà còn rời rạc, thưa thớt, dường như chẳng hề có chút kết nối, thêm tiếng gió buổi
chiều hôm mỏng nhẹ thổi lướt qua càng khiến khung cảnh thêm tịch mịch, buồn
bã.
Giữa cảnh tượng cô liêu, rợn ngợp ấy, Huy Cận đã không kiềm được phải thốt lên
“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, để mong tìm được một chút âm thanh sự sống,
âm thanh của con người, dù là nhỏ nhất chỉ để xua tan bớt đi cái nỗi cô đơn, trống
vắng đang bủa vây. Đổi một cách nhìn khác, cái tiếng chợ chiều làng xa ấy, lại
càng làm nổi bật nên sự đìu hiu, quạnh quẽ của không gian sông nước, khi mà một
tiếng vãn chợ xa xăm cũng trở nên rõ ràng lọt vào tai của người lữ khách bên sông.
Điều đó cũng đủ thấy rằng cảnh thiên nhiên và cảnh lòng người đang ở mức cô
tịch, vắng vẻ đến độ nào.
Đến câu “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”, ta dễ dàng mường tượng ra khoảng
cách xa xăm giữa trời và đất, câu thơ dường như càng kéo giãn thêm cái độ rộng
dài của không gian. Mấy từ “sâu chót vót” vốn chẳng hợp lý khi đưa vào để miêu
tả độ cao của trời xanh, thế nhưng trong Tràng giang thì chỉ có mấy từ ấy mới diễn
tả được sâu sắc khoảng cách đất trời, làm nổi bật lên sự nhỏ bé của con người trước
vũ trụ rộng lớn bao la. Và để khi rời ra tiếng chợ chiều, Huy Cận nhìn lại một lần
nữa chỉ còn cảnh “Sông dài trời rộng, bến cô liêu”, cảnh sông nước mênh mông,
rộng lớn, bến cô liêu chẳng một bóng người lạnh lẽo, hoang sơ và ảm đạm như
chính lòng tác giả.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Khổ thơ thứ 3 càng bộc lộ rõ hơn nỗi niềm và hoàn cảnh của tác giả, cảnh sông
nước mênh mông, trời cao, đất xa dần được thu lại bằng hình ảnh “Bèo dạt về đâu
hàng nối hàng”. Bèo vốn là một hình ảnh quen thuộc trong văn học cổ điển, ám chỉ
những kiếp người lênh đênh, vô định, mặc cho dòng đời đẩy đưa, trong thơ Huy
Cận hình ảnh “bèo dạt về đâu” chính là một lời tự hỏi, là sự đau đớn trước số phận,
trước thời cuộc, khi chính bản thân ông cũng không thể tìm ra một lối đi đúng đắn,
dù muốn thay đổi thế sự nhưng chịu bất lực. Mấy từ “hàng nối hàng” chính là cái
hay trong thơ Huy Cận, ý chỉ số phận bèo dạt như ông trong xã hội lúc bấy giờ
không phải hiếm mà là cảnh ngộ chung của một thế hệ, một tầng lớp những con
người yêu nước, có lòng mà không có sức, bế tắc và đau xót vô cùng.
Đến câu thơ tiếp “Mênh mông không một chuyến đò ngang” không chỉ là bộc lộ
cảnh tượng hoang vắng, quạnh quẽ của dòng sông, bộc lộ nỗi cô đơn trong lòng,
mà còn chính là để nói lên thực trạng đất nước lúc bấy giờ. Giữa cảnh tăm tối ấy,
lữ khách muốn tìm một con thuyền, một ngọn lửa sáng để cùng nhau đấu tranh giải
phóng dân tộc, thì nhìn lại dòng sông lại im ắng “không một chuyến đò ngang”,
không có một tổ chức, một con người nào có thể dẫn dắt đưa lối, kéo những tiểu tư
sản trí thức như Huy Cận ra khỏi sự hoang mang, vô định. Sự thực ấy khiến người
ta không khỏi xót xa cho một đất nước, một dân tộc, và cả những con người lạc
lõng “Không cầu gợi chút niềm thân mật”, cuối cùng họ Huy Cận vẫn phải tự ôm
lấy nỗi cô đơn, buồn tủi giữa thiên nhiên rộng lớn mà ảm đạm “Lặng lẽ bờ xanh
tiếp bãi vàng”, chứ không còn một cảnh tượng nào khác, một con người nào khác.
