-
Thông tin
-
Hỏi đáp
Phân tích bài thơ Việt Bắc của nhà tơ Tố Hữu hay nhất | Văn mẫu 12
"Việt Bắc" là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu bước lên." Tác phẩm không chỉ là khúc hùng ca chiến đấu mà còn là khúc tình ca dân tộc. Bên cạnh đó, "Việt Bắc" còn là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu - lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Kính mời quý bạn đọc tham khảo bài mẫu Phân tích bài thơ Việt Bắc chọn lọc hay nhất biên soạn qua bài viết dưới đây nhé!
"Việt Bắc" là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu bước lên." Tác phẩm không chỉ là khúc hùng ca
chiến đấu mà còn là khúc tình ca dân tộc. Bên cạnh đó, "Việt Bắc" còn là tác phẩm tiêu biểu
cho hồn thơ Tố Hữu - lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Kính mời quý bạn đọc tham
khảo bài mẫu Phân tích bài thơ Việt Bắc chọn lọc hay nhất do Luật Minh Khuê biên soạn qua
bài viết dưới đây nhé!
"Việt Bắc" được ví như "khúc tình ca" của dân tộc giữa những ngày kháng
chiến chống Pháp thắng lợi vinh quang. Sau tất cả những thăng trầm, sau
gần 9 năm kiên cường đánh đuổi giặc ngoại xâm, sau bao hy sinh, mất mát,
những con người nằm xuống, Việt Nam ta đã hoàn thành "sứ mệnh" thiêng
liêng cao cả, trao trả cho đồng bào niềm hiển vinh to lớn. Dù sau đó, dân ta
phải đối mặt với đế quốc Mỹ, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ chính là mốc
son chói lọi trong trang sử dân tộc.
Còn nhớ, ngày 13/3/1954, ta bắt đầu tấn công Điện Biên Phủ, và
!"#$
%&'&(
Trưa ngày 7/5/1954, ta đã giành thắng lợi vẻ vang:
)'*+",-.
/012
(Tố Hữu)
Những nụ cười, giọt nước mắt, biết bao người mẹ vừa hạnh phúc, vừa nghẹn
ngào vì con trai mình đã góp máu xương để non sông được độc lập, biết bao
người vợ nhớ chồng, biết bao đứa trẻ được tự hào vì cha ông.]
,+312,-.1 !4
5678!4
98"8"$:
(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu)
Như một người thư ký trung thành, tận tụy của cách mạng, Tố Hữu luôn
hướng ngòi bút của mình bắt kịp mọi khoảnh khắc của cuộc kháng chiến
chống Pháp, bởi thế, ông được mệnh danh là "lá cờ đầu của thơ ca cách
mạng Việt Nam", luôn hiên ngang giữa bầu trời. Bác Hồ từng nói: "Văn hóa
nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em nghệ sĩ cũng là chiến sĩ trên
mặt trận ấy", nhắc tới thơ ca chính trị không thể nào không nhắc tới nhà thơ
Tố Hữu và "Việt Bắc" - tác phẩm đã chạm vào bao tâm khảm của biết bao
thế hệ, sống cùng non sông đất Việt.
1. Tác giả và phong cách sáng tác
- Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành.
- Quê quán: làng Phù Lai (xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế). Tố Hữu sinh ra và lớn lên ở một vùng đất thơ mộng, trữ tình, còn lưu lại
nhiều nét văn hóa dân gian với những làn điệu dân ca Nam Ai, Nam Bình,
những câu mái nhì, mái đẩy và cả nền nhã nhạc cung đình Huế. Điều này đã
tạo sự thuận lợi để Tố Hữu tiếp xúc với nền văn học dân gian.
- Tố Hữu sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho nghèo, cả cha và mẹ đều
say mê sưu tầm ca dao tục ngữ. Đây là điều kiện để phát triển hồn thơ Tố
Hữu mang âm hưởng trữ tình, đậm đà tính dân tộc.
-Tố Hữu là nhà thơ lớn, là người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam, thơ ông luôn gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân
tộc.]Phong cách thơ mang tính]trữ tình chính trị]vô cùng sâu sắc, hướng đến
những cái tôi chung và lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong
thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cộng đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa
giàu nhạc điệu lại mang tính dân tộc đậm đà.
- "Tố Hữu được mệnh danh là "ca sĩ" sớm nhất và cũng là "ca sĩ" lớn nhất
trong bản "hợp ca" cách mạng. Sức hút lớn nhất của thơ Tố Hữu là chất men
say của lý tưởng cách mạng, chất trữ tình ngọt ngào thương mến qua những
vần thơ đậm đà tính dân tộc. Bài thơ "Việt Bắc" (10/1954) là khúc tình ca tha
thiết mặn nồng của người cán bộ với quê hương cách mạng Việt Bắc, là bản
hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp."
- Thơ Tố Hữu là những vần thơ]thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn
những con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp Cách mạng, với quê hương,
đất nước.]Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương
sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc và nhân
dân, và tiêu hơn cả là bài thơ "Việt Bắc".]
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời
- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954), Hiệp định Giơnevơ được
kí kết, hòa bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn
mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan của Trung
ương Đảng và Chính phủ rời khỏi chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi
dưỡng cho Cách mạng suốt những năm trường kỳ chống thực dân Pháp trở
về Hà Nội.
- Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hòa bình,
từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với nơi đã từng đồng cam
cộng khổ, với những người đã từng "chia ngọt sẻ bùi".]Người ra đi không khỏi
bâng khuâng thương nhớ, người ở lại cũng không khỏi bịn rịn, trống trải, bùi
ngùi.
Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu - một cán bộ của
Đảng, một nhà thơ lớn của Cách mạng đã sáng tác bài thơ "Việt Bắc" vào
tháng 10 năm 1954. Bài thơ đã có vinh dự được lấy tên chung cho cả tập thơ
"Việt Bắc" (1946 - 1954) -]một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác
phẩm xuất sắc thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.A
;<=]Có thể tóm tắt hoàn cảnh ra đời một cách ngắn gọn như sau:
Tố Hữu - một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam.
Có thể nói những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng, lẽ sống của
bản thân mình mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của
Cách mạng nước nhà. Tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ,
bộ đội ta phải chuyển lực lượng về thủ đô và chia tay với chiến khu Việt Bắc.
