Phân tích bài thơ Việt Bắc (Dàn ý + 26 Mẫu) hay chọn lọc | Văn mẫu 12
Phân tích Việt Bắc của Tố Hữu bao gồm 26 bài văn mẫu cực hay đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi. Qua đó các em có thêm nhiều gợi ý để biết cách phân tích cảm nhận bài Việt Bắc hay. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Dàn ý phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu Dàn ý số 1 I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu: là một nhà thơ lớn, một nhà thơ trữ tình
chính trị, thơ ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng
nhiều thắng lợi của dân tộc.
- Giới thiệu bài thơ Việt Bắc: hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính của bài thơ. II. Thân bài 1. Ý nghĩa nhan đề
- Việt Bắc là một địa danh – là cái nôi của cách mạng Việt Nam tiền khởi nghĩa, là
cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Việt Bắc là nơi lưu giữ nhiều kỉ niệm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào nơi đây.
2. Lời của người ở lại (20 câu thơ đầu)
- Tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia tay:
+ Bốn câu trên, sử dụng điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ” là lời ướm
hỏi, khơi gợi lại những kỉ niệm về “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, về thiên
nhiên Việt Bắc nghĩa tình.
+ Cách xưng hô “mình - ta” như lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau khiến
cuộc chia tay trở nên thân mật, giản dị. Cách xưng hô còn gợi nhớ đến những câu
đối đáp trong điệu hát giao duyên khiến những câu thơ nói về cách mạng không
khô khan mà trở nên đằm thắm, sâu lắng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
+ Bốn câu thơ tiếp là nỗi lòng lưu luyến của cả người ở lại và ra đi thể hiện
qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng trực tiếp: “da diết”, “bâng khuâng”, “bồn
chồn”; không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi: “áo chàm”, “cầm tay nhau”.
- Mười hai câu tiếp theo, với việc sử dụng điệp từ “nhớ”, là lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi:
+ Nhớ đến thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc trong những ngày kháng chiến:
mưa nguồn, suối lũ, mây mù, trám bùi, măng mai.
+ Nhớ đến những ân tình trong khó khăn gian khổ: “miếng cơm chấm muối”
nhưng vẫn “đậm đà lòng son”.
+ Nhớ đến quang thời gian hoạt động cách mạng: kháng Nhật, Việt Minh, Tân Trào, Hồng Thái, ...
+ Đại từ xưng hô “mình” thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa kẻ ở, người đi.
Nó giống như cách xưng hô tâm tình, thủ thỉ chân thành.
3. Lời của người ra đi
- Bốn câu thơ tiếp khẳng định nghĩa tình thủy chung, mặn mà, “ta với mình, mình
với ta”: thể hiện sự gắn bó, thấu hiểu nhau giữ người đi, kẻ ở.
- Người đi bày tỏ nỗi nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc: “Trăng lên đầu núi, nắng chiều
lưng nương”, “bản khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, ... thiên nhiên Việt Bắc
qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.
- Nhớ đến con người Việt Bắc:
+ Những con người dù gian khó, vất vả nhưng vẫn có tấm lòng thủy chung,
cùng chia sẻ mọi “đắng cay ngọt bùi” trong kháng chiến: “chia củ sắn lùi”, “bát
cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
+ Nhớ đến những kỉ niệm ấm áp giữa bộ đội và đồng bào Việt Bắc: “lớp học
i tờ”, “giờ liên hoan”, “ca vang núi đèo”.
+ Nhớ hình ảnh những con người mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của người
lao động: “người mẹ”, “cô em gái”.
- Nhớ hình ảnh quân dân Việt Bắc đoàn kết đánh giặc: “ta cùng đánh Tây”, “cả
chiến khu một lòng”; khí thế hào hùng của quân dân ta trong các trận đánh: “rầm
rập như là đất rung”, “quân đi điệp điệp trùng trùng”, “dân công đỏ đuốc từng đoàn”, ...
- Nhớ những chiến công, những niềm vui thắng trận: “tin vui thắng trận trăm miền ... núi Hồng”
- Nhận xét: nhịp thơ dồn dập như âm hưởng bước hành quân, hình ảnh kì vĩ... tất cả
tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của nhân dân anh hùng.
4. Niềm tự hào, niềm tin gửi gắm Việt Bắc CM (16 câu thơ cuối)
- Nhớ hình ảnh tươi sáng nơi nguồn cội của cuộc cách mạng: ngọn cờ đỏ thắm, rực
rỡ sao vàng, có trung ương Đảng, có chính phủ và có Bác Hồ.
- Đoạn thơ thể hiện niềm tin vào sức mạnh, khả năng lãnh đạo của Đảng trong các
cuộc cách mạng, niềm tự hào vào những chiến công Việt Bắc. III. Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật: sử dụng thể dân tộc: thể thơ lục bát để nói về tình
cảm cách mạng, lối đối đáp, sử dụng đại từ xưng hô linh hoạt (mình – ta), ngôn từ
mộc mạc, giàu sức gợi…
- Khái quát giá trị nội dung: bài thơ là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, là bản
tình ca về nghĩa tình cách mạng và kháng chiến.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc Dàn ý số 2
I. Mở bài Phân tích bài Việt Bắc
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”. (Tố Hữu).
- Chặng đường kháng chiến chống Pháp đầy gian lao kết thúc với sự thắng lợi vẻ
vang, vào thời gian 10.1945, trung ương Đảng và chính phủ từ chiến khu Việt Bắc
dời về thủ đô Hà Nội. Trong buổi chia tay đầy lưu luyến với đồng bào Việt Bắc, Tố
Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc.
- Bài thơ là khúc hát giao duyên, là lời nhắn gửi tâm tình giữa người về xuôi và
người ở lại, lời giãi bày tình cảm thắm thiết và cả nỗi nhớ trùng điệp của người ra
đi. Việt Bắc chính là một trong những tác phẩm thơ thể hiện tài năng đỉnh cao,
phong cách của Tố Hữu…
II. Thân bài Phân tích bài Việt Bắc
1. Hai mươi câu thơ đầu: Kỉ niệm kháng chiến qua đó bộc lộ tình quân dân thắm thiết
- Lời nhắn nhủ của người Việt Bắc:
+ Bốn dòng thơ đầu có hai câu hỏi tu từ, người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ
“ta” là người nơi đây, hỏi nhớ “núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống,
gắn bó 15 năm nghĩa tình. Câu hỏi mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ
người về xuôi đừng quên mảnh đất tình người.
→ Sự tình chung, tình cảm đạo lí. Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ
cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người
về xuôi không phai mờ, trân trọng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
+ Lời giãi bày của nhà thơ, tự nhắc nhở mình
- Tâm sự của người về xuôi trong buổi chia tay
· Bốn câu tiếp gợi ra khung cảnh chia tay. “Bên cồn gợi địa điểm chia tay ở bến
sông nào đó, tiếng hát làm nền, nhân vật người đi kẻ ở bịn rịn, ban tay nắm chặt
không rời, xúc động không nói nên lời. Tất cả tạo nên bầu không khí ngập tràn tình
cảm, bin rịn, quyến luyến tình quân dân.
· Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm
bị níu kéo lại. Diễn tả nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người, Việt Bắc.
· “Áo chàm” hình ảnh ẩn dụ Việt Bắc. Tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân
thành, sâu nặng của người Việt Bắc.
- Trong lúc chia tay, khơi gợi lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu
· “Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc
nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.
· “Những mây cùng mù” biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề,
gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến
· “Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
· Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng
người ở lại bỗng xôn xao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ
người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạc
· Người Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng..
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
⇒ Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ
chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng.
2. Những tâm sự của người ra đi
- “Ta với mình, mình với ta” là một sự khẳng định tấm lòng thủy chung, một lòng
mặn mà của người đi kẻ ở.
- Người ra đi luyến tiếc để nỗi nhớ vào thiên nhiên, nhớ về trăng vào những buổi
chiều tà, nắng hiu hắt chiều sương, rừng nứa bờ tre… nhớ về thời gian bốn mùa cùng bên nhau
- Nhớ về con người Việt Bắc: dù có gian khó, gập ghềnh nhưng không chùn bước,
cùng nhau chia sẻ ngọt bùi qua cơn đói rét. Nhớ về những kỉ niệm ấm áp bên bộ
đội và đồng bào cùng các điệu hát, “lớp học I tờ”… hình ảnh mộc mạc của “cô em gái” lao động
- Nhớ hình ảnh đoàn kết, hào hùng xông pha đánh giặc
- Nhớ những chiến công lẫy lừng, niềm vui thắng trận
⇒ Tình cảm người chiến sĩ dành cho con người và quê hương Việt Bắc cũng là tình
cảm nhà thơ dành cho nhân dân, đất nước, tình yêu cuộc sống kháng chiến
3. Bức tranh tứ bình qua cái nhìn đầy ưu ái của Tố Hữu
- Lời tâm sự của người đi tha thiết, sâu lắng.
· “Hoa và người”: nỗi nhớ hướng đến đối tượng cụ thể
· Đại từ nhân xưng “mình-ta” thể hiện tình yêu thương gắn bó sâu nặng của người đi kẻ ở
· Điệp từ “ta về” đầu câu bộc lộ nỗi niềm xao xuyến, tâm trạng luyến lưu, vấn
vương trong buổi chia tay, khơi gợi về quá khứ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
- Trong nỗi nhớ, bức tranh hiện ra có vẻ đẹp gắn bó giữa cảnh với người
· Cảnh thiên nhiên gói lại trong 4 mùa, thành bộ tranh tứ bình ghi lại bởi bút pháp
chấm phá, hồn thơ cổ điển
· Vẻ đẹp mùa đông: thiên nhiên có nét chấm phá sắc đỏ thắm tươi của hoa chuối,
sự tương phản màu sắc gợi vẻ rực rỡ. Không gian bỗng trong sáng, ấm áp nhờ sắc
đỏ, khiến nỗi nhớ thêm rạo rực lòng người.
· Đất trời vào xuân, thiên nhiên Việt Bắc khoác trên mình gam màu xanh lá của núi
rừng điểm tô dưới sắc trắng tinh khôi của hoa mơ. Động từ “nở” cùng tính từ
“trắng” gợi những đóa hoa đang khoe sắc, độ xuân thì. Trong cảnh xuân con người
miệt mài lao động, tạo bức tranh hài hòa
· Sang hè, Việt Bắc mang sắc vàng tươi xinh của rừng phách. Phong cảnh mùa hạ
hiện ra cổ điển, hữu tình ngời sáng, lung linh
· Sau cùng là cảnh thu với vẻ đẹp của đêm trăng. Một nét huyền ảo, hiền hòa,
mộng mơ. Vẻ đẹp mang theo bao ước mơ tươi sáng ở tương lai
- Đoạn thơ khép lại bằng “khúc hát ân tình thủy chung”. Đó là tiếng hát của người
ở lại, cũng là của người ra đi. Khúc hát của sự hy vọng thiết tha, tình quân dân đậm sâu.
⇒ Đoạn thơ mở ra thế giới của cái đẹp: bức tranh thiên nhiên đẹp, con người đẹp,
trong đó là tấm lòng đẹp theo cùng nỗi nhớ đẹp. Thể hiện tình quân dân, tình đất
nước cao đẹp của nhà thơ.
4. Còn lại: Việt Bắc rộng lớn trong tháng ngày ra trận hào hùng.
- Bút pháp sử thi tác giả khắc họa đoàn quân sục sôi khí thế trên những nẻo đường ra trận.
· Điệp từ “đêm đêm” tả thời gian dài, từ láy “rầm rập” âm thanh phối hợp cùng
nhịp thơ 2/2 gợi tả bước chân hành quân đều nhịp, chắc khỏe.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
· Biện pháp nói quá “đất rung” chứng tỏ sức mạnh đoàn quân phi thường.
· Chân dung đoàn quân tiêu biểu cho dân tộc anh hùng.
- Đường hành quân gian lao, nguy hiểm nhưng chiến sĩ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp
thiên nhiên, mây trời, niềm vui ngắm cảnh: cho thấy lòng yêu đời, lạc quan, tin vào tương lai.
· Hoán dụ “mũ nan”: người chiến sĩ ra chiến trường mang theo mối tình quân dân
để tiếp thêm động lực chiến đấu
· Hình ảnh súng và sao cụ thể mà giàu tính biểu tượng. đầu súng gợi cảnh chiến
tranh, sao vẽ ra khung cảnh thanh bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao còn ẩn dụ cho đôi mắt người yêu.
- Hình ảnh đoàn dân công
· Ánh đuốc sáng gợi không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Anhs sáng đó
toát lên sức mạnh, khí thế và gieo lên niềm tin tươi sáng.
· Hình ảnh “bước chân nát đá” tô đậm sức mạnh vĩ đại của đoàn dân công.
· Đoàn dân công có vẻ đẹp của anh hùng ra trận, sức mạnh của chiến tranh nhân dân
- Đoàn quân ra trận gởi về bao chiến công vang dội, làm chấn động địa cầu.
· Liệt kê các địa danh để thấy chiến thắng dồn dập, tưng bừng
· Điệp từ “vui” diễn tả niềm hồ hởi, phấn khích vô biên trong chiến thắng
⇒ Đoạn thơ tái hiện chân dung Việt Bắc trong những ngày ra trận, qua đó ca ngợi
Việt Bắc anh hùng, đất nước anh hùng.
III. Kết bài Phân tích bài Việt Bắc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc là bài thơ xuất sắc ghi đậm dấu ấn của Tố Hữu. Nó không chỉ hài hào
giữa cổ điển và hiện đại, cảnh và người , tình và lí mà còn là chất thơ dân gian, sử
thi anh hùng ca đặc biệt chỉ có ở Tố Hữu Dàn ý số 3 I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Tố Hữu, bài thơ Việt Bắc.
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của bài thơ Việt Bắc. II. Thân bài
1. Đoạn 1: Khung cảnh chia tay
* Lời của người ở lại:
- Bốn câu thơ đầu là lời của người ở lại hỏi người ra đi có còn nhớ “ta”, hỏi nhớ
“núi, nguồn” là nhớ mảnh đất đã từng chung sống, gắn bó mười lăm năm nghĩa
tình. Câu hỏi tu từ mượn cớ nhưng thực ra là nhắc nhở, nhắn nhủ người về xuôi
đừng quên mảnh đất tình người.
=> Sự tình chung, tình cảm đạo lí. Hiệu quả của nghệ thuật câu hỏi tu từ để bộc lộ
cảm xúc người nói, người ở lại kín đáo bộc lộ nỗi nhớ và tình yêu dành cho người
về xuôi không phai mờ, trân trọng. * Lời của người ra đi:
- Khung cảnh chia tay: Ở một bến sông, có tiếng hát làm nền. Nhân vật người đi kẻ
ở bịn rịn, ban tay nắm chặt không rời, xúc động không nói nên lời.
- Từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” lột tả tâm trạng xốn xang, xao xuyến vì tình cảm
bị níu kéo lại. Diễn tả nỗi lòng thương mến của người ở lại dành cho con người, Việt Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
- “Áo chàm” hình ảnh ẩn dụ Việt Bắc. Tượng trưng cho tâm hồn chất phác, chân
thành, sâu nặng của người Việt Bắc.
- Nhớ lại những tháng ngày gian khổ ở chiến khu:
· “Mưa nguồn suối lũ”: đất trời vần vũ, chìm trong mưa gió bão bùng, sự khắc
nghiệt của mùa mưa Việt Bắc khiến cuộc sống trong rừng thêm khó khăn.
· “Những mây cùng mù”: biện pháp chêm xen nhấn mạnh bầu trời u ám nặng nề,
gian khổ đè nặng, ẩn dụ những ngày đầu khó khăn của kháng chiến
· “Miếng cơm chấm muối”: vừa tả thực vừa ước lệch chỉ những thiếu thốn mọi mặt ở chiến khu.
· Khi gian khổ có nhau đến khi vui sướng người đi kẻ ở, giờ phút chia tay lòng
người ở lại bỗng xôn xao vì tiếc nuối nhớ nhung. Biện pháp hoán dụ “rừng núi” chỉ
người Việt Bắc, nỗi nhớ thêm kín đáo, đại từ “ai” phong cách dân gian mộc mạc
· Người Việt Bắc nhắc đến kỉ niệm lịch sử khó quên, tự hào về mảnh đất anh hùng.
=> Hình thức đối thoại, đoạn thơ diễn tả tình cảm người Việt Bắc dành cho cán bộ
chiến sĩ thắm thiết, mặn nồng.
2. Đoạn 2: Nỗi nhớ của người ra đi
- “Ta với mình, mình với ta… Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”:
Khẳng định tấm lòng thủy chung, một lòng mặn mà của người đi kẻ ở.
- Nỗi nhớ của người ra đi được so sánh với nỗi nhớ người yêu: Tình quân dân bỗng
trở nên thắm thiết như tình yêu lứa đôi.
- Người ra đi luyến tiếc để nỗi nhớ vào thiên nhiên: nhớ về trăng vào những buổi
chiều tà, nắng hiu hắt chiều sương, rừng nứa bờ tre, các địa danh quen thuộc như
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
- Nhớ về con người Việt Bắc: cùng nhau chia sẻ ngọt bùi qua cơn đói rét, kỉ niệm
ấm áp bên bộ đội và đồng bào cùng các điệu hát, hình ảnh mộc mạc của “cô em gái” lao động…
=> Tình cảm người chiến sĩ dành cho con người và quê hương Việt Bắc cũng là
tình cảm nhà thơ dành cho nhân dân, đất nước, tình yêu cuộc sống kháng chiến
3. Đoạn 3: Bức tranh tứ bình - Hai câu thơ đầu tiên:
· “Hoa và người”: nỗi nhớ hướng đến đối tượng cụ thể
· Đại từ nhân xưng “mình - ta” thể hiện tình yêu thương gắn bó sâu nặng của người đi kẻ ở
· Điệp từ “ta về” đầu câu bộc lộ nỗi niềm xao xuyến, tâm trạng luyến lưu, vấn
vương trong buổi chia tay, khơi gợi về quá khứ. - Bức tranh mùa đông
· Sử dụng bút pháp chấm phá cổ điển, gợi chứ không tả, màu xanh thẫm của núi
rừng mang cảm giác thâm u, lạnh lẽo và có phần khắc nghiệt.
· Màu đỏ tươi của hoa chuối và màu vàng nhạt của nắng điểm tô trên cái nền xanh
thẳm của núi rừng đã phần nào xua tan cái lạnh lẽo thay vào đó là chút cảm giác
ấm áp, mang đến hình ảnh Tây Bắc tươi đẹp chứ không quá khắc nghiệt, nhằm cổ
vũ tinh thần chiến đấu của quân dân ta.
· Hình ảnh con người mang tầm vóc mạnh mẽ, chủ động tự tin trong lao động, sẵn
sàng chinh phục thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. - Bức tranh mùa xuân
· Sắc trắng của hoa mơ gợi bức tranh mùa xuân tươi đẹp, trong sáng, thanh khiết và đầy hy vọng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
· Hình ảnh con người trong công việc lao động nhẹ nhàng, nhưng lại tôn lên nét
đẹp của sự tài hoa, khéo léo và cần cù. - Bức tranh mùa hạ
· Mùa hè hiện ra thông qua sự kết hợp giữa sắc vàng và tiếng ve, khiến bức tranh
thiên nhiên trở nên ấn tượng bởi sự rộn ràng, nhộn nhịp và rực rỡ.
· Từ “đổ” gợi ra sự chuyển mùa nhanh chóng và đồng loạt của núi rừng Tây Bắc.
· Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” gợi ra sự thầm lặng trong lao động, hi
sinh sinh vì kháng chiến và tình cảm trân trọng, gần gũi yêu thương của Tố Hữu
đối với con người Việt Bắc. - Bức tranh mùa thu
· Hình ảnh vầng trăng gợi ra nhiều ý nghĩa, là những đêm thức trắng cùng trăng
chờ giặc, là biểu trưng cho sự ấm no, sum vầy, cũng là biểu tượng cho sự gắn kết, thủy chung.
· Hình ảnh con người Việt Bắc không còn là hình ảnh trong lao động mà là thông
qua tiếng hát để thể hiện nỗi niềm tiếc nuối, ân tình thủy chung phút chia ly.
4. Đoạn 4: Khung cảnh ra trận
- Bút pháp sử thi tác giả khắc họa đoàn quân sục sôi khí thế trên những nẻo đường ra trận.
· Điệp từ “đêm đêm” tả thời gian dài, từ láy “rầm rập” âm thanh phối hợp cùng
nhịp thơ 2/2 gợi tả bước chân hành quân đều nhịp, chắc khỏe.
· Biện pháp nói quá “đất rung” chứng tỏ sức mạnh đoàn quân phi thường.
· Chân dung đoàn quân tiêu biểu cho dân tộc anh hùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
- Đường hành quân gian lao, nguy hiểm nhưng chiến sĩ vẫn cảm nhận được vẻ đẹp
thiên nhiên, mây trời, niềm vui ngắm cảnh: cho thấy lòng yêu đời, lạc quan, tin vào tương lai.
· Hoán dụ “mũ nan”: người chiến sĩ ra chiến trường mang theo mối tình quân dân
để tiếp thêm động lực chiến đấu
· Hình ảnh súng và sao cụ thể mà giàu tính biểu tượng. đầu súng gợi cảnh chiến
tranh, sao vẽ ra khung cảnh thanh bình, tương lai tươi sáng hay ánh sao còn ẩn dụ cho đôi mắt người yêu.
