Phân tích bài thơ Việt bắc của Tố Hữu hay nhất | Văn mẫu 12

"Việt Bắc" là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu bước lên." Tác phẩm không chỉ là khúc hùng ca chiến đấu mà còn là khúc tình ca dân tộc. Bên cạnh đó, "Việt Bắc" còn là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu - lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Kính mời quý bạn đọc tham khảo bài mẫu Phân tích bài thơ Việt Bắc chọn lọc hay nhất, hy vọng tài liệu này giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem

Phân tích bài thơ Việt Bc hay và Cht
Dàn ý chi tiết
1. M bài
Gii thiu tác gi T Hữu bài thơ Việt Bc. (T Hu một nhà thơ lớn
nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Mt trong nhng sáng tác
tiêu biu của ông la bài thơ Việt Bc.)
2. Thân bài
Tác gi
T Hu mt trong nhng c đầu ca nền văn nghệ cách mng Vit Nam.
Thơ ông thể hin l sống, tưởng, tình cm cách mng của con người Vit
Nam hiện đại.
Thơ Tố Hu mang tình cht tr tình chính tr sâu sắc: Hướng đến cái chung v
l sng ln, tình cm ln, nim vui ln của con người Cách mng và ca cn
tc, coi nhng s kin chính tr ln của đất nước là đối tượng th hin ch yếu,
luôn đề cập đến nhng vấn đề có ý nghĩa lịch s và có tính toàn dân.
Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thm, chân thành; vn dng nhng th
thơ truyền thng ca dân tc, s dng cách nói quen thuc vi dân tộc. Đặc
biệt ông phát huy cao độ tính nhc phong phú ca tiếng Vit, t láy, thanh điệu,
vần thơ,…
Tập thơ Việt Bc
Tập tlà tiếng ca hùng tráng, thiết tha v cuc kháng chiến chng thc dân
Pháp và những con người kháng chiến.
Ca ngợi Đảng và Bác H, tình quân - dân, tin tuyến - hậu phương, miền xuôi -
ngưc, cán b - qun chúng, nhân dân vi lãnh t, thiên nhiên, đất nước con
ngưi,...
Kết thúc bng nhng bài ca hùng tráng, vang di phn ánh khí thế chiến thng
hào hùng ca dân tc.
“Mình về mình có nh ta?
ời lăm năm ấy thiết tha mn nng.
Mình v mình có nh không?
Nhìn cây nh núi, nhìn sông nh nguồn.”
Li của người Vit Bc hỏi người ra đi, khơi gợi nhng k niệm đã qua.
Câu hi tu t “Mình về mình nh ta?”, cách xưng “mình - ta” quen thuc
trong lối đối đáp dân gian th hiện được cm xúc dâng trào cùng ni lòng ca
ngưi li.
“Mười lăm năm” khong thời gian đủ dài đ giữa người đi và kẻ thu hiu nhau,
có vi nhau nhng k niệm đáng nhớ.
“thiết tha mn nồng”: tình cm giữa người dân Vit Bắc người cán b chiến
thy chung, sâu sắc, keo sơn, bền cht.
Hai câu tsau là li nhc nh người ra đi về thiên nhiên, con người Vit Bc.
Hình nh “núi, sông” s vn dng tài tình ca tác gi vi câu tc ng “Ung
c nh nguồn” để nhc nh người ra đi v Vit Bc - ci ngun ca Cách mng,
là nơi chúng ta đã cùng nhau đồng cam cng kh chiến đấu và giành chiến thng.
Ngưi li m li gi nhc nh người ra đi về khong thi gian gn
nhng k nim cùng nhau.
“Tiếng ai tha thiết bên cn
Bâng khuâng trong d, bn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Tiếng lòng của người của người v xuôi mang trong mình s quyến luyến, ni
nh thương, bịn rn.
“tha thiết”: s cm nhn của người ra đi trước tình cm của người li.
“bâng khuâng”: nh nhung, luyến tiếc, bun vui ln ln, “bn chn” din t s
day dt, nô nao trong lòng khiến bước đi ngập ngng.
Người ra đi cùng lưu luyến Vit Bc, na muốn đi, nửa mun , bn rn,
phân vân.
“áo chàm” la hình nh hoán d ợng trưng cho những người dân Vit Bc gin
d, mc mc, chất phác đưa tiễn người chiến sĩ về min xuôi.
“phân li” tuy chia cách nhưng trong lòng vẫn luôn hướng v nhau, vn dành trn
vn tình cm cho nhau hn ngày gp li.
“Cm tay nhau biết nói hôm nay…”: không phải không gì đ nói vi nhau
rt nhiều điều mun nói vào gi phút chia li ấy nhưng không nói thành li.
Mt cái cm tay thay cho tt c nhng li mun nói. Phép im lng (dấu “…”) cuối
câu làm cho không gian ca buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng th hiện được
ni bun, quyến luyến giữa người đi và kẻ .
Không gian chia tay đầy bn rn.
- Mình đi, có nhớ nhng ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình v, có nh chiến khu
Miếng cơm chấm mui, mi thù nng vai?
Mình v, rng núi nh ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ nhng nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình v, còn nh núi non
Nh khi kháng Nht, thu còn Vit Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Li của người li hỏi người ra đi v nhng k nim trong khong thi gian 15
năm gắn bó.
“Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”: khung cnh núi rng ảm đm trong
những ngày đầu chiến đấu.
Miếng cơm chấm mui, mi thù nặng vai”: s đng cam cng kh t qua gian
khó, cùng chung lưng đấu cật để chng li k thù.
“rng núi nh ai” bin pháp ngh thut nhân hóa th hin tình cm ca thiên
nhiên Vit Bc với người ra đi: ngay đến c thiên nhiên cũng gắn bó và yêu thương
sâu nng với người ra đi.
“Trám bùi đ rụng, măng mai để già”: th hin s khó khăn một cách dm:
ngưi chiến phải hái nhng qu rừng đ ăn thay cơm thiếu thn. Khi h ra đi,
nhng cây trái y ch còn lại đứng bơ vơ giữa trời đất.
“hắt hiu lau xám/ đậm đà lòng son”: bin pháp ngh thuật đối lp (ht hiu - đậm
đà) biểu hin chân tht cuc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Vit Bắc nhưng
trong lòng vn thy chung son st vi cách mng.
“Mình đi mình nhớ mình”: người nhn nh với người về, đến đây không còn
cách xưng “mình - ta” na chuyn thành “mình - mình” chứng minh người
dân Vit Bắc và người chiến sĩ như hòa vào làm một.
- Ta vi mình, mình vi ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nh mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”
Lời đáp lại của người ra đi trước tình cm của người li.
Nời ra đi khẳng định tm lòng thy chung son sắt trước sau như một ca mình
với người li qua t “đinh ninh”.
Nời ra đi luôn nhớ v người li, ni nh ấy luôn đong đầy như nước đầu
ngun không bao gi vơi đi.
“Nh gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nng chiều lưng nương
Nh tng bản khói cùng sương
Sm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nh tng rng na b tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Ni nh người dân Vit Bắc được như nh người yêu, luôn thưng trc trong
trái tim bt k ngày hay đêm.
Ni chiến nhớ v nhng k nim gn vi nhân dâm thiên nhiên Vit
Bc: những đêm trăng, nương ry tràn ngp ánh nng, nhng bn làng tràn ngp
trong làn khói thổi cơm chiều, những con người cn mẫn, chăm chỉ “đi sớm v
khuya” nơi đây.
Ni nh ấy được khc ha chi tiết nhất khi người chiến nhớ v c th tng
rng na, b tre, ngòi Thia, sông Đáy.
“Ta đi, ta nhớ nhng ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngt bùi...