Kẻ ở người đi lòng không khỏi nhớ thương tiếc nuối tình quân dân trong mười
lăm năm kháng chiến, nhân sự kiện trọng đại này, cùng với tâm trạng nỗi
niềm ấy, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.
Hoặc:
Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sau chiến thắng
Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp bóng
cờ hoa trong ngày hội non sông, bài thơ "Việt Bắc" ra đời là tiếng hát nghĩa
tình, son sắt, thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối
với chiến khu Việt Bắc với Cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác
Hồ của miền xuôi và miền ngược, là khúc tình ca của một dân tộc anh hùng.
,>!'!%?=
- Bài thơ Việt Bắc có 2 phần, gồm 150 câu thơ.
- Phần thơ trong SGK là đoạn mở đầu và phần một gồm 90 câu - phần đặc
sắc hơn cả của bài thơ Việt Bắc. Đoạn trích làAhai đoạn hoài niệm về một Việt
Bắc gian khổ, vẻ vang của Cách mạng và kháng chiến, nay đã trở thành kỉ
niệm sâu nặng khôn nguôi trong lòng người.AToàn phần trích giảng thông qua
nỗi nhớ da diết, thể hiện nghĩa tình cách mạng, tình cảm thủy chung son sắt
của người cán bộ về xuôi đối với quê hương Việt Bắc.
2.2. Thể thơ
Bài thơ "Việt Bắc" được viết theoAthể thơ lục bát, tạo nên âm hưởng nhẹ
nhàng, trầm bổng mà lắng sâu trong lòng người đọc. Đây chính là một sự
khéo léo tạo nên thành công của bài thơ chính trị mà trữ tình, dạt dào cảm
xúc này.
"Việt Bắc" vận dụng]lối hát giao duyên đối đáp nam nữ của dân ca, vì vậy
thường sử dụng lối xưng hô thân mật rất quen thuộc là mình - ta. "Ta"
thường dùng ở ngôi thứ nhất. "Mình" thường dùng ở ngôi thứ hai. Tùy theo
văn cảnh, ta và mình có thể là Việt Bắc hay người cán bộ về xuôi. Nhưng
nhiều lúc lẫn lộn, tuy hai mà một vì mình hay ta cũng đều là người cách
mạng, cũng đều là ân tình sâu nặng với nhau "tuy hai mà một".
Dù là kết cấu đối đáp, nhưng ở Việt Bắc không chỉ là lời nói, lời đáp mà còn là
sự hô ứng, đồng vọng của cùng một tâm trạng. Lời đáp, ngoài việc trả lời cho
những câu hỏi, còn là sự mở rộng, làm phong phú thêm cho những ý tình đã
được gợi ra trong lời hỏi. Cũng có khi cả lời hỏi và lời đáp đã trở thành lời
đồng vọng ngân vang lên những tình cảm chung.
Nếu nhìn sâu hơn vào kết cấu của bài thơ, chúng ta thấy được đối thoại chỉ là
lớp vỏ ngoài còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại. Hình thức độc
thoại là khả năng phân thân của cái "tôi" trữ tình để hóa thân vào đối tượng,
khiến tâm trạng được thể hiện sâu sắc dễ lay động lòng người hơn.]
]
2.3. Đại ý - ý nghĩa bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc là bài thơ trữ tình đằm thắm thiết tha thể hiệnAân tình sâu nặng thủy
chung của tác giả - người cán bộ sắp rời Việt Bắc về miền xuôi - đối với căn
cứ địa Cách mạng của cả nước.]Đây không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ
mà đồng thời cũng là tâm trạng chung của mọi người. Bài thơ này tiêu biểu
cho những suy nghĩ, tình cảm cao đẹp của những con người kháng chiến đối
với miền đất quê hương Cách mạng, với đất nước và nhân dân, với kháng
chiến và Cách mạng. Cũng có thể nói đây là]khúc hát tâm tình thủy
chung]không những của con người kháng chiến, của nhân dân ta mà còn của
truyền thống ân nghĩa, thủy chung của dân tộc] hòa vào, tiếp nối và khơi sâu
thêm nét truyền thống cao đẹp đó.
Việt Bắc dựng ra một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ những cảm xúc trữ tình
dào dạt. Đó là một cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa kẻ ở, người đi, giữa Việt
Bắc với cán bộ về xuôi bâng khuâng và bịn rịn. Đó cũng là cuộc chia tay của
những người đã từng gắn bó sâu nặng với nhau, cùng nằm gai nếm mật, chia
ngọt sẻ bùi. Giờ đây, trong phút giây chia tay, họ cùng nhau gợi lại bao kỉ
niệm về những ngày tháng đã qua. Họ khẳng định nghĩa tình bên chặt và
hẹn ước về một ngày mai tươi sáng.]
]
3. Đọc - hiểu văn bản
3.1. Cảm nhận chung về đoạn thơ
- Đoạn thơ đã tái hiện được khí của cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn sau 15
năm gắn bó ân tình giữa kẻ ở người đi. Đó là không khí ân tình của hồi tưởng,
hoài niệm của ước vọng và tin tưởng.]
- Kết cấu: Theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao dân ca. Không đơn thuần là
lời hỏi - đáp mà là sự hô ứng đồng vọng, là sự độc thoại nội tâm, đó là cách
"phân thân", "hóa thân" để bộc lộ tâm trạng phong phú hơn.
- Giọng điệu: Ngọt ngào êm ái, giọng tâm tình thủ thỉ,
3.2. Cuộc chia tay và tâm trạng của kẻ ở người đi
a. Tâm trạng khi chia tay của kẻ ở người đi (8 câu thơ đầu)
@8
Thơ là sự giãi bày đời sống tình cảm, "là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất
của tâm hồn khi đụng chạm đến cuộc sống" (Nguyễn Đình Thi). Tình cảm ấy
là những trạng thái cảm xúc mà người nghệ sĩ từng trải qua, từng sống trong
những cung bậc ấy. Thơ không chấp nhận thứ tình cảm hời hợt, mờ nhạt. Nếu
nhà thơ không viết thơ bằng nước mắt, bằng máu của chính mình, không sâu
sắc với những tình cảm của con người thì thơ sẽ thiếu sức sống, chỉ có thể
làm được những bài thơ vô hồn, chỉ là những câu chữ hoa mĩ được ép khô
trên giấy.
