



Preview text:
TỰ TÌNH 1 -Hồ Xuân Hương-
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, là nữ thi sĩ tài ba bậc nhất của
văn học Trung Đại Việt Nam. Tình duyên của bà khá lận đận, hai đời chồng nhưng vẫn làm lẽ.
Bà nổi tiếng là xinh đẹp, thông minh, sắc sảo, phóng túng, cá tính và tài ba. Bà đi rất nhiều nơi,
giao thiệp rộng và gặp gỡ nhiều người nổi tiếng như Nguyễn Du. Bà sáng tác cả chữ Nôm và
chữ Hán và đều có giá trị nội dung cao. Trong nền văn học Việt Nam thời bấy giờ, bà là hiện
tượng rất độc đáo khi viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm chất văn học dân gian. Nổi
bất trong các tác phẩm thơ của bà đều là tiếng nói thương cảm cho thân phận người phụ nữ,
khẳng định đề cao cái đẹp và khát vọng hạnh phúc của họ. Một trong những bài thơ đặc sắc của
bà phải kể đến Tự Tình I nằm trong chùm thơ Tự Tình của Bà. Bài thơ viết theo thể thơ Đường
Luật và là nỗi thương mình trong sự cô đơn khi phải chịu cảnh làm lẽ, qua đó cũng thể hiện
khát khao sống hạnh phúc, vượt lên hoàn cảnh.
Ngay mở đầu bài thơ là thời điểm canh khuya, thời gian về đêm con người thường sẽ rất
cô đơn, nhìn ra được chính tình cảnh của mình, đối diện với chính mình Hồ Xuân Hương mới
thấy mình thật đáng thương:
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông ra khắp mọi chòm.
Không gian hiện lên là đêm khuya tĩnh lặng với tiếng gà gáy văng vẳng từ trên bom
thuyền vang khắp xóm. Đêm càng tĩnh, tiếng gà càng vang nghe rất nhức nhối. Tác giả đã sử
dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy tiếng gà tả màn đêm tĩnh mịch, u buồn. Canh khuya, khi
mọi người chìm trong giấc ngủ say nồng thì nữ thi sĩ vẫn còn thức, vẫn còn đang nghĩ về cuộc
đời mình. Trong đêm vắng, nỗi oán hận dường như bủa vây con người, tâm trí và cả không gian
xung quanh. Nỗi oán hận khiến nàng không thể ngủ được và thao thức suốt canh trường.
Trong lòng thì ôm nỗi oán hận nỗi thương cảm cho cuộc đời làm lẽ của mình, trông ra
ngoài thì màn đêm mù mịt tĩnh lặng cô đơn u buồn chỉ nghe tiếng gà gáy văng vẳng eo óc, gai
góc khiến nỗi cô đơn càng cô đơn hơn.
Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om.
Nỗi cô đơn u uất càng ngày càng lớn hơn khi sang câu 3,4 tác giả sử dụng hình ảnh Mõ –
chuông; cốc – om. Đây là hai hình ảnh đối xứng với nhau khiến cho nỗi cô đơn buồn tủi càng
kéo dài hơn. Mõ không khuya mà cũng có tiếng kêu, chuông không đánh mà cũng vẫn om. Có
khác gì cuộc đời nàng, cô đơn lẻ loi với thân phận làm lẽ, tưởng được hạnh phúc ai ngờ lại “kẻ
đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng”. Nỗi oán hận, đau đớn như kéo dài khắp mọi chòm, khắp không
gian, tê tái xót xa lại nghe văng vẳng tiếng chuông sầu, tiếng mõ om dù không ai khuya, ai đánh
nhưng trong lòng của nàng lại luôn nghe thấy. Trong câu thơ, tác giả sử dụng nghệ thuật tả
cảnh ngụ tình, vì tình trong lòng mình mà sinh ra cảnh bên ngoài. Cảnh không có mà lòng vẫn
có. Lòng buồn khiến cho cảnh cũng u uất buồn theo.