Thương nhau, chia củ sn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nh người m nắng cháy lưng
Ðu con lên ry b tng bp ngô
Nh sao lp hc i t
Ðồng khuya đuốc sáng nhng gi liên hoan
Nh sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vn ca vang núi đèo.
Nh sao tiếng mõ rng chiu
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Nời ra đi bày tỏ ni lòng, ni nh ca mình.
Nời ra đi nhớ v những ngày cùng người dân chiến đấu gian kh: chia nhau c
sắn, bát cơm s na, chia s nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng luôn đoàn
kết, đồng lòng chiến đấu.
Ni nh dâng trào, người chiến nhớ v ngưi m dân tộc vùng nơi đây địu con
nh lên ry, nhng lp bình dân hc v, nhng gi liên hoan vui v, nhng ngày
quan tuy gian nan nhưng vn lc quan, vui v hát vang bài ca, nhng tiếng
chiều đuổi trâu v nhà c nhng tiếng nn chày giã go những đêm trăng phục
v cách mng.
Tt c đều là nhng k niệm đẹp đẽ không th nào phai.
“Ta về, mình có nh ta
Ta v ta nh những hoa cùng người
Rng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trng rng
Nh người đan nón chuốt tng si giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nh cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nh ai tiếng hát ân tình thu chung.”
10 câu thơ là bức tranh t bình (xuân, hạ, thu, đông) của Vit Bc.
2 câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình luôn nh v thiên nhiên con ngưi
Vit Bc.
Mùa đông: “hoa chuối đỏ tươi” điểm cho khu rừng xanh, hòa vào đó ánh
nng vàng làm cho bức tranh mùa đông của Vit Bc thêm hài hòa màu sc.
Mùa xuân: “mơ n trng rừng” mùa xuân Vit Bắc đặc trăng màu trng tinh
khiết ca ca rừng hoa mơ, giữa khung cảnh thơ mộng y hình ảnh con người
cn mn, t m, khéo léo chut tng sợi giang để đan nón.
Mùa h: “ve kêu rừng phách đổ vàng” tiếng ve quen thuc ca mùa gia rng
hoa phách vàng gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đ lên rng g
xanh khiến tt c chuyn sang mt màu vàng m áp.
Mùa thu: “rừng thu trăng rọi hòa bình” ánh tng Vit Bc mùa thu cùng yên
bình, trong tro gi cm giác thanh mát, hòa vào khung cảnh đó là tiếng hát ân tình
thy chung của người dân dt dào tình cm.
Hình nh hòa hp giữa thiên nhiên và con người to nên bc tranh Vit Bc
cùng xinh đẹp khiến người ta nh mãi.
“Nh khi giặc đến gic lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ st dày
Rng che b đội rng vây quân thù
Mênh mông bn mt sương mù
Ðt tri ta c chiến khu một lòng.”
Ni chiến sĩ nhớ v nhng ngày tháng chiến đấu gian kh.
C “rừng cây núi đá” và con người cùng đồng lòng đánh giặc.
Nhân hóa: “núi giăng, rừng che” thiên nhiên tr thành nhng chiến hu khng l
dc hết sc lc che chn, bo v b đội khi quân thù, cùng b đội ta bao vây, tiêu
dit chúng.
C đất trời và con người đồng lòng đánh giặc.
“Ai về ai có nh không?
Ta v ta nh Ph Thông, đèo Giàng
Nh sông Lô, nh ph Ràng
Nh t Cao - Lng nh sang Nh …”
Câu hi tu t cũng là lời khẳng định của người ra đi sẽ luôn nh v những địa danh
chiến đấu (Ph Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao - Lng, Nh Hà) Vit
Bc.
“Những đường Vit Bc ca ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuc từng đoàn
ớc chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bc, Ðin Biên vui v
Vui t Ðng Tháp, An Khê
Vui lên Vit Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Động t mnh “rm rập, đất rung, nát đá”: din t ngày Vit Bc ra trận tràn đy
khí thế, tưởng như mặt đất đang rung chuyển dưới nhng bàn chân ca nhng
ngưi chiến sĩ trong cuộc hành quân vĩ đại t khp các ng đưng.
T láy “điệp điệp, trùng trùng”: miêu t khí thế, quyết tâm, sc mnh tinh thn
của hàng nghìn con người ra trn.
“Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”: tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh gic
to nên sc mạnh đại đoàn kết dân tc có th làm bt c điu gì ln lao.
Hình ảnh đi lp “thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng…”: khẳng định nim
tin, lạc quan, luôn tin tưởng vào thng li ca cuc chiến đu, của ngày mai tươi
sáng.
Sau những khó khăn, nhng gi phút cùng nhau chiến đấu vt v, kh cực, đến
cuối cùng quân và dân ta đã dành được nhng chiến thng to ln t khp các mt
trn trên c c (Hoà Bình, Tây Bc, Ðin Biên, Ðng Tháp, An Khê, Vit Bc,
đèo De, núi Hồng).
Khẳng đnh vai trò ca Vit Bắc: quê hương, căn cứ địa vng chc ca
cách mạng, đu não ca cuc kháng chiến, nơi hội t bao tình cảm, suy nghĩ,
nim tin và hi vng ca mọi người Việt Nam yêu nước.
“Ai về ai có nh không?
Ngn c đỏ thm gió lng ca hang.
Nắng trưa rực r sao vàng
Trung ương, Chính phủ lun bàn vic công
Ðiu quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông m đưng
Gi đê, phòng hạn, thu lương
Gi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Nời ra đi nhớ v những ngày tháng cùng đồng đội căn cứ địa chiến đấu:
Nhng ngày nng vàng rc r tung bay lá c đỏ sao vàng.
Nhng gi đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược chiến đấu, điều quân cho nhng chiến
dch.
Khí thế chiến đấu hng hc ca tin tuyến hậu phương, thể hin tinh thn
đồng lòng, quyết tâm đánh giặc không ch ca những người chiến khu ca
c dân tộc, đất nước, con người Vit Nam.
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Vit Bc: C H sáng soi
đâu đau đớn ging nòi
Trông v Vit Bc mà nuôi chí bn.
ời lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dng nên Cng hoà
Mình v mình li nh ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Khẳng định vai trò ca Vit Bắc: quê hương, căn c địa vng chc ca cách
mạng, là đu não ca cuc kháng chiến, nơi hội t bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin
và hi vng ca mi người Việt Nam yêu nước.
li khẳng định của người ra đi sẽ luôn nh v 15 năm kháng chiến gian kh để
ly lại độc lập cho nước nhà luôn nh v những con người, thiên nhiên đa
danh nơi đây.
Tình cm thiết tha, gn bó sâu nng.
Tng kết v ni dung, ngh thut
Ngh thut
Ngh thut biu hin của đoạn thơ đậm đà tính dân tộc:
Phát huy nhiu thế mnh ca th thơ lục bát truyn thng.
Nhịp thơ uyển chuyn, linh hot, d nh, thấm sâu vào tâm tư.
Ngôn ng gin d, mc mc.
Th hin cht tr tình chính tru sc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hu:
Chính trị: đề tài cuc kháng chiến, vn mệnh đất nước,...
Tr tình: so sánh tình cm ca cán b và nhân dân như tình yêu, xưng hô mình,
ta, li l giàu tình cm.
Ni dung:
Ca ngi tình cm sc son, chung thy của quân (người ra đi) và dân ta (người
li).
Th hiện lòng yêu nước ca lp lp thế h con người.
Nhc nh người đời sau biết trân trng nền độc lp này.
3. Kết bài
Khẳng định li giá trị, ý nghĩa của bài thơ: bài thơ đóng góp một phn to ln vào
thành công của nên văn học Việt Nam để li ấn tượng sâu sc trong lòng nhiu
thế h bn đọc.