- Hình ảnh đoàn dân công
· Ánh đuốc sáng gợi không khí lao động hăng say, phá đá mở đường. Ánh sáng đó
toát lên sức mạnh, khí thế và gieo lên niềm tin tươi sáng.
· Hình ảnh “bước chân nát đá” tô đậm sức mạnh vĩ đại của đoàn dân công.
· Đoàn dân công có vẻ đẹp của anh hùng ra trận, sức mạnh của chiến tranh nhân dân.
- Đoàn quân ra trận gởi về bao chiến công vang dội, làm chấn động địa cầu:
· Liệt kê các địa danh để thấy chiến thắng dồn dập, tưng bừng
· Điệp từ “vui” diễn tả niềm hồ hởi, phấn khích vô biên trong chiến thắng
=> Đoạn thơ tái hiện chân dung Việt Bắc trong những ngày ra trận, qua đó ca ngợi
Việt Bắc anh hùng, đất nước anh hùng. III. Kết bài
Cảm nhận chung về bài thơ Việt Bắc của tác giả Tố Hữu.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 1
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Văn học kháng chiến đến ngày nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng đối với nền
văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Tố Hữu được đánh giá là tác phẩm đồ sộ, nhiều
ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của quân dân ta trong kháng chiến trường kỳ. Phân
tích Việt Bắc, ta sẽ thấy được tình cảm sắt son, đoàn kết một lòng của nhân dân
qua ngòi bút tài hoa, trữ tình của tác giả.
Tố Hữu là nhà thơ hiện đại lớn, được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ
Cách mạng Việt Nam. Cuộc đời nghệ thuật của ông luôn song hành cùng những
chặng đường Cách mạng của dân tộc, khiến thơ ông mang tính biên niên sử, hào
hùng nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. Lời thơ Tố Hữu giản dị, ấm áp nhưng đậm chất chính trị.
Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, là một trong những
tác phẩm nổi bật nhất của Tố Hữu. Trong đầu những năm 40 của thế kỉ trước, Việt
Bắc là căn cứ địa quan trọng của cuộc chiến. Nơi đây, nhân dân ta cùng với các
chiến sĩ cùng sống, đùm bọc và chiến đấu. Đến năm 1954, sau chiến thắng vang
dội, Trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự
kiện trọng đại ấy của dân tộc, tác giả Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
Thông qua lời thơ, tác giả đã gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng
trong cuộc kháng chiến, là tiếng lòng của quân dân ta trong máu lửa, gian lao.
Trước hết, tác giả đưa ra lời của người ở lại, là tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc
khi cán bộ, chiến sĩ về xuôi. Với thể thơ lục bát, lời thơ như tâm tình, thủ thỉ, lưu luyến không thôi:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Phân tích Việt Bắc để thấy những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong
sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia xa. Họ phải xa những người chiến sĩ Cách
mạng đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả sử dụng hai đại từ xưng hô “ta” và “mình”
vô cùng khéo léo. Nó đã thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy của
cán bộ và nhân dân. Ở đây, Tố Hữu đưa ra quãng thời gian cụ thể là “mười lăm
năm ấy”. Đó là quãng thời gian rất dài, gắn liền với cuộc đấu tranh ác liệt của quân
và nhân dân ta với thực dân Pháp tàn bạo. Đó cũng chính là quãng thời gian mà
tình cảm giữa quân và dân vô cùng tha thiết, mặn nồng. Giờ đây, cả người ra đi và
người ở lại tràn ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng của
những điều xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở trong lòng. Tố Hữu dường như
đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách lạ lùng.
Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi
bồn chồn. Dường như không ai muốn rời bước chân đi:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Những lời tâm tình, thủ thỉ của người ở lại đã khiến cho người về xuôi không đành
lòng bước đi. Những lời tâm sự ấy giờ đây khiến những thương nhớ và kỉ niệm
như chực trào, không thể nào quên. Tất cả tâm trạng ấy được tác giả gói gọn trong
hai từ “bâng khuâng”. Nó như dùng dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi, lại như nỗi
buồn man mác khi nghĩ tới cảnh chia xa. Cảm xúc ấy khó mà có thể diễn tả bằng lời một cách dễ dàng.
Lúc này đây chính tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý giải
được là tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá đầy
để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất nơi đây,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
đồng đội và đồng bào đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho
nhau từng bữa cơm giấc ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau
trong vài câu chữ như thế này, nhưng chính câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra,
không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”
“Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không
tác rời nhau. Người ra đi một mực khẳng định rằng “mặn mà đinh ninh”. Hai từ
“đinh ninh” như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung
trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả.
Phân tích Việt Bắc mới biết khi nhớ về núi rừng việt bắc tác giả nhớ tất thảy thiên
nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm nghĩa, vẹn
tình. Chỉ với vài bước phác họa bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi
đây hiện lên một cách vẹn tròn, ý nghĩa, tươi đẹp nhất :
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vang
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi và núi rừng Việt Bắc.
Trong bức tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn
xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý
nghĩa biết bao. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong toàn bộ
bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan nhất.
Điệp từ “nhớ” được tác giả sử dụng lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong suốt tác phẩm.
Nó đã khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như tràn ra lênh láng, cảm xúc của
tác giả cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt, tràn lên mặt chữ.
Nhà thơ Tố Hữu không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc mà hơn hết,
ông còn nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra trong suốt quãng thời gian dài:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”
Đến đây, giọng thơ không còn tha thiết, thủ thỉ tâm tình nữa mà trở nên hào hùng,
vang dội vô cùng khi nói đến cuộc chiến oanh liệt của quân dân ta. Những trận
chiến ấy xảy ra giữa núi rừng Việt Bắc, để lại từng dấu ấn nơi đây. Và không chỉ
con người đồng lòng, mà thiên nhiên dường như cũng đang sát cánh bên người
chiến sĩ để “vây quân thù”.
Qua những vần thơ này, dường như hào khí Đông A lại trỗi dậy, mãnh liệt và tràn
đầy niềm tự hào. Để đến tận mai sau, chiến thắng vẻ vang và tình đoàn kết đồng
lòng sẽ mãi mãi được khắc ghi và nhắc lại.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Với thể thơ lục bát, giọng thơ trữ tình cùng các hình ảnh độc đáo, “Việt Bắc” đã
khắc họa thành công sự kiện quan trọng của dân tộc. Hơn cả, bài thơ đã tái hiện
được một chặng đường hào hùng, tình cảm sắt son, gắn bó của quân và dân – yếu
tố quan trọng mang tới chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta. Đó là những con
người nhỏ bé nhưng phi thường, hết lòng vì dân, vì nước, vì Cách mạng, đoàn kết,
thuỷ chung với lý tưởng cao đẹp.
Phân tích Việt Bắc đạt 9+ - Mẫu 2
Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những
con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng, với quê hương, với đất nước.
Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình,
xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc với nhân dân và tiêu biểu hơn cả
là bài thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu.
Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cái nôi của văn học dân gian. Tố Hữu là
nhà thơ lớn, là người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ ông luôn
gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ mang tính
trữ tình chính trị vô cùng sâu sắc, hướng đến những cái tôi chung với lẽ sống lớn,
tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cộng
đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa giàu nhạc điệu lại mang tính dân tộc đậm đà.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, gây chấn động địa cầu đã mở
ra cho nước ta một trang sử mới một kỷ nguyên mới. Sau khi kí hiệp định Giơ-ne-
vơ (7/1954), miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Pháp rút quân về nước. Tháng
10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị toàn bộ các cơ quan trung ương Đảng và
Chính phủ từ Việt Bắc dời về thủ đô. Từ đây, những người chiến sĩ cách mạng chia
tay với miền rừng núi bạt ngàn để về xuôi, bước sang một trang mới của cách
mạng đất nước, Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mở đầu bài thơ với giọng thơ trữ tình, êm đềm tha thiết, nhà thơ đã thể hiện tình
cảm của người ở lại dành cho người ra đi.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả sử dụng cặp xưng hô “mình-ta”, ở đây không phải đang nói đến xưng hô
giữa những đôi lứa yêu nhau hay cặp vợ chồng nào đó mà là lời đối đáp của những
người cách mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô ấy vừa mang tính dân tộc
đậm đà lại thể hiện được tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như tiếng
nói trong tình yêu đôi lứa, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người đi kẻ ở, đầy ngậm
ngùi, lưu luyến. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, sự gắn bó ấy không phải
chỉ trong những năm kháng chiến chống Pháp mà xuất phát từ những năm kháng
chiến chống Nhật, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Một khoảng thời
gian dài chiến đấu gian khổ, càng làm cho tình cảm giữa những người chiến sĩ cách
mạng và người dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng, thấm đượm ân tình. Mười
lăm năm là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài nhưng nó đủ khiến cho
những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên, như Chế Lan Viên
từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. “Nhìn cây
nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” , và đặc biệt nỗi nhớ ấy đã lan tỏa khắp núi rừng,
phải yêu, phải gắn bó, phải sống một trái tim chân tình biết mấy mới có thể có
những cảm xúc thiết tha đến vậy?
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Từ phiếm chỉ “ai”, gợi nhiều cảm xúc, ở đây “ai” có thể là người ra đi, cũng có khi
là người ở lại. Từ láy “tha thiết” được lấy lại từ từ “thiết tha” đã khắc họa rõ ràng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” chất
chứa nhiều tâm tình, ở đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được về lại quê hương,
đoàn tụ với gia đình; và ở đó cũng ẩn chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất
thấm đẫm nghĩa tình. “Áo chàm đưa buổi phân ly”, hình ảnh chiếc áo có phần cổ
điển, truyền thống thể hiện sự quyến luyến, là hình ảnh hoán dụ của con người Việt
Bắc, là màu áo nâu giản dị, hiền hòa, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, linh hồn của người
dân và núi rừng Tây Bắc, đang đưa tiễn người chiến sĩ cách mạng. Câu “Cầm tay
nhau biết nói gì hôm nay…”, nhịp thơ 3/4 như tạo một khoảng lặng giữa lúc phân
li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng không muốn nói điều chi, để
cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai.
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trái bùi để rụng măng mai để già.”
Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy, đây
chính là giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng.
Những kỷ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc thời gian “những ngày”, không
gian “chiến khu”. Những hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”,
“miếng cơm chấm muối”, là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của
người làm cách mạng những năm đầu kháng chiến nơi núi rừng Việt Bắc, và chính
những khó khăn ấy đã khiến cho nghĩa tình quân dân trở nên thắm thiết, keo sơn.
Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ
nhung dạt dào, sâu thẳm, từ phiếm chỉ “ai” thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Những
cụm từ “trái bùi để rụng”, “măng mai để già” đã thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, vắng
lặng khi người cách mạng về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi
nhịp sống đột ngột thay đổi từ đông vui về vắng vẻ đìu hiu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập
trong câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, khẳng định một chân lý rằng
càng khó khăn gian khổ, thì tình nghĩa quân dân lại càng thêm đoàn kết gắn bó, sắt
son một lòng. Những người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới
quen, từ những năm còn kháng chiến chống Nhật để kỷ niệm càng thêm khắc sâu
vào tâm hồn người đi. Từ “mình” được lặp lại trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ
mình” đã gợi nhắc đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một” càng khẳng định
sự gắn bó thiết tha. Những địa danh vô cùng quen thuộc với người ra đi và cả
người ở lại “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”, gợi nhắc lại những kỷ niệm
xưa cũ, hào hùng, sâu sắc tình cảm sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng
với người dân Tây Bắc.
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Lối đối đáp “mình-ta” tiếp tục được sử dụng, kết cấu “Ta với mình, mình với ta”
tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Đến đây, ta cũng là mình, mình cũng như ta. Câu
thơ “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” đã thể hiện tình cảm thủy chung son sắt
mà người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình, như một lời thề trong
tình yêu đôi lứa. Biện pháp so sánh trong câu “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình
bấy nhiêu...”, đã thể hiện một điều vô cùng thiêng liêng và sâu sắc: Nghĩa tình của
con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy không có bao giờ có thể vơi cạn như
tình yêu thương của lòng mẹ hiền với con cái của mình. Nhà thơ đã so sánh nỗi
nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình
quân dân để tất cả trở nên tha thiết hơn, dịu ngọt hơn. Và cũng bởi lẽ nỗi nhớ trong
tình yêu là nỗi nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với
một không gian thật thơ mộng, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng
nương” đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh
khắc của thời gian, cả đêm lẫn ngày. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương
đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến thương, nồng nàn, ấm áp. Điệp ngữ “nhớ
từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, Tố
Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” và đến hai tiếng vơi đầy khép
lại đoạn thơ thì đây không chỉ còn đơn thuần là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ
niệm: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”
Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của
người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất
Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi”
càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ
nhàng nhưng cũng thật sâu lắng, người đi kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát
cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn
bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh đoàn kết ấy đã tạo nên
chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ “Địu
con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ
“cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong
kháng chiến. Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với
đó là những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc: Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca
vang núi đèo, đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân,
thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi: Dù
bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau
trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng. Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi
cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và
núi rừng Việt Bắc thân thơ. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng
suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Bức tranh tứ bình hiện lên thật đẹp đẽ, câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta”, chất
chứa bao nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ bao nỗi nhớ nhung, bao yêu
thương. Cụm từ “những hoa cùng người” có kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi
nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên
đẹp và thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc, là mùa đông với “hoa
chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng, tạo nên một bức
tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp xua đi cái lạnh cắt
da cắt thịt ở mảnh đất Việt Bắc.
Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp rất kỳ vĩ, con người như chiếm
lĩnh đỉnh cao, hình ảnh được tạo nên bằng nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp
ảnh. Mùa xuân hiện ra với cảnh “mơ nở trắng rừng”, vô cùng thơ mộng, tạo nên
một bức tranh đẹp, ấm áp, lung linh, hình ảnh con người cũng trong trong tư thế
lao động “chuốt từng sợi giang”, động từ “chuốt”, thể hiện một công việc cần cù,
kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tiếp
đến là mùa hạ thật sinh động và tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên có thêm tiếng
ve rộn rã ngân vang núi rừng và tràn đầy sắc vàng của rừng phách. Hình ảnh “cô
em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng biết bao. Khép lại bức tranh tứ
bình là cảnh mùa thu, mùa thu hòa bình, mùa thu của cách mạng tháng tám thành
công, mùa thu năm 1954, tất cả đã được tượng trưng trong một vầng trăng rất đẹp.
Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” vừa khép lại bức tranh tứ bình về
cảnh và người Việt Bắc, đồng thời cũng khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.
Trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại đều không thể không nhắc đến những
ngày đầu của cuộc kháng chiến, đó là khi “Giặc đến giặc lùng”, từ “lùng” đã thể
hiện sự nguy hiểm của quân thù. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” cùng với
“Đất trời ta cả chiến khu một lòng” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của thiên nhiên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
và con người trong cuộc kháng chiến. Ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sinh thể
có linh hồn, chở che cho bộ đội, bủa vây quân thù, hình ảnh “Núi giăng thành lũy
sắt dày” kết hợp với kết cấu trùng điệp “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, giàu
sức gọi, góp phần thể hiện cho sức mạnh của dân tộc, sức mạnh không thể bị hủy
diệt. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang”, những địa
danh gắn liền với những chiến công, tất cả cho ta cảm nhận về nỗi nhớ trải dài
khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động cùng việc sử
dụng những biện pháp nghệ thuật tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại
của dân tộc, đồng cũng bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt
Bắc thấm đẫm tình thương.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mảnh
đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước bởi đây là quê
hương cách mạng là trái tim của cả nước trong những tháng ngày kháng chiến
chống Pháp. Biện pháp nghệ thuật tu từ so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình
ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra
tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào hùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật
tu từ ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến hình ảnh
“đầu súng trăng treo” trong thơ của Chính Hữu và “súng ngửi trời” trong thơ
Quang Dũng thể hiện tầm cao của người lính, đây là một hình ảnh đẹp và rất giàu
chất thơ. Hình ảnh đoàn dân công vô cùng mạnh mẽ, đông đúc “đỏ đuốc từng
đoàn”, “bước chân nát đá”, gợi nhắc đến thành ngữ “Chân cứng đá mềm” khẳng
định sức mạnh và sự vững chãi, bền bỉ của con người Việt Nam trước bão tố chiến
tranh. Trong đêm tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn
nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về một ngày mai chiến thắng. Và cuối cùng tin vui
đã về trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng
vẫn đọng lại trong trái tim họ biết bao kỷ niệm, biết bao yêu thương, họ mang theo
niềm vui toàn thắng trong những ngày cuộc kháng chiến khép lại.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích là quang cảnh Việt Bắc sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, khắp nơi hân hoan trong những màu sắc rực rỡ vui tươi của
nắng vàng, của cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong
không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và
nhà nước “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các
khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca những công lao vĩ đại của Bác Hồ
kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Việt Bắc thân thương, dù mai này
đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ một góc
trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình
ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con
người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã
bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng
Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn
nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang
sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử thấm đượm tình
cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.
Phân tích Việt Bắc hay nhất - Mẫu 3
Là một trong số những gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến, với tư cách là
một nhà thơ – chiến sĩ, Tố Hữu đã góp vào nền văn học cách mạng nói riêng và
nền văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm có giá trị với một phong cách
nghệ thuật rất riêng. Và có thể nói, “Việt Bắc” là một trong số những sáng tác tiêu
biểu của ông. Bài thơ được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, nhân sự kiện trung
ương Đảng và Chính phủ cùng những người cách mạng từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi.
“Việt Bắc” với việc sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” – “ta” cùng kết cấu đối
đáp vốn quen thuộc trong ca dao, dân ca giúp người đọc hình dung ra cuộc chia tay
giữa nhân dân với trung ương Đảng, Chính phủ như cuộc chia tay của một đôi trai
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
gái, đầy bịn rịn, lưu luyến, nhớ thương và qua đó làm cho nỗi niềm cảm xúc của
nhân vật trữ tình được dài bày một cách đầy đủ, vẹn tròn và sâu sắc nhất. Có thể
nói, bài thơ được chia làm hai lời đối đáp giữa kẻ ở và người đi.
Tám câu thơ đầu bài thơ là lời đối đáp thứ nhất của người ra đi và người ở lại. Để
rồi, qua lời đối đáp ấy người đọc có thể hình dung thấy khung cảnh chia tay lưu
luyến, nói chẳng nên lời giữa nhân dân Việt Bắc với những người cán bộ:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn cây nhớ nguồn.
Với việc sử dụng phép điệp cấu trúc “mình về mình có nhớ…” dưới hình thức một
câu hỏi, qua đó người ở lại gợi nhắc lại những kỉ niệm sâu sắc trong thời gian
“mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” – mười lăm năm nghĩa tình, mười lăm năm
gắn bó thủy, mười lăm năm đồng cam cộng khổ mà người dân Việt Bắc và những
người cán bộ đã sát cánh bên nhau. Và trước những lời ướm hỏi đầy chân tình ấy
của nhân dân, của người ở lại, người ra đi đã không thể che dấu nỗi lòng mình. Để
rồi, có lẽ, sẽ chẳng ai có thể nào quên được khung cảnh những người “áo chàm”
tiễn cán bộ về xuôi, tay trong tay nói chẳng nói chẳng nên lời giữa kẻ ở người đi.
Khung cảnh bịn rịn ấy được thể hiện rõ nét qua hàng loạt các từ thể hiện cảm xúc
của người ra đi “bâng khuâng”,”bồn chồn”, “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”,…
Nếu như tám câu thơ đầu bài thơ là lời đối đáp thứ nhất của người ra đi và người ở
lại thì phần còn lại của bài thơ chính là lời đối đáp thứ hai. Mở đầu lời đối đáp thứ
hai là lời của người ở lại với mười hai câu thơ. Dường như, trong nỗi niềm của
người ở lại, câu hỏi “có nhớ” luôn là nỗi quan tâm duy nhất, luôn thường trực trong
họ và xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Và nếu như ở lời đối đáp thú nhất, lời hỏi “có
nhớ” của người ở lại chỉ là lời ướm hỏi thì đây, người ở lại đã gợi nhắc lại một
cách chi tiết, cụ thể những kỉ niệm son sắt trong quãng thời gian mười lăm năm.
Đó là những kỉ niệm dẫu khó khăn, gian nan nhưng tràn đầy ân nghĩa và tấm lòng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
lạc quan, niềm tin yêu giữa cán bộ và nhân dân. Đặc biệt, ở đây, điệp từ “có nhớ”
lại thêm một lần nữa được điệp lại nhiều lần như khắc sâu vào trái tim, vào nỗi
lòng của cả người ra đi và người ở lại.
Và rồi, trước lời của người ở lại, người ra đi đã khẳng định một cách chắc chắn về
nỗi nhớ con người, cảnh vật nơi đây, lời đáp của người ra đi như một lời thề thủy
chung son sắt – lời thề về một nỗi nhớ khôn nguôi, da diết:
Ta với mình mình với ta
Tình ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.