Tố Hữu đã viết "Việt Bắc" bằng cảm xúc bâng khuâng, da diết khi phải chia
tay đồng bào Việt Bắc với biết bao kỉ niệm ngọt bùi khó quên của một thời
gắn bó. Hình thức là đối đáp giữa kẻ ở - người đi nhưng thực chất là lời độc
thoại nội tâm, đắm mình trong hoài niệm quá khứ của tác giả.]
Trong cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với những người chiến sĩ Cách
mạng về xuôi, người ở lại là những người lên tiếng trước bởi họ đã nhạy cảm
nhận ra sự thay đổi của hoàn cảnh nên bồn chồn, lo lắng không yên. Trong
âm hưởng ngọt ngào của ca dao, những câu hỏi của người ở lại cất lên như
chất chứa bao nỗi niềm vấn vương, lưu luyến:
ABAC7
D+**6EFG
ABAC7&
/A87A1&7G
Mười lăm năm gợi ra hành trình từ những ngày đầu Cách mạng với cuộc khởi
nghĩa Bắc Sơn năm 1940 và sự kiện năm 1941, sau những năm bôn ba khắp
năm châu bốn bể tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã trở về Tổ Quốc, người chọn
Việt Bắc làm căn cứ địa Cách mạng:
H1 I8I8@J
5!!K#7L
. BMN+FM)C
5 C#D+OM
Nhà thơ đã sử dụng sáng tạo hai đại từ "mình - ta" vốn là cách xưng hô lứa
đôi quen thuộc trong ca dao với biết bao tình cảm mến thương dạt dào:
ABC7*
5B7!*ADM
Hay]
ABPB
5> B8M
Tố Hữu đã mượn hình thức quen thuộc của văn học dân gian để thể hiện một
vấn đề có tính chất lịch sử. Từ những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở
thành "khúc tâm tình" của kẻ ở - người đi, từ cách xưng hô lứa đôi trở thành
tiếng gọi thân thương của những ngươi đồng chí, đồng bài khiến cho tình
cảm trở nên đẹp đẽ, gắn bó.]
Với biện pháp điệp ngữ "mình có nhớ ta", "mình có nhớ không" đã tạo nên
giọng thơ đầy lưu luyến, thể hiện sự day dứt, bịn rịn, băn khoăn của người ở
lại và cả nỗi lo sợ người ra đi sẽ không giữ được tình cảm thủy chung với Việt
Bắc. Đó đồng thời là lời nhắn ngủ với người ra đi đừng bao giờ quên quê
hương nghĩa tình cách mạng với những kỉ niệm mặn nồng keo sơn.]
D+**6Q
R) >4)"(M
Sau những câu hỏi ấy, người ở lại đã khơi gợi những kỉ niệm khó quên ở Việt
Bắc với thời gian "mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Mười lăm năm ấy
đủ đong đầy bao nghĩa tình sâu nặng như phảng phất âm hưởng của thơ
Kiều:
/S+!7
D+**6#E#AM
Đó là khoảng thời gian "Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh", là những
ngày tháng mà đồng bào Việt Bắc đã cưu mang cán bộ. Họ đã từng gian khổ
có nhau, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, thủy chung gắn bó. Mười lăm
năm vào sinh ra tử với biết bao kỷ niệm chiến đấu, bao ân tình đằm thắm
khó quên.
Không chỉ nhớ về thời gian, người ở lại như muốn người ra đi nhớ về không
gian Việt Bắc, thủ đô gió ngàn, căn cứ địa Cách mạng "nhìn cây nhớ núi, nhìn
sông nhớ nguồn". Nhớ núi, nhớ nguồn là nhớ về khung cảnh thiên nhiên, nhớ
về quê hương Cách mạng, ngọn nguồn của Cách mạng, đó không chỉ là
không gian vô hồn mà đã trở nên rất đỗi thân quen, in dấu từng bước chân,
lưu giữ bao kỉ niệm. Câu thơ vừa có tình cảm lưu luyến, hụt hẫng trong lòng
người ở lại vừa như lời dặn dò kín đáo với người ra đi đừng quên đạo lí "uống
nước nhớ nguồn".]
/T#$7+
U1&71VC7M
(Tố Hữu)
@81
"Thơ là điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu", là tiếng nói đồng vọng của
những trái tim, những tâm hồn tri âm. Nhà thơ Tố Hữu như đã thấu cảm được
sự đồng vọng tha thiết của kẻ ở - người đi qua kết cấu đối đáp ngọt ngào, ân
tình. Sau những câu hỏi của người ở lại, người ra đi chỉ im lặng lắng nghe, chỉ
biết cầm tay nghẹn ngào không nói nên lời:
5EE#G
.88!>#GG#7
Đại từ phiếm chỉ "ai" gợi ra bao nhiêu cảm xúc, "ai" nghĩa rằng không biết rõ
là ai đang tha thiết, nó hiển hiện trong mỗi con người ở lại, của cả nhân dân
Việt Bắc chứ không của một cá nhân nào. Tiếng dân cứ tha thiết gợi về biết
bao bịn rịn, để rồi người ra đi cứ "bâng khuâng trong dạ", chân bước đi mà
lòng cứ bồn chồn không yên, đau đáu nhìn lại. Hai từ láy "bâng khuâng",
"bồn chồn" không chỉ tạo ra tính nhạc cho lời thơ mà còn diễn tả tâm trạng
luyến tiếc, nhớ thương, ngập ngừng, bịn rịn, không thể chia tay, không thể
dứt khoát để về xuôi.]
Giữa khung cảnh buổi chia tay, nếu "tiếng ai" là âm thanh mơ hồ, là tiếng
vọng trong tâm tưởng, thì hình ảnh "áo chàm" lại thật cụ thể, không thể xóa
nhòa trong tâm tưởng người ra đi.
W#XY8+
)#ECA&M
"Áo chàm" là hoán dụ cho nhân dân Việt Bắc, bởi đây là trang phục dân tộc
quen thuộc nơi vùng cao. Áo chàm là màu áo bền bỉ, khó phai, bình dị, đơn
sơ, mộc mạc của một vùng quê nghèo khổ mà nghĩa tình. Đây là màu áo đặc
trưng của người dân Việt Bắc, những con người tuy vất vả lam lũ nhưng vẫn
một lòng son sắt với Cách mạng và kháng chiến. Với hình ảnh áo chàm, nhà
thơ đã gợi lên hình ảnh của toàn thể những người dân Việt Bắc đã có mặt
trong buổi tiễn biệt người chiến sĩ Cách mạng về xuôi.