Bài mẫu phân tích bài thơ Việt Bc
Nhng ngày tháng chiến đấu chng thực dân Pháp đy gian kh ca nhân dân ta
cuối cùng cũng dành được thng li vô cùng v vang, huy hoàng. Đ làm nên
thành công đó không th không nhắc đến đóng góp của thơ văn cổ cách mạng
nêu lên tinh thần đấu tranh, khí thế hng hc ca nhân dân ta. T Hu chính là mt
nhà thơ ln, nhng tác phm cùng ni bt giai đoạn này. Mt trong nhng
tác phm tiêu biu ca ông nói v tình cảm khăng khít, gn sâu nng gia quân
và dân ta là bài thơ Việt Bc.
T Hu mt trong nhng c đầu ca nền văn nghệ cách mng th hin l
sống, lí tưởng, tình cm ca con người Vit Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm cht
tr tình chính tr sâu sắc: hướng đến cái chung v l sng ln, tình cm ln, nim
vui ln của con người Cách mng ca c dân tc, coi nhng s kin chính tr
ln ca đất nước đối tượng th hin ch yếu, luôn đề cập đến nhng vấn đề ý
nghĩa lịch s tính toàn dân. Bên cạnh đó, ông còn nhà thơ khéo léo trong
vic kết hp các bin pháp ngh thut: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đm
thm, chân thành; vn dng nhng th thơ truyền thng ca dân tc, s dng cách
nói quen thuc vi dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao đ tính nhc phong phú ca
tiếng Vit, t láy, thanh điệu, vần thơ,…
Tập thơ Việt Bc là mt trong nhng sáng tác vô cùng ni tiếng của ông. Bài thơ
tiếng ca hùng tráng, thiết tha v cuc kháng chiến chng thc dân Pháp
những con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác H, tình quân - dân, tin tuyến
- hậu phương, min xuôi - ngưc, cán b - qun chúng, nhân dân vi lãnh t, thiên
nhiên, đất nước con người,…
M đầu đoạn trích khung cnh chia tay của người lại người chiến ra đi,
tr v min xuôi:
“Mình về mình có nh ta?
ời lăm năm ấy thiết tha mn nng.
Mình v mình có nh không?
Nhìn cây nh núi, nhìn sông nh nguồn.”
Ngưi li m li bắt đầu cho cuộc đối thoi giữa người đi - k trong khung
cảnh chia tay. Bao nhiêu suy tư, trăn tr của người lại được gi gm vào nhng
câu hỏi dành cho người ra đi: liệu rằng người ra đi nhớ v khong thi gian
ời lăm năm gắn thiết tha, mn nồng đã qua hay không? nh v con
người, thiên nhiên, căn cứ đầu não cách mng của nơi này hay không? Chỉ vi bn
câu thơ nhưng người dân Vit Bắc đã tái hin toàn b những hai bên đã với
nhau: đóthời gian dài đằng đẵng, là nhng k nim đã cùng nhau. T Hu
cùng khéo léo khi vn dụng cách xưng hô “mình - ta” vốn được dùng trong lối đối
đáp xưa vào bài thơ của mình cùng vi câu hi tu từ, điệp t “nhớ” càng gây n
ng vi bạn đọc v nét gin d, mc mạc nhưng cùng chân thành ca con
người nơi đây.
Trước tình cm, s trân thành của người dân Vit Bắc, người ra đi bịn rn không
nói nên li:
- Tiếng ai tha thiết bên cn
Bâng khuâng trong d, bn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Nhng tính t “tha thiết, bâng khuâng, bn chn” đã din t cùng chính xác,
chân thc tình cm của người ra đi trước gi phút chia tay đầy quyến luyến. Có th
thy, bốn câu thơ vùng đt trù phú ca các bin pháp ngh thut. Bên cnh vic
s dng tính t, T Hữu đã s dng cùng thành công trong vic s dng bin
pháp ngh thut hoán dụ: mượn hình nh áo chàm - vt dng quen thuc với người
nông dân để ch những con người lao động cht phác ca mảnh đất này. Vào
khonh khắc chia tay đầy xúc động ấy, người đi kẻ bn rn, quyến luyến không
nói nên li. Tt c tình cảm được th hin qua cái cm tay, bi khong thi gian
ời lăm năm gắn đã đủ làm h hiu nhau, ch cn nhìn vào mắt nhau cũng
th thu hiểu tâm tình cảm của người còn li. Phép im lng (dấu “…”) cuối câu
làm cho không gian ca buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng cũng đ c hai
nh v thi gian bên nhau:
- Mình đi, có nhớ nhng ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình v, có nh chiến khu
Miếng cơm chấm mui, mi thù nng vai?
Mình v, rng núi nh ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ nhng nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình v, còn nh núi non
Nh khi kháng Nht, thu còn Vit Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Trong không gian tĩnh lặng ca bui chia tay ấy, người li m li, hỏi người ra đi
v nhng k nim trong khong thời gian mười lăm năm gắn bó. Bao nhiêu suy tư,
trăn trở đến đây đã bật ra thành câu hi. Đó nhng li nhc nh v nhng ngày
“mưa nguồn suối lũ, mây cùng mù”, v miếng cơm chấm mui”tuy khó khăn
gian kh nhưng vẫn luôn vui vẻ, đoàn kết mt lòng mt d đu tranh. Khi người
chiến về min xuôi, không ch con người nơi đây hụt hng ngay c thiên
nhiên cũng (trám bùi đ rụng, măng mai để già). bên cnh vic nhc nh
người ra đi v thiên nhiên, ngưi lại cũng nhắc người ra đi nhớ v chính mình:
“mình đi nhớ nhng nhà/ Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” v nhng k
nim nơi đây: Nh khi kháng Nht, thu còn Việt Minh”. Đến đây không còn
cách xưng mình - ta na chuyển sang xưng mình - mình. Nời ra đi và
ngưi lại như hòa vào làm một.
Tc nhng câu hi, li nhc nh của người li cuối cùng, người ra đi cũng lên
tiếng:
- Ta vi mình, mình vi ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nh mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”
Nời ra đi khẳng định tm lòng thy chung son sắt trước sau như một ca mình
với người li qua t “đinh ninh”. Nời ra đi luôn nhớ v ngưi li, ni nh y
luôn đong đầy như nước đầu ngun không bao gi vơi đi.
Nh gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nng chiều lưng nương
Nh tng bản khói cùng sương
Sm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nh tng rng na b tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Ni nh ngưi dân Vit Bc của người ra đi được như nhớ người yêu, luôn
thưng trc trong trái tim bt k ngày hay đêm. Ni chiến nhớ v nhng k
nim gn bó vi nhân dân và thiên nhiên Vit Bc: những đêm trăng, nương ry
tràn ngp ánh nng, nhng bn làng ngp trong làn khói thổi cơm chiều, nhng con
ngưi cn mẫn, chăm chỉ “đi sớm v khuya” nơi đây. Ni nh ấy được khc ha
chi tiết nhất khi người chiến nh v c th tng rng na, b tre, ngòi Thia,
sông Đáy.
“Ta đi, ta nhớ nhng ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngt bùi...
Thương nhau, chia củ sn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nh người m nắng cháy lưng
Ðu con lên ry b tng bp ngô
Nh sao lp hc i t
Ðồng khuya đuốc sáng nhng gi liên hoan
Nh sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vn ca vang núi đèo.