Câu hỏi tu từ trong câu thơ “Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?” làm cho giọng thơ
thảm thiết, xoáy sâu vào lòng người như một lời than “cớ sao?”, một tiếng thở dài ngao ngán:
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Nếu tìm hiểu kĩ về Hồ Xuân Hương hẳn bạn sẽ biết Hồ Xuân Hương là phụ nữ đẹp,
thông minh, sắc sảo. Cuộc đời một người phụ nữ thông minh như bà lẽ ra phải hạnh phúc, tìm
được duyên như ý. Nhưng không tình duyên bà lận đận, cuộc đời làm lẽ, hồng nhan bạc mệnh.
Trong một số bài thơ bà viết, đã từng có những bài thơ miêu tả gián tiếp chân dung bà như:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn – Bánh trôi nước” hay “Hai hàng chân ngọc duỗi song song
– Đánh Đu”. Qua một số ý thơ bạn đọc hẳn hiểu được rằng bà đã từng rất đẹp, là một người phụ
nữ khiến cho nhiều người mê mẩn. Vậy mà giờ đây, thân phận lẽ khiến cuộc đời bà chỉ còn nỗi
u sầu, bà làm lẽ tới 2 lần thì còn gì sầu hơn?
Bài thơ tự tình chính là tự sự về nỗi buồn của bà về duyên phận hẩm hiu. Trước đây vẫn
nghe những tiếng rẫu rì, rì rầm? Đó là tiếng gì? Đó phải chẳng là những lời nhận xét không hay
về cuộc đời bà, đó là miệng lưỡi thế gian? Hay đó là tiếng lòng rầu rĩ của bà là tiếng chuông sầu,
tiếng mõ om, tiếng gà văng vẳng eo óc trong đêm khuya? Để rồi sau lại giận vì duyên để mõm
mòm. Bà buồn, bà giận vì tình duyên lỡ làng, bà đã qua cái tuổi xuân thì, tình duyên đã quá chính.
Hai câu thơ chính là tiếng thở dài ngao ngán, buồn tủi về cuộc đời của bà, về con đường
tình duyên trắc trở. Bà khao khát hạnh phúc, nhưng dường như hạnh phúc không đến với bà. Bà
tự biết mình đã qua tuổi xuân thì phơi phới, duyên đã quá lứa. . Một tiếng thở dài, than thân trách phận.
Câu thơ cũng là tự mình thức tỉnh, tự mình thương lấy thân phận mình, thương lấy những
người đàn bà cùng luống tuổi, cùng cảnh ngộ, thì ra mình cũng đã toan về già, vẫn còn cô đơn
lẻ bóng “Giật mình mình lại thương mình xót xa” (Truyện Kiều).
Những câu thơ trên là tự trách, là buồn tủi, là thương xót cho thân phận hẩm hiu, tình
duyên bẽ bàng. Nhưng hai câu kết dường như lại đảo ngược lại với tâm trạng trên, nó là sự
thách thức trước bi kịch cuộc đời:
Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già tom!
Tự tình 1 – Đúng với tính cách của Hồ Xuân Hương, một người phụ nữ bướng bỉnh, cá
tính, mạnh mẽ. Bà không chịu đầu hàng số phận, bà muốn vượt lên trên nghịch cảnh vẫn đi tìm
cho mình một nam nhân trong đám tài tử văn nhân. Bà vẫn khao khát hạnh phúc và không chịu
khuất phục trước sự sắp xếp của số phận. Đặc biệt câu thơ: “Thân này đầu đã chịu già tom”
càng khẳng định sự bướng bỉnh trong thơ và tính cách của Hồ Xuân Hương.
Nếu câu thơ Sau giận vì duyên để mõm mòm cho thấy được sự tỉnh thức của bà về tuổi
xuân, về tình duyên đã quá lứa lỡ thì mà cô đơn, thì sang câu Thân này đâu đã chịu già tom cho
thấy sự biến chuyển về suy nghĩ, vượt lên nghịch cảnh, sự bướng bỉnh trong tính cách. Hay nói
đúng hơn đây là bản lĩnh cứng cỏi của Hồ Xuân Hương trước cuộc đời, một người phụ nữ tuy
tình duyên lận đận nhưng chưa bao giờ ngưng khát vọng, ngưng tìm hạnh phúc.