Có biết bao nỗi niềm, cảm xúc nhưng người ra đi lại chẳng "biết nói gì hôm
nay". Họ im lặng khi mọi lời đều bất lực, khi có rất nhiều điều muốn nói
nhưng lại không thể nói hết, nói trọn vẹn những nỗi niềm đang trào dâng
mãnh liệt. Người ra đi im lặng bởi xúc động, nghẹn ngào không nói nên lời,
bởi sự bâng khuâng bịn rịn. Và hơn hết, họ im lặng để tri ân, thấu hiểu, để lời
người ở lại ngân vang và thấm sâu vào tâm hồn.
Câu thơ cuối được ngắt nhịp 3/3/2 diễn tả sự ngập ngừng, lưu luyến lúc chia
tay. Và tất cả tình cảm người ra đi gửi gắm qua hành động "cầm tay". Cái
cầm tay không lời nous lại chất chứa bao nhiêu điều muốn nói. Trong bài thơ
"Đồng chí", nhà thơ Chính Hữu đã từng viết "Thương nhau tay nắm lấy bàn
tay." Đó là những hành động đã trở thành ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt, thể
hiện những cảm xúc trong lòng người. Cái cầm tay của người ra đi đã khẳng
định tình cảm mãi thủy chung với Việt Bắc vừa để củng cố niềm tin cho người
ở lại, động viên tinh thần giúp họ vượt lên hoàn cảnh. Cầm tay bởi sự vấn
vương, xúc động khó dứt, và dường như đó là hành động thay cho lời tạm
biệt, thay cho lời hứa sẽ mãi bền lòng, vững tâm với vùng đất và con người
nơi đây. Trong bài thơ "Hơi ấm bàn tay", Lưu Quang Vũ cũng có những câu
thơ rất tình:
,BCA#ZC
A!G6(L+>
)(#GG!SCM
Phút cầm tay của tình quân dân hay tình yêu đôi lứa, dù thế nào cũng là
những phút giây để nhớ thương:
? >F&
[7\] & 1^
[6_#A_K3YLM
Tin rằng, với "mình" và "ta", họ cũng thấy nhau bên mình, "nghe từng nhịp
thở", bởi hồi ức mười lăm năm chẳng ít ỏi để lãng quên, huống chi là hồi ức
về những tháng ngày kiêu hùng của dân tộc. Mượn thơ tình của Lưu Quang
Vũ để nói về thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu thật không cân bằng, nhưng trữ
tình trong tình thương giữa con người với con người, với tình yêu, cũng cùng
những cung bậc gần biết mấy!
Nếu những câu thơ đầu hiện lên với từ "tha thiết", thì đến đây ta lại nghe
"tha thiết", cảm xúc của kẻ ở người đi dành cho nhau quyện hòa nồng thắm.
Nhà thơ đã sử dụng thật tinh tế hệ thống từ láy dồn dập, làm nổi bật những
cảm xúc đang dâng trào,
Đọc tám câu thơ của Tố Hữu, cảm nhận "buổi phân li" thắm đượm ân tình, ta
bỗng nhớ đến câu thơ trong cảnh Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều:
/D+4`#
UKYZVQ1
Cuộc phân ly nào cũng buồn da diết đến thế, nhưng tình người, tình yêu vẫn
thắm đượm đong đầy.]
b) Nỗi nhớ da diết mênh mang với nhiều sắc thái và cung bậc khác
nhau
Nhà thơ Tagore từng bày tỏ: "Ngọn gió nhà thơ băng qua rừng, băng qua
biển để tìm ra tiếng nói của riêng mình." Tố Hữu được xem là nhà thơ lớn của
dân tộc, sớm giác ngộ Cách mạng, hăng say tham gia kháng chiến, dùng
ngòi bút để phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc. Và Tố Hữu đã tìm cho mình
một lối đi riêng, đó là lối thơ đậm đà tính dân tộc, mang khuynh hướng sử thi
và cảm hứng lãng mạn với giọng điệu ngọt ngào, tha thiết.]
Trong lời nhắn nhủ của người ở lại qua mười hai câu thơ tiếp theo, tác giả
không chỉ thể hiện nỗi trăn trở, lo lắng, băn khoăn của người ở lại mà còn
khắc họa vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, com người Việt Bắc mang đậm
màu sắc dân tộc:
AC7S
G1V+aS8$$M
Thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với sự khắc nghiệt, dữ dội, hiểm nguy trong
những hình ảnh "mưa nguồn", "suối lũ", "những mây cùng mù". Nắng lắm,
mưa nhiều, lũ quét, đất lở và quanh năm mây mù bao phủ. Bao nhiêu trở
ngại, gian khổ đã được nhà thơ khắc họa qua những ấn tượng cụ thể, sinh
động. Đó cũng chính là môi trường kháng chiến nhiều khó khăn, thử thách
mà quân và dân ta đã gắn bó trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Không những thiên nhiên khắc nghiệt mà cuộc sống ở đây lại càng thiếu thốn
hơn. Người ở lại như muốn gợi nhắc để người ra đi nhớ về những ngày tháng
gian khổ, những con người Việt Bắc như nhớ về một nơi thân thương nhất:
ABC7E
E6VV$Fb
AC7S
c+I d+(1M
Hình ảnh thơ xúc động đã diễn đạt theo hình thức tiểu đối nhấn mạnh hồi ức
về những ngày "miếng cơm chấm muối". Nhưng trong gian khổ thử thách,
Cách mạng với nhân dân cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Họ đoàn
kết sánh vai vì mục đích lý tưởng chung, luôn nung nấu "mối thù nặng vai".