Nh sao tiếng mõ rng chiu
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Nời ra đi nhớ v những ngày cùng người dân chiến đấu gian kh: chia nhau c
sắn, bát cơm s na, chia s nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng luôn đoàn
kết, đng lòng chiến đu. Ni nh dâng trào hơn khi người chiến nh v người
m dân tộc vùng nơi đây đu con nh lên ry, nhng lp bình dân hc v, nhng
gi liên hoan vui v, nhng ngày quan tuy gian nan nhưng vẫn lc quan hát
vang bài ca, nhng tiếng chiều đuổi trâu v nhà và c nhng tiếng nn chày giã
go những đêm trăng phục v cách mng. Tt c đều nhng k niệm đẹp đẽ
không th nào phai trong lòng người chiến sĩ.
“Ta về, mình có nh ta
Ta v ta nh những hoa cùng người
Rng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trng rng
Nh người đan nón chuốt tng si giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nh cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nh ai tiếng hát ân tình thu chung.”
th nói, đây những vần thơ, ý thơ đẹp đ nhất người ra đi dành cho con
ngưi và thiên nhiên Vit Bc. Hai câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình luôn
nh v thiên nhiên và con người nơi đây. M đầu bc tranh t bình ca Vit Bc là
hình nh “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm cho khu rng xanh thêm rc r màu sc, hòa
vào đó ánh nng vàng làm cho bức tranh mùa đông của nơi đây không chỉ ngp
tràn màu sc còn cùng m áp. Mùa xuân được khc ha với đặc trưng“mơ
n trng rừng” vi mt màu trng tinh khiết, gia khung cảnh thơ mộng y là hình
ảnh con người cn mn, t m, khéo léo chut tng sợi giang để đan nón. Khép li
bức tranh mùa xuân cũng là lúc bước vào mùa hè vi tiếng “ve kêu rừng phách đ
vàng” gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đ lên rng g xanh
khiến tt c chuyn sang mt màu vàng rc r. Khép li bc tranh t bình là mùa
thu vi hình nh “rừng thu trăng rọi hòa bình” cùng yên bình, trong tro gi
cm giác thanh mát, hòa vào khung cảnh đó tiếng hát ân tình thy chung ca
ngưi dân dt dào tình cm. Bc tranh t bình không ch giúp ta tưởng tượng ra
thiên nhiên tươi đẹp nơi đây còn giúp ta hiểu hơn về con người Vit Bắc cũng
như thêm yêu mến nơi này. Sở mở đầu bức tranh là mùa đông lnh lo kết
thúc bằng mùa thu hòa bình ngưi chiến chia tay đồng bào Vit Bc quay v
th đô vào mùa đông nên ni nh đưc bt ngun t đó. Không nhng vy, nó còn
mang dụng ý: mùa đông khi đất nước ta chìm trong kiếp lm than, l khi b
xâm lược, mùa xuân là giai đoạn chun b cho cuc cách mng, mùa h là khi cuc
chiến sôi ni din ra và mùa thu là mùa ta giành lại độc lp.
Ngoài bc tranh t bình, người ra đi còn nhớ v nhng ngày tháng chiến đấu gian
kh:
“Nh khi giặc đến gic lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ st dày
Rng che b đội rng vây quân thù
Mênh mông bn mt sương mù
Ðt tri ta c chiến khu một lòng.”
K nim v nhng ngày chiến đấu hin v trong c của người li. C “rng
cây núi đá” con người đồng lòng đánh gic. Bin pháp ngh thut nhân hóa:
“núi giăng, rừng che” đã làm cho thiên nhiên trở thành nhng chiến hu khng l
dc hết sc lc che chn, bo v b đội khi quân thù, cùng b đội ta bao vây, tiêu
dit chúng. C đt trời con người đồng lòng đánh giặc mong đợi ngày kháng
chiến thng li th hin quyết tâm cao độ của đầu não chiến khu này.
“Ai về ai có nh không?
Ta v ta nh Ph Thông, đèo Giàng
Nh sông Lô, nh ph Ràng
Nh t Cao - Lng nh sang Nh …”
Câu hi tu t “Ai về ai nh không?” th hiện tâm tư, tình cảm của người ra đi
li khẳng định “Ta về ta nh…” cho thy bất người nào khác ri chiến
khu Vit Bc vi tâm trạng như thế nào không biết nhưng người chiến thì s
luôn nh v con người, thiên nhiên những địa danh nơi đây (Ph Thông, đèo
Giàng, sông Lô, ph Ràng, Cao - Lng, Nh Hà) gn lin vi nhng k nim chiến
đấu và chiến thng ca h.
Không ch nh v những địa danh ca chiến khu, người ra đi còn nhớ v nhng
ngày chiến đấu và chiến thng:
“Những đường Vit Bc ca ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuc từng đoàn
ớc chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bc, Ðin Biên vui v
Vui t Ðng Tháp, An Khê
Vui lên Vit Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Nhng ngày hành quân ca ta cùng khí thế nhng khí thế đó được th hin
qua động t mnh “rm rập, đất rung, nát đá” ng như mặt đất đang rung
chuyển dưới nhng bàn chân trong cuc hành quân hùng hu t khp các ng
đưng. T láy “điệp điệp, trùng trùng” miêu t khí thế, quyết tâm, sc mnh tinh
thn của hàng nghìn con người ra trn. Những bước đi của h th làm cho
“muôn tàn lửa bay” chính tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc này đã tạo nên
sc mạnh đại đoàn kết dân tc giúp quân dân ta làm nên những điều ln lao.
Bên cạnh đó, hình ảnh đi lp “thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng…”:
khẳng định nim tin, lạc quan, luôn tin tưởng vào thng li ca cuc chiến đấu, ca
ngày mai tươi sáng.
Sau những khó khăn, nhng gi phút cùng nhau chiến đấu vt v, kh cực, đến
cuối cùng quân và dân ta đã dành được nhng chiến thng to ln t khp các mt
trn trên c c, t Bc vào Nam: Hoà Bình, Tây Bc, Ðin Biên, Ðng Tháp, An
Khê, Vit Bắc, đèo De, núi Hồng. Tt c như vỡ òa, bao nhiêu công sc, bao nhiêu
kh cc ta phi trải qua đã mang v thành qu cùng xứng đáng - độc lp t
do. Đến đây chúng ta có th khẳng đnh vai trò ca Vit Bc - là quê hương, là căn
c địa vng chc ca cách mạng, đu não ca cuc kháng chiến, nơi hội t bao
tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vng ca mọi người Việt Nam yêu nước.
Sau nhng hồi tưởng v cuc chiến đấu thng lợi, người ra đi nh ngược v
nhng ngày chun b cho cuc chiến đấu đó:
“Ai về ai có nh không?
Ngn c đỏ thm gió lng ca hang.
Nắng trưa rực r sao vàng
Trung ương, Chính phủ lun bàn vic công
Ðiu quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông m đưng
Gi đê, phòng hạn, thu lương
Gi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Giai đoạn chun b này đã cho thy khí thế hng hc ca quân dân ta. Ni ra
đi nhớ v những ngày tháng cùng đồng đội căn cứ địa chiến đấu: đó là nhng gi
đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược, điều quân cho chiến dch; nhng khi nhận được
mnh lnh di chuyển để thc hin nhim vụ,… cả tin tuyến hậu phương rộn
ràng khí thế. Ni chiến mt trn chun b sn sàng chiến đấu còn người
hậu phương ra sức tăng gia sản xut cung cấp lương thc cho chiến khu. Tt c th
hin tinh thần đồng lòng, quyết tâm đánh giặc ca c dân tộc, đất nước, con ngưi
Vit Nam.
Bên cnh nhng k nim ca người ra đi kẻ lại, người ra đi còn nhắn nh con
ngưi v s quan trng ca chiến khu Vit Bc:
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Vit Bc: C H sáng soi
đâu đau đớn ging nòi
Trông v Vit Bc mà nuôi chí bn.