Và rồi, trong lời đáp của mình, người ra đi đã vẽ lại một cách chân thực và sâu sắc
từng kỉ niệm, từng ấn tượng của mình của thiên nhiên, về con người và về những
năm tháng gian khổ mà hào hùng, những ân tình giữa người ra đi và người ở lại.
Trước hết, đó là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc. Trong cảm nhận của người ra đi,
thiên nhiên Việt Bắc hiện lên thật vẹn tròn, mang đầy đủ những đặc trưng rất riêng
của núi rừng Việt Bắc – một bức tranh thiên nhiên mờ ảo, hư thực, gần gũi và thân
quen. Đó là ánh trăng thanh bình giữa núi ngàn bao la, mênh mông với hình ảnh
đậm chất thơ “trăng lên đầu núi”. Đó là “nắng chiều lưng nương” – ánh nắng chan
hòa, ấm áp mỗi buổi chiều. Đó là những bản làng chìm trong màn sương trông thật
huyền ảo với những ảnh lửa bập bùng trong đêm tối và cả những rừng nứa, bờ tre,
suối Lê – những hình ảnh rất riêng, là điệu hồn riêng củ núi rừng Tây Bắc.
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Không dừng lại ở đó, bức tranh thiên nhiên Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi
đó còn là bức tranh tứ bình, để rồi trong đó, người đọc cảm nhận được sự chuyển
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
mình của thiên nhiên, của cảnh vật Việt Bắc ở mỗi mùa trong năm. Mùa đông,
thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ hài hào giữa nền xanh của rừng cây bạt ngàn
chính là sắc đỏ của những bông hoa chuối rừng – “rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” –
sự kết hợp hài hòa ấy tạo cho bức tranh mùa xuân nơi đây thêm thật đẹp, thật ấm
áp và ánh lên sức sống. Xuân qua, đông tới, thiên nhiên Việt Bắc khoác lên mình
sắc trắng của hoa mơ – loài hoa đặc trưng, báo hiệu xuân về trên mảnh đất Việt
Bắc. Sắc trắng của hoa mơ như bung tỏa khắp mọi không gian của núi rừng –
“ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Và để rồi, hè về, thiên nhiên nơi đây lại nhanh
chóng, đột ngột chuyển mình. Dường như, tiếng “ve kêu” đã làm cho “rừng phách
đổ vàng”, rừng phách đã chuyển mình, đã bừng tỉnh để đón hè về. Đặc biệt, trong
bức tranh ấy, hình ảnh mùa thu với ánh trăng hòa bình gợi nên trong chúng ta thật
nhiều nỗi niềm, thật nhiều ấn tượng.
Nhớ về Việt Bắc, người ra đi không chỉ nhớ về vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên và
còn nhớ cả về những con người ân nghĩa nơi mảnh đất này. Đó là hình ảnh những
người mẹ kháng chiến vất vả, lam lũ, cơ cực nhưng cần cù chịu khó:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.
Vất vả, lam lũ là thế nhưng những con người nơi đây vẫn sống với nhau thật thủy
chung, tình nghĩa, họ luôn đồng cam cộng khổ với nhau, chia ngọt sẻ bùi, lạc quan,
yêu đời để cùng nhau vượt qua những năm tháng khó khăn, gian nan của cuộc kháng chiến.
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng (…)
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang nùi đèo
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Đồng thời, hình ảnh con người Việt Bắc mỗi mùa một công việc khác nhau nhưng
luôn hiện lên trong tư thế lao động, tư thế làm chủ quê hương, đất nước. Có lẽ,
người đọc sẽ không thể nào quên được hình ảnh tỉ mỉ, cẩn thận “người đan nón
chuốt từng sợi giang”, là hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” và đó còn là
“tiếng hát ân tình thủy chung” gợi nên trong lòng người ra đi bao nhiêu nghĩ suy,
bao nhiêu ân nghĩa. Như vậy, trong nỗi nhớ của người ra đi, hình ảnh thiên nhiên
và con người Việt Bắc hiện lên thật đẹp.
Đặc biệt, nhớ về Việt Bắc, người ra đi còn nhớ về một Việt Bắc hào hùng trong
kháng chiến. Với giọng thơ hào hùng, mạnh mẽ, nhanh, dồn dập đã góp phần diễn
tả sự hào hùng của Việt Bắc trong những năm tháng kháng chiến. Đồng thời, việc
lựa chọn sử dụng các hình ảnh cũng để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Nhớ về Việt Bắc trong kháng chiến là nhớ tới một không gian “những đường Việt
Bắc của ta” – một không gian rộng lớn, bao la, mênh mông, một bối cảnh rộng. Để
rồi, trên cái nền không gian rộng lớn, mênh mông ấy, hình ảnh quân và dân ta hiện
lên thật đẹp, thật hùng dũng. Khí thế ấy hiện lên thật rõ nét qua hình ảnh những
đoàn quân nối tiếp nhau ra trận, đoàn quân này nối tiếp đoàn quân khác tạo nên
một đoàn quân dài, cứ thế nối nhau “quân đi điệp điệp trùng trùng”,“dân quân đỏ
đuốc từng đoàn” đồng thời, đó còn là hình ảnh “đèn pha bật sáng”. Tất cả, tất cả
những hình ảnh ấy quyện hòa vào nhau, bổ sung cho nhau để vẽ nên một Việt Bắc
với khí thế dũng mãnh, dồn dập, dường như tất cả cùng nhau ra trận, người người
đánh giặc, nhà nhà đánh giặc – hình ảnh một Việt Bắc hào hùng, anh dũng trong
những năm tháng chống Pháp. Không chỉ nhớ về khí thế hào hùng của Việt Bắc,
người ra đi còn nhớ và tái hiện lại những chiến thắng vang dội, lẫy lừng của quân
và dân ta trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hào Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp. An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Thêm vào đó, trong mười sáu câu thơ cuối của bài thơ, tác giả còn nêu bật lên cho
chúng ta thấy vai trò, vị trí to lớn của Việt Bắc trong những năm tháng quân và dân
ta chống thực dân Pháp xâm lược. Việt Bắc trước hết là quê hương cách mạng, là
đầu não, là cái nôi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đồng
thời, Việt Bắc còn là nơi khích lệ, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta, nơi
tiếp thêm cho quân và dân ta niềm tin, niềm hi vọng về ngày chiến thắng, về ngày
hòa bình của dân tộc, của Tố quốc.
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Để rồi, sau tất cả, hai câu kết thúc bài thơ như một lần nữa cất lên lời thề thủy
chung son sắt với nhân dân, với quê hương cách mạng.
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.
Tóm lại, bài thơ với việc sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” – “ta” cùng kết cấu
đối đáp quen thuộc đã tạo nên một cuộc chia tay đầy nhớ thương giữa cán bộ với
nhân dân Việt Bắc. Bài thơ như một khúc tình ca cách mạng về cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và là khúc ca tình nghĩa giữa những con người trong cuộc
kháng chiến gian khổ ấy. Đồng thời, qua đoạn trích cúng giúp chúng ta hiểu hơn về
phong cách thơ của Tố Hữu.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 4
Tố Hữu là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam nói chung và trong mảng
văn học cách mạng nói riêng, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Ở
Tố Hữu có sự thống nhất hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chính
vì vậy có thể nói rằng, qua các tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy được thế giới
tâm hồn tình cảm, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ Tố
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Hữu mà qua đó dường như nhà văn đã phản ánh một cách rõ nét nhất những dấu
mốc lịch sử quan trọng xuyên suốt quá trình kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân
tộc, người đọc vì thế mà có thể thấy được trọn vẹn những trang sử vẻ vang của đất
nước như những thước phim quay chậm. Cùng phân tích bài thơ Việt Bắc bạn sẽ rõ.
Bài thơ được sáng tác vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và
Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tố Hữu cũng
là một trong những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó với người dân và thiên
nhiên Việt Bắc, nay trở về chia tay đầy ngậm ngùi và lưu luyến, nhà thơ xúc động viết nên bài thơ này.
Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc mang âm
hưởng nhẹ nhàng uyển chuyển thấm đẫm chất trữ tình của những câu ca dao.
Trong cảm xúc lắng đọng ngậm ngùi của buổi chia li, việc sử dụng thể thơ này để
biểu đạt tình cảm và hồi tưởng lại những kỉ niệm gắn bó với núi rừng Việt Bắc,
người dân Việt Bắc là hoàn toàn hợp lí.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một loạt những câu hỏi tu từ:
Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa?
Những kỉ niệm đó giờ đây chỉ còn là những kỉ niệm trong dòng kí ức… chầm
chậm trôi… Những câu hỏi cứ nối tiếp nhau xuất hiện làm nên một điệp khúc thấm
đẫm tâm trạng của nhân vật trữ tình. Cũng chính qua những dòng thơ này mà
khung cảnh núi rừng Việt bắc đại ngàn hiện ra rõ nét nhất. Đó là núi non hùng vĩ,
những con sông, những cơn mưa ào ạt đổ về nguồn mây mù khói tỏa… Nhưng
giữa bức tranh đó nổi bật nhất chính là cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu hết sức
gian lao, khổ cực nhưng vô cùng gắn bó, đoàn kết, thắm tình nghĩa như những
người con cùng chung một dòng máu giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt
Bắc. Cuộc sống chiến đấu tuy vất vả và khó khăn nhưng nhờ có sự ủng hộ và nâng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
đỡ tinh thần của những con người chân chất nơi núi rừng đại ngàn đó nên tất cả đã
trở thành những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào quên trong trái tim của hai phía.
Chân bước đi mà lòng còn ở lại…trái tim gắn bó hơn mười năm giờ đây một phần
đã thuộc về đất, về người, về núi rừng nơi đây giờ phải chia xa làm sao cho nỡ.
Người chiến sĩ bước đi trong ngậm ngùi thương nhớ. Những câu hỏi của đồng bào
Việt Bắc không chỉ thể hiện được sự lưu luyến nuối tiếc mà còn như muốn khắc
sâu hơn nữa những ngày tháng kỉ niệm đó.
Cách xưng hô “mình – ta” cũng là cách xưng hô rất gần gũi thân mật thể hiện sự
gắn bó máu thịt giữa quân và dân, chính vì vậy mà lời thơ như lời tâm tình thủ thỉ,
giọng thơ mang âm hưởng nhẹ nhàng mà đằm thắm thiết tha. Hình ảnh áo chàm
trong câu thơ: “Áo chàm đưa buổi phân li…” là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào
Việt Bắc đang bịn rịn trong chia li. Bàn tay đan chặt bàn tay, người đi kẻ ở, họ
không biết nói gì ngoài việc trao cho nhau những cái nắm tay nồng ấm. Cái bắt tay
này ta cũng đã từng gặp trong thơ của Chính Hữu: Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…
Đúng, họ không có gì trao cho nhau giữa trời khuya lạnh giá ngoài tình đồng chí
đồng đội keo sơn gắn bó. Cái bắt tay giản đơn thôi nhưng đã giúp người chiến sĩ
vượt qua những khó khăn thiếu thốn của buổi đầu kháng chiến. Ở đây cái nắm tay
này diễn ra trong bối cảnh chia li, chính vì vậy nó có ý nghĩa như một minh chứng
cho tình cảm nồng thắm quân dân.
Trước tình cảm tha thiết cùng với sự bày tỏ nỗi nhớ nhung đặc biệt ấy, người chiến
sĩ cũng dần trải lòng ra qua từng câu chữ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi….
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra
ngày hôm qua vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình
cảm dạt dào và nghĩa tình sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng.
Người chiến sĩ còn nhớ đến vầng trăng tròn đầy sau những rặng núi xa sau bản,
nhớ những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh đồng ruộng bậc
thang ngào ngạt mùi lúa chín, nhớ những sáng tinh sương mịt mù trong mây và
khói tỏa, nhớ từng dòng suối cánh rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại một
lần nữa hiện lên qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà chẳng nhớ về.
Anh còn thấy xao xuyến bồi hồi khi nhớ lại hương vị của củ sắn lùi, bắt cơm sẻ
nửa tuy bình dị nhưng nồng thắm nghĩa tình. Hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy
làm việc là hình ảnh tiêu biểu cho phong trào nuôi quân của hậu phương nơi núi
rừng Việt Bắc. Nhớ những lớp học i tờ, nhớ khúc hát ca vang rừng núi của đoàn
dân quân… Những kỉ niệm ấy quả thực vô cùng đẹp đẽ và đã trở thành một phần
máu thịt của anh. Chẳng cần những lời nói chia tay lưu luyến nhưng qua việc tái
hiện lại một loạt các câu hỏi như thế ta cũng đủ thấy được tình cảm sâu đậm, sự
gắn bó tha thiết giữa những người cán bộ và người dân.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Chỉ qua một vài câu thơ mà nhà thơ đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét
nhất thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa xuân hạ thu đông nhưng nhà thơ lại chọn
miêu tả mùa đông trước phải chăng là những cán bộ chiến sĩ đến vào mùa đông và
cũng ra đi vào mùa đông, mùa đông là mùa của gặp gỡ và chia phôi cho nên nó
khắc sâu vào trong lòng người nhất. Mùa đông – mùa của những cánh rừng bạt
ngàn màu xanh tươi mát, của những bông hoa chuối đỏ tươi. Con người hiện lên
trong bức tranh thơ mộng đó đang trong tư thế sẵn sàng chinh phục tự nhiên: “Đèo
cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Đông qua xuân về, bức tranh Việt Bắc lại khoác
lên mình màu áo mới. Đó chính là sắc trắng tinh khiết của hoa mơ, con người trong
lao động hết sức cần cù miệt mài. Thu về là những cánh rừng trắng xóa màu hoa
mơ chuyển sang màu hổ phách cùng tiếng ve kêu như thúc giục lòng người. Hình
ảnh người con gái Việt Nam hái măng một mình cũng thật thơ mộng làm sao. Kết
thúc bức tranh bốn mùa là ánh trăng hòa bình cùng với những câu hát say đắm thủy chung.
Có thể nói rằng chỉ qua một vài câu thơ nhưng dòng chảy cuộc sống như đang
ngưng tụ lại trên từng câu chữ. Con người và thiên nhiên Việt Bắc như là trung tâm
trong bức tranh bốn mùa đó. Những nàng tiên đại diện cho sắc màu bốn mùa như
đang lướt nhẹ trên những câu chữ vậy.
Sau những câu thơ miêu tả thiên nhiên người chiến sĩ nhắc đến những hoạt động
cách mạng vô cùng sôi nổi của mình:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…
Những kí ức ùa về trong tâm trí là khi bộ đội đánh giặc. Khi quân giặc đến, không
chỉ bộ đội ta mà cả núi rừng thiên nhiên hoang dã cùng đồng lòng đồng sức đánh
giặc. Đối với quân và dân ta, rừng dang bàn tay âu yếm che chở và bảo vệ, những
tán lá rừng xanh mát như một thứ ngụy trang khiến cho bộ đội yên lòng chiến đấu
và chiến thắng quân thù. Còn đối với quân giặc, rừng lại như một vùng địa thế
hiểm trở như một ma trận bao vây khiến chúng có thể rơi vào rất nhiều cạm bẫy.
Khi ấy thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên
những trang sử vẻ vang của dân tộc.
Nhưng trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ man
Dân công đuốc đỏ từng đoàn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.
Khí thế của đoàn quân vô cùng mạnh mẽ được thể hiện thông qua hình ảnh so sánh
“đêm đêm rầm rập như là đất nung”, qua những từ ngữ gợi hình gợi tả “điệp điệp
trùng trùng”, qua hình ảnh hoán dụ ánh sao đầu súng và mũ nan – những hình ảnh
biểu tượng cho bộ đội và những người dân Việt Bắc. Ngọn đuốc trên tay quân dân
không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy mà nó còn thắp lên cả những
thế hệ, thắp lên tương lai, thắp lên niềm tin và hi vọng về một chiến thắng không
xa. Sức mạnh của cả một đoàn quân khí thế đến nỗi có thể làm cho đá nát lửa bay
không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Bằng nghệ thật phóng đại cường
điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để rồi
giờ đây chỉ qua những dòng thơ ngắn gọn, ta như trở về với một thời hào hùng của
cha ông. Giữa bóng tối vây quanh ngọn đèn pha như thắp lên niềm tin niềm hi
vọng của quân dân về một tương lai tốt đẹp hơn.
Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu gian lao và khổ cực quân và dân ta đã
giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Hạnh phúc vỡ òa không từ ngữ nào có thể
diễn tả. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên, nhân dân như vui cùng một niềm
hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt sự đoàn kết không thể nào phá
rời của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Trong niềm thương nhớ nuối tiếc khi chia xa, nhà thơ cất lên những giai điệu hào
hùng ca ngợi tổ quốc ca ngợi Đảng và Chính phủ Việt Nam:
Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Ngày hôm qua ấy mãi ở trong lòng người chiến sĩ cách mạng, tồn tại như một phần
kí ức không thể nào tách rời. Hình ảnh ngọn cờ sao vàng như một minh chứng cho
những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ như một biểu tượng tiếp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
thêm dũng khí và nghị lực cho quân dân ta tiếp tục chiến đấu và chiến thắng. Bác
như tiếp thêm cho chúng ta ý chí lòng can đảm bởi chỉ có ý chí mới vượt qua được
những chông gai thử thách và khó khăn đang đợi chờ phía trước.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
Lời thơ như lời băn khoăn day dứt khôn nguôi của người dân Việt Bắc đối với
người chiến sĩ cách mạng trong giờ phút chia tay. Các hình ảnh hoán dụ như nhà
cao, núi đồi, phố đông, sáng đèn, mảnh trăng giữa rừng là các hình ảnh tượng trưng
cho cuộc sống nơi thành thị và nơi núi rừng. Đối lập giữa một bên là cuộc sống
sung túc và đủ đầy và một bên là cuộc sống dân dã nghèo khổ nhưng đầy ắp kỉ
niệm nơi núi rừng thiên nhiên, tác giả đã diễn tả sự băn khoăn trong lòng người
dân rằng liệu hoàn cảnh sống thay đổi, những người cán bộ có thay lòng đổi dạ, có
lãng quên quá khứ, lãng quên đi những con người đã cùng kề vai sát cánh trong
những tháng ngày gian khó, đang ngày đêm nhớ nhung và mong chờ họ trở về
thăm. Đáp lại, người cán bộ bày tỏ:
Đường về đây đó gần thôi
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao chẳng khuất núi xanh
Phố đông càng giục chân nhanh bước đường
Ngày mai về lại thôn hương
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề núi giăng…
Người cán bộ cách mạng đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung của mình: dù
hoàn cảnh sống có thay đổi nhưng lòng luôn hướng về Việt Bắc, con tim luôn dạt
dào nỗi nhớ và tình cảm dành cho con người và thiên nhiên nơi đây. Dù sống trong
nhà cao nhưng sẽ không quên được những rặng núi xanh mát. Vào một ngày không
xa họ sẽ trở về thăm lại bản làng, tình cảm lại trở về tươi mới vẹn nguyên như thuở ban đầu.
Trong những giây phút chia li cuối cùng, lời nhắn cuối cùng mà người dân Việt Bắc muốn nhắn nhủ là:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người.
Hình ảnh Bác lại một lần nữa hiện lên trong bài thơ. Chỉ có điều Bác hiện lên
không phải như một biểu tượng đẹp tiếp thêm cho người chiến sĩ cách mạng ý chí
và niềm tin, không phải là một biểu tượng cho sức mạnh đánh tan quân thù nữa mà
Bác hiện lên trong những câu thơ này là một con người hết sức đời thường: mắt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
sáng ngời, áo nâu túi vải trong tư thế ung dung trên yên ngựa vào mỗi sáng tinh
sương. Quả thật hình ảnh Bác hiện lên như một ông tiên trong những câu chuyện
cổ, rất bình dị nhưng vẫn đẹp một cách phi thường. Giờ đây con người đó đã đi xa
cả rừng núi như dõi theo từng bước đi của Người.
Kết thúc bài thơ là hai câu thơ với âm hưởng tươi sáng:
Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé hát cùng thủ đô.
Hai câu cuối bài thơ mang âm hưởng tươi vui chính vì vậy mà dù đề tài có viết về
cảnh chia tay nhưng không hề gây cho người đọc cảm giác buồn bã đau thương
hay nuối tiếc mà trái lại vẫn tươi vui trong sáng, mở ra một tương lai huy hoàng,
một viễn cảnh tương lai khi đất nước phát triển đi lên không ngừng. Khúc ca cuối
bài khép lại bài thơ như là lời ngợi ca sức sống của Tổ quốc, cũng chính là khúc ca chia tay đầy tin tưởng.
Bài thơ Việt Bắc khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai.
Có được thành công như vậy trước hết là phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ
thuật. Bài thơ mang tính dân tộc được thể hiện khá rõ xuyên suốt bài thơ. Thể thơ
lục bát – một thể thơ quen thuộc trong dân gian được nhà thơ sử dụng hết sức
thành công, âm hưởng nhẹ nhàng tinh tế in sâu vào tâm trí mỗi người. Chất văn
xuôi cũng được đưa vào trong thơ và được vận dụng sáng tạo linh hoạt, những hình
ảnh so sánh, những cách nói ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu của bài thơ.