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Ở khổ thơ cuối, vẻ đẹp cổ điển, lãng mạn trong phong cách sáng tác của Huy Cận
càng được thể hiện rõ ràng trong khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, cùng
những chất liệu thơ quen thuộc trong Đường thi. Đó là nét cổ điển với bút pháp
chấm phá “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” mây vờn quanh núi từng lớp, từng lớp
dày đặc, đầy nội lực, mạnh mẽ với từ “đùn” khiến cho ngọn núi phủ một màu trắng
ngà. Dưới ánh nắng mặt trời những ngọn núi ấy trông như được dát bạc, tạo nên
cảnh tượng hùng vĩ hiếm có, đồng thời cũng thể hiện sức sáng tạo trong thơ ca của
tác giả, với những liên tưởng thú vị. Và trên cái khung cảnh tráng lệ ấy xuất hiện
một cánh chim nhỏ bé, lạc lõng “Chim nghiêng cánh nhỏ: Bóng chiều sa”, là chim
nghiêng cánh để bóng chiều sà xuống bao trùm khắp không gian, hay là bóng chiều
đổ xuống làm nghiêng đi cánh chim nhỏ bé, chao liệng, chất chứa nhiều nỗi cô
đơn.
Có thể nói rằng hình ảnh cánh chim luôn là một thi liệu quen thuộc trong thi ca cổ
điển, là dấu hiệu của buổi hoàng hôn, của buổi chiều tà, mang đến cho con người
những nỗi bâng khuâng, bất định trong tâm tưởng khi nhìn bóng chim bay lưng trời
mà chưa thấy một điểm dừng nhất định.
Hai câu thơ cuối cùng dù vẫn dùng chất liệu thơ cổ, thế nhưng nội dung thơ lại
đậm tính hiện đại, khi trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ quê nhà tha thiết của tác giả. “Lòng
quê dợn dợn vời con nước/Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, trước những
cảnh tượng mênh mông rộng lớn, hùng vĩ đến thế nhưng bản thân người thi sĩ lại
cô đơn, không có nổi một chốn cho tâm hồn nương tựa. Trước những nỗi sầu bi bất
định như thế, Huy Cận không khỏi nhớ nhà, nhớ quê nơi đã sinh ra, cho lữ khách
hơi ấm yêu thương, để vơi bớt đi những quạnh quẽ, chua xót trong lòng. Nỗi nhớ
ấy tha thiết đến độ không cần đến “khói hoàng hôn”, ánh lửa bữa cơm chiều từ
những căn bếp mà lòng vẫn đượm một nỗi nhớ mong sâu nặng. Ấy rồi mở rộng ra
nỗi nhớ quê đau đáu của Huy Cận lại diễn ra khi chính bản thân tác giả đang đặt
chân ở mảnh đất quê mình, ta mới hiểu được rằng nỗi nhớ quê chính là lòng yêu
nước thầm kín, Huy Cận nhớ về những ngày đã xa, khi đất nước còn yên ấm, tươi
đẹp, khác hẳn với hiện thực đau thương, buồn bã. Mà trước cảnh tượng ấy, ông lại
chỉ có thể bất lực trước thời thế rối ren, luẩn quẩn trong chính sự bế tắc của tâm
hồn với những nỗi sầu bi bất định, nghe thật chua xót.
Hồn thơ Huy Cận là một hồn thơ hay và chịu thích nghi với thời cuộc, trước cách
mạng tháng tám với tư cách là một trí thức tiểu tư sản, trong các sáng tác của mình,
ông thường bộc lộ những nỗi buồn thế sự, nỗi bất lực trước cảnh đổi thay của thời
đại, cũng như cảnh đau thương của đất nước, thể hiện tấm lòng yêu đất nước sâu
nặng. Tất cả những tình cảm ấy được thể hiện rõ nét trong Tràng giang bằng lối thơ
vừa cổ điển vừa hiện đại, kết hợp cùng nỗi ám ảnh sâu sắc với không gian rộng
lớn, Huy Cận đã tạo ra một tác phẩm xuất sắc, để lại nhiều dấu ấn trong lòng người
đọc về thơ ca Việt Nam giai đoạn trước cách mạng.