Khung cảnh Việt Bắc hoang vu, vắng lặng và cuộc sống nghèo nàn "hắt hiu
lau xám" nhưng con người luôn có một lòng thủy chung sâu sắc. Họ là những
con người bình dị, thầm lặng nhưng đã hi sinh và cống hiến hết mình cho
Cách mạng, luôn gắn bó với Cách mạng từ những ngày đầu kháng chiến:
AB(7
/7 /dL(e-
AA+>7A
585!cG5 A8
Đây là kỉ niệm sâu sắc về thời kỳ gian khó khi Việt Bắc trở thành cái nôi của
Cách mạng, là căn cứ địa quan trọng của Việt Minh. Đó là những ngày tháng
đầy mất mát, hy sinh song cũng thật hào hùng của dân tộc. Nếu "Tân Trào",
"Hồng Thái" là địa danh lịch sử trọng đại, là nơi họp QUốc dân Đại hội và là
nơi làm lễ xuất quân của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, thì "mái
đình", "cây đa" lại là những hình ảnh thật bình dị, quen thuộc của làng quê
Việt Nam, là không gian sinh hoạt cộng đồng, giao lưu, hò hẹn. Điều này cho
thấy sự gắn bó sâu sắc của người dân Việt Bắc với Cách mạng, tình cảm họ
dành cho Cách mạng cũng gần gũi, thân quen như tình làng, nghĩa xóm.
Những câu hỏi ấy không chỉ gợi lại thời gian kháng chiến, nhắc lại không gian
lịch sử mà còn gợi lại những kỉ niệm chiến đấu cùng kề vai sát cánh, vào sinh
ra tử với lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm cao độ. Chính điều
này đã phản ánh vẻ đẹp phẩm chất của người ở lại - người dân Việt Bắc.
Những câu hỏi đều hướng đến người ra đi nhưng cũng có lúc người ở lại hỏi
chính lòng mình:
AB!K7
5! #$\!f*\
"Rừng núi" là hình ảnh hoán dụ để nói về những người dân Việt Bắc, những
người ở lại đang "nhớ ai", thấy vấn vương, hụt hẫng trong lòng khi phải chia
tay những người đã từng gắn bó. Câu thơ đã nói lên sự trống vắng, cô đơn,
nỗi nhớ thương của người ở lại khi mỗi người mỗi phương trời xa xôi. Họ lấy
sản vật của núi rừng để nuôi cán bộ, "trám bùi", "măng mai" để hoài niệm
quá khứ gian khổ và thấm thía nỗi buồn xa cách ở hiện tại.]
3.3. Bảy mươi (70) câu thơ tiếp theo: Lời đáp của người ra đi
a) Bốn câu đầu
Sau rất nhiều câu hỏi của người ở lại, những người ra đi trả lời liền mạch qua
bảy mươi dòng thơ như những cảm xúc bị dồn nén, chất chứa ở trong lòng
nay tuôn trào và cuộn chảy. Người ra đi đã khẳng định tình cảm thủy chung,
bền vững với Việt Bắc:
57AA7
;(1!7F
AA+>7A
/G#7gA#6M
Đại từ "mình", "ta" được sắp xếp thành "ta - mình", "mình - ta" tạo cảm giác
gắn bó, hòa quyện, khăng khít thể hiện tình cảm trọn vẹn trước sau như một.
"Đinh ninh" là sự khẳng định chắc chắn và sẽ mãi thủy chung với mảnh đất
và con người Việt Bắc.
Nếu người ở lại đã từng băn khoăn tự hỏi "mình đi mình có nhớ mình", thì
người ra đi đã hồi đáp như lời khẳng định son sắt "Mình đi mình lại nhớ
mình". Từ "mình" thứ ba để chỉ cả người ở lại cả người ra đi. Những người ra
đi không thể nào quên được Việt Bắc, quê hương của Cách mạng cũng là nơi
từng gắn bó sâu nặng.
b) Nỗi nhớ của người ra đi
/7A7D
MMMb
)-VBB1VI
Thơ ca là tiếng nói của nhịp đập con tim, là tiếng nói của cảm xúc, tình cảm.
"Thơ là nơi duy nhất để giải phóng tôi và để tôi trú ẩn" (Nguyễn Quang
Thiều). Người đọc tìm đến thơ như những tâm hồn thứ hai của mình, không
chỉ để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống mà còn tìm được
tiếng nói tri ân với tác giả. Trong bài thơ "Việt Bắc" ta cảm nhận được tình
cảm tha thiết, sâu nặng của thi nhân, của những người kháng chiến với đồng
bào Việt Bắc trong khoảnh khắc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn. Đó là nỗi nhớ
về một thời kì gian khổ nhưng "đậm đà lòng son", nỗi nhớ ào ạt như thác lũ,
vang vọng ngân nga, dội vào vách núi và dội vào trái tim người đọc.
Bài thơ Việt Bắc triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở người đi thật tự
nhiên, khéo léo. Những câu hỏi gợi nhắc của người ở lại đã khơi nguồn biết
bao kỉ niệm ùa về. Kỷ niệm kết nối kỉ niệm, kí ức gọi ký ức. Tất cả bỗng thức
dậy và chảy trong mạch cảm xúc dạt dào tưởng chừng như không bao giờ vơi
cạn. Có thể nói, nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất
cả kí ức hoài niệm của một thời gắn bó.
Nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc
Mở đầu cho bản tình ca nỗi nhớ ấy là một giai điệu ngọt ngào, say đắm của
tình yêu:
/7A7D
Tình yêu luôn đi kèm với nỗi nhớ khi xa cách. Đó là nỗi nhớ da diết, thường
trực, ám ảnh và vô cùng mãnh liệt.
/7#XX#GG
/hV+2GVM
Hay đó là nỗi nhớ cồn cào đến mức phi lý như trong cảm nhận của Xuân
Diệu:
iVI+> +A
%FY!G+>7+A7M
Hoặc như Tố Hữu cũng đã từng rất ngạc nhiên:
;>jL#_
j7jkFY_M
Với hình ảnh so sánh đầy ngọt ngào, thấm thía, Tố Hữu khiến cho nỗi nhớ
của người ra đi với đồng bào Việt bắc cũng giống như nỗi nhớ của hai người
yêu nhau, da diết, sâu lắng, cồn cào như nỗi nhớ trong tình yêu. Điệp từ
"nhớ" càng khiến cho nỗi nhớ trở nên khắc khoải, khôn nguôi như những đợt
sóng lòng trào dâng mãnh liệt.
Sau câu thơ mang hơi thở của tình yêu, cả một không gian núi rừng Việt Bắc
trải dài đã hiện lên mộc mạc, thân quen mà thi vị, lãng mạn như không gian
của tình yêu đôi lứa.]