Bài thơ Việt Bắc không chỉ tái hiện lại được không khí vào những năm kháng
chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm về với
những nét đẹp trong tâm hồn người quân dân: vẻ đẹp của tấm lòng thủy chung son
sắt, vẻ đẹp của sự đoàn kết gắn bó, rộng hơn nữa đó chính là ý thức trách nhiệm
đối với Tổ quốc với nhân dân. Cũng từ đó mà ta thấy được tài năng và khả năng
giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, của con người Việt Bắc của Tố Hữu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Để làm được điều đó Tố Hữu đã trải qua một thời gian dài sống và gắn bó với
người dân, với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.
Bài Việt Bắc của Tố Hữu cùng với những bài thơ khác cùng thời, cùng đề tài như
Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật,
đã góp phần rất lớn vào trong chủ đề thơ ca cách mạng không những có tác dụng
cổ vũ động viên tinh thần người chiến sĩ mà còn như những tấm gương phản chiếu
về một thời đại vẻ vang của dân tộc, để cho thế hệ sau mãi tự hào từ đó mà càng thấy được
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 5
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô
Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt
Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt
Bắc”. Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã
phản ánh sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo
những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.
Đoạn trích bài thơ “Việt Bắc” miêu tả cuộc chia li đầy thương nhớ lưu luyến giữa
Việt Bắc và những người cán bộ kháng chiến và gợi lại những kỉ niệm kháng chiến
anh hùng mà đầy tình nghĩa. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như
trong ca dao dân ca và hình tượng hoá Việt Bắc và những người cán bộ kháng
chiến là Ta – Mình. Cuộc chia li giữa nhân dân Việt Bắc và những người chiến sĩ
cách mạng như là cuộc chia tay của một đôi bạn tình đầy bịn rịn, nhớ nhung, lưu luyến.
Mở đầu là lời của Việt Bắc. Để cho Việt Bắc – người ở lại – mở lời trước là rất tế
nhị, vì trong chia tay thì người ở lại thường không yên lòng đối với người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Bài thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Câu thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ
ta” là giai điệu chính thứ nhất. Câu thơ mới đọc thoáng qua tưởng không có gì
nhưng sâu sắc lắm. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều nói lời này. Tố Hữu
mượn màu sắc của tình yêu mà phô diễn tình cảm cách mạng. Đại từ mình và ta
đứng ở hai đầu câu thơ, đã thấy xa cách. Từ “nhớ” được điệp lại ba lần đã tạo ra
âm hưởng chủ đạo của bài thơ: lưu luyến, nhớ thường, ân tình ân nghĩa. Người về
lặng đi trước những câu hỏi nặng tình nặng nghĩa của Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” Việt Bắc lại hỏi:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
Để cho Việt Bắc hỏi là một cách nhà thơ khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian
khổ. Chỉ vài hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là khung cảnh
rừng núi hiện lên ảm đạm trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã từng
chịu chung gian khổ “miếng cơm chấm muối”, đã cùng chung lưng đấu cật để
chống kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.
Vẫn còn là lời hỏi của Việt Bắc, nhưng tứ thơ chuyển:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Biện pháp tu từ nhân hoá “rừng núi nhớ ai” nói lên tình cảm thắm thiết của Việt
Bắc với những người kháng chiến. Mình về thì núi rừng Việt Bắc trống vắng
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng
mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội và cán bộ kháng chiến. Mượn cái thừa để
nói cái thiếu, thật hay! Hình thức đối lập giữa cái bên ngoài (hắt hiu lau xám) và
bên trong (đậm đà lòng son) biểu hiện chân thật cuộc sống lam lũ, nghèo đói của
người dân Việt Bắc, nhưng trong lòng thì thuỷ chung son sắt với cách mạng.
Cuối lời Việt Bắc hỏi người về:
“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Giai điệu chính thứ hai của bài thơ xuất hiện: “Mình đi, mình có nhớ mình”. Nếu
giai điệu một là đạo lí của dân tộc với tư tưởng ân nghĩa thì giai điệu hai là cách
mạng. Việt Bắc nhắn nhủ với người về là chẳng những “nhớ ta” mà còn phải “nhớ
mình’, nói theo ngôn từ của tình yêu thì chẳng những phải “nhớ em” mà còn phải
“nhớ anh” nữa. Cái “anh” mà hồi ở với em. Mình đã sống với Ta mười lăm năm,
tình nghĩa biết mấy, anh hùng biết mấy! Mình với Ta viết lên những trang sử oai
hùng của dân tộc “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Bây giờ xa cách, Mình
về thành thị, nhớ đừng thay lòng đổi dạ với Ta, mà cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:
“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Để cho Việt Bắc ướm hỏi dè chừng như vậy là một cách khéo léo nhà thơ Tố Hữu
dự báo những diễn biến tư tưởng trong hoà bình.
“Mình đi, mình có nhớ mình”
Đó là câu thơ hay nhất của bài thơ “Việt Bắc” mà cũng là một sáng tạo tuyệt vời
của Tố Hữu. Đón hết những lời ân tình ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về
mới mở lời. Lời người về cũng chí tình chí nghĩa:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh,
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”
Hai đại từ ta – mình cứ xoắn xuýt, quấn quýt “Ta với mình, mình với ta” thật là
nồng nàn. Ý nghĩa lại không rạch ròi để rồi nhập lại làm một:
“Mình đi, mình lại nhớ mình”
(Trả lời cho câu hỏi: “Mình về mình có nhớ ta”)
Diễn ra ngôn ngữ của tình yêu là “Anh đi anh lại nhớ em”. Nỗi nhớ của người đi
thật là dào dạt, nghĩa tình của người đi đối với Việt Bắc thật là bất tận “Nguồn bao
nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Người đi trả lời như vậy hẳn làm yên lòng
người ở lại – Việt Bắc.
Như vậy là biến tấu của giai điệu một đã hình thành và mở rộng đến vô cùng. Tất
nhiên đấy chỉ là một thủ pháp để nhà thơ miêu tả mối quan hệ khăng khít giữa Việt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Bắc và cách mạng, miêu tả lại bản anh hùng ca kháng chiến của quân dân Việt Bắc.
Để xua tan những hoài nghi của người ở lại, người về phải nói những lời thật nồng
thắm, phải so sánh với những tình cảm cao quý nhất của con người:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”
Từ “nhớ” được điệp lại trùng trùng và mỗi từ lại gợi lên không biết bao nhiêu kỉ
niệm thân thương giữa Ta với Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt đã được hồi tưởng
(mà cái nhỏ trong tình yêu chính là cái lớn).
“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”
Con người Việt Bắc trong lòng người về mới đáng yêu đáng quý làm sao:
“Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.”
Một tiếng mõ trâu giữa rừng chiều, một tiếng chày đêm ngoài suối âm vang mãi trong lòng người ra về:
“Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Nói gọn lại là người về nhớ thiên nhiên Việt Bắc tươi đẹp, thơ mộng hữu tình(1);
nhớ con người Việt Bắc giản dị, tình nghĩa, thủy chung.
Từ giọng điệu anh hung ca. Cuộc kháng chiến anh hùng của ta và mình được tái
hiện trong hòai niệm của người về:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”
Thiên nhiên Việt Bắc như có linh hồn là nhờ tác giả sử dụng phép nhân hóa. Núi
rừng Việt Bắc tươi đẹp đã trở thành lũy sắt bảo vệ và che chở cho bộ đội “vây”,
“đánh” quân thù. Mỗi một tên núi, tên sông, tên phố, tên bản là một chiến công
lừng lẫy của quân dân Việt Bắc. Rồi những đêm hành quân, những đoàn dân công,
những đoàn xe vận tải tấp nập sôi động:
“Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.”
Tác giả lại chuyển sang giọng điệu thơ trang trọng, thiêng liêng để diễn tả nỗi nhớ
của người về đối với Trung ương Chính phủ – Cụ Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc
trong trí nhớ của người về là quê hương cách mạng, là căn cứ địa kháng chiến, là
niềm tin là hi vọng của cả dân tộc.
Người về cũng không quên trả lời câu hỏi gay cấn của Việt Bắc:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)
(Trả lời cho câu hỏi “Mình đi mình có nhớ mình”)
Nghĩa là người về muốn nhắn nhủ với Việt Bắc là dù xa cách dù về thành thị xa
xôi thì người các bộ kháng chiến năm xưa vẫn giữ gìn và phát huy phẩm chất tốt
đẹp của người cán bộ cách mạng.
Như vậy là với biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã khép lại phần một của bài
thơ”Việt Bắc”. Và chủ đề chung thủy – chung thủy với cách mạng của bài thơ
“Việt Bắc” đã đạt đến độ sâu sắc ngay trong phần một này.
“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu mà cũng là kiệt tác của thơ ca cách mạng,
thơ ca kháng chiến. Bài thơ thể hiện tài hoa nhiều mặt của nhà thơ Tố Hữu. Thể
thơ lục bát được tác giả phô diễn những tình cảm, tư tưởng mới mà vẫn đậm đà bản
sắc dân tộc. Lối hát đối đáp tạo ra giai điệu phong phú cho bài thơ. Nhiều biện
pháp tu từ được tác giả vận dụng khéo léo. Ngôn ngữ trong sáng, nhuần nhị, và có
nhiều nét cách tân (đặc biệt là hai đại từ Ta – Mình). Tiếng nói yêu thương – nét
nổi bật trong phong cách thơ Tố Hữu – không có bài nào thấm thía hơn “Việt Bắc”.
Bài thơ còn thể hiện tư tưởng mới mẻ với những dự báo sáng suốt được biểu hiện
bằng hình ảnh phong phú và tấu lên băng âm nhạc làm say mê lòng người.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 6
Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn những
con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp cách mạng, với quê hương, với đất nước.
Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương sâu sắc, trữ tình,
xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc với nhân dân và tiêu biểu hơn cả
là bài thơ Việt Bắc, một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu.
Tố Hữu (1920-2002), tên khai sinh là Nguyễn Duy Thành, quê ở xã Quảng Thọ,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, cái nôi của văn học dân gian. Tố Hữu là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
nhà thơ lớn, là người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt Nam, thơ ông luôn
gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân tộc. Phong cách thơ mang tính
trữ tình chính trị vô cùng sâu sắc, hướng đến những cái tôi chung với lẽ sống lớn,
tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cộng
đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa giàu nhạc điệu lại mang tính dân tộc đậm đà.
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, gây chấn động địa cầu đã mở
ra cho nước ta một trang sử mới một kỷ nguyên mới. Sau khi kí hiệp định Giơ-ne-
vơ (7/1954), miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Pháp rút quân về nước. Tháng
10/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị toàn bộ các cơ quan trung ương Đảng và
Chính phủ từ Việt Bắc dời về thủ đô. Từ đây, những người chiến sĩ cách mạng chia
tay với miền rừng núi bạt ngàn để về xuôi, bước sang một trang mới của cách
mạng đất nước, Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.
Mở đầu bài thơ với giọng thơ trữ tình, êm đềm tha thiết, nhà thơ đã thể hiện tình
cảm của người ở lại dành cho người ra đi.
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tác giả sử dụng cặp xưng hô “mình-ta”, ở đây không phải đang nói đến xưng hô
giữa những đôi lứa yêu nhau hay cặp vợ chồng nào đó mà là lời đối đáp của những
người cách mạng với người dân Việt Bắc. Cách xưng hô ấy vừa mang tính dân tộc
đậm đà lại thể hiện được tính trữ tình chính trị sâu sắc trong thơ Tố Hữu, như tiếng
nói trong tình yêu đôi lứa, thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người đi kẻ ở, đầy ngậm
ngùi, lưu luyến. “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, sự gắn bó ấy không phải
chỉ trong những năm kháng chiến chống Pháp mà xuất phát từ những năm kháng
chiến chống Nhật, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940). Một khoảng thời
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
gian dài chiến đấu gian khổ, càng làm cho tình cảm giữa những người chiến sĩ cách
mạng và người dân Việt Bắc thêm sắt son, mặn nồng, thấm đượm ân tình. Mười
lăm năm là quãng thời gian không ngắn cũng chẳng dài nhưng nó đủ khiến cho
những cảm xúc biến thành hoài niệm, không thể nào lãng quên, như Chế Lan Viên
từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. “Nhìn cây
nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” , và đặc biệt nỗi nhớ ấy đã lan tỏa khắp núi rừng,
phải yêu, phải gắn bó, phải sống một trái tim chân tình biết mấy mới có thể có
những cảm xúc thiết tha đến vậy?
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Từ phiếm chỉ “ai”, gợi nhiều cảm xúc, ở đây “ai” có thể là người ra đi, cũng có khi
là người ở lại. Từ láy “tha thiết” được lấy lại từ từ “thiết tha” đã khắc họa rõ ràng
hơn tình cảm của người ra đi và người ở lại, từ “bâng khuâng” và “bồn chồn” chất
chứa nhiều tâm tình, ở đó có niềm vui toàn thắng, niềm vui được về lại quê hương,
đoàn tụ với gia đình; và ở đó cũng ẩn chứa nhiều nỗi buồn, phải chia tay mảnh đất
thấm đẫm nghĩa tình. “Áo chàm đưa buổi phân ly”, hình ảnh chiếc áo có phần cổ
điển, truyền thống thể hiện sự quyến luyến, là hình ảnh hoán dụ của con người Việt
Bắc, là màu áo nâu giản dị, hiền hòa, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn, linh hồn của người
dân và núi rừng Tây Bắc, đang đưa tiễn người chiến sĩ cách mạng. Câu “Cầm tay
nhau biết nói gì hôm nay…”, nhịp thơ 3/4 như tạo một khoảng lặng giữa lúc phân
li ngậm ngùi, nhìn nhau mà nghẹn lòng, ngập ngừng không muốn nói điều chi, để
cảm xúc ấy phiêu lãng, len lỏi trong tâm hồn, thành kỷ niệm khó phai.
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trái bùi để rụng măng mai để già.”
Sau mỗi cụm từ “Mình đi”, “Mình về”, nhà thơ đã tinh tế đặt một dấu phẩy, đây
chính là giây phút, là khoảnh khắc ngưng đọng, để kỷ niệm ùa về trong tâm tưởng.
Những kỷ niệm ấy ngự trị trong từng khoảnh khắc thời gian “những ngày”, không
gian “chiến khu”. Những hình ảnh “mưa nguồn suối lũ”, “những mây cùng mù”,
“miếng cơm chấm muối”, là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn gian khổ của
người làm cách mạng những năm đầu kháng chiến nơi núi rừng Việt Bắc, và chính
những khó khăn ấy đã khiến cho nghĩa tình quân dân trở nên thắm thiết, keo sơn.
Biện pháp nhân hóa “rừng núi nhớ ai” như thổi vào khung cảnh núi rừng nỗi nhớ
nhung dạt dào, sâu thẳm, từ phiếm chỉ “ai” thấm đẫm bao cảm xúc ân tình. Những
cụm từ “trái bùi để rụng”, “măng mai để già” đã thể hiện nỗi buồn sâu thẳm, vắng
lặng khi người cách mạng về xuôi để lại núi rừng Tây Bắc chênh vênh, lạ lẫm khi
nhịp sống đột ngột thay đổi từ đông vui về vắng vẻ đìu hiu.
“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Nỗi nhớ ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn với từ “những nhà”, nghệ thuật đối lập
trong câu thơ “Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, khẳng định một chân lý rằng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
càng khó khăn gian khổ, thì tình nghĩa quân dân lại càng thêm đoàn kết gắn bó, sắt
son một lòng. Những người ở lại nhắc về kỷ niệm xưa cũ từ những ngày đầu mới
quen, từ những năm còn kháng chiến chống Nhật để kỷ niệm càng thêm khắc sâu
vào tâm hồn người đi. Từ “mình” được lặp lại trong câu thơ “Mình đi mình có nhớ
mình” đã gợi nhắc đến câu ca dao “Ta với mình tuy hai mà một” càng khẳng định
sự gắn bó thiết tha. Những địa danh vô cùng quen thuộc với người ra đi và cả
người ở lại “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”, gợi nhắc lại những kỷ niệm
xưa cũ, hào hùng, sâu sắc tình cảm sâu sắc của những người chiến sĩ cách mạng
với người dân Tây Bắc.
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”
Lối đối đáp “mình-ta” tiếp tục được sử dụng, kết cấu “Ta với mình, mình với ta”
tạo nên lời đồng vọng tha thiết. Đến đây, ta cũng là mình, mình cũng như ta. Câu
thơ “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” đã thể hiện tình cảm thủy chung son sắt
mà người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc nghĩa tình, như một lời thề trong
tình yêu đôi lứa. Biện pháp so sánh trong câu “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
bấy nhiêu...”, đã thể hiện một điều vô cùng thiêng liêng và sâu sắc: Nghĩa tình của
con người Việt Bắc thật trong trẻo, đong đầy không có bao giờ có thể vơi cạn như
tình yêu thương của lòng mẹ hiền với con cái của mình. Nhà thơ đã so sánh nỗi
nhớ ở đây giống như nỗi nhớ người yêu, để trữ tình hóa tình cảm cách mạng, tình
quân dân để tất cả trở nên tha thiết hơn, dịu ngọt hơn. Và cũng bởi lẽ nỗi nhớ trong
tình yêu là nỗi nhớ thẳm sâu và tha thiết nhất, từ nỗi nhớ ấy, Việt Bắc hiện ra với
một không gian thật thơ mộng, câu thơ “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng
nương” đã thể hiện nỗi nhớ lan tỏa trong không gian và ngự trị trong từng khoảnh
khắc của thời gian, cả đêm lẫn ngày. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương
đi về.” gợi về một miền Việt Bắc mến thương, nồng nàn, ấm áp. Điệp ngữ “nhớ
từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, Tố
Hữu đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” và đến hai tiếng vơi đầy khép
lại đoạn thơ thì đây không chỉ còn đơn thuần là địa danh mà là nơi đong đầy kỷ
niệm: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào.
“Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...”
Cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của
người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất
Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi”
càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm. Hai tiếng “thương nhau”, thật nhẹ
nhàng nhưng cũng thật sâu lắng, người đi kẻ ở “Thương nhau chia củ sắn lùi”, “Bát
cơm xẻ nửa, chăn sui đắp cùng” đã thể hiện những tình cảm đùm bọc, chia sẻ, gắn
bó khăng khít đậm đà nghĩa tình quân dân, chính sức mạnh đoàn kết ấy đã tạo nên
chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng. Nhà thơ đã khắc họa hình ảnh người mẹ “Địu
con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”, đây là một hình ảnh đẹp, gợi nhiều cảm xúc, từ
“cháy” rất giàu hình tượng nhấn mạnh nỗi vất vả gian lao của người mẹ trong
kháng chiến. Tác giả sử dụng điệp ngữ “Nhớ sao” là nỗi nhớ đầy cảm xúc cùng với
đó là những hoạt động ở chiến khu Việt Bắc: Lớp học i tờ, những giờ liên hoan, ca
vang núi đèo, đã tạo nên một không khí vui tươi thấm đẫm tình đoàn kết quân dân,
thể hiện tinh thần lạc quan cách mạng, niềm tin cách mạng nhất định thắng lợi: Dù
bom đạn, chiến tranh, đau thương, gian khổ, quân và dân vẫn gắn bó với nhau
trong khúc nhạc hân hoan, rộn ràng. Đoạn thơ rất giàu nhạc điệu là khúc ca ca ngợi
cuộc sống vẫn đẹp, nghĩa tình vẫn sâu chan chứa trong lòng người cách mạng và
núi rừng Việt Bắc thân thơ. Câu thơ cuối khép lại với tiếng mõ, tiếng chày, tiếng
suối xa gợi nhiều cảm xúc mênh mang, lan tỏa.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Bức tranh tứ bình hiện lên thật đẹp đẽ, câu hỏi tu từ “Ta về mình có nhớ ta”, chất
chứa bao nỗi niềm, là cái cớ để người ra đi bộc lộ bao nỗi nhớ nhung, bao yêu
thương. Cụm từ “những hoa cùng người” có kết cấu như một thành ngữ, trong nỗi
nhớ của người ra đi, hoa là biểu tượng cho thiên nhiên, một bức tranh thiên nhiên
đẹp và thơ mộng. Mở đầu bức tranh là mùa đông Việt Bắc, là mùa đông với “hoa
chuối đỏ tươi” điểm xuyết trên nền xanh bạt ngàn của núi rừng, tạo nên một bức
tranh vô cùng sinh động và nhiều màu sắc, tạo cảm giác ấm áp xua đi cái lạnh cắt
da cắt thịt ở mảnh đất Việt Bắc.
Con người hiện ra trong tư thế lao động, rất đẹp rất kỳ vĩ, con người như chiếm
lĩnh đỉnh cao, hình ảnh được tạo nên bằng nghệ thuật hội tụ ánh sáng của nhiếp
ảnh. Mùa xuân hiện ra với cảnh “mơ nở trắng rừng”, vô cùng thơ mộng, tạo nên
một bức tranh đẹp, ấm áp, lung linh, hình ảnh con người cũng trong trong tư thế
lao động “chuốt từng sợi giang”, động từ “chuốt”, thể hiện một công việc cần cù,
kiên nhẫn, tỉ mỉ, khắc họa vẻ đẹp của con người Việt Nam trong kháng chiến. Tiếp
đến là mùa hạ thật sinh động và tràn đầy sức sống, cảnh thiên nhiên có thêm tiếng
ve rộn rã ngân vang núi rừng và tràn đầy sắc vàng của rừng phách. Hình ảnh “cô
em gái hái măng một mình” thật đẹp và thơ mộng biết bao. Khép lại bức tranh tứ
bình là cảnh mùa thu, mùa thu hòa bình, mùa thu của cách mạng tháng tám thành
công, mùa thu năm 1954, tất cả đã được tượng trưng trong một vầng trăng rất đẹp.