ời lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dng nên Cng hoà
Mình v mình li nh ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Tác gi khẳng định vai tVit Bắc quê hương, căn cứ địa vng chc ca
cách mạng, đu não ca cuc kháng chiến, nơi hội t bao tình cảm, suy nghĩ,
nim tin và hi vng ca mọi người Việt Nam yêu nước. bt c đâu trên đất nước
này, bt c giai đoạn nào con ngưi sng trong cnh lm than của ách đô hộ hãy
ng v Vit Bc, v chiến khu, lấy đó làm đng lực đ chiến đấu chính nơi
đây đã chiến thng v vang cho c dân tc.
Bên cnh li khẳng định tm quan trng của căn cứ cách mạng, người ra đi một ln
na khẳng định tình cm ca mình: người ra đi s luôn nh v 15 năm kháng chiến
gian kh để ly lại độc lập cho nước nhà luôn nh v những con người, thiên
nhiên, địa danh nơi đây.
Đoạn trích nói riêng bài thơ nói chung không ch nhng k niệm trong mười
lăm năm gắn bó ca người chiến vi nhân dân Vit Bc n tình cm gn
keo sơn, trước sau như một của người đi k . Bên cạnh đó tác giả còn th nêu
cao tm quan trng ca chiến khu Vit Bắc đối vi cách mạng và đc lp của nước
nhà. Tt c nhưng tâm tư, tình cảm này được tác gi th hin chân thc nht qua
th thơ lục bát cách xưng h “mình - ta” vốn quen thuc trong dân gian các
câu hi tu t, lit kê, hoán dụ… cùng tinh tế đặc sắc đã góp phn không nh
vào vic làm nên thành công cho tác phm.
“Khi ta ở ch là nơi đất
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Có l thế quê hương cách mng Vit Bắc đã không ngần ngi chp cánh cho
hồn thơ Tố Hu viết nên thi phm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác
phm vn gi nguyên nhng giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của để li ấn tượng sâu
sc trong lòng bạn đọc.
| 1/18

Preview text:


Phân tích bài thơ Việt Bắc hay và Chất Dàn ý chi tiết 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc. (Tố Hữu là một nhà thơ lớn có
nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Một trong những sáng tác
tiêu biểu của ông la bài thơ Việt Bắc.) 2. Thân bài • Tác giả
✓ Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam.
Thơ ông thể hiện lẽ sống, lí tưởng, tình cảm cách mạng của con người Việt Nam hiện đại.
✓ Thơ Tố Hữu mang tình chất trữ tình chính trị sâu sắc: Hướng đến cái chung về
lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân
tộc, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu,
luôn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính toàn dân.
✓ Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm thắm, chân thành; vận dụng những thể
thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách nói quen thuộc với dân tộc. Đặc
biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,… • Tập thơ Việt Bắc
✓ Tập thơ là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và những con người kháng chiến.
✓ Ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân - dân, tiền tuyến - hậu phương, miền xuôi -
ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên nhiên, đất nước con người,...
✓ Kết thúc bằng những bài ca hùng tráng, vang dội phản ánh khí thế chiến thắng hào hùng của dân tộc.
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
→ Lời của người Việt Bắc hỏi người ra đi, khơi gợi những kỉ niệm đã qua.
Câu hỏi tu từ “Mình về mình có nhớ ta?”, cách xưng hô “mình - ta” quen thuộc
trong lối đối đáp dân gian thể hiện được cảm xúc dâng trào cùng nỗi lòng của người ở lại.
“Mười lăm năm” khoảng thời gian đủ dài để giữa người đi và kẻ ở thấu hiểu nhau,
có với nhau những kỉ niệm đáng nhớ.
“thiết tha mặn nồng”: tình cảm giữa người dân Việt Bắc và người cán bộ chiến sĩ
thủy chung, sâu sắc, keo sơn, bền chặt.
Hai câu thơ sau là lời nhắc nhớ người ra đi về thiên nhiên, con người Việt Bắc.
Hình ảnh “núi, sông” là sự vận dụng tài tình của tác giả với câu tục ngữ “Uống
nước nhớ nguồn” để nhắc nhở người ra đi về Việt Bắc - cội nguồn của Cách mạng,
là nơi chúng ta đã cùng nhau đồng cam cộng khổ chiến đấu và giành chiến thắng.
→ Người ở lại mở lời gợi nhắc nhớ người ra đi về khoảng thời gian gắn bó và
những kỉ niệm cùng nhau.
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
→ Tiếng lòng của người của người về xuôi mang trong mình sự quyến luyến, nỗi nhớ thương, bịn rịn.
“tha thiết”: sự cảm nhận của người ra đi trước tình cảm của người ở lại.
“bâng khuâng”: nhớ nhung, luyến tiếc, buồn vui lẫn lộn, “bồn chồn” diễn tả sự
day dứt, nô nao trong lòng khiến bước đi ngập ngừng.
→ Người ra đi vô cùng lưu luyến Việt Bắc, nửa muốn đi, nửa muốn ở, bịn rịn, phân vân.
“áo chàm” la hình ảnh hoán dụ tượng trưng cho những người dân Việt Bắc giản
dị, mộc mạc, chất phác đưa tiễn người chiến sĩ về miền xuôi.
“phân li” tuy chia cách nhưng trong lòng vẫn luôn hướng về nhau, vẫn dành trọn
vẹn tình cảm cho nhau hẹn ngày gặp lại.
“Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”: không phải không có gì để nói với nhau
mà có rất nhiều điều muốn nói vào giờ phút chia li ấy nhưng không nói thành lời.
Một cái cầm tay thay cho tất cả những lời muốn nói. Phép im lặng (dấu “…”) cuối
câu làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng thể hiện được
nỗi buồn, quyến luyến giữa người đi và kẻ ở.
→ Không gian chia tay đầy bịn rịn.
“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
→ Lời của người ở lại hỏi người ra đi về những kỉ niệm trong khoảng thời gian 15 năm gắn bó.
“Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”: khung cảnh núi rừng ảm đạm trong
những ngày đầu chiến đấu.
“Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”: sự đồng cam cộng khổ vượt qua gian
khó, cùng chung lưng đấu cật để chống lại kẻ thù.
“rừng núi nhớ ai” là biện pháp nghệ thuật nhân hóa thể hiện tình cảm của thiên
nhiên Việt Bắc với người ra đi: ngay đến cả thiên nhiên cũng gắn bó và yêu thương
sâu nặng với người ra đi.
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”: thể hiện sự khó khăn một cách dí dỏm:
người chiến sĩ phải hái những quả rừng để ăn thay cơm vì thiếu thốn. Khi họ ra đi,
những cây trái ấy chỉ còn lại đứng bơ vơ giữa trời đất.
“hắt hiu lau xám/ đậm đà lòng son”: biện pháp nghệ thuật đối lập (hắt hiu - đậm
đà) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của người dân Việt Bắc nhưng
trong lòng vẫn thủy chung son sắt với cách mạng.
“Mình đi mình có nhớ mình”: người ở nhắn nhủ với người về, đến đây không còn
cách xưng hô “mình - ta” nữa mà chuyển thành “mình - mình” chứng minh người
dân Việt Bắc và người chiến sĩ như hòa vào làm một.
“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”
→ Lời đáp lại của người ra đi trước tình cảm của người ở lại.
Người ra đi khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt trước sau như một của mình
với người ở lại qua từ “đinh ninh”.
Người ra đi luôn nhớ về người ở lại, nỗi nhớ ấy luôn đong đầy như nước đầu
nguồn không bao giờ vơi đi.