Với nghệ thuật gieo vần om vô cùng tài tình hiểm hóc: “bom-chòm-om-mòm-tom” cùng
với tâm trạng oán, cái hận, giận, cái ngang bướng đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như
nén của một tâm hồn ca tính, bướng bỉnh nhưng cũng rất trữ tình. Bà chính là một hiện tượng cá
tính, độc đáo trong thơ ca thời trung đại, dám nói lên nỗi lòng mình, dám khao khát tìm hạnh
phúc. Dù các nhà thơ như Nguyễn Du hay Đặng Trần Côn cũng có tiếng nói bênh vực phụ nữ
nhưng nó chưa đủ mạnh đủ khát khao như Hồ Xuân Hương. Tiếng nói của bà chính là tiếng
lòng phụ nữ, bà là phụ nữ bà hiểu khao khát nó mãnh liệt thế nào và toàn tâm toàn ý cho hạnh
phúc của người phụ nữ. TỰ TÌNH 3
Hồ Xuân Hương là một trong nữ thi văn nổi tiếng trong xã hội cũ. Bà được mệnh danh là
“Bà Chúa thơ Nôm”. Trong các bài thơ của bà đều nói lên tiếng nói cảm thương người phụ nữ
và khẳng định đề cao và ý thức đầy bản lĩnh. Theo đó, tác phẩm “Tự Tình” của bà được coi là
bài thơ bộ lộ những cảnh éo le, buồn tủi, cay đắng của người phụ nữ. Đồng thời cũng nói lên
khát vọng mong cầu hạnh phúc của người phụ nữ xã hội xưa. Đặc biệt tác phẩm Tự tình 3 là
bài thơ nổi tiếng nói lên “tiếng lòng” người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ đầy chua xót, tủi hổ, đau đớn:
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Nếu bài tự tình thứ nhất mở đầu bằng âm thanh tiếng gà gáy văng vẳng, thì bài tự tình
thứ 3 lại là một chiếc bách đầy tâm trạng. Chiếc bách chính là hình ảnh của chiếc thuyền với
tâm trạng buồn về phận nổi lênh đênh. Chiếc thuyền chính là người con gái giữa dòng đời. Một
chiếc thuyền nhỏ lênh đênh giữa cuộc đời buồn thay cho cuộc đời của mình “giữa dòng ngao
ngán nỗi lênh đênh”. Nếu giữa dòng sông mênh mông ấy là hình ảnh chiếc bách nhỏ lênh đênh
không biết trôi về đâu, thì giữa dòng đời rộng lớn, hình ảnh người con gái góa trẻ cũng không biết sẽ trôi về đâu.
Nỗi bi ai, đau khổ không chỉ ở trong 2 câu thơ đầu mà trong câu thơ sau, cũng diễn tả nỗi
truân chuyên của người phụ nữ góa trẻ.
Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Tình và nghĩa vẫn đương còn chan hòa dào dạt. Vậy mà sóng gió vẫn cứ ập tới, đe dọa
liên tiếp vỗ vào mạn thuyền. Hai câu thơ này đều mang tâm trạng buồn rầu, ngao ngán cho thân
phận người phụ nữ. Cây muốn yên mà gió chẳng lặng. Cuộc sống người phụ nữ xã hội xưa mấy
khi được hạnh phúc. Hạnh phúc tưởng chừng trong tầm tay nhưng cũng lại vỡ tan. Vậy là đang
“như chim liền cành” bống nhiên đứt gánh giữa đường.
Nếu bốn câu đề là tâm trạng buồn tủi của người phụ nữ góa trẻ thì hai câu sau thể hiện sự
buông xuôi của người phụ nữ:
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến.