5!*+B+
/7K#]C$1
7#EY+2DBM
Thiên nhiên Việt Bắc trở về trong nỗi nhớ của người ra đi là những đêm trăng
bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi. Ánh trăng trở thành người bạn của con
người, những người cán bộ kháng chiến. Không gian núi rừng trở nên lung
linh, hữu tình nhờ có ánh trăng soi chiếu. Đó còn là ấn tượng về những buổi
chiều ánh nắng trải dài khắp các lưng nương, hòa lẫn với màu xanh bạt ngàn
của núi rừng, tạo ra một bức tranh rất đặc trưng nơi Việt Bắc. Ánh nắng nhẹ
nhàng, phảng phất mà lan tỏa, hòa quyện, gắn bó đến kỳ lạ.
Không thể nào quên ở Việt Bắc là những bản làng ngập chìm trong sương
khói, vừa mơ hồ, huyền ảo, vừa thanh bình, yên ả lại vừa thân thương, gợi
nhớ. Những ngôi nhà thoắt ẩn, thoắt hiện trong màn sương mù bao phủ cùng
với hình ảnh "người thương đi về" tần tảo sớm hôm đã tạo ra linh hồn, sức
sống cho bức tranh thiên nhiên. Nếu câu thơ đầu họ như "người yêu" thì giờ
đây đã trở thành "người thương" trong lòng người ra đi, gần gũi, gắn bó với
nhau như những người thân ruột thịt. Đây chính là những con người đã che
chở, cưu mang cán bộ trong suốt một thời gian dài gian khó. Và nhịp sống
giản dị, đời thường của không gian nơi đây được tái hiện qua hình ảnh bếp
lửa chập chờn trong đêm đông lạnh giá như xua tan đi cái lạnh lẽo của núi
rừng và sưởi ấm tâm hồn con người.
Trong ký ức của người ra đi còn dội lại bao địa danh đong đầy kỷ niệm: Ngòi
Thia,] sông Đáy, suối Lê và cả "rừng nứa", "bờ tre" quen thuộc, gắn bó.] Đây
là những ấn tượng rất riêng chỉ có ở Việt Bắc. Gọi lại địa danh là gọi lại kỉ
niệm về nghĩa tình Cách mạng, kháng chiến làm cho kỉ niệm sống lại vẹn
nguyên, đủ đầy. Với những hình ảnh liệt kê, khiến cho người đọc cảm nhận rõ
hơn về nỗi nhớ da diết, miên man, không dứt, hết đợt này đến đợt khác như
một cuốn phim quay chậm để rồi lắng đọng trong tâm trí người ra đi là tình
cảm chân thành không thể nào quên.]
Nỗi nhớ về cuộc sống, con người
e> !-&#TE>D!Z
cZF+6SDCY!M
(Chế Lan Viên)
Đó là sứ mệnh thiêng liêng của mỗi nhà thơ, phải mở rộng hồn mình để đón
nhận những vang động của đất trời, bén rễ vào mảnh đất mang tên hiện thực
đời sống. Văn chương được nuôi dưỡng từ bà mẹ cuộc sống để trở lại làm đẹp
cho đời, bồi đắp cho tâm hồn con người. Những trang thơ của Tố Hữu đã
"nhặt lấy chữ của đời" để viết nên những tác phẩm chân thực như những
trang đời có sức lay động bao thế hệ người đọc.
Trong tiềm thức của người ra đi, không chỉ có nỗi nhớ về bức tranh thiên
nhiên thơ mộng, gần gũi nơi Việt Bắc mà còn là nỗi nhớ về hiện thực cuộc
sống và những con người nghĩa tình nơi đây:
57S
A8CT#$M
Đó là câu trả lời của những người ra đi cho câu hỏi đầy thấm thía, xúc động
của người ở lại trước khi chia tay "mình đi có nhớ những ngày". Nhớ "những
ngày" đó là những ngày cùng gắn bó, sẻ chia ngọt bùi được gói ghém từ
những ngày "kháng Nhật, thuở còn Việt Minh", trong "mười lăm năm thiết tha
mặn nồng" với "bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai". "Mình đây ta đó" tất
cả như còn hiện hữu vẹn nguyên với bao "ngọt bùi" cùng hưởng, "đắng cay"
cùng chịu trong nỗi nhớ da diết, mênh mang.]
Hồi ức về cuộc sống của những năm tháng chiến tranh ác liệt, đầy gian khổ
nơi Việt Bắc đã được nhà thơ Tố Hữu tái hiện qua thước phim quay chậm như
một cuốn sách lịch sử bằng thơ:
51+$
. 1`2*1Y$M
"Sắn lùi", "bát cơm sẻ nửa", "chăn sui" là những hình ảnh hiện thực cụ thể
phản ánh một cuộc sống vô cùng thiếu thốn, khó khăn, gian khổ. Nơi đây
không chỉ có mưa bom bão đạn của kẻ thù mà còn có cả bệnh tật, đói rét,
khổ cực, gian khó. Nhưng cũng chính từ trong đói khổ, thiếu thốn đó lại nhen
nhóm lên tình nghĩa gắn bó giữa đồng bào Việt Bắc với những người lính
kháng chiến. Một củ sắn lùi cũng chia nhau, bát cơm sẻ nửa để làm ấm lòng
nhau và một chiếc chăn sui đắp cùng để sưởi ấm] cho nhau trong đêm đông
lạnh giá. Họ không chỉ vượt qua thử thách bằng lòng dũng cảm mà còn bằng
tình yêu thương, bằng sức mạnh của tinh thần đoàn kết.]
"Thơ cần hình cho người ta thấy", đó không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên
mà còn là những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống con người nơi đây:
/7Dl +
,3+!j#`K#Y&M
Trong thơ Tố Hữu, hình ảnh người mẹ luôn là nguồn cảm hứng vô tận, những
người mẹ Việt Nam anh hùng, kiên trung song cũng rất tần tảo, chịu thương,
chịu khó và giàu đức hi sinh. Đó là hình ảnh mẹ Tơm:
)ZB8l5
cmDlXZ
),]I6
?&1^$&6Y1M
Hay đó là hình ảnh của "Bầm ơi"
.+&G'
.Q<#Q<_M
Hình ảnh người mẹ Việt Bắc cũng là hiện thân cho những bà mẹ Việt Nam,
cần cù lam lũ mà vẫn không sờn lòng, nản chí trong đấu tranh. Trong cái
nắng chói chang, mẹ vẫn nhẫn nại bền bỉ bẻ từng bắp ngô, cõng con cõng cả
nắng trời cháy lưng. Giữa cái khắc nghiệt, mênh mông của thiên nhiên "nắng
cháy lưng", mẹ vẫn "địu con lên rẫy", miệt mài với công việc lao động, âm
thầm lặng lẽ cống hiến cho cuộc Cách mạng, che chở, cưu mang cán bộ.