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Nỗi nhớ người dân Việt Bắc được ví như nhớ người yêu, luôn thường trực trong
trái tim bất kể là ngày hay đêm.
Người chiến sĩ nhớ về những kỉ niệm gắn bó với nhân dâm và thiên nhiên Việt
Bắc: những đêm trăng, nương rấy tràn ngập ánh nắng, những bản làng tràn ngập
trong làn khói thổi cơm chiều, những con người cần mẫn, chăm chỉ “đi sớm về khuya” ở nơi đây.
Nỗi nhớ ấy được khắc họa chi tiết nhất là khi người chiến sĩ nhớ về cụ thể từng
rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy.
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
→ Người ra đi bày tỏ nỗi lòng, nỗi nhớ của mình.
Người ra đi nhớ về những ngày cùng người dân chiến đấu gian khổ: chia nhau củ
sắn, bát cơm sẻ nửa, chia sẻ nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng luôn đoàn
kết, đồng lòng chiến đấu.
Nỗi nhớ dâng trào, người chiến sĩ nhớ về người mẹ dân tộc vùng nơi đây địu con
nhỏ lên rấy, những lớp bình dân học vụ, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày ở
cơ quan tuy gian nan nhưng vẫn lạc quan, vui vẻ hát vang bài ca, những tiếng mõ
chiều đuổi trâu về nhà và cả những tiếng nện chày giã gạo những đêm trăng phục vụ cách mạng.
→ Tất cả đều là những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào phai.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
10 câu thơ là bức tranh tứ bình (xuân, hạ, thu, đông) của Việt Bắc.
2 câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình luôn nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Mùa đông: “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm cho khu rừng xanh, hòa vào đó là ánh
nắng vàng làm cho bức tranh mùa đông của Việt Bắc thêm hài hòa màu sắc.
Mùa xuân: “mơ nở trắng rừng” mùa xuân Việt Bắc đặc trăng là màu trắng tinh
khiết của của rừng hoa mơ, giữa khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh con người
cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo chuốt từng sợi giang để đan nón.
Mùa hạ: “ve kêu rừng phách đổ vàng” tiếng ve quen thuộc của mùa hè giữa rừng
hoa phách vàng gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đổ lên rừng gỗ
xanh khiến tất cả chuyển sang một màu vàng ấm áp.
Mùa thu: “rừng thu trăng rọi hòa bình” ánh tắng Việt Bắc mùa thu vô cùng yên
bình, trong trẻo gợi cảm giác thanh mát, hòa vào khung cảnh đó là tiếng hát ân tình
thủy chung của người dân dạt dào tình cảm.
→ Hình ảnh hòa hợp giữa thiên nhiên và con người tạo nên bức tranh Việt Bắc vô
cùng xinh đẹp khiến người ta nhớ mãi.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.”
Người chiến sĩ nhớ về những ngày tháng chiến đấu gian khổ.
Cả “rừng cây núi đá” và con người cùng đồng lòng đánh giặc.
Nhân hóa: “núi giăng, rừng che” thiên nhiên trở thành những chiến hữu khổng lồ
dốc hết sức lực che chắn, bảo vệ bộ đội khỏi quân thù, cùng bộ đội ta bao vây, tiêu diệt chúng.
→ Cả đất trời và con người đồng lòng đánh giặc.
“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao - Lạng nhớ sang Nhị Hà…”
Câu hỏi tu từ cũng là lời khẳng định của người ra đi sẽ luôn nhớ về những địa danh
chiến đấu (Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao - Lạng, Nhị Hà) ở Việt Bắc.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Động từ mạnh “rầm rập, đất rung, nát đá”: diễn tả ngày Việt Bắc ra trận tràn đầy
khí thế, tưởng như mặt đất đang rung chuyển dưới những bàn chân của những
người chiến sĩ trong cuộc hành quân vĩ đại từ khắp các ngả đường.
Từ láy “điệp điệp, trùng trùng”: miêu tả khí thế, quyết tâm, sức mạnh tinh thần
của hàng nghìn con người ra trận.
“Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”: tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc
tạo nên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc có thể làm bất cứ điều gì lớn lao.
Hình ảnh đối lập “thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng…”: khẳng định niềm
tin, lạc quan, luôn tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu, của ngày mai tươi sáng.
Sau những khó khăn, những giờ phút cùng nhau chiến đấu vất vả, khổ cực, đến
cuối cùng quân và dân ta đã dành được những chiến thắng to lớn từ khắp các mặt
trận trên cả nước (Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên, Ðồng Tháp, An Khê, Việt Bắc, đèo De, núi Hồng).
→ Khẳng định vai trò của Việt Bắc: là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của
cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ,
niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Người ra đi nhớ về những ngày tháng cùng đồng đội ở căn cứ địa chiến đấu:
Những ngày nắng vàng rực rỡ tung bay lá cờ đỏ sao vàng.
Những giờ đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược chiến đấu, điều quân cho những chiến dịch.
→ Khí thế chiến đấu hừng hực của tiền tuyến và hậu phương, thể hiện tinh thần
đồng lòng, quyết tâm đánh giặc không chỉ của những người ở chiến khu mà là của
cả dân tộc, đất nước, con người Việt Nam.
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Khẳng định vai trò của Việt Bắc: là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của cách
mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin
và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.
Là lời khẳng định của người ra đi sẽ luôn nhớ về 15 năm kháng chiến gian khổ để
lấy lại độc lập cho nước nhà và luôn nhớ về những con người, thiên nhiên và địa danh nơi đây.
→ Tình cảm thiết tha, gắn bó sâu nặng.
• Tổng kết về nội dung, nghệ thuật *Nghệ thuật
Nghệ thuật biểu hiện của đoạn thơ đậm đà tính dân tộc:
✓ Phát huy nhiều thế mạnh của thể thơ lục bát truyền thống.
✓ Nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt, dễ nhớ, thấm sâu vào tâm tư.
✓ Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.
Thể hiện chất trữ tình chính trị sâu sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu:
✓ Chính trị: đề tài cuộc kháng chiến, vận mệnh đất nước,...
✓ Trữ tình: so sánh tình cảm của cán bộ và nhân dân như tình yêu, xưng hô mình,
ta, lời lẽ giàu tình cảm. *Nội dung:
✓ Ca ngợi tình cảm sắc son, chung thủy của quân (người ra đi) và dân ta (người ở lại).
✓ Thể hiện lòng yêu nước của lớp lớp thế hệ con người.
✓ Nhắc nhở người đời sau biết trân trọng nền độc lập này. 3. Kết bài
Khẳng định lại giá trị, ý nghĩa của bài thơ: bài thơ đóng góp một phần to lớn vào
thành công của nên văn học Việt Nam và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc.
Bài mẫu phân tích bài thơ Việt Bắc
Những ngày tháng chiến đấu chống thực dân Pháp đầy gian khổ của nhân dân ta
cuối cùng cũng dành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, huy hoàng. Để làm nên
thành công đó không thể không nhắc đến đóng góp của thơ văn cổ vũ cách mạng
nêu lên tinh thần đấu tranh, khí thế hừng hực của nhân dân ta. Tố Hữu chính là một
nhà thơ lớn, có những tác phẩm vô cùng nổi bật ở giai đoạn này. Một trong những
tác phẩm tiêu biểu của ông nói về tình cảm khăng khít, gắn bó sâu nặng giữa quân
và dân ta là bài thơ Việt Bắc.