Phân tích Tràng giang học sinh giỏi - Mẫu 4
Phong trào Thơ Mới đánh dấu tên tuổi của nhiều thi nhân, trong đó phải kể đến
Huy Cận- một hồn thơ “sầu vạn cổ”. Mỗi vần thơ của Huy Cận đều chất chứa
những nỗi buồn miên man, sầu bi của nhà thơ trước thời đại, trước xã hội mà ông
đang sống. Đằng sau những nỗi sầu ấy là tiếng lòng của một con người yêu nước.
Bài thơ Tràng giang là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận.
Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với
bảy chữ thôi nhưng đã bao quát toàn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả
gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người
trước cảnh bật bao la, sâu rộng. Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương
sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được
giãi bày tự nhiên:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng
đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dòng sông dài rộng. Hai tiếng “tràng
giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ
nơi dòng sông, dòng sông mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của
dòng sông cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ
“buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối
tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô
bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong không gian dài rộng,
mênh mông là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trôi
theo dòng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang
trống vắng, lẻ loi phó mặc dòng đời xô đẩy, chảy trôi.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Hình ảnh đối lập “thuyền về- nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng
thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khô lạc mấy dòng” không chỉ làm cho câu thơ
thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo
ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi,
vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi
nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình.
Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang
khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều
Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn.
Như tự nhiên vốn có, không gian chợ búa gợi sự đông vui, tấp nập, nhưng trong
đoạn thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng
cười nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt
đối, không gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng:
“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót
Sông dài trời rộng, bến cô liêu”
Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hoá cho thấy được chiều kích vô
cùng của không gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng
rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu.
Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích không gian,
thấm sâu trong từng hơi thở.
Theo mạch cảm xúc của hai khổ thơ trước, khổ thơ thứ ba càng khắc sâu thêm nỗi
buồn tuyệt đối:
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo gợi sự vô định, lênh đênh. Những cánh bèo trôi dạt liên tiếp
“hàng nối hàng” không nơi bấu víu, chẳng chốn trở về hay chính là hình ảnh ẩn dụ
cho những kiếp người nhỏ bé, đơn độc, mất phương hướng lúc bấy giờ. Sông nước
mênh mông, dài rộng, không có lấy một chuyến đò đi qua, cây cầu bắc ngang cũng
chẳng thấy nên dù muốn nhưng nào có chút hy vọng mong manh về sự gắn kết với
con người. Tất cả dường như đang chống đối với lòng người, kẻ cô đơn đang khao
khát giao cảm, thấu hiểu, sẻ chia lại không có một chút tình đời, tình người ở lại.
Khổ thơ cuối bài thơ vẽ nên một bức tranh đầy tráng lệ của thiên nhiên và nỗi buồn
sâu lắng của lòng người:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”.
Bầu trời với những đám mây cao trắng được phản chiếu dưới ánh mặt trời tạo hoá
trở nên đẹp đẽ với ánh bạc lấp lánh. Động từ “đùn” cho thấy được sự vận động đầy
mạnh mẽ của cảnh vật, những đám mây đùn lên trùng điệp phía chân trời tạo thành
những dãy núi hùng vĩ, tráng lệ. Giữa không trung là cánh chim bé nhỏ đang đơn
độc nghiêng mình dưới bóng chiều buồn vương. Hình ảnh đối lập giữa cánh chim
nhỏ bé và vũ trụ bao la hùng vĩ càng tô đậm nỗi buồn của bầu thiên nhiên sâu rộng,
khoáng đạt.
Trước cảnh thiên nhiên ấy, nỗi nhớ quê hương trong lòng thi nhân lại thêm da diết,
cồn cào:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Trong thơ Đường Thi cũng đã từng viết:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.
Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà thương nỗi nhớ quê nhà. Trong “Tràng giang”, nỗi
nhớ quê hương của Huy Cận dường như thường trực, dai dẳng và mãnh liệt hơn
bởi “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Không vì bất cứ điều gì mà nỗi nhớ
vẫn “dợn dợn” trong lòng thi nhân, đó chính là biểu hiện của tình yêu quê hương
nói riêng và tinh thần yêu nước nói chung.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, bài thơ đậm chất Đường thi
nhưng vẫn rất Việt Nam với những hình ảnh đầy gần gũi như con thuyền xuôi mái,
bèo dạt mây trôi, cành củi khô lạc dòng,..Qua bài thơ, ta thấy được một nỗi buồn
vô tận của cái tôi lạc lõng trong cuộc đời.
Phân tích tác phẩm Tràng Giang - Mẫu 5
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sau mưa
Cùng đất nước mà nặng buồn sầu núi
Những câu thơ trên như gió lại cái hồn riêng của thơ Huy Cận trước cách mạng
tháng Tám. Dường như mỗi câu thơ là chất chứa bao nỗi sầu thiên thu vạn cổ, ẩn
trong đó những tâm tình sâu nặng với quê hương đất nước. Huy Cận hay viết về
thiên nhiên, vũ trụ về những khoảng thời gian buồn vắng hiu quạnh với sự kết hợp
của chất cổ điển và hiện đại làm nên một vẻ đẹp riêng độc đáo. Bài thơ Tràng
giang là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ, cho hồn thơ Huy Cận. Bài thơ
không chỉ mang nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên mênh mông hiu
quạnh, mà còn thấm đượm cả nỗi sầu nhân thế và tấm lòng yêu nước thầm kín của
thi sĩ.
Tràng giang được gợi cảm hứng từ một buổi chiều cuối thu nơi bờ nam bến Chèm,
trước khung cảnh sống Hồng đang mùa nước lớn. Chàng thi sĩ chứng kiến những
cánh bèo, cành củi đang trôi nổi giữa dòng nước mênh mông mà gợi ngay lên một
tứ thơ. Bao trùm bài thơ dường như là một nỗi buồn mênh mang vô tận của thi sĩ
khi đứng trước thiên nhiên, đất nước và cuộc đời. Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi
ra chất cổ điển rất riêng của Huy Cận. Nhà thơ dùng một từ Hán – Việt để đặt nhan
đề cho bài thơ của mình. Từ Hán Việt có tác dụng lớn nhất là gợi ra không khí cổ
điển, trang trọng và phảng phất chất Đường thi. Không những vậy thay vì dùng
“Trường giang” Huy Cận biến âm dùng Tràng giang, hai âm “ang” được đặt liên
tiếp là âm mở vừa gợi được cái dài rộng của không gian vừa gợi được cái mênh
mang, bát ngát man mác xúc cảm trong lòng độc giả. Bên cạnh đó “Tràng giang”
còn có sức khái quát.
Nó không phải là một con sông cụ thể nào, không phải con sông của đời thường
mà dường như là con sông của lịch sử, của văn học, của thi nhân và còn là con
sông cuộc đời. Bước qua nhan đề, người đọc lại gặp ngay lời đề từ “Bâng khuâng
trời rộng nhớ sông dài” như bao trọn cảm hứng của toàn bài thơ. Đó là không gian
của trời rộng sông dài, là cảm xúc của bâng khuâng thương nhớ. Thế cho nên nếu
toàn bài thơ là không gian rộng lớn là cảm xúc thoáng buồn thì cũng hoàn toàn là
hợp lý.
Trong mạch cảm xúc như thế khổ một mở ra một không gian sông nước rộng lớn
mênh mang:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh đầu tiên của bài thơ là hình ảnh những con sóng khẽ gợn, nối tiếp nhau
đến vô cùng, vô tận, tầng tầng lớp lớp không dứt. Câu thơ sử dụng bút pháp “lấy
động tả tĩnh” của văn học trung đại. Chuyển động của con sóng chỉ là “gợn” rất
khẽ, rất nhỏ dường như tan đi trong cái không gian mênh mông của sông của trời.