Đằng sau hình ảnh người mẹ, ta cảm nhận được niềm thương cảm và cả sự
cảm phục, tri ân của nhà thơ và những người kháng chiến với những con
người lao động rất bình dị mà vô cùng cao cả.
Nỗi nhớ về những sinh hoạt tập thể nơi chiến khu Việt Bắc
Những kỉ niệm kháng chiến, những sinh hoạt mang tính tập thể ở căn cứ địa
Việt Bắc thực sự đã trở thành một phần kí ức sâu đậm trong lòng người ra đi.
Vẫn mang dòng chảy của những hoài niệm, nhưng những kỉ niệm về lớp học
xóa mù chữ, những buổi liên hoan tại chiến khu mang lại màu sắc tươi vui,
náo nức:
/71+7YTD
,GV1 SD+M
Điệp ngữ "nhớ sao" nghe bâng khuâng, da diết như luyến tiếc hụt hẫng trong
lòng người ra đi. Những cán bộ Cách mạng đến vùng cao đâu chỉ gây dựng
kháng chiến mà còn gieo chữ nơi bản xa, đem ánh sáng văn hóa đến làng
xóm. Những lớp học "i tờ" là hình ảnh quen thuộc của phong trào "bình dân
học vụ", xóa mù chữ cho đồng bào Việt Bắc và những người chiến sĩ lại trở
thành thầy giáo tận tụy, giàu tình yêu thương. Tiếng đánh vần ê a, nét chữ
còn vụng về nhưng những gương mặt vô cùng háo hức, say mê khi được học
con chữ của Cách mạng, của Bác Hồ là ấn tượng không thể phai nhòa trong
lòng người ra đi.
Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ có niềm hạnh phúc chinh phục được tri
thức mà còn đầy ắp niềm vui trong sinh hoạt tập thể. Ý thơ "đồng khuya
đuốc sáng những giờ liên hoan" gợi ta nhớ đến "doanh trại bừng lên hội đuốc
hoa" trong "Tây Tiến" của Quang Dũng. Cuộc sống nơi chiến khu dẫu gian
khổ nhưng luôn ấm áp, nghĩa tình, trái tim mỗi người luôn rực sáng niềm lạc
quan tin tưởng:
/71 Q
%bDjkM
Đời lính nhiều gian khổ song họ luôn lạc quan, yêu đời. Gác lại những mất
mát, hy sinh nơi chiến trận, quên đi tiếng súng đạn, hiểm nguy, những người
kháng chiến đã cùng với đồng bào Việt Bắc hòa nhịp vào đêm hội liên hoan
trong ánh sáng lung linh, diệu kì của bó đuốc rực rỡ khắp núi rừng. Tinh thần
trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, phong trào "Tiếng hát át tiếng
bom" thực sự thấm sâu vào nhận thức của mỗi người. Những lời ca tiếng hát
được vang lên rộn ràng, vui tươi như xua tan đi bao mệt nhọc, gian khổ, khơi
gợi và thắp lên niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng. Đây chính là
động lực để những người Cách mạng và đồng bào Việt Bắc vượt qua mọi thử
thách, đẩy lùi mọi khắc nghiệt, hiểm nguy, sẵn sàng đối mặt với tất cả.
Khép lại những thước phim về cuộc sống chiến khu giản dị, nghĩa tình là âm
thanh quen thuộc thân thương:
/71En!KB
)-VBB1VIM
Hai câu thơ như vọng lên khúc nhạc đồng quê, mỗi một âm thanh lại gợi mở
bức họa bình dị mà yên ả, thơ mộng. Đó là tiếng mõ rừng chiều giục đàn trâu
về trong niềm vui háp hức của đám trẻ mục đồng, là tiếng giã gạo đêm
khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi
rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Lời thơ dứt mà âm
thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa. Với điệp từ "nhớ" khiến
cho cảm xúc của thi nhân như một dòng chảy mênh mông, bất tận, thấm sâu
vào tâm hồn độc giả.
c) Bức tranh tứ bình
5BAC7
MMM
/7E 8AM
"Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo
xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập" (Marcell Proust) Quả thật vậy!
Tố Hữu đã mang theo một luồng gió mới đến cho nền thơ ca Cách mạng Việt
Nam. Đó là một Tố Hữu với phong cách thơ trữ tình - chính trị với giọng điệu
ngọt ngào tha thiết chân thành. Từ một sự kiện chia tay mang tính lịch sử trở
thành cuộc chia tay của hai người yêu nhau đầy luyến lưu bịn rịn. Bao cảm
xúc dồn nén, bao nhiêu nỗi nhớ chất chồng để rồi những vần thơ đẹp nhất về
thiên nhiên và con người Việt Bắc ra đời.
Đoạn thơ được đánh giá là tuyệt bút của bài thơ, tập trung khắc họa bức
tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc. Một câu nói về thiên nhiên, lại đến
một câu nói về con người cứ thế hòa quyện, gắn bó khăng khít. Cảnh vật làm
nền cho con người, thổi hồn vào cảnh vật tạo ra vẻ đẹp đặc trưng riêng cho
không gian nơi đây. Có thể thấy ngay thi sĩ tạo hình theo lối xây dựng bộ
tranh tứ bình - một hình thức rất phổ biến của nghệ thuật cổ điển. Hoa và
người soi chiếu cho nhau, tôn vinh lẫn nhau. Bức tranh dường như đã tái hiện
trọn vẹn đầy đủ nhịp vận hành luân chuyển của thiên nhiên và con người
Việt Bắc.