Câu thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” vừa khép lại bức tranh tứ bình về
cảnh và người Việt Bắc, đồng thời cũng khép lại khúc tình ca hào hùng về cuộc kháng chiến.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Trong nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại đều không thể không nhắc đến những
ngày đầu của cuộc kháng chiến, đó là khi “Giặc đến giặc lùng”, từ “lùng” đã thể
hiện sự nguy hiểm của quân thù. “Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây” cùng với
“Đất trời ta cả chiến khu một lòng” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của thiên nhiên
và con người trong cuộc kháng chiến. Ở đây, thiên nhiên đã trở thành một sinh thể
có linh hồn, chở che cho bộ đội, bủa vây quân thù, hình ảnh “Núi giăng thành lũy
sắt dày” kết hợp với kết cấu trùng điệp “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, giàu
sức gọi, góp phần thể hiện cho sức mạnh của dân tộc, sức mạnh không thể bị hủy
diệt. Điệp từ “nhớ” kết hợp với những cụm từ “nhớ từ”, “nhớ sang”, những địa
danh gắn liền với những chiến công, tất cả cho ta cảm nhận về nỗi nhớ trải dài
khắp chiến khu Việt Bắc. Lời thơ mạnh mẽ, hình ảnh thơ sinh động cùng việc sử
dụng những biện pháp nghệ thuật tu từ đã giúp nhà thơ khẳng định sức mạnh vĩ đại
của dân tộc, đồng cũng bộc lộ nỗi nhớ và niềm tri ân sâu sắc đối với núi rừng Việt
Bắc thấm đẫm tình thương.
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Câu thơ “Những đường Việt Bắc của ta” đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của mảnh
đất Việt Bắc, của chiến khu Việt Bắc với nhân dân với đất nước bởi đây là quê
hương cách mạng là trái tim của cả nước trong những tháng ngày kháng chiến
chống Pháp. Biện pháp nghệ thuật tu từ so sánh “như là đất rung” kết hợp với hình
ảnh “quân đi điệp điệp trùng trùng” đã thể hiện sức mạnh vĩ đại của đoàn quân ra
tiền tuyến, đoàn quân dài như vô tận rất kỳ vĩ và hào hùng.
Câu thơ “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” đã kết hợp ba biện pháp nghệ thuật
tu từ ẩn dụ, nhân hóa, hoán dụ, hình ảnh “ánh sao đầu súng” gợi nhắc đến hình ảnh
“đầu súng trăng treo” trong thơ của Chính Hữu và “súng ngửi trời” trong thơ
Quang Dũng thể hiện tầm cao của người lính, đây là một hình ảnh đẹp và rất giàu
chất thơ. Hình ảnh đoàn dân công vô cùng mạnh mẽ, đông đúc “đỏ đuốc từng
đoàn”, “bước chân nát đá”, gợi nhắc đến thành ngữ “Chân cứng đá mềm” khẳng
định sức mạnh và sự vững chãi, bền bỉ của con người Việt Nam trước bão tố chiến
tranh. Trong đêm tối của chiến tranh, quân và dân ta luôn hướng về ngày mai, luôn
nuôi dưỡng niềm tin mãnh liệt về một ngày mai chiến thắng. Và cuối cùng tin vui
đã về trên khắp đất nước, những người chiến sĩ về Hà Nội, về miền xuôi, nhưng
vẫn đọng lại trong trái tim họ biết bao kỷ niệm, biết bao yêu thương, họ mang theo
niềm vui toàn thắng trong những ngày cuộc kháng chiến khép lại.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích là quang cảnh Việt Bắc sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, khắp nơi hân hoan trong những màu sắc rực rỡ vui tươi của
nắng vàng, của cờ đỏ. Trung ương Đảng và Chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong
không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với chính sách mới của Đảng và
nhà nước “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao miền ngược, thêm trường các
khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca những công lao vĩ đại của Bác Hồ
kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng Việt Bắc thân thương, dù mai này
đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến sĩ cách mạng luôn giữ một góc
trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình
ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con
người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã
bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn
nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang
sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những những trang sử thấm đượm tình
cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.
Việt Bắc phân tích - Mẫu 7
Nếu nói Phan Bội Châu là người đã mở đường cho nền thơ ca trữ tình chính trị thì có lẽ mấy
mươi năm sau Tố Hữu chính là người đã mang đạt đến đỉnh cao, trở thành một hiện tượng có
giá trị lâu dài trong nền văn chương hiện đại Việt Nam nói chung và nền thơ ca cách mạng
nói riêng. Ngay từ khi còn trẻ Tố Hữu đã thể hiện mình là một nhà thơ, một người chiến sĩ
cách mạng tận tâm, tận lực cả trong sáng tác và chiến đấu. Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng từ
khi mới 18 tuổi và trở thành một trong những Đảng viên trẻ tuổi nhất lúc bấy giờ đã trở thành
bước đệm cho sự nghiệp sáng tác nhiều vẻ vang của nhà thơ. Mà đường thơ của Tố Hữu thì
luôn gắn liền với các sự kiện quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, phục vị và
đóng góp nhiều cho kháng chiến, có thể xem như là những tư liệu lịch sử được viết bằng văn
chương, kết tinh của hai tính trữ tình và tính chính trị xuyên suốt. Thật không quá khi nói Tố
Hữu là một nhà thơ lý tưởng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, với phong cách sáng tác
ổn định, dồi dào, luôn hướng đến cái ta chung, hướng đến những tình yêu lớn, bộc lộ lòng
trung thành với cách mạng, sự ca ngợi Đảng và đất nước. Nếu như Từ ấy khiến tên tuổi Tố
Hữu bất chợt vụt sáng trên thi đàn Việt Nam, thì Việt Bắc chính là chiến công vang dội nhất
của nhà thơ trong sự nghiệp sáng tác, thể hiện rõ ràng sự trưởng thành và hoàn chỉnh trong tư
tưởng, phong cách cũng như bút lực của nhà thơ.
Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, tháng 7/1954 chiến dịch Điện
Biên Phủ trên không nổ ra và giành thắng lợi tuyệt đối, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương
được ký kết, pháp rút quân về nước, miền Bắc lập lại hòa bình, chuẩn bị bước sang giai đoạn
xây dựng và khôi phục đất nước sau chiến tranh. Đến tháng 10/1954, nhận thấy tình hình đất
nước có nhiều chuyển biến tích cực, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị
dời toàn bộ cơ quan đầu não của đất nước từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội để phục vụ cho
các giai đoạn chính trị tiếp theo của đất nước. Như vậy sau gần 15 năm trời gắn bó, sống và
chiến đấu cùng nhau như những người thân ruột thịt, nếm trải nhiều cay đắng ngọt bùi, thì
đến hôm nay những chiến sĩ cách mạng phải chia tay vùng đất và những con người thấm đẫm
ân tình thủy chung để trở về miền xuôi chờ nhiệm vụ mới. Nhân sự kiện lịch sử có tính thời
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
sự ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để bộc lộ những tình cảm, những ân tình của
người ra đi đối với người ở lại, đồng thời cũng là một bản tổng kết kháng chiến có tính chất
chính trị, điểm lại những mốc sự kiện lịch sử quan trọng trong suốt 10 năm trời kháng chiến
chống Pháp tại núi rừng Việt Bắc. Có thể nói rằng ở phương diện tổng kết quá trình kháng
chiến này, Việt Bắc và Bình Ngô đại cáo cũng có những nét tương đồng nhất định, dù rằng
bản chất của hai tác phẩm là hoàn toàn khác nhau.
Trước hết khung cảnh chia tay đã được mở ra với những vần thơ rất mực ân tình, lưu luyến,
tái hiện lại khung cảnh chia ly của người ra đi và người ở lại, những con người đã từng có
một khoảng thời gian dài sống và chiến đấu bên nhau, rất mực gắn bó, thân thuộc, mang
trong mình những tình cảm sâu nặng, ấn tượng khó quên.
“ Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Người ở lại là người lên tiếng trước, giọng thơ bùi ngùi, xúc động, không chỉ bộc lộ cảm xúc
níu kéo sự tiếc nuối khi phải chia xa người chiến sĩ cách mạng sau một thời gian dài gắn bó
mà còn là sự khéo léo nhắc lại, gợi mở ra cả một vùng trời kỷ niệm “Mười lăm năm ấy thiết
tha mặn nồng”. Bên cạnh đó cũng thể hiện tình cảm lưu luyến, buồn bã nhân buổi phân ly
không chỉ là đối với người ở lại mà còn là của cả người ra đi về miền xuôi, nỗi xúc động
khiến đôi bên đều “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Mạch cảm xúc, hay lối nói đối đáp
“ta-mình”, cách xưng hô tựa như buổi chia tay của những người yêu nhau mà Tố Hữu sử
dụng, đã mang đến những rung cảm mới lạ, đậm âm hưởng vùng miền Tây Bắc, rất thiết tha,
ân tình, sự gắn bó sâu sắc, bền chặt giữa đôi bên. Dễ dàng đưa người đọc hòa vào một bầu
trời ký ức mà cả hai nhân vật trữ tình “ta” và “mình” luân phiên nhau đối đáp, gợi lại một
cách dịu dàng, đằm thắm, như những lời tâm tình, thủ thỉ đầy bịn rịn của đôi lứa yêu nhau.
“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Người ở lại đã nhắc nhở người ra đi về những ký ức sâu nặng trong suốt một chặng đường
chiến đấu dài lâu của dân tộc. Đó là sự gian khổ trong sinh hoạt khi cách mạng phải đối mặt
với chốn rừng sâu nước độc, nhiều thiếu thốn, hoàn cảnh chiến đấu khó khăn “Mưa nguồn
suối lũ, những mây cùng mù”, sự thiếu thốn cái ăn, cái mặc trong những năm đầu với “Miếng
cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Thế nhưng sự vất vả, khó khăn chồng chất ấy cũng
không thể nào đánh gục được ý chí của những người làm cách mạng, bởi Việt Bắc đã cho ta
những “trám bùi”, “măng mai” dồi dào, những con người Việt Bắc “đậm đà lòng son” và cả
núi rừng thủy chung gắn bó, từ thuở còn kháng Nhật, còn là Việt Minh với những sự kiện,
những trận chiến gắn liền với các địa danh nổi tiếng như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây
đa”. Đối đáp lại với những lời gợi nhắc kỷ niệm, thấm đẫm tình cảm, sự gắn bó tha thiết, sâu
nặng, người ra đi đã một lòng khẳng định tình cảm của mình dành cho Việt Bắc và cả con
người Việt Bắc, những người mà sắp tới đây sẽ phải chia xa, ngày gặp lại chưa biết là khi
nào. Rằng “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh/Mình đi, mình lại nhớ mình/Nguồn bao
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.../Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đó là thứ tình cảm dạt dào
“đinh ninh” trong dạ trước sau một lòng, đi rồi hãy vẫn còn mãi nhớ, nghĩa tình sâu nặng tựa
như nước chảy trong nguồn, gắn bó, tha thiết, nhớ thương như tình cảm của những người yêu
nhau. Đồng thời nhân vật “ta” cũng bộc lộ nỗi nhớ, những kỷ niệm khắc ghi trong lòng về
thiên nhiên Việt Bắc với cảnh “trăng lên”, “nắng chiều”, “bản khói cùng sương”, “rừng nứa
bờ tre”, “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, nhớ cả những ngày sóng vai, cùng nhau chia sẻ
“ngọt bùi đắng cay”. Mà mai đây khi về miền xuôi, xa rời Việt Bắc, người ra đi vẫn sẽ giữ
nguyên những kỷ niệm đáng nhớ, những xúc động khó quên về một vùng đất lắm ân tình,
những con người chân chất, thật thà, đùm bọc cách mạng bằng cả tấm lòng son sắt “Thương
nhau, chia củ sắn lùi/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ trong
ký ức về những cảnh điểm của Việt Bắc, mà còn là ký ức về những ngày tháng cùng hoạt
động, cùng sinh hoạt với những con người nơi đây, vượt qua tất cả mọi gian khó, sao có thể
quên những “lớp học i tờ”, những người mẹ địu con lên núi bẻ ngô nuôi cách mạng, những
giờ liên hoan vui vẻ, những ngày tháng sinh hoạt cơ quan nhiều khó khăn, những tiếng chày,
tiếng mõ vang vọng núi rừng,… Tất cả đã khắc sâu vào trí nhớ của người ra đi bằng những
tình cảm quý giá và trân trọng nhất.
Hơn thế nữa với cả con người và thiên nhiên Việt Bắc nhân vật trữ tình “ta” tức là người ra đi
còn có những cảm nhận, những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp thực hài hòa và gắn bó trong bức tranh tứ bình:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Mùa đông hiện lên với vẻ đẹp của “rừng xanh” thăm thẳm, gợi ra hiện thực lạnh lẽo, khắc
nghiệt của núi rừng Tây Bắc, tuy nhiên với sự xuất hiện thật tinh tế rực rỡ của bông “hoa
chuối đỏ tươi”, gam màu nóng đã phần nào làm dịu đi cái giá rét, độc hại, mang đến sự lãng
mạn, trữ tình nhưng không hoàn toàn tránh né hiện thực chiến đấu gian khổ ở nơi đây. Hình
ảnh con người nổi bật khỏe khoắn với cảnh “dao gài thắt lưng”, thể hiện tư thế hiên ngang,
xông pha núi rừng, dưới cái ấm áp của ánh nắng mùa đông, nhiệt huyết của con người trong
công cuộc trèo đèo lội suối, lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Đông qua, xuân tới với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
cảnh tượng “mơ nở trắng rừng”, một điểm nhấn đặc biệt của vùng núi Tây Bắc, sắc trắng
thanh nhã, dịu dàng càng làm tôn lên cái sự dẻo dai, khéo léo của con người nơi đây với công
cuộc lao động tỉ mỉ “chuốt từng sợi giang”. Bức tranh mùa hè được gợi ra không chỉ nằm ở
phần nhìn, mà còn mở rộng với cả âm thanh, đó là tiếng ve kêu rộn rã với cảnh “rừng phách
đổ vàng”, gợi cho người đọc những cảm giác sôi động, tràn đầy sức sống, mà con người giữa
khung cảnh ấy thì vẫn miệt mài lao động, hình ảnh cô em gái giản dị, ngồi hái măng một
mình, khiến người ta không khỏi thêm yêu, thêm nhớ và xúc động. Kết thúc bức tranh tứ bình
là cảnh tượng mùa thu được gợi ra với “trăng rọi hòa bình”, vốn là một hình ảnh có nhiều ý
nghĩa. Xưa nay trăng luôn tượng trưng cho những gì tươi đẹp, dịu dàng, thanh mát, cũng
tượng trưng cho sự đoàn tụ, viên mãn, đồng thời nói đến mùa thu người ta vẫn thường nhắc
đến rằm tháng tám trăng tròn vành vạnh. Mà trong câu thơ này “trăng rọi hòa bình” cũng
chính là ẩn dụ cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi vẻ vang của dân tộc, ánh trăng là tượng
trưng cho vẻ đẹp bình yên, tươi sáng. Đồng thời cũng là lúc người chiến sĩ cách mạng chuẩn
bị hành trang về thủ đô Hà Nội, nên hình ảnh con người Việt Bắc đã hiện lên thật sâu sắc
trong “tiếng hát ân tình thủy chung” sau bao nhiêu năm tháng gắn bó. Có thể nói rằng bức
tranh tứ bình về Việt Bắc là một trong những điểm nhấn quan trọng và đặc sắc nhất của toàn
bộ tác phẩm, bộc lộ không chỉ vẻ đẹp con người và thiên nhiên nơi đây mà còn là cả một ẩn
dụ cho quá trình kháng chiến bắt đầu vào mùa đông và kết thúc thắng lợi vào mùa thu, thể
hiện tài năng quan sát tinh tế, sự khéo léo, chất trữ tình chính trị và cả tình cảm gắn bó sâu
nặng của Tố Hữu với vùng đất lắm ân tình thủy chung này.
Nỗi nhớ, tình cảm gắn bó, quyến luyến của người ra đi không chỉ nằm trong những ký ức về
cảnh sống, cảnh sinh hoạt mà còn bộc lộ thông qua quãng đường chiến đấu và hy sinh của
cách mạng. Tuy Tố Hữu không hề đi sâu vào miêu tả rõ ràng các trận đánh lịch sử mà chỉ
điểm lại đồng thời bộc lộ những cảm xúc bùi ngùi, tha thiết thế nhưng cũng đã đủ để gợi nhắc
về một thời chiến đấu oanh liệt của cách mạng ta giữa núi rừng Tây Bắc.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về”
|Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Từ những ngày chiến đấu đầy gian khổ “giặc đến giặc lùng”, nhưng nhờ có sự đoàn kết quân
dân một lòng, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, kiên cường, mà rừng núi trước đây vốn hiểm trở,
mang lại nhiều khó khăn cho cách mạng, ngày nay đã trở thành người bạn chiến đấu, trở
thành “lũy sắt dày”, che chở cho bộ đội lại vây khốn quân thù, trợ lực cho quân đội ta trong
suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Rồi sau những ngày còn bỡ ngỡ, non yếu lực lượng ta ngày
một mạnh mẽ, kiêu hùng, anh dũng trong chiến đấu vang vọng cả một miền rừng Việt Bắc,
ngày một tiến dần đến chiến thắng sau cùng.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”
Phần cuối của đoạn trích, tuy chưa phải là kết thúc của tác phẩm, nhưng lại có ý nghĩa đánh
dấu sự thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp suốt từ những năm 1940 cho đến
năm 1954. Mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước, dù vẫn bị chia cắt hai miền nhưng lại là
động lực lớn cho công cuộc thống nhất đất nước, miền Bắc đi vào xây dựng kiến thiết đất
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định niềm tin vào Đảng và Bác Hồ, vào sự đúng đắn
của cách mạng, cũng như niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Việt Bắc là một tác phẩm xuất sắc, đỉnh cao trong các sáng tác của Tố Hữu cũng như trong
nền văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ sử dụng kết cấu đối đáp quen
thuộc trong ca dao, dân ca xưa, lối xưng hô “ta-mình” thân thiết gắn bó, lời thơ tình cảm,
thấm đẫm ân tình, vận dụng tinh tế thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc. Bộc lộ được sự
lưu luyến, bịn rịn phút chia ly, tình cảm quân dân gắn bó sâu nặng trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp trường kỳ nhiều gian khổ, khó khăn. Đồng thời thi phẩm cũng có ý
nghĩa đúc kết một giai đoạn lịch sử hết sức gian lao, nhiều vẻ vang, lắm hào hùng của dân
tộc, thể hiện tấm lòng ân nghĩa thủy chung của cách mạng với chiến khu Việt bắc, lòng tự
hào, niềm tin , niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 8
Bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào mang đậm màu sắc ca dao dân ca, thông qua
cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng giữa kẻ ở người đi như thể người yêu đưa
tiễn người yêu đầy lưu luyến vấn vương; bằng lối xưng hô Mình – Ta, một lối
xưng hô truyền thống đậm đà tình nghĩa, bài thơ Việt Bắc đã tái hiện một cách
chân thực và sinh động cuộc kháng chiến anh hùng và nhân dân anh hùng của cuộc
kháng chiến, cùng những tình cảm điển hình của con người kháng chiến.
Bài thơ ra đời vào tháng 10/1954, sau chiến thắng Điện Biên, khi Trung ương
Đảng và Chính phủ, Bác Hồ rời "Thủ đô gió ngàn” về với "Thủ đô hoa vàng nắng
Ba Đình". Bài thơ vừa là khúc hát ân tình thủy chung của miền ngược và miền
xuôi, vừa là bài ca chiến thắng của một thời kỳ lịch sử oanh liệt. Đoạn thơ ta phân
tích nằm ở phần đầu, tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và
kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỷ niệm sâu nặng trong lòng người.
Bài thơ mở ra trong một khung cảnh chia tay với tâm trạng bâng khuâng bồn chồn
lưu luyến vấn vương của hai người đã từng gắn bó bền lâu sâu nặng. Người ở lại
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
lên tiếng trước, như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay gợi nhắc những kỷ niệm gắn
bó, những cội nguồn tình nghĩa.
Mình về mình có nhớ ta
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Nhưng người ra đi cũng cùng chung một tâm trạng ấy, nên nỗi nhớ không chỉ là
hướng về người khác má cũng là nỗi nhớ chính mình: "Mình đi mình lại nhớ
mình”. Lời hỏi của người ở lại đã làm khơi dậy cả một quá khứ đầy kỷ niệm, khơi
nguồn cho mạch nhớ thương tuôn chảy. Đối đáp ở đây là một thủ pháp khơi gợi,
bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự hô ứng đồng vọng của tình cảm. Bao trùm trong tâm
trạng của kẻ ở người về là nỗi nhớ cứ thấm đượm lên tất cả, lan tỏa lên cả cỏ cây
mây nước. Chỉ riêng trong đoạn thơ ta phân tích đã có đến 35 từ "nhớ". Nỗi nhớ
tha thiết ấy, qua dòng hồi tưởng đã làm sống dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa
tình. Và trong niềm hoài niệm, hối tưởng suốt "mười lăm năm thiết tha mặn nồng"
ấy, bao trùm có mấy bức tranh hiện thực hòa nhập thống nhất khó có thể tách rời.