Con sóng đi cùng với tràng giang đã không còn là con sóng thực mà dường như
mang một lớp nghĩa ẩn dụ mới. Nó gợi đến nỗi buồn trong tâm hồn con người
trước sự dài rộng của không gian. Cùng với hình ảnh sóng nước là hình ảnh con
thuyền đang lênh đênh xuôi theo dòng. Hình ảnh này như gợi đến kiếp sống nổi
lênh của một lớp người bé nhỏ trong xã hội. Đây cũng là một thi liệu quen thuộc
gần như đã trở thành chuẩn mực trong văn học. Trong thơ Đường, ta đã từng bắt
gặp hình ảnh con thuyền và dòng sông đầy ám ảnh, trĩu nặng cái tình của người
đưa tiễn:
Cô phàm viễn cảnh bích không tận
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu
(Lí Bạch)
Khác chăng là con thuyền của Huy Cận không còn là con thuyền mang vẻ đẹp kĩ vĩ
nữa mà nó thoáng vẻ mênh mang gợi cái chia lìa xa cách:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Con thuyền thì nhỏ bé, hữu hạn mà dòng sông thì rộng lớn vô hạn. Cái hữu hạn đối
với cái vô hạn dường như càng tô đậm cảm giác nhỏ bé cô đơn. Hơn thế nữa
thuyền và nước vốn là những sự vật gắn bó nước chảy thuyền trôi vậy mà ở đây lại
bị chia tách với hai chuyển động ngược chiều về hai phía khác nhau. Cặp từ láy
“điệp điệp”, “song song” ở hai câu thơ trước đã tô đậm ấn tượng về nỗi buồn mênh
mang đang lan trên mặt nước, lại càng có tác dụng hơn khi tạo nên cấu trúc câu
song ứng và rồi đến câu thơ thứ ba thì hai vế đối song ứng được dồn vào một câu
thơ. “Thuyền về” đối với “nước lại” như nhấn vào cảm giác chia lìa đôi ngả. Và
phải chăng vì sự chia lìa đó mà dòng sông tràng giang càng thêm u buồn lặng lẽ?
Nếu ba câu thơ đầu mở ra một không gian Đường thi mang đậm chất cổ điển thì
câu thơ thứ tư lại mang dáng vẻ của thơ ca hiện đại:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Trong thơ xưa nếu muốn gợi đến kiếp người nhỏ bé lênh đênh các nhà thơ thường
dùng hình ảnh hoa trôi, bèo dạt. Huy Cận lại chọn hình ảnh một cành củi khô đang
trôi dạt giữa dòng nước mênh mang để thể hiện điều đó. Biện pháp đảo ngữ cùng
cách ngắt nhịp 1/3/3 càng như nhấn mạnh hơn vào cành củi khô, nhỏ bé, khô héo,
cạn kiệt sức sống. Ý thơ này có lẽ vừa được khơi nguồn từ hình ảnh thực khi nhà
thơ đứng ở bờ nam bến Chèm giữa mùa nước lớn, những cành cây khô trôi từ
thượng nguồn về bến sông. Nhưng có lẽ nó còn mang một lớp nghĩa ẩn dụ khác.
Nó gợi về một lớp người lúc bấy giờ trong xã hội. Ý thơ này càng được làm rõ hơn
với từ “lạc” dường như là sự trôi nổi vô định, mất phương hướng. Một cành củi
khô héo không sức sống mà vẫn bị giằng xé, chao đảo giữa dòng nước mênh mang
của cuộc đời. Nó gợi đến hình ảnh một lớp người như nhà thơ trong xã hội xưa,
những trí thức tiểu tư sản có ý thức về cái tôi nhưng lại bế tắc, mất phương hướng
trước hiện thực xã hội bấy giờ. Hình ảnh này thể hiện sức sáng tạo của Huy Cận
khi ông đã mang vào thơ một hình ảnh rất đời, rất thực tạo ra một hình ảnh mới
giàu sức gợi, đậm chất hiện đại phá vỡ tính ước lệ và cổ xưa của thơ Đường. Như
vậy khổ thơ thứ nhất đã gợi lên không gian mênh mông rộng dài của sông nước,
gợi thân phận nhỏ bé mất phương hướng giữa cuộc đời của một lớp người, gợi
được nét buồn phảng phất mênh mang. Đồng thời, khổ thơ vừa mang vẻ đẹp cổ
điển lại vừa hòa quyện nét hiện đại mới mẻ, tạo nên một bức tranh thiên nhiên giàu
sức gợi.