Tố Hữu là một trong những lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng thể hiện lẽ
sống, lí tưởng, tình cảm của con người Việt Nam hiện đại. Thơ ông mang đậm chất
trữ tình chính trị sâu sắc: hướng đến cái chung về lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm
vui lớn của con người Cách mạng và của cả dân tộc, coi những sự kiện chính trị
lớn của đất nước là đối tượng thể hiện chủ yếu, luôn đề cập đến những vấn đề có ý
nghĩa lịch sử và có tính toàn dân. Bên cạnh đó, ông còn là nhà thơ khéo léo trong
việc kết hợp các biện pháp nghệ thuật: Giọng thơ mang tính chất tâm tình, đằm
thắm, chân thành; vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc, sử dụng cách
nói quen thuộc với dân tộc. Đặc biệt ông phát huy cao độ tính nhạc phong phú của
tiếng Việt, từ láy, thanh điệu, vần thơ,…
Tập thơ Việt Bắc là một trong những sáng tác vô cùng nổi tiếng của ông. Bài thơ
là tiếng ca hùng tráng, thiết tha về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
những con người kháng chiến; ca ngợi Đảng và Bác Hồ, tình quân - dân, tiền tuyến
- hậu phương, miền xuôi - ngược, cán bộ - quần chúng, nhân dân với lãnh tụ, thiên
nhiên, đất nước con người,…
Mở đầu đoạn trích là khung cảnh chia tay của người ở lại và người chiến sĩ ra đi, trở về miền xuôi:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.”
Người ở lại mở lời bắt đầu cho cuộc đối thoại giữa người đi - kẻ ở trong khung
cảnh chia tay. Bao nhiêu suy tư, trăn trở của người ở lại được gửi gắm vào những
câu hỏi dành cho người ra đi: liệu rằng người ra đi có nhớ về khoảng thời gian
mười lăm năm gắn bó thiết tha, mặn nồng đã qua hay không? Có nhớ về con
người, thiên nhiên, căn cứ đầu não cách mạng của nơi này hay không? Chỉ với bốn
câu thơ nhưng người dân Việt Bắc đã tái hiện toàn bộ những gì hai bên đã có với
nhau: đó là thời gian dài đằng đẵng, là những kỉ niệm đã có cùng nhau. Tố Hữu vô
cùng khéo léo khi vận dụng cách xưng hô “mình - ta” vốn được dùng trong lối đối
đáp xưa vào bài thơ của mình cùng với câu hỏi tu từ, điệp từ “nhớ” càng gây ấn
tượng với bạn đọc về nét giản dị, mộc mạc nhưng vô cùng chân thành của con người nơi đây.
Trước tình cảm, sự trân thành của người dân Việt Bắc, người ra đi bịn rịn không nói nên lời:
“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Những tính từ “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” đã diễn tả vô cùng chính xác,
chân thực tình cảm của người ra đi trước giờ phút chia tay đầy quyến luyến. Có thể
thấy, bốn câu thơ là vùng đất trù phú của các biện pháp nghệ thuật. Bên cạnh việc
sử dụng tính từ, Tố Hữu đã sử dụng vô cùng thành công trong việc sử dụng biện
pháp nghệ thuật hoán dụ: mượn hình ảnh áo chàm - vật dụng quen thuộc với người
nông dân để chỉ những con người lao động chất phác của mảnh đất này. Vào
khoảnh khắc chia tay đầy xúc động ấy, người đi kẻ ở bịn rịn, quyến luyến không
nói nên lời. Tất cả tình cảm được thể hiện qua cái cầm tay, bởi khoảng thời gian
mười lăm năm gắn bó đã đủ làm họ hiểu nhau, chỉ cần nhìn vào mắt nhau cũng có
thể thấu hiểu tâm tư tình cảm của người còn lại. Phép im lặng (dấu “…”) cuối câu
làm cho không gian của buổi chia tay như trùng xuống, tĩnh lặng và cũng để cả hai
nhớ về thời gian bên nhau:
“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Trong không gian tĩnh lặng của buổi chia tay ấy, người ở lại mở lời, hỏi người ra đi
về những kỉ niệm trong khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó. Bao nhiêu suy tư,
trăn trở đến đây đã bật ra thành câu hỏi. Đó là những lời nhắc nhớ về những ngày
“mưa nguồn suối lũ, mây cùng mù”, về “miếng cơm chấm muối”… tuy khó khăn
gian khổ nhưng vẫn luôn vui vẻ, đoàn kết một lòng một dạ đấu tranh. Khi người
chiến sĩ về miền xuôi, không chỉ con người nơi đây hụt hẫng mà ngay cả thiên
nhiên cũng bơ vơ (trám bùi để rụng, măng mai để già). bên cạnh việc nhắc nhớ
người ra đi về thiên nhiên, người ở lại cũng nhắc người ra đi nhớ về chính mình:
“mình đi có nhớ những nhà/ Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” và về những kỉ
niệm ở nơi đây: “Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”. Đến đây không còn
cách xưng hô mình - ta nữa mà chuyển sang xưng hô mình - mình. Người ra đi và
người ở lại như hòa vào làm một.
Trước những câu hỏi, lời nhắc nhớ của người ở lại cuối cùng, người ra đi cũng lên tiếng:
“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”
Người ra đi khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt trước sau như một của mình
với người ở lại qua từ “đinh ninh”. Người ra đi luôn nhớ về người ở lại, nỗi nhớ ấy
luôn đong đầy như nước đầu nguồn không bao giờ vơi đi.
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Nỗi nhớ người dân Việt Bắc của người ra đi được ví như nhớ người yêu, luôn
thường trực trong trái tim bất kể là ngày hay đêm. Người chiến sĩ nhớ về những kỉ
niệm gắn bó với nhân dân và thiên nhiên Việt Bắc: những đêm trăng, nương rẫy
tràn ngập ánh nắng, những bản làng ngập trong làn khói thổi cơm chiều, những con
người cần mẫn, chăm chỉ “đi sớm về khuya” ở nơi đây. Nỗi nhớ ấy được khắc họa
chi tiết nhất là khi người chiến sĩ nhớ về cụ thể từng rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy.
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Người ra đi nhớ về những ngày cùng người dân chiến đấu gian khổ: chia nhau củ
sắn, bát cơm sẻ nửa, chia sẻ nhau chiếc chăn sui tuy khó khăn nhưng luôn đoàn
kết, đồng lòng chiến đấu. Nỗi nhớ dâng trào hơn khi người chiến sĩ nhớ về người
mẹ dân tộc vùng nơi đây địu con nhỏ lên rẫy, những lớp bình dân học vụ, những
giờ liên hoan vui vẻ, những ngày ở cơ quan tuy gian nan nhưng vẫn lạc quan hát
vang bài ca, những tiếng mõ chiều đuổi trâu về nhà và cả những tiếng nện chày giã
gạo những đêm trăng phục vụ cách mạng. Tất cả đều là những kỉ niệm đẹp đẽ
không thể nào phai trong lòng người chiến sĩ.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Có thể nói, đây là những vần thơ, ý thơ đẹp đẽ nhất mà người ra đi dành cho con
người và thiên nhiên Việt Bắc. Hai câu thơ đầu người ra đi khẳng định mình luôn
nhớ về thiên nhiên và con người nơi đây. Mở đầu bức tranh tứ bình của Việt Bắc là
hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” tô điểm cho khu rừng xanh thêm rực rỡ màu sắc, hòa
vào đó là ánh nắng vàng làm cho bức tranh mùa đông của nơi đây không chỉ ngập
tràn màu sắc mà còn vô cùng ấm áp. Mùa xuân được khắc họa với đặc trưng“mơ
nở trắng rừng”
với một màu trắng tinh khiết, giữa khung cảnh thơ mộng ấy là hình
ảnh con người cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo chuốt từng sợi giang để đan nón. Khép lại
bức tranh mùa xuân cũng là lúc bước vào mùa hè với tiếng “ve kêu rừng phách đổ
vàng”
gợi liên tưởng tiếng ve như bát sơn vàng sóng sánh đổ lên rừng gỗ xanh
khiến tất cả chuyển sang một màu vàng rực rỡ. Khép lại bức tranh tứ bình là mùa
thu với hình ảnh “rừng thu trăng rọi hòa bình” vô cùng yên bình, trong trẻo gợi
cảm giác thanh mát, hòa vào khung cảnh đó là tiếng hát ân tình thủy chung của
người dân dạt dào tình cảm. Bức tranh tứ bình không chỉ giúp ta tưởng tượng ra
thiên nhiên tươi đẹp nơi đây mà còn giúp ta hiểu hơn về con người Việt Bắc cũng
như thêm yêu mến nơi này. Sở dĩ mở đầu bức tranh là mùa đông lạnh lẽo và kết
thúc bằng mùa thu hòa bình vì người chiến sĩ chia tay đồng bào Việt Bắc quay về
thủ đô vào mùa đông nên nỗi nhớ được bắt nguồn từ đó. Không những vậy, nó còn
mang dụng ý: mùa đông là khi đất nước ta chìm trong kiếp lầm than, nô lệ khi bị
xâm lược, mùa xuân là giai đoạn chuẩn bị cho cuộc cách mạng, mùa hạ là khi cuộc
chiến sôi nổi diễn ra và mùa thu là mùa ta giành lại độc lập.