Và mở đầu cho đoạn thơ tứ bình là câu hỏi của người ra đi đầy ngọt ngào,
mang hơi] thở của tình yêu:
5BAC7
5B7S$DM
Câu hỏi thực ra chỉ là cái cớ để bộc lộ nỗi niềm xao xuyến nhớ nhung phút
chia li. Hỏi nhưng không cần câu trả lời, hỏi để rồi khẳng định ngay sau đó
"ta nhớ những hoa cùng người". Nhớ "hoa" là hình ảnh hoán dụ để nói về nỗi
nhớ thiên nhiên bên cạnh nỗi nhớ về con người, là một phần không thể thiếu
trong ký ức người ra đi. Với mật độ sử dụng đại từ "mình - ta" và điệp từ
"nhớ" như nhấn mạnh nỗi nhớ đang đầy ắp trong lòng tạo ra cảm giác vấn
vương đến lạ.
Khung cảnh Việt bắc mở ra trong nỗi nhớ của người ra đi là bức tranh thiên
nhiên mùa đông với sự hòa phối màu sắc tuyệt vời:
UKIV0
,k +M
Trên cái nền xanh thẫm, bạt ngàn của rừng già là màu đỏ tươi của hoa chuối
như những ngọn đuốc thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn. Cái màu đỏ ấm nóng
của hoa chuối đã đẩy lùi vẻ thâm u, trầm lắng và cái lạnh lẽo của không
gian, làm cho thiên nhiên trở nên bừng sáng, ấm áp hơn. Bên cạnh đó là thấp
thoáng những đốm nắng với màu vàng rất nhẹ đang phảng phất nơi đồi
nương, cây rừng làm cho bức tranh mùa đông thêm phần tươi tắn. Sự pha
trộn giữa màu xanh của rừng già, màu đỏ tươi của hoa chuối và màu vàng
ấm áp của nắng đã tạo nên một bức họa thật thơ mộng, đầy cuốn hút thay vì
sự khắc nghiệt, giá lạnh của màu xanh.]
Con người Việt Bắc hiện lên trong tư thế lao động thật khỏe khoắn, đẹp đẽ
"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Giữa cái hùng vĩ của núi rừng với gập
ghềnh cheo leo dốc núi, những người lao động vẫn thật hiên ngang như đang
làm chủ và chế ngự thiên nhiên. Với con dao đi rừng sáng loáng gài ngang
lưng, với sáng vẻ lồng lộng trên đèo cao đầy nắng, tầm vóc con người như
lớn lao, rắn rỏi hơn giữa núi rừng Việt Bắc. Đây cũng là tư thế của người lính
trong bài "Lên Tây Bắc" mà Tố Hữu đã ngợi ca:
"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh núi cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với núi đèo."
Nếu mùa đông Việt Bắc hiện lên với hình ảnh của hoa chuối đỏ tươi thì mùa
xuân về núi rừng như được khoác lên mình một chiếc áo mới, một màu]trắng
bạt ngàn phủ đầy không gian.
/I8L!!K
/7DCVK1^M
Cả cánh rừng Việt Bắc ngập tràn sắc trắng của hoa mơ. Màu trắng gợi lên sự
tinh khôi, trong trẻo như hiện thân cho vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của
con người nơi đây. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của hoa mơ thể hiện sức sống mãnh
liệt của thiên nhiên, nó đang bung nở, dâng sắc, tỏa hương cho cả núi rừng.
Với sự lan tỏa, trải dài của màu trắng hoa mơ làm cho bức tranh thiên nhiên
trở nên bừng sáng, tạo ra nét rất riêng ở Việt Bắc. Và nhà thơ Tố Hữu đã "hơn
một lần" nhắc đến sắc trắng của hoa mơ:
"Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ."
] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ] ]
("Theo chân Bác")
Hay trong bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên", nhà thơ cũng từng viết:
K5cG)c;
c+>!D+>M
Trên cái nền của thiên nhiên mùa xuân, con người]hiện ra trong hình ảnh
"đan nón chuốt từng sợi giang", một công việc đòi hỏi sự cần mẫn, chăm chỉ,
tài hoa và khéo léo đến từng chi tiết. Bao nhiêu sản phẩm tinh tế đã được tạo
ra từ bàn tay lao động thô sơ mà thật kì công ấy. Sau này, nhà thơ Y Phương
cũng đã nói đến vẻ đẹp đó]của "người đồng mình" trong bài thơ "Nói với con"
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát."
Trong bức tranh tứ bình về Việt Bắc, nhiều người cho rằng mùa hè đẹp nhất
bởi nó có sự kết hợp cả hình ảnh và âm thanh, thỏa mãn thị giác và thính
giác, đẹp bởi sự hòa quyện giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, tạo ra một chuỗi
vận động liên hoàn:
e_!KY X
/7&_ *"AM
Âm thanh của tiếng ve làm không gian ngày hè trở nên rộn rã, náo nức, vui
tươi. Tiếng ve kêu gọi mùa hè rất tinh tế, không chỉ thể hiện được nhịp bước
của thời gian từ xuân sang hè mà còn diễn tả được sự chuyển đổi màu sắc.
Trong thơ ca, cũng không hiếm những nhà thơ nói lên sự vận động của thời
gian qua sự thay đổi của màu sắc. Đó là Xuân Diệu trong bài "Đây mùa thu
tới"
"Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh"
Hay đó là Nguyễn]Bính trong bài "Tương tư"
"Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng."
Nếu từ "rũa" thể hiện quá trình xâm lấn dần, sắc đỏ đang bào mòn dần màu
xanh, từ "nhuộm" diễn tả quá trình ấy đã hoàn tất, thì từ "đổ" lại chứng tỏ
một sự vận động nhanh chóng, đồng loạt từ màu xanh sang vàng. Cả cánh
rừng Việt Bắc trở nên lung linh, lộng lẫy bởi cái màu vàng trải dài, kiêu sa
đầy bắt mắt.
Hình ảnh cô gái "hái măng một mình" là linh hồn của bức tranh mùa hè. Cách
gọi "cô em gái" nghe thật thân thương, gần gũi, tình mến như anh em ruột
thịt trong gia đình. Cô gái ấy đang "một mình" miệt mài trong lao động "hái
măng", âm thầm, lặng lẽ góp sức mình cho cuộc kháng chiến từ những điều
bình dị, nhỏ bé. Đó là những con người bình dị mà cao cả "Không ai nhớ mặt
đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước". (Nguyễn Khoa Điềm)
Bấm Tải xuống để xem toàn bộ.