Đó là nỗi nhớ cội nguồn tình nghĩa; nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc; con người, cuộc
sống Việt Bắc, cùng những kỷ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng.
Trước hết bài thơ mở đầu bằng tiếng hát ân tình chung thủy, gợi nhắc cội nguồn
tình nghĩa, thấm nhuần đạo lý Việt Nam:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tìm mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ người
Lời thơ nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều. Sâu nặng biết bao
trong "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng" và cùng ân tình, thủy chung biết bao
khi "nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
"mình”, bốn chữ ”nhớ" một chữ "ta" hòa quyện quấn quýt với nhau như hình với
bóng, khiến cho cái đạo lý ân tình thủy chung ấy thêm sâu nặng.
Sau khúc hát dạo đầu, là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ cả người ở lại và
người ra đi như là một khúc hát giao duyên quan họ. Ở đây có âm thanh da diết
thiết tha của ai đó "Tiếng ai tha thiết bên cồn"; có bước chân "bồn chồn" và những
bàn tay nắm nhau lưu luyến. Tiểu đối "bâng khuâng… bồn chồn" đã làm tăng thêm
biết bao nỗi nhớ thương vấn vương lưu luyến. Cái màu "áo chàm" trong câu thơ
trên vừa gợi hình, vừa gợi cảm: màu áo của người việt Bắc không phai, đậm đà bền
vững như lòng thủy chung sắt son của họ. "Cầm tay… hôm nay" không phải là
không biết nói gì, mà vì trong lòng tràn ngập tình nhớ thương khó nói nên lời.
Sau khi "dàn cảnh" khung cảnh chia tay, Tố Hữu để cho người ở lại lên tiếng. Chỉ
có 12 câu nhưng đều xoáy vào những kỷ niệm của những ngày cách mạng còn
"trứng nước" rất gian nan nhưng sâu nặng nghĩa tình: "Miếng cơm chan muối, mối
thù nặng vai – Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. "Miếng cơm chấm muối" là hình
ảnh chân thực được rút ra từ thực tế cuộc kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ.
Hình ảnh "mối thù nặng vai" đã cụ thể hóa, vật chất hóa mối thù của nhân dân ta
với quân xâm lược. Hai hình ảnh ấy đối xứng và kết hợp với nhau tạo nên một ý
nghĩa mới: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng gian khổ để chiến thắng quân thù.
Người ra đi có nhớ không? Và còn biết bao điều đáng nhớ nữa về chiến khu Việt
Bắc với những địa danh cách mạng lịch sử, với biết bao gian nan cơ cực mà thắm
thiết nghĩa tình "Hắt hiu lau xám" nhưng "đậm đà lòng son" rồi những mưa nguồn
suối lũ những mây cùng mù" – chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng lại sống dậy được
tất cả cái khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên Việt Bắc những ngày kháng chiến.
Trong một đoạn thơ ngắn mà đã cố đến 8 chữ "mình” và 7 chừ "nhớ", trong đó có
câu thơ 3 chữ "mình" luyến láy và chuyển nghĩa rất tài tình khi nhắc đến những địa
danh cách mạng từ nay đã di vào lịch sử nối tiếp Chương Dương, Vạn Kiếp, Đống Đa…
Mình đi, mình có nhớ mình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
Tố Hữu đã để cho người về xuôi trả lời nhiều hơn, vì trong họ chứa chất biết bao
nỗi nhớ về quê hương cách mạng, khi phải rời xa. Đây là nỗi nhớ của những người
đã từng cùng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, từng "đinh ninh lời thề" sau trước có
nhau, nên câu trả lời của họ chính là tiếng đồng vọng của cõi lòng người ở lại:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Những chữ "ta", "mình" quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã nói rõ lời đồng vọng
đó. Người ở lại hỏi: "Mình đi, mình có nhớ mình" thì người ra đi có ngay lời đồng
vọng "mình đi, mình lại nhớ mình", tuy hai mà một. Thật hài hòa, gắn bó, thắm
thiết. Bởi nghĩa tình của họ như suối nguồn không bao giờ cạn: "Nguồn bao nhiêu
nước nghĩa tình bấy nhiêu". "Bao nhiêu, bấy nhiêu" – Cặp từ hô ứng đã nhấn mạnh
được sự giàu có, phong phú của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết.
Qua hoài niệm, trái tim người ra đi cứ gào lên biết bao nỗi nhớ với đủ mọi sắc màu
đẹp đẽ: Có nỗi nhớ thơ mộng:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi bóng chiều lưng nương
Có nơi nhớ ấm áp:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thường đi về
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhưng nhớ nhất là những ngày cay đắng ngọt bùi của thuở "hàn vi" thắm tình đồng
chí, đồng bào, đã từng cưu mang đùm bọc lẫn nhau:
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đấy đắng cay ngọt bùi …
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Củ sắn lùi thì "chia", bát cơm thì "sẻ", chăn sui thì "đắp cùng". Đúng, cái đẹp nhất
là ở tình nghĩa của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui.
Nghĩa tình càng đẹp hơn nữa trong cuộc sống gian nan thiếu thốn; càng sắt son
thấm thía trong khó khăn thử thách. Trong đoạn thơ này, có những câu gợi lên
cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của con người, vốn rất hiếm thấy trong thơ Tố
Hữu, nhưng lại là những câu thơ hay, chứa đựng những dung động, tình cảm chân
thật, thắm thiết nghĩa tình của nhà thơ với cuộc sống và con người của chiến khu
Việt Bắc. Chẳng hạn "bản khói cùng sương" thì e lanh giá, hoang vu, nhưng sau đó
với "sớm khuya bếp lửa người thương đi về", thì ấm áp hẳn lên. "Ngòi Thia, sông
Đáy, suối Lê" chỉ là những tên gọi địa danh, nhưng khi kèm với hai chữ "vơi đầy",
thì cảnh bỗng trở nên tràn đầy tình nghĩa, có sự gắn bó thiết tha giữa con người với
thiên nhiên, giữa con người với con người.
Giữa bao nỗi nhớ ấy, tác giả đã dành cho thiên nhiên Việt Bác một tình cảm đặc
biệt. Qua tấm lòng chứa chan tình nghĩa cách mạng, kháng chiến của tác giả, thiên nhiên.
Việt Bắc hiện ra không chỉ là thiên nhiên với vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, mà đó còn
là thiên nhiên đã cùng con người đánh giặc và ghi lại biết bao sự tích anh hùng:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng…
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Thiên nhiên ở đây hiện lên với những vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian
khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều trăng khuya, trong các mùa
thay đổi. Điều đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên gắn với bóng dáng con người, làm
cho cảnh bớt hoang sơ hiu hắt và trở nên gần gũi thân thiết với con người hơn.
Tiêu biểu nhất là đoạn thơ sau:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi ….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu đã dựng được bốn bức tranh theo đúng nghệ thuật truyền thống, tạo nên
một bộ tứ bình đặc sắc. Mỗi bức tranh đều có một màu sắc, âm thanh chủ đạo và
rất sinh động đa dạng: Khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức.
Tương ứng với mỗi màu sắc, âm thanh của tự nhiên là một nét đẹp con người.
Thiên nhiên làm nền cho con người và chính con người lại tô điểm cho thiên nhiên
trở nên đẹp đẽ sinh động hơn.
Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc
kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động của
cuộc kháng chiến anh hùng chuẩn bị cho cuộc tổng
phân công bằng một chiến dịch "Điện Biên lừng lẫy địa cầu":
Những đường Việt Bắc của ta ….
Đèn pha bột sáng như ngày mai lên
Đoạn thơ được viết với bút pháp anh hùng ca, mang đậm màu sắc sử thi. Giọng thơ
dào dạt sảng khoái với những hình ảnh vừa chân thực vừa bay bổng, vừa hùng tráng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Những câu thơ tái hiện khung cảnh "Trung ương Chính phủ luận bàn việc công"
trong hang núi ở Việt Bắc cũng là những câu thơ đặc sắc. Dường như tác giả chỉ
liệt kê công việc nhưng đã phản ánh chân thật không khí làm việc giản dị trang
nghiêm mà khẩn trương của Bộ Tổng chỉ huy của cuộc kháng chiến; trong đó nổi
bật lên hình ảnh lung linh rực rỡ ngời sáng của "Ngọn cờ đỏ thắm gió lộng cửa
hang, Nắng trưa rực rỡ sao vàng".
Phần thứ nhất của bài thơ được khép lại bằng sáu câu thơ thâu tóm hình ảnh Việt
Bắc: "Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa”, đầu nào của cuộc kháng chiến;
Việt Bắc là niềm tin, hy vọng của nhân dân Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc
biệt là đối với những nơi còn "u ám quân thù; đau đớn giống nòi", thì Việt Bắc là
điểm tựa tinh thần đà tiếp thêm sức mạnh cho đồng bào kháng chiến.
Qua bài thơ Việt Bắc Tố Hữu đà làm hiện lên hình ảnh Việt Bắc “quê hương cách
mạng dựng nên cộng hòa” một thời gian khổ mà sâu nặng nghĩa tình. Bài thơ tô
đậm thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống thủy
chung son sắt “uống nước nhớ nguồn”.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 9
Tố Hữu một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt nam. Có thể
nói những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng, lẽ sống của bản thân
mình mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của cách mạng nước nhà.
Tháng 10-1954 sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ bộ đội ta phải chuyển lực lượng
thủ đô và chia tay với chiến khu Việt bắc. Kẻ ở người đi lòng không khỏi nhớ
thương nuối tiếc tình quân dân trong mười lăm năm kháng chiến. nhân sự kiện
trọng đại cùng với tâm trạng nỗi niềm ấy Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc.
Mở đầu bài thơ Việt bắc là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân nơi đây:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
"Mình về mình có nhớ ta .........
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Tám câu thơ đầu là khung cảnh cũng như tâm trạng của cuộc chia tay. Bao giờ
cũng vậy "Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Sau bao nhiêu
năm chung sống ở mảnh đất Việt bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng
thắm ấy thế mà nay những người chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn
bó như thế bây giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô mình ta thể hiện sự gần gũi
thân thiết của cán bộ và người dân.
Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy. Bốn câu thơ
đầu là lời của người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến rằng người
chiến sĩ có còn nhớ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết rằng những
người chiến sĩ về có còn nhớ không, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi đây. Những
người chiến sĩ cách mạng cũng như đáp lại những ân tình ấy.
Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ niệm nơi đây không khác gì
so với người dân. Các chiến sĩ như cảm nhận được sự tha thiết trong câu hỏi của
những người dân ấy. Lòng các chiến sĩ bâng khuâng, bồn chồn không muốn bước.
Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện phần nào cảm xúc trong lòng người chiến sĩ.
Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh "áo chàm" chính là để chỉ người dân Việt Bắc bịn
rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô. Kẻ ở người đi mà cầm tay
nhau nhưng lại không biết nói lên điều gì. Có lẽ không cần nói mà cả hai đều biết
được những ý nghĩa trong lòng nhau.
Thế rồi trong hoàn cảnh ấy toàn thể những con người ở lại cất lên lời nói để nhắc
lại những kỉ niệm trong mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy:
"Mình đi, có nhớ những ngày
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc ...........
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?"
Vẫn tiếng gọi mình thiết tha những người dân Việt bắc nhắc lại những ngày mưa
nguồn suối lũ về, cả trời đất mây mù che kín. Khoảnh khắc khó khăn ấy người dân
luôn có những chiến sĩ kề bên. Hay người chiến sĩ kia về thì có nhớ đến chiến khu
hay không, chiến khu ấy nghèo chỉ có cơm chấm muối thế nhưng nó tràn đầy
những niềm yêu thương cưu mang đùm bọc của nhân dân nơi đây.
Và trong hoàn cảnh chiến tranh khó khăn như thế miếng cơm chấm muối kia là đã
quá đầy đủ rồi. Mối thù nặng vai người chiến sĩ, người dân như san sẻ gánh nặng
ấy cho người chiến sĩ. Những người chiến sĩ về Hà Nội có còn nhớ đến rừng núi
đất trời nơi đây. Và bây giờ trám bùi thì để rụng còn măng mai để già. Những gì
của thiên nhiên Việt bắc vốn là để cho những chiến sĩ cách mạng thì giờ đây người
đi những thứ ấy lại để rụng để già.
Những từ nhớ như điệp đi điệp lại nhiều lần như vang vào trong lòng người những
nhớ thương không muốn rời. Cặp xưng hô mình ta như biến hóa thành nhiều nghĩa,
cứ lúc thì chỉ người ở lại nhưng lúc lại chỉ người ra đi. Điều đó thể hiện sự yêu
thương gắn bó của những con người nơi đây với các anh chiến sĩ. Kẻ ở như thâu
tóm cả thiên nhiên và con người Việt Bắc với những tình cảm của một tấm lòng
son sắc không phai. Những địa danh được nhắc đến như chứng minh cho những
trận chiến thắng mà các anh chiến sĩ đã lập nên tại đây.
Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng
như trải lòng mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó:
"Ta với mình, mình với ta ............
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Chày đêm nện cối đều đều suối xa..."
Tố Hữu cũng học cách nói dân dã như chính những người nhân dân nơi đây vậy.
Dù người chiến sĩ cách mạng ra đi thế nhưng trong lòng vẫn không thể nào quên
được những kỉ niệm tình cảm ấy. Nghĩa tình giữa kẻ ở và người đi tựa như nước
trong con suối kia vậy. Nó dào dạt ào ạt mãi mãi. Và những người chiến sĩ vẫn mãi
đinh ninh một lời thề sắc son với người dân Việt Bắc. Từng kỉ niệm gắn bó như
được thuật lại trong từng câu nói của người ra đi.
Từ kỉ niệm về bát cơm thì sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả những người mẹ Việt
Bắc với dáng hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp cần cù chịu thương chịu
khó của nhân dân. Không những thế cả những giây phút cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ.
Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi người. Và những giờ liên hoan trong
ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như mãi khắc sâu vào trong tâm trí của
người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đô gió ngàn vẫn không sao quên tiếng mõ rừng
chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy được những tấm lòng của cả hai bên
dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.
Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua
những lời kể ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ quý nơi
đây, bốn mùa thiên nhiên hiện lên vô cùng đẹp:
"Ta về, mình có nhớ ta ............
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."
Có thể nói rằng xưng hô mình ta lại một lần nữa được thay đổi, Ta ở đây chính là
những người chiến sĩ cách mạng. Còn mình chính là những người dân ở lại. Những
người chiến sĩ ấy cũng đã hỏi những người ở lại rằng có nhớ họ không. Hỏi như
thế nhằm thể hiện sự lưu luyến yêu thương với mảnh đất và con người ở đây.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Không biết rằng họ có nhớ không còn những người chiến sĩ lại nhớ cả hoa cùng người.
Hoa kia chính là để chỉ cho thiên nhiên Việt bắc. Sau câu hỏi và sự bày tỏ tình cảm
của mình ấy những người chiến sĩ nhắc đến những cảnh vật và hoạt động của con
người Việt Bắc gắn liền với bốn màu xuân hạ, thu, đông. Thế nhưng nhà thơ lại
chọn miêu tả thiên nhiên và con người nơi đây vào mùa đông trước bởi vì họ đến
đây vào mùa đông và ra đi cũng vào mùa đông. Mùa đông hiện lên với hình ảnh
của những hình ảnh của rừng xanh và màu đỏ tươi của hoa chuối.
Con người hiện lên với vẻ đẹp kiên cường chinh phục tự nhiên. Đến mùa xuân thì
cảnh Việt bắc hiện lên với hình ảnh hoa mơ trắng tinh khiết khắp rừng, con người
thì hiện lên với vẻ đẹp của sự cần mẫn trong lao động. Mùa xuân qua đi mùa hè lại
đến thiên nhiên được thay từ màu trắng hoa mơ thành màu vàng của rừng phách.
Người con gái hái măng một mình. Đến mùa thu thiên nhiên lại ngập tràn trong
ánh trăng rằm soi sáng. Người chiến sĩ nhớ đến những người nhân dân việt bắc với
khúc hát ân tình thủy chung. Như vậy qua từng ấy câu thơ thiên nhiên và con
người Việt bắc hiện lên thật đẹp như đang níu giữ bước chân người ra đi.
Thế rồi hàng loạt những địa danh gắn liền với những hoạt động cách mạng của
những người chiến sĩ được nhà thơ liệt kê ra như để khắc sâu vào trong tâm thảm
mỗi người chiến sĩ về tình quân dân đã làm nên chiến thắng vang dội:
"Nhớ khi giặc đến giặc lùng ..............
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà..."
Chính thiên nhiên cũng như đang che chở cho những người con Việt nam. Những
núi đá dựng thành chiến hào thành quách để che chở cho người chiến sĩ và nhân
dân nơi đây khỏi những bom đạn của quân thù. Và khi ấy cả bộ đội cả dân quân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
đều cùng nhau làm nên lịch sử. Trên dưới một lòng quyết tâm đánh địch. Người về
nhưng trong vẫn nhớ đến những khoảnh khắc đánh trận và những địa danh kia.
Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn
bị hành quân cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy
chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhất:
"Những đường Việt Bắc của ta ...........
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng."
Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng
lòng như một, Ánh sao để chỉ người chiến sĩ còn mũ nan chính là những người dân
quân Việt bắc. Cả hai cùng đồng lòng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Những
đoàn dân quân với những ngọn đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt bắc.
Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm chiến đấu để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù.
Khí thế của tất thảy với sức mạnh giống như là nát đá. Bằng biện pháp nghệ thuật
phóng đại sức mạnh của nhân dân ta như được thể hiện rõ hơn. Nghìn đêm nhân
dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả, cuộc sống khó khăn như đêm tối vậy.
Thế rồi hình ảnh "đèn pha" bật sáng như lên thể hiện một niềm tin vào tương lai
tươi sáng của những nhân dân ta. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn
đứng dậy đấu tranh vì một niềm tin vào tự do hạnh phúc.
Bọn giặc kia sẽ phải cút ra khỏi đất nước ta trả lại cho nhân dân ta một cuộc sống
tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Vậy là sau bao nhiêu khổ cực khó khăn nhân dân ta đã
giành được chiến thắng. Tin vui ấy vui trăm mình. Từ Hòa Bình, đến Tây Bắc và
Điện Biên cũng như chung vui với niềm chiến thắng ấy. Tất cả những địa danh ấy
đều như thể hiện niềm vui của cả nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Để kết cho niềm vui lẫn niềm nhớ thương lưu luyến không muốn rời ấy nhà thơ cất
lên những niềm tự hào về dân tộc. Đồng thời đó cũng là những giây phút nhớ về
cảnh sinh hoạt đảng, biết bao nhiêu việc bàn luận ở hang động núi rừng:
"Ai về ai có nhớ không? .............
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào."
Ngày những người chiến sĩ trở về với miền xuôi nghe trong lòng vẫn bâng khuâng
nhớ đến những ngày tháng cùng nhau kháng chiến. Những cuộc họp những niềm
vui đều được thể hiện trong những câu thơ cuối này. Lá cờ đỏ sao vàng như chứng
minh cho thắng lợi của nhân dân ta.
Ở đâu còn rợp bóng quân thù thì ở đó có Đảng và Bác Hồ. Chính vì thế mà tất cả
hãy trông về miền Bắc mà nuôi chí bền. Vì chỉ khi có chí mới làm nên được mọi
việc, thắng trận ngay cả khi quân thù có đủ điều kiện hơn ta về mọi mặt. Mười lăm
năm kháng chiến sẽ còn mãi trong lòng những người chiến đấu và cả nhân dân ở
đây nữa. Bao nhiêu gian khổ là bấy nhiêu tình cảm.
Như vậy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện những tâm sự của mình nói riêng và của tất
cả những chiến sĩ và nhân dân Việt bắc nói chung. Mười lăm năm kháng chiến với
biết bao nhiêu kỉ niệm và giờ đây khi phải xa nhau thấy lòng mình thật muốn vỡ òa
trong nức nở. Chân không muốn rời xa.
Qua việc phân tích Việt Bắc, ta thấy được tình nghĩa đoàn kết keo sơn của con
người Việt Nam mà cụ thể đó là tình quân dân. Để đạt được những thắng lợi trên
mặt trận ấy thì không thể nào quên ơn những người nhân dân Việt Bắc được.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 10
Tố Hữu (1920 – 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, quê Phù Lai, xã Quảng Thọ,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông xuất thân trong một gia đình nhà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
nho nghèo ham thích văn chương. Chính truyền thống gia đình và cảnh sắc thơ
mộng của xứ Huế cùng những nét văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc góp phần quan
trọng trong việc hình thành hồn thơ Tố Hữu.
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Một nhà thơ được đánh
giá là người mở đường, là cánh chim đầu đàn của thơ ca cách mạng. Có thể nói ở
Tố Hữu, con người chính trị với con người nhà thơ thống nhất là một, sự nghiệp
thơ gắn liền với sự nghiệp cách mạng và trở thành một bộ phận của sự nghiệp cách
mạng. Con đường thơ của ông luôn song hành với các giai đoạn cách mạng, phản
ánh những chặng đường cách mạng đồng thời thể hiện sự vận động của tư tưởng và
nghệ thuật của nhà thơ.