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Trong ý thơ, tác giả mặc cho ai lăm le cầm lái để đưa thuyền vào đậu bến. Dù cho dong
lèo để cho cánh buồm vượt qua ghềnh thác mà trôi xuôi tác giả cũng không quan tâm. Động từ
“Mặc” ở đây thể hiện sự buông xuôi thực sự. Cuộc đời người góa phụ trẻ giờ đây giống như
chiếc thuyền trôi lênh đênh ngoài biển khơi, ai muốn lái muốn chèo đều không còn là nỗi bận
tâm nữa rồi. Chỉ ai câu thơ nói lên sự bất lực của người phụ nữ trong xã hội xưa. Dù có khao
khát hạnh phúc thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh, vận mệnh. Không thể thay đổi
được sự thật phũ phàng của xã hội là biển khơi, đẩy đưa thuyền đi theo ghềnh thác cũng đành
phải theo mà không thể chống cự.
Tiếp theo tâm trạng này là hai câu cuối.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.
Rất nhiều động từ thể hiện sự chấp nhận, buông xuôi như “cam lòng” “ôm nỗi”. Tác giả
tự hỏi, còn ai nữa sẽ đến với mình đây? Mà nếu có ai đến thì cũng cam lòng mà không thể
chống cự được. Mặc dù người phụ nữ hiểu rằng, bước sang một chiếc thuyền khác thì cuộc đời
cũng vẫn “tấp tênh”, cũng không có gì khởi sắc. Nhưng dẫu vậy cũng cam lòng vì tình thế không thể khác được.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa đã nhỏ bé, bị áp bức, bị xã hội hà khắc thì thân
phận người góa phụ trẻ còn thê lương hơn. Người góa phụ trẻ không có lựa chọn, ai muốn đẩy
thuyền trôi đâu thì đẩy. Chỉ biết cam lòng, ôm nỗi đau vào lòng. Thấu hiểu nỗi đau đớn, oan ức,
bất công của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã lấy thi ca để nói lên tiếng lòng. Bà chính là đại
diện cho những người phụ nữ mạnh mẽ, đòi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và lên án sự
bất công, hà khắc của xã hội.
Người phụ nữ xưa nhỏ bé, chịu bao áp bức vậy mà vẫn phải “tam tòng tứ đức”, giỏi việc
nhà, đảm đang, khéo léo. Trong khi đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình. Đàn bà
trẻ góa một lần coi như cuộc đời là cánh bèo trôi dạt, không có lựa chọn, không có quyền lên
tiếng, dù vào tay ai cũng cam lòng.
Không chỉ Tự tình 3 mới nói lên nỗi bất công hà khắc của xã hội, bài thơ Tự tình 1 và 2
của Hồ Xuân Hương cũng là tiếng lòng người phụ nữ. Bản thân Hồ Xuân Hương cũng lận đận
đường tình duyên, cuộc đời phong bã bão táp. Tác giả cũng là người con gái đẹp, có mưu cầu
hạnh phúc nhưng bị xã hội phong kiến đàn áp nên hạnh phúc khó kiếm tìm. Nhiều lần đứt đoạn,
nhiều lần suy sụp, chới với, nhưng Hồ Xuân Hương luôn có cái nhìn sâu sắc về cuộc đời, thấu hiểu và dám lên tiếng.
Kết thúc Tự tình 3 vẫn chỉ là tâm trạng buông xuôi, cam lòng của người góa phụ trẻ.
Nhưng kết thúc đó cũng là tiếng lòng khao khát muốn được hạnh phúc, muốn vùng vẫy. Bài thơ
lột tả chân thực xã hội phong kiến bất công, hà khắc với người phụ nữ. Thân phận người góa
phụ rẻ rúng, bèo dạt lênh đênh. Qua đây, chúng ta càng thấu hiểu hơn và cảm thông hơn cho
những người phụ nữ xã hội cũ. Và càng cảm phục ý chí, tài năng, tâm hồn của “Bà chúa thơ
Nôm – Hồ Xuân Hương”.