Nếu khổ thơ thứ nhất là cái nhìn cận cảnh của nhà thơ trước dòng sông mênh mông
để thấy từng gợn sóng từng cành củi khô trôi dạt thì khổ hai là cái nhìn bao quát
toàn cảnh sông dài, trời rộng đến bâng khuâng:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Hai câu thơ đầu đã vẽ lên khung cảnh buổi chiều trên sông nước. Cảnh thật vắng
vẻ, tĩnh lặng. Nét bút chấm phá của Huy Cận đã phác họa nên một bức tranh sông
nước mênh mang đến rợn ngợp. Nhà thơ điểm vào khoảng không gian rộng lớn ấy
một vài chấm nhỏ để tạo nên sự tương phản gay gắt giữa vũ trụ bao la và những sự
vật thật nhỏ bé:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Biện pháp đảo ngữ đẩy từ “lơ thơ” lên đầu đã nhấn mạnh vào cảm giác thưa thớt,
nhỏ bé của những cồn cát. Cùng với đó là hai từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” đứng ở đầu
và cuối câu thơ như gợi ra cái hiu quạnh, vắng vẻ, lẻ loi, cô đơn của cảnh vật.
Những cồn cát nhỏ ven sông trong cái gió đìu hiu của lau lách, hoang vu như làm
dấy lên trong lòng người nỗi cô đơn, buồn vắng. Không gian tĩnh lặng ấy càng
được nhấn:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Chợ trong tâm thức người Việt gắn với tươi vui, bởi đó là nơi gặp gỡ, giao lưu của
người dân xưa. Thế nên chợ vãn, chợ tàn sẽ gợi nên sự vắng vẻ, gợi nỗi buồn. Ở
đây, nhà thơ của cảnh sắc quê hương tiếp tục dùng biện pháp lấy động để tả tĩnh.
Âm thanh vang lên những lại chỉ là âm thanh từ xa vọng lại và cũng là âm thanh
của chợ vãn nên dường như có như không, gợi cái tĩnh lặng hơn cái ồn ào, tấp nập.
Từ “đâu” đứng ở đầu câu thơ tạo ra nhiều cách hiểu. Nó có thể là từ để hỏi như đâu
đó tiếng chợ chiều vọng đến, cũng lại có thể là từ phủ định, làm gì có, đâu có đâu
tiếng chợ chiều. Đến cả tiếng chợ vãn, chợ tan mà cũng như có như không thì bức
tranh đó phải tĩnh lặng, buồn vắng tới mức nào. Một lần nữa bút pháp cổ điển lại
giúp tác giả gợi được cái vô hạn của không gian và sự nhỏ bé của sự vật, cái tĩnh
lặng của cảnh sắc với những âm thanh bé nhỏ của cuộc sống. Từ sự đối lập tương
phản đó bức tranh buổi chiều, cảnh ngày tàn hiện lên:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu
Câu thơ đầu như một sự mở rộng về không gian. Huy Cận đã có sự quan sát tinh tế
và kĩ càng để nhận thấy nắng càng xuống trời càng lên cao. Không gian như được
mở ra hai chiều rộng dài đến bát ngát. Thêm nữa chuyển động trái chiều mang lại
cảm giác mạnh cho người đọc về một không gian như được mở dần ra. Nhưng
chưa dừng lại ở đó, “người dệt nên những vần thơ hàm súc, triết lí” đã có cách
dùng từ ngữ thật sáng tạo. Nếu thông thường chúng ta dùng từ “chót vót” để gợi độ
cao thì ở đây ông dùng từ này để chỉ độ sâu. Sự bất thường này lại mang đến một
hiệu quả lớn. Bạn đọc như nhận ra một chiều khác nữa của không gian sông nước
đó là chiều sâu, không gian được đẩy tới tận cùng tạo ra một chiều kích mới. Và
phải sâu đến độ nào để thi nhân phải thốt lên “sâu chót vót”. Cụm từ sáng tạo này
càng khiến cho khung cảnh thêm rợn ngợp, cái lẻ loi chống chếnh của con người
càng được tô đậm thêm. Ở câu thơ sau một lần nữa các chiều kích của không gian
được nhắc lại trong cái vô hạn của đất trời. Và không gian càng mở ra bao nhiêu
thì cảm giác cô liêu càng được nhấn mạnh bấy nhiêu. Cái điểm dừng bé xíu của
| 1/35