Ngoài bức tranh tứ bình, người ra đi còn nhớ về những ngày tháng chiến đấu gian khổ:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.”
Kỉ niệm về những ngày chiến đấu hiện về trong kí ức của người ở lại. Cả “rừng
cây núi đá”
và con người đồng lòng đánh giặc. Biện pháp nghệ thuật nhân hóa:
“núi giăng, rừng che” đã làm cho thiên nhiên trở thành những chiến hữu khổng lồ
dốc hết sức lực che chắn, bảo vệ bộ đội khỏi quân thù, cùng bộ đội ta bao vây, tiêu
diệt chúng. Cả đất trời và con người đồng lòng đánh giặc và mong đợi ngày kháng
chiến thắng lợi thể hiện quyết tâm cao độ của đầu não chiến khu này.
“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao - Lạng nhớ sang Nhị Hà…”
Câu hỏi tu từ “Ai về ai có nhớ không?” thể hiện tâm tư, tình cảm của người ra đi
và lời khẳng định “Ta về ta nhớ…” cho thấy dù bất kì người nào khác rời chiến
khu Việt Bắc với tâm trạng như thế nào không biết nhưng người chiến sĩ thì sẽ
luôn nhớ về con người, thiên nhiên và những địa danh nơi đây (Phủ Thông, đèo
Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao - Lạng, Nhị Hà) gắn liền với những kỉ niệm chiến
đấu và chiến thắng của họ.
Không chỉ nhớ về những địa danh của chiến khu, người ra đi còn nhớ về những
ngày chiến đấu và chiến thắng:
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Những ngày hành quân của ta vô cùng khí thế và những khí thế đó được thể hiện
qua động từ mạnh “rầm rập, đất rung, nát đá” tưởng như mặt đất đang rung
chuyển dưới những bàn chân trong cuộc hành quân hùng hậu từ khắp các ngả
đường. Từ láy “điệp điệp, trùng trùng” miêu tả khí thế, quyết tâm, sức mạnh tinh
thần của hàng nghìn con người ra trận. Những bước đi của họ có thể làm cho
“muôn tàn lửa bay” chính tinh thần yêu nước, quyết tâm đánh giặc này đã tạo nên
sức mạnh đại đoàn kết dân tộc giúp quân và dân ta làm nên những điều lớn lao.
Bên cạnh đó, hình ảnh đối lập “thăm thẳm sương dày/ Đèn pha bật sáng…”:
khẳng định niềm tin, lạc quan, luôn tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến đấu, của ngày mai tươi sáng.
Sau những khó khăn, những giờ phút cùng nhau chiến đấu vất vả, khổ cực, đến
cuối cùng quân và dân ta đã dành được những chiến thắng to lớn từ khắp các mặt
trận trên cả nước, từ Bắc vào Nam: Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên, Ðồng Tháp, An
Khê, Việt Bắc, đèo De, núi Hồng. Tất cả như vỡ òa, bao nhiêu công sức, bao nhiêu
khổ cực mà ta phải trải qua đã mang về thành quả vô cùng xứng đáng - độc lập tự
do. Đến đây chúng ta có thể khẳng định vai trò của Việt Bắc - là quê hương, là căn
cứ địa vững chắc của cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao
tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước.
Sau những hồi tưởng về cuộc chiến đấu và thắng lợi, người ra đi nhớ ngược về
những ngày chuẩn bị cho cuộc chiến đấu đó:
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…”
Giai đoạn chuẩn bị này đã cho thấy khí thế hừng hực của quân và dân ta. Người ra
đi nhớ về những ngày tháng cùng đồng đội ở căn cứ địa chiến đấu: đó là những giờ
đi họp, bàn bạc, đưa ra sách lược, điều quân cho chiến dịch; những khi nhận được
mệnh lệnh di chuyển để thực hiện nhiệm vụ,… cả tiền tuyến và hậu phương rộn
ràng khí thế. Người chiến sĩ ở mặt trận chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu còn người ở
hậu phương ra sức tăng gia sản xuất cung cấp lương thực cho chiến khu. Tất cả thể
hiện tinh thần đồng lòng, quyết tâm đánh giặc của cả dân tộc, đất nước, con người Việt Nam.
Bên cạnh những kỉ niệm của người ra đi và kẻ ở lại, người ra đi còn nhắn nhủ con
người về sự quan trọng của chiến khu Việt Bắc:
“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Tác giả khẳng định vai trò Việt Bắc là quê hương, là căn cứ địa vững chắc của
cách mạng, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ,
niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Ở bất cứ đâu trên đất nước
này, bất cứ giai đoạn nào con người sống trong cảnh lầm than của ách đô hộ hãy
hướng về Việt Bắc, về chiến khu, lấy đó làm động lực để chiến đấu vì chính nơi
đây đã chiến thắng vẻ vang cho cả dân tộc.
Bên cạnh lời khẳng định tầm quan trọng của căn cứ cách mạng, người ra đi một lần
nữa khẳng định tình cảm của mình: người ra đi sẽ luôn nhớ về 15 năm kháng chiến
gian khổ để lấy lại độc lập cho nước nhà và luôn nhớ về những con người, thiên
nhiên, địa danh nơi đây.
Đoạn trích nói riêng và bài thơ nói chung không chỉ là những kỉ niệm trong mười
lăm năm gắn bó của người chiến sĩ với nhân dân Việt Bắc mà còn là tình cảm gắn
bó keo sơn, trước sau như một của người đi kẻ ở. Bên cạnh đó tác giả còn thể nêu
cao tầm quan trọng của chiến khu Việt Bắc đối với cách mạng và độc lập của nước
nhà. Tất cả nhưng tâm tư, tình cảm này được tác giả thể hiện chân thực nhất qua
thể thơ lục bát và cách xưng hộ “mình - ta” vốn quen thuộc trong dân gian và các
câu hỏi tu từ, liệt kê, hoán dụ… vô cùng tinh tế và đặc sắc đã góp phần không nhỏ
vào việc làm nên thành công cho tác phẩm.
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.
Có lẽ vì thế mà quê hương cách mạng Việt Bắc đã không ngần ngại chắp cánh cho
hồn thơ Tố Hữu viết nên thi phẩm cùng tên. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác
phẩm vẫn giữ nguyên những giá trị, ý nghĩa tốt đẹp của nó và để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng bạn đọc.