Bài thơ Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác trong thời kì dân ta đánh thắng quân giặc ở
trận Điện Biên Phủ, năm 1954, khi chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi ông đã bắt
tay vào sáng tác tác phẩm này, nhằm ca ngợi sự nghiệp cách mạng, xây dựng cuộc
sống mới. Bài thơ được coi là tiếng hát nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với
ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và
kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ.
Mở đầu bài thơ là cuộc chia tay của những người kháng chiến và những người dân
nơi đây; là sự chia li của kẻ đi, người ở đầy lưu luyến, bồi hồi:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Hai khổ thơ nói lên tình quân dân đậm đà. Họ đã có "mười lăm năm" gắn bó, "thiết
tha mặn nồng" bên nhau. Mười lăm năm – một quãng thời gian dài, biết bao nhiêu
kỷ niệm. Họ đã vào sinh ra tử với nhau, cùng nhau sống, chiến đấu vì tổ quốc. Ở
mảnh đất Việt Bắc ấy, tình quân dân chan hòa nồng thắm. Nhà thơ sử dụng hai
ngôi xưng "mình" và "ta" thể hiện sự gắn bó keo sơn với nhau, mình với ta tuy hai
mà là một. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy.
Bốn câu thơ đầu là lời của người ở, những người dân Việt bắc hỏi đầy lưu luyến
rằng người chiến sĩ có còn nhớ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ấy. Không biết
rằng những người chiến sĩ về có còn nhớ không, nhớ con người, nhớ núi rừng nơi đây.
Và ở bốn câu thơ sau, những người chiến sĩ cách mạng cũng như đáp lại những ân
tình của bà con Việt Bắc. Trong lòng người chiến sĩ ấy cũng lưu luyến những kỉ
niệm nơi đây không khác gì so với người dân. Các chiến sĩ như cảm nhận được sự
tha thiết trong câu hỏi của những người dân ấy. Lòng các chiến sĩ bâng khuâng,
bồn chồn không muốn bước. Có thể nói các từ láy ấy đã thể hiện phần nào cảm xúc
trong lòng người chiến sĩ. Nghệ thuật hoán dụ với hình ảnh “áo chàm” chính là để
chỉ người dân Việt Bắc bịn rịn trong màu áo ấy đưa tiễn các chiến sĩ về với thủ đô.
Kẻ ở người đi mà cầm tay nhau nhưng lại không biết nói lên điều gì. Có lẽ không
cần nói mà cả hai đều biết được những ý nghĩa trong lòng nhau. Dường như mọi
lưu luyến đều nằm trong cái nắm tay nghĩa tình ấy.
Khổ thơ thứ ba, tiếp tục là nỗi lòng của người ở lại:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Lời thơ như lời tâm sự da diết của người dân Việt Bắc dành cho các chiến sĩ bộ đội
và đó cũng là lời nhắc nhở gửi đến người đi. Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại mang
nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là lời nhắc nhớ. Hàng loạt những câu hỏi tu
từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người
đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gửi lại niềm thương theo cách:
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên những năm tháng gian lao vất vả,
hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn. Đó là
những tháng ngày cùng chịu chung cảnh thiên nhiên khắc nghiệt: "mưa nguồn",
"suối lũ", mây mù; hay là những tháng ngày gian khổ bát cơm chấm muối nhưng
vẫn chan chứa biết bao tình cảm.
Cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng – “Trám
rụng, măng già” không ai thu hái. Nỗi bùi ngùi như thúc vào lòng kẻ ở lại.
Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm
cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi
thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ.
Xin đừng quên thời kì “kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn
cách mạng, đừng quên chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng.
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa.
Đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên
tiêu biểu sắc thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang
đậm phong vị ca dao. dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến.
Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao đẹp của
quân dân ta, khẳng định nghĩa thủy chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.
Khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.
Đáp lại những ân tình của người ở lại, lời người đi cũng tha thiết không kém:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Người ra đi, khẳng định, đinh ninh rằng lòng mình trước sau như trước, luôn mặn
mà. Và cái nghĩa tình đó còn được so sánh với nước trong nguồn, dạt dào, vô tận,
không bao giờ cạn. Và những người chiến sĩ vẫn mãi đinh ninh một lời thề sắc son
với người dân Việt Bắc. Từng kỉ niệm gắn bó như được thuật lại trong từng câu nói
của người ra đi. Từ kỉ niệm về bát cơm thì sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ cả
những người mẹ Việt Bắc với dáng hình địu con lên nương hái bắp. Một vẻ đẹp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
cần cù chịu thương chịu khó của nhân dân. Không những thế cả những giây phút
cùng nhau học cái chữ quốc ngữ nữ. Đó là thái độ trật tự nghiêm túc của tất cả mọi
người. Và những giờ liên hoan trong ánh đuốc lập lòe, những ngày tháng ấy như
mãi khắc sâu vào trong tâm trí của người ra đi. Để mãi khi về đến thủ đô gió ngàn
vẫn không sao quên tiếng mõ rừng chiều cùng chày đêm nện cối. Qua đây ta thấy
được những tấm lòng của cả hai bên dành cho nhau vô cùng nồng ấm và tha thiết.
Các anh chiến sĩ lại kể tiếp về những hình ảnh thiên nhiên nơi đây hiện lên qua
những lời kể ấy thật sự rất đẹp. Những câu thơ như vẽ lên một bức tranh tứ bình
nơi đây, bốn mùa thiên nhiên hiện lên vô cùng đẹp:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Có thể nói, con người, cảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã in đậm trong lòng các
chiến sĩ cách mạng. Khi trở về thủ đô, họ nhớ tất cả những gì gắn với Việt Bắc. Đó
là những con người chân chất, hiền hậu của núi rừng: cô em gái hái măng một
mình, đó là cảnh thiên nhiên tươi đẹp hùng vĩ của Việt Bắc. Có lẽ đây là đoạn thơ
hay nhất đẹp nhất, trữ tình nhất trong bài Việt Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Và thế rồi không ai bảo ai cả kẻ ở người đi đều nhớ đến những ngày ráo riết chuẩn
bị hành quân cho cuộc chiến đấu chống lại chiến dịch của thực dân Pháp. Khi ấy
chính là lúc tình quân dân thể hiện rõ nhất:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Đó là những tháng ngày các chiến sĩ và người dân cùng vào sinh ra tử, cùng nhau
chiến đấu chống giặc. Những tháng ngày đó, núi rừng Việt Bắc đã che chắn cho bộ
đội khỏi vòng vây quân thù, người dân Việt Bắc đã bên cạnh, gắn bó, giúp đỡ, sẻ
chia ngọt bùi với các bộ đội. Hơn bao giờ hết, tình quân dân thật đẹp biết bao. Lại
một lần nữa, những chiến sĩ bộ đội khẳng định tình cảm sắt son của mình qua các
điệp từ "nhớ". Người đi nhớ: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Cao- Lạng, Nhị Hà.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 11
Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ Tố
Hữu là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chính vì vậy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
mà đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu người đọc có thể thấy được những dấu mốc
lịch sử quan trọng của đất nước. Nói về các tác phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví
nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc. “Việt
Bắc” là một trong những bài thơ như thế.
“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết
thúc thắng lợi. Đây là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt
Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những
người cán bộ với nhân dân Việt Bắc sau thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó
cùng nhau trải qua mọi gian khổ. Trong bài thơ tác giả sử dụng thể thơ lục bát
truyền thống của dân tộc kết hợp lối hát đối đáp như ca dao dân ca để tái hiện cuộc
chia tay đầy lưu luyến giữa những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
Người ở lại bao giờ cũng dành nhiều tình cảm, nhiều nhớ thương cho người ra đi vì
thế mà ngay mở đầu Việt Bắc nhà thơ đã để người ở lại mở đầu rất tinh tế:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Câu mở lời đầu tiên giống lời chia tay của những cặp tình nhân đầy ý nhị mà sâu
sắc. Nhà thơ đã khéo léo mượn sắc màu tình yêu để thể hiện tình cách mạng. Cách
sắp xếp câu chữ, “mình” mở đầu câu thơ, “ta” kết thúc câu thơ cũng gián tiếp thể
hiện được sự xa cách, nhớ nhung. Chữ “nhớ” được nhắc lại ba lần đã mở ra dòng
cảm xúc lưu luyến, nhớ nhung, tình nghĩa của toàn bài thơ.
Đáp lại tấm lòng của người ở lại, người đi cũng đã thể hiện tình cảm của mình:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”
Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồn chồn, xúc động. Tất
cả điều đó đã khơi dậy rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của người chiến sĩ.
Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly trở nên bịn rịn, lưu luyến. Nó như một sợi dây
níu kéo người ở và người đi. Mười lăm năm dài đằng đẵng đã gắn kết người với
người lại với nhau. Họ đã cùng nhau chung sống, cùng nhau trải qua biết bao khó
khăn, chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, manh áo để đến giờ phút chia ly cảm xúc trào ra thành câu chữ:
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”
Lúc này, “ta với mình” – “mình với ta” như hòa quyện làm một, cộng hưởng cùng
nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” như một sự
khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Đó
là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì có thể thay thế được.
Trở về cuộc sống thành thị, rời xa Việt Bắc, những người cán bộ chiến sĩ mang
theo một nỗi nhớ núi rừng, nhớ những ngày gian khổ, nhớ những kỷ niệm kháng
chiến gian khó mà nghĩa tình. Một bức tranh tứ bình nhiều màu đã làm hiện lên
một bức tranh sinh vùng cao sinh động với những hình ảnh gần gũi, quen thuộc.
Trong bức tranh ấy có màu xanh của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối, sắc trắng
tinh khôi của hoa mơ. Không chỉ là màu sắc, bức tranh còn rộn rã âm thanh tiếng
ve, còn là ánh sáng lấp lánh của ánh trăng hiền hòa. Trong bức tranh sinh động đó,
hình ảnh con người được hiện lên trong hình ảnh lao động khỏe khoắn: “Nhớ
người đan nón chuốt từng sợi giang”, “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hình
ảnh con người hiện lên thật giản dị, mộc mạc giữa núi rừng. Thiên nhiên nhiều
màu sắc cùng hình ảnh lao động đã làm nên một đoạn thơ trữ tình nhất trong Việt Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Trong nỗi nhớ của mình, tác giả không chỉ nhớ đến thiên nhiên, con người mà còn
nhớ cả những năm tháng chiến đấu oanh liệt:
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”
Giọng điệu tha thiết đã chuyển sang giọng hào hùng, khí thế. Tố Hữu đã nhân hóa
núi rừng Việt Bắc trở thành một sinh thể có linh hồn, thành bức tường bảo vệ vững
chắc cho nhân dân Việt Bắc cùng những người cán bộ kháng chiến khỏi vòng vây
của quân thù. Rồi Việt Bắc còn hiện lên với những cuộc hành quân sôi động. Ở
cuối bài thơ, người đi đã trả lời câu hỏi của người ở:
“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”
Qua lời đáp này người đi muốn nhắn ngủ với người ở lại rằng dù cuộc sống thành
thị có sung túc, đủ đầy thì tình cảm với những người dân nơi đây vẫn luôn còn mãi.
Như vậy tác giả đã khép lại bài thơ bằng tấm chân tình của người ở lại. Kết cấu
đầu cuối tương ứng này một lần nữa khẳng định tấm lòng thủy chung son sắc của người đi và người ở.
Người ta gọi “Việt Bắc” là một điển hình của thơ ca cách mạng bởi nó là sự kết
hợp của chất trữ tình và chính trị. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện rất rõ tính
dân tộc qua việc sử dụng thể thơ truyền thống cùng lối hát đối đáp quen thuộc, giản
dị, gần gũi. Chính bởi những điều đó mà bài thơ đã khơi gợi được những tình cảm
cao đẹp nhất của truyền thống dân tộc là tấm lòng thủy chung son sắc.
“Việt Bắc” không chỉ là câu chuyện nhỏ chứa đựng câu chuyện lớn. Nó không chỉ
kể về cuộc chia tay giữa người cán bộ kháng và đồng bào Việt Bắc mà nó còn cho
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
người đọc thấy được mười lăm năm chiến đấu khó khăn, gian khổ mà hào hùng
của dân tộc. Bởi lẽ đó mà đã bao năm nay Việt Bắc vẫn luôn có một vị trí nhất
định trong tâm chí độc giả
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 12
Sau chiến thắng lừng lẫy trên chiến trường Điện Biên Phủ (7-5-1954), Hiệp nghị
Giơnevơ về Đông Dương được ký kết, miền Bắc nước ta được giải phóng, mở ra
một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng.
Tháng 10-1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu
Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử trọng đại đó, nhà thơ Tố Hữu sáng
tác bài Việt Bắc. Đây là bài thơ dài, gồm 152 câu viết theo thể lục bát. Phần lớn bài
thơ tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến
khu việt Bắc nay đã trở thành những kỷ niệm sâu nặng trong lòng người. Phần sau
tác giả nói lên sự gắn bó máu thịt giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn
cảnh hòa bình, tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công lao của
Bác Hồ, của Đảng đối với dân tộc. Có ý kiến cho rằng: Việt Bắc là một đỉnh cao
của thơ Tố Hữu và cùng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Đoạn thơ trong sách giáo khoa được trích từ phần đầu của bài thơ Việt Bắc:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Với hình thức kết cấu hỏi đáp, người đọc sực nhớ đến một hình thức quen thuộc
trong ca dao: Mình về có nhớ ta chăng? Ta về ta nhớ hàm răng mình cười... Nhưng
ở khung cảnh này, dường như nhà thơ chỉ mượn hình thức của ca dao, còn nội
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
dung đã được đổi mới từ tình cảm giao duyên sang bình diện mới: đó là ý thức về
cội nguồn. Nên chỉ điều nhắc nhở ở đây trước hết là nhắc nhớ về cội nguồn - cái
cội nguồn nghĩa tình những tháng năm gian lao kháng chiến: Áo chàm đưa buổi
phân ly, Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay... Sự lưu luyến trước buổi phân ly đôi
ngả sao mà da diết, sao mà nao lòng đến thế! Điều đó không phải ngẫu nhiên, càng
không phải vô cớ. Trong giờ phút thiêng liêng ấy, tất thảy kỷ niệm như cùng dội về
choáng ngợp - nhất là những kỷ niệm đã từng chung vai gắn bó: Mình đi có nhớ
những ngày. Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù... Tất thảy thiên nhiên, cảnh
sắc, con người Việt Bắc như cùng thẫn thờ đứng lặng. Trong một đoạn thơ 14 câu
đan xen sự kiện "mình đi" - "mình về" tác giả sử dụng một kết cấu hết sức đặc biệt:
mỗi câu lục (sáu chữ) "mình đi" lại tương xứng với một câu lục kế tiếp "mình về",
và ở tất cả các câu bát (tám chữ), đều có sự cân xứng hình ảnh và nhịp thơ rất hài hòa:
- Mưa nguồn suối lũ // những mây cùng mù
- Miếng cơm chấm muối // mối thù nặng vai
- Trám bùi để rụng // măng mai để già
- Hắt hiu Um xám // đậm đà lòng son
- Nhớ khi kháng Nhật // thuở còn Việt Minh
Các câu lục "đi" - "về" xen nhau, còn các câu bát chia đều làm hai vế, được ngăn
cách bởi một dấu phẩy (,)... tạo ra sự cân đối mà hô ứng nhịp nhàng như trên cùng
đôi vai, trong cùng lý tưởng của một chủ thể. Đặc biệt câu thơ Mình đi, mình có
nhớ mình là một sự hài hòa quyện hình ảnh ta - mình đến độ đồng nhất. Ở đoạn thơ tiếp theo:
Ta với mình, mình với ta,
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh...,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
việc đảo phách (ngắt nhịp 3/3 ở câu lục) và đảo từ, hai đối tượng mình - ta càng trở
nên quấn quyện, để từ đó nỗi nhớ được lan tỏa dư ba Nỗi nhớ ở đây (nỗi nhớ giữa
người về xuôi và người ở lại) còn được ví với nỗi nhớ người yêu - một cung bậc
thiêng liêng và thi vị nhất của con người, gắn với từng cảnh vật và sinh hoạt hàng
ngày: Từng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương, sớm khuya
bếp lửa và được điệp lại: Nhớ từng... như mỗi lúc gia tăng, cụ thể. Hàng chục lần
nhắc tới nỗi nhớ, gắn với trong sự việc, con người cụ thể những nét nghĩa nhớ
không hoàn toàn giống nhau. Nỗi nhớ đồng đội, nỗi nhớ lớp học, cơ quan, nỗi nhớ
sinh hoạt rất đặc trưng miền núi: Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều, Chày đêm nện cối
đều đều suối xa... Âm thanh mõ trâu, tiếng chày giã gạo nơi con nước dường như
còn ngân vọng, dường như còn thấm đẫm trong hình dung về Việt Bắc. Chưa hết!
Nỗi nhớ còn in đậm những hoa cùng người, rừng xanh hoa chuối, mơ nở trắng
rừng; người đan nón, cô em gái hái măng... Câu thơ: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng là một câu thơ "xuất thần", nó vượt qua mức
độ một câu miêu tả, vươn tới sự tài hoa trong nghệ thuật pha màu rừng xanh (màu
nền) và hoa chuối, đỏ tươi - nhất là sự phản chiếu lấp lánh từ phía đèo xa ánh lại.
Bức tranh thiên nhiên - con người ở đây bỗng có hồn, sáng lên và lay động. Đó
cũng là lời nhắn nhủ tâm tình của người ra đi với người ở lại: Ta về mình có nhớ
ta, Ta về ta nhớ.... Nỗi nhớ khôn nguôi về những gì đã qua, những gì đã trải: những
Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng...; nỗi nhớ như những dấu nối tình cảm
ngân dài không dứt: Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà.... Nỗi nhớ đó được
chuyển hoá từ chủ thể sang đối tượng: Ai về ai có nhớ không? Trong nỗi nhớ,
không chỉ có cảnh và người, không chỉ có thiên nhiên và sinh hoạt - trong nỗi nhớ
còn vẹn nguyên thanh âm vang dội của cuộc hành quân ái quốc:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quan đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay...
Không phải một ngả đường mà nhiều ngả đường Việt Bắc, âm thanh bước chân
đoàn quân bừng bừng hòa khí. Câu thơ nối nhau qua điệp từ (điệp điệp trùng
trùng), qua hình ảnh thơ nối dài vô tận: điệp điệp trùng trùng - ánh sao - mũ nan -
dân công... tạo ra một sức mạnh tổng hợp, công phá nhấn chìm kẻ địch: Bước chân
nát đá muôn tàn lửa bay. Một loạt động từ mạnh được sử dụng để diễn tả hào khí
vẹn nguyên trào dâng mãnh liệt. Nếu như ở đoạn thơ trên, nỗi nhớ tạo nên dấu nối âm vang chiến thắng:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng
Niềm vui chiến thắng tưởng như tràn qua giới hạn câu thơ, tràn qua khoảng trống
giữa các con chữ và các dòng thơ... đến bất tận!
Trong niềm vui dào dạt, nỗi nhớ lại trở về với thủ đô kháng chiến. Ngọn cờ đỏ
thắm gió lồng cửa hang một thuở mà trung tâm là hình ảnh Bác Hồ - biểu tượng
của lý tưởng và niềm tin yêu vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Kết thúc đoạn thơ là một khái quát:
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa
Ý thức cội nguồn, lòng biết ơn quê cách mạng đó là lẽ sống, lẽ làm người chân
chính. Một Việt Bắc gian lao, bền bỉ, một Việt Bắc nghĩa tình và yêu nước - sẽ mãi
còn là nỗi nhớ và tình cảm sắt son. Đoạn thơ được thể hiện bằng lối gieo vần
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
truyền thống, hình ảnh và ngôn ngữ mộc mạc giản dị mà nồng đượm nghĩa tình -
đậm đà tính dân tộc và tính nhân dân, thể hiện sâu sắc tình cảm không chỉ của
riêng tác giả mà còn là tình cảm của tất cả chúng ta với quê hương việt Bắc thân yêu.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 13
Việt Bắc là một trong những tác phẩm quan trọng trong chương trình Ngữ Văn 12,
đặc biệt là trong kì thi THPT Quốc Gia. Hãy cũng phân tích nội dung và nghệ thuật
của đoạn trích Việt Bắc của Tố Hữu.
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam nói chung
và nền thơ ca cách mạng nói riêng, thơ của ông luôn song hành cùng với những cột
mốc cách mạng của dân tộc. Đặc biệt, bài thơ Việt Bắc được in trong tập thơ cùng
tên được xem là một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cùng là một tác phẩm xuất sắc
của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc là mở đầu phần I
của bài thơ Việt Bắc vốn dĩ viết về hoàn cảnh chia tay của quân và dân ta đầy lưu
luyến, bịn rịn giữa kẻ ở - người đi, những con người đã từng gắn bó lâu dài (15
năm từ 1945 - 1954) với biết bao nghĩa tình sâu nặng sau chiến thắng 1954. Tác
phẩm này chất chứa trọn vẹn phong cách thơ đặc trưng của Tố Hữu – bài ca trữ
tình chính trị với tính đậm đà dân tộc được thể hiện đặc sắc qua cả nội dung và nghệ thuật.
Mở đầu là lời của Việt Bắc, là lời của người ở lại như thể hiện sự níu kéo đầy tiếc nuối với người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, “mình có nhớ không” tưởng chừng là không sâu
sắc nhưng đây chính là lời ướm hỏi, nhắc nhở về kỉ niệm 15 năm ân tình, muốn
khơi gợi kỉ niệm trong lòng của người ra đi. Những cặp tình nhân, những đôi trai
gái khi xa nhau đều tha thiết mà nói lời này. Cặp đại từ mình – ta khiến liên tưởng
đến những câu ca dao đối đáp trao duyên, ở đây Tố Hữu đã mượn hình thức đối
đáp bình dị này, còn nội dung thì đổi mới sáng sự ý thức về cội nguồn, cội nguồn
của những kỉ niệm trong những ngày tháng kháng chiến hay tình cảm quân dân.
Cặp đại từ này cũng thể hiện được phần nào sự gắn bó thân mật đầy yêu thương
của quân dân ta. “Mười lăm năm ấy” là quãng thời gian gắn bó giữa Việt Bắc với
cán bộ cách mạng kết hợp với cụm từ chỉ sắc thái tâm trạng “thiết tha mặn nồng”
thể hiện mối quan hệ này bao nhiêu ân tình, bao nhiêu kỉ niệm khó quên.
Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại mang sự tha thiết, day dứt và trăn trở trong nỗi nhớ đối
với những người, những kỉ niệm đã từng gắn bó. Nghệ thuật liệt kê kết hợp các cặp
từ sóng đôi: cây – núi, sông – nguồn như muốn nhắn nhủ và khẳng định mối quan
hệ này không thể tách rời như cây với núi, như sông với nguồn và đây cũng chính
là hình ảnh cội nguồn của những kỉ niệm, những nỗi nhớ gắn bó với núi rừng Việt Bắc.
Ở những câu tiếp theo chính là lời đáp của người ra đi, lời của cán bộ cách mạng
đối với Việt Bắc cũng bày tỏ tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến trong buổi phân li:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Sử dụng các từ láy “tha thiết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn” cùng với cử chỉ “cầm
tay nhau” diễn tả tâm trạng xúc động, lưu luyến đến nghẹn ngào không nói nên lời.
Dùng lối nói phiếm chỉ “tiếng ai” kết hợp hình ảnh hoán dụ “áo chàm” gợi hình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
ảnh đồng bào Việt Bắc, gần gũi, thân thương, nghĩa tình. Kết thúc bằng hình thức
câu bỏ lửng “…”, nhịp thơ 3/3/2 thể hiện một tâm trạng không thể lý giải được,
không đành lòng để cho người đi, làm chực trào nhớ thương những kỉ niệm. Buổi
phân ly da diết đến nao lòng…
Những câu hỏi của Việt Bắc khiến những kỉ niệm ở vùng đất này ùa về dồn dập đến choáng ngợp:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Gợi kỉ niệm về những ngày tháng gian khổ với “mưa nguồn suối lũ”, “mây cùng
mù”, rồi những kỉ niệm về những ngày đầu cách mạng gian khổ, cùng nhau chia
ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ “ miếng cơm chấm muối , mối thù nặng vai”. Có
như không mà nhắc đến tình cảm ân tình, thủy chung, ấm áp “hắt hiu lau xám, đậm
đà lòng son”, gợi nhớ đến những cao trào cách mạng, những địa danh thiêng liêng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
của lịch sử đất nước “nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, “Tân Trào, Hồng
Thái, mái đình, cây đa”.
Lời Việt Bắc hỏi chính là để đánh thức, nhắc nhở người về xuôi đừng quên những
kỷ niệm. Song bên cạnh đó cũng là để bày tỏ tâm trạng. Sự nhớ thương, trống vắng
trong lòng kẻ ở lại: “rừng núi nhớ ai”, “trám bùi để rụng, măng mai để già”, những
điệp ngữ “mình đi – có nhớ”, “mình về - có nhớ”,… vang lên một cách dồn dập
liên tiếp đã nói lên điều đó. Sự lo âu, băn khoăn liệu người ra đi có còn nhớ, có còn
giữ những kỉ niệm xưa hay là sẽ chối bỏ, sẽ lãng quên: “mình đi, mình có nhớ
mình?”. Nghệ thuật nhân hóa cùng hoàng loạt điệp ngữ kết hợp cùng bao hoài
niệm tha thiết đã cho thấy hình ảnh người ở lại bâng khuâng thương nhớ với cảm
giác chưa nguôi đầy lưu luyến trong phút chia li.
“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Hai đại từ ta – mình cứ ở gần nhau mà quấn quýt không rời “Ta với mình, mình
với ta” thật là nồng nàn. Không phân ý nghĩa ra là riêng mà nhập thành một khẳng
định sự thủy chung son sắt. Nguồn với nước dào dạt bao nhiêu thì ta với mình
nghĩa tình bấy nhiêu, và ai cũng biết nguồn với nước là bất tận “Nguồn bao nhiêu
nước, nghĩa tình bấy nhiêu”.. Phép điệp cấu trúc kết hợp với điệp ngữ đặt ở đầu
câu: nhớ gì, nhớ từng… khẳng định người ra đi không quên bất cứ một hình ảnh
nào ở Việt Bắc, ở thiên nhiên Việt Bắc và ở con người nơi đây.
Thiên nhiên Việt Bắc là một thiên nhiên mênh mông, hùng vĩ, đầy sức sống, là một
thiên nhiên vừa hiện thực vừa thơ mộng mang nét đặc trưng của Việt Bắc: trăng
lên đầu núi, nắng chiều lưng nương,… Hình ảnh thiên nhiên luôn hòa quyện thắm
thiết với con người. Nhớ con người Việt Bắc luôn gắn bó với thiên nhiên, luôn
chăm chỉ, gần gũi, tràn đầy năng lượng, sức sống luôn lạc quan, yêu đời, yêu lao
động. Con người đầy ân tình, đồng cam cộng khổ gắn bó với chiến sĩ cách mạng.
Cũng nhớ người Việt Bắc lam lũ đầy cơ cực, vất vả. Nhớ con người Việt Bắc như
vậy thể hiện sự xót xa của tác giả với những cực khổ của đồng bào Việt Bắc. Rồi
lại nhớ cuộc sống và những ngày tháng sinh hoạt ở chiến khu. Dù cuộc sống kháng
chiến có gian khổ, thiếu thốn nhưng vẫn lạc quan, yêu đời: những sinh hoạt học
tập, liên hoan,.. không gian thanh bình, êm đềm.
Một trong những đặc sắc của Việt Bắc chính là bức tranh tứ bình đầy màu sắc. Qua
lời kể của các anh chiến sĩ bức tranh thiên nhiên hiện lên một cách sinh động, đầy rực rỡ:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Người ra đi khẳng định nỗi nhớ trong lòng mình, hình ảnh “hoa cùng người” cho
thấy thiên nhiên và con người Việt Bắc luôn gắn bó hài hòa là đối tượng của nỗi
nhớ. Mùa đông nơi đây là màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc, đâu đó được
điểm tô và thắp sáng bởi màu đỏ tươi của hoa chuối, câu thơ tả cảnh mùa đông
nhưng không hề có cảm giác lạnh lẽo, ảm đạm. Hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” như
xua đi cái lạnh lẽo nơi núi rừng mang lại cảm giác ấm áp, gần gũi, thân thương.
Nơi đây hình ảnh con người xuất hiện với tư thế bản lĩnh đầy tự tin nơi đèo cao,
con dao đi rừng phản quang bởi ánh mặt trời chiếu vào làm hình ảnh của con người
rực sáng trở thành trung tâm bức tranh. Mùa xuân thơ mộng với màu trắng tinh
khiết của hoa mơ, cả núi rừng tràn ngập một màu trắng. “Nở trắng rừng” tạo ấn
tượng mạnh mẽ, dường như màu sắc vận động khoác lên Việt Bắc một tấm áo mới.
Hình ảnh đầy sức sống bừng dậy cho thấy tâm trạng náo nức khi mùa xuân tới.
Thời gian này con người Việt Bắc hiện lên bởi hình tượng chăm chỉ, cần mẫn,
khéo léo tạo ra những sản phẩm làm giàu cho Việt Bắc đóng góp cho kháng chiến.
Xuân qua thì hè đến, hình ảnh thơ mang âm thanh rộn ràng của ve và màu vàng rực
rỡ của hoa phách, tiếng ve vang động như khiến cho rừng cây đổ vàng đồng loạt.
Con người Việt Bắc xuất hiện giữa tiếng ve và màu sắc rực rỡ của hoa phách trong
tư thế lao động đời thường gợi cảm giác trữ tình thơ mộng. Mùa thu được gợi lên
bởi những hình ảnh đậm chất cổ điển mang phong vị thơ Đường, không khí thanh
bình, yên ả vẻ đẹp thơ mộng, êm đềm cùng với ánh trăng. Con người xuất hiện
cùng tiếng hát ân tình thủy chung gợi sự lạc quan yêu đời và tình cảm ân tình, gắn bó.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...”
Vào giai đoạn đầu khi cách mạng còn yếu thì thiên nhiên Việt Bắc với rừng núi
mênh mông, hùng vĩ trở thành bạn của quân dân ta, chở che cho bộ đội ta, cùng
quân và dân ta “ vây”, “đánh” giặc. Tố Hữu sử dụng biện pháp nhân hóa khiến
thiên nhiên Việt Bắc sinh động hơn, có hồn hơn. Chiến công của Việt Bắc là phải
nhớ đến mỗi tên sông, tên núi, tên phố,.. Một Việt Bắc với khí thế chiến đấu hào
hùng, sôi động của cuộc kháng chiến chống giặc, một tinh thần đoàn kết – một sự
anh dũng, kiên cường trong chiến đấu
Việt Bắc trưởng thành với khí thế hào hùng, sôi động của cuộc chiến đấu:
“Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.”
Từ quá khứ, tác giả mở ra một hình ảnh đoàn quân ngày càng lớn mạnh, nối tiếp
liên tục hành quân trong đêm khuya ở một không gian vô cùng rộng lớn. Nghệ
thuật so sánh kết hợp với những từ láy đã diễn tả lực lượng đông đảo , sự lớn mạnh
cùng khí thế hào hùng của quân đội ta. Nếu hình ảnh đoàn quân “điệp điệp, trùng
trùng” như gợi tưởng tới những dãy núi, nối tiếp nhau không dứt là một hình ảnh
có tính mạnh mẽ thì hình ảnh ẩn dụ “ánh sao đầu súng” là một tứ thơ đẹp, trữ tình
để liên tưởng đến lý tưởng cách mạng soi sáng dẫn đường và thiên nhiên Việt Bắc
như người bạn đồng hành với các chiến sĩ cách mạng. Những bó đuốc đỏ rực của
đoàn dân công soi đường kết hợp với hình ảnh phóng đại “bước chân nát đá” thể
hiện sức mạnh lực lượng đông đảo và tinh thần quyết tâm cùng trái tim rực cháy
đạt bằng mọi gian khổ chông gai. Là một bức tranh về ban đêm mà không hề tối
tăm, ánh sáng đèn pha xua đi bóng tối, nghệ thuật so sánh “như ngày mai lên” kết
hợp với nhịp thơ mạnh mẽ dồn dập đã thể hiện được niềm tin tưởng lạc quan vào
tương lai tươi sáng của đất nước. Nhớ Việt Bắc cùng nhớ đến niềm vui chiến
thắng, tin thắng trận từ mọi nơi trên đất nước báo về đây cùng từ đây mà lan truyền
ra. Nghệ thuật liệt kê các địa danh gắn liền cùng với chiến thắng, nhịp điệu thơ sôi
nổi, giọng thơ náo nức say mê thể hiện niềm tự hào vui sướng chiến thắng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Nhớ Việt Bắc là cơ quan đầu não của cách mạng. Là nơi diễn ra toàn bộ những
cuộc tham mưu, và nơi dẫn chủ trương của Đảng và Chính phủ tỏa đi khắp nước,
chỉ đạo cho con đường cách mạng. Cả dân tộc Việt Nam, những con người yêu đất
nước đều gửi gắm những niềm tin, niềm hi vọng và sự mong đời vào nơi này. Việt
Bắc là căn cứ địa vững chắc, nơi khai sinh những con người, những địa danh mãi
mãi đi vào lịch sử dân tộc: Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. Người về xuôi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
muốn nhắn nhủ với Việt Bắc dù có trở về và cách xa nơi đây thì những gì đẹp nhất
của người chiến sĩ cách mạng sẽ luôn được giữ gìn và phát huy.
Vị trí của Việt Bắc cũng như của của Tổ Hữu trong nền thơ ca Việt Nam là chuyện
không thể bàn cãi. Bài ca vừa là sự hào hùng về kháng chiến vừa là sự nghĩa tình
trong tình cảm cách mạng quân dân này được Tố Hữu gửi gắm toàn bộ tâm tư tình
cảm cũng như phong cách thơ ca của ông vào. Biến hóa và sáng tạo thể thơ lục bát,
vừa dân dã lại vừa hiện đại. Sử dụng cách đối đáp trong ca dao dân gian một cách
bình dị, nhẹ nhàng mà tha thiết. Vừa nhấn mạnh ý vừa tạo ra nhịp thơ cân xứng có
nhạc điệu, thấm sâu vào tâm tư bằng cách sử dụng những tiểu đối. Lời ăn tiếng nói
đầy mộc mạc và giản dị, ngôn ngữ giàu hình ảnh, đặc biệt cặp đại từ mình – ta
quen thuộc đầy sáng tạo. Các biện pháp tu từ: nhân hóa, liệt kê,… được sử dụng
tinh tế và khéo léo. Tất cả đưa ta vào quá khứ cùng với những kỷ niệm ngọt ngào,
tha thiết và tình nghĩa da diết, son sắt, thủy chung.
Xem thêm: Kết bài Việt Bắc của Tố Hữu hay nhất
Phân tích Việt Bắc - Mẫu 14
Tố Hữu nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Các bài thơ
của ông luôn hừng hực không khí chiến đấu, bám sát từng sự kiện lịch sử. Việt Bắc
chính là một trong những bài thơ như vậy.
Tác phẩm ra đời sau khi ta chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ ne vơ được
ký kết, hòa bình được lập lại ở miền Bắc, một trang sử mới đã mở ra cho dân tộc.
Tháng 10 năm 1954 các cơ quan Đảng và chính phủ của chúng ta từ chiến khu Việt
Bắc trở về thủ đô Hà Nội, để tiếp tục gánh vác sứ mệnh lịch sử của đất nước. Nhân
sự kiện cuộc chia tay đặc biệt này, chia tay giữa Việt Bắc với người về xuôi, Tố
Hữu đã viết lên bài thơ Việt Bắc.
Mở đầu bài thơ là lời ướm hỏi và nhắc nhở của đồng bào với những người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta/…/Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Điệp từ nhớ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
luyến láy trong cấu trúc câu hỏi đồng dạng “Mình về mình có nhớ ta?/…/ Mình về
mình có nhớ không?” khiến cho nỗi nhớ thêm phần da diết, khắc khoải.
Kỉ niệm đầu tiên được nhắc tới chính là mười lăm năm khoảng thời gian Việt Bắc
là căn cứ địa vững chắc cho cách mạng. Với kỉ niệm thứ hai, tác giả đã tái hiện
chân thực không gian mình từ gắn bó là sông, núi, nguồn. Tâm trạng của thiên
nhiên cũng chính là nỗi nhớ da diết của chính con người.
Những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình đã được Tố Hữu tái hiện không chỉ chân thực
mà còn tràn đầy cảm xúc trong từng cặp lục bát. Có thể thấy điệp từ “nhớ” trở
thành một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Đó là nỗi nhớ về những tháng
ngày gian khổ “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”; con người Việt Bắc
nghèo khổ nhưng chung thủy, tình nghĩa, đồng cam cộng khổ cùng kháng chiến
“miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”, “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”.
Đặc biệt nỗi nhớ được gói ghém trọn vẹn trong câu thơ hàm súc, giàu ý nghĩa:
Mình đi, mình có nhớ mình? Chữ mình thứ ba là cách nói gần gũi, âu yếm, cho
thấy sự gắn bó sâu đậm, khăng khít. Sau những lời nhắn nhủ, nhắc nhở tha thiết
của người ở lại là lời khẳng định thủy chung son sắt của cán bộ kháng chiến:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Tố Hữu đã sử dụng vô cùng linh hoạt các từ láy “tha thiết” “Bâng khuâng, bồn
chồn” giàu giá trị gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm hụt hẫng, bịn rịn,
luyến tiếc, vương vấn. Trong đoạn thơ, đặc sắc nhất là hình ảnh áo chàm. Hình ảnh
hoán dụ cho thấy cuộc tiễn đưa không chỉ của một người mà còn là còn của toàn
thể dân Việt Bắc đối với cán bộ khi họ về xuôi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Và tình cảm lưu luyến đó sẽ là cơ sở để khẳng định sự ân tình, thủy chung son sắt
của người ra đi với người ở lại: “Ta với mình, mình với ta/ Lòng ta sau trước mặn
mà đinh ninh/ Mình đi, mình lại nhớ mình/ Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy
nhiêu…”. Câu thơ “Ta với mình/mình với ta” ngắt nhịp 3/3, mở đầu và kết thúc
mỗi nhịp đều xuất hiện cặp đại từ mình – ta, cho thấy sự quấn quýt, gắn bó, không thể chia cắt.
Sáu câu thơ tiếp theo, một cách rất ngắn gọn, súc tích, Tố Hữu đã tái hiện lại khung
cảnh Việt Bắc trong tâm tưởng: “Nhớ gì như nhớ người yêu/…/ Ngòi Thia, sông
Đáy, suối Lê vơi đầy”. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” thật đặc sắc, cho
thấy nỗi nhớ tha thiết, khắc khoải của chàng trai với cô gái, lấy hình ảnh so sánh đó
đã thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm.
Những hình ảnh gợi cảm đầy thi vị: trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản
khói cùng sương, bếp lửa, rừng nứa, bờ tre... gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ rất
riêng của miền rừng núi. Đặc biệt ông còn sử dụng linh hoạt các địa danh ngòi
Thia, sông Đáy, suối Lê nhấn mạnh hơn nữa nỗi nhớ của người ra đi với núi rừng,
con người nơi ở lại. Những ngày chiến đấu đó tuy gian khổ, tuy vất vả nhưng đậm
đà nghĩa tình: “Ta đi ta nhớ những ngày/…/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.
Bốn câu thơ là lời khẳng định, khi chia xa người ra đi sẽ không bao giờ quên đi
những tháng ngày gắn bó, ta với mình đã đồng cam cộng khổ, cùng chia sẻ đắng
cayvà cùng chung hưởng ngọt bùi. Và sao có thể quên được người mẹ Việt Bắc
nắng cháy lưng, vẫn địu con lên rẫy làm việc, cần mẫn chăm chỉ bẻ từng bắp ngô...
đã gợi ra sự tần tảo chắt chiu, cần cù lao động của những bà mẹ trong kháng chiến
đã đùm bọc, cưu mang chiến sĩ cách mạng.
Và cả cảnh sinh hoạt cơ quan với những âm thanh quen thuộc trong lớp học, tiếng
hát đầy lạc quan, vui tươi trong hoàn cảnh gian khổ. Đoạn thơ không chỉ đơn thuần
là sự tái hiện những sự việc, những người, những khung cảnh mà chất chứa trong
đó cả là nỗi nhớ, lòng biết ơn sâu nặng của những người chiến sĩ cách mạng với bà
con Việt Bắc đã giúp đỡ họ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Trong tác phẩm này, có lẽ đẹp đẽ nhất, tài hoa nhất chính là khi ngòi bút Tố Hữu
tạo dựng lên bức tranh tứ bình đặc sắc: “Ta về mình có nhớ ta/…/ Nhớ ai tiếng hát
ân tình thủy chung”. Mở đầu bức tranh là khung cảnh đặc trưng của mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Gam màu chủ
đạo trong bức tranh này là gam màu xanh. Trên nền xanh bát ngát ấy, nổi bật lên
những bông “hoa chuối đỏ tươi” xua tan đi vẻ âm u, thổi hơi ấm.
Sức nặng của hai câu thơ dồn vào hai chữ “đèo cao”, gợi lên tư thế hiên ngang của
con người Việt Bắc trong công việc lao động. Tiếp đến là khung cảnh mùa xuân
thanh khiết với rừng mơ nở trắng xóa: Ngày xuân mơ nở trắng rừng/ Nhớ người
đan nón chuốt từng sợi giang. Núi rừng Việt Bắc đã ngập trong một màu trắng
thanh khiết, tinh khôi của hoa mơ.
Thấp thoáng trong rừng hoa mơ ấy, ta bắt gặp hình ảnh con người Việt Bắc trong
lao động, mang vẻ đẹp cần mẫn và tài hoa phù hợp với thiên nhiên thơ mộng và
thanh khiết. Cảnh mùa hạ lại đặc trưng bởi sắc vàng ấm nóng: Ve kêu rừng phách
đổ vàng/ Nhớ người em gái hái măng một mình.
Câu thơ trên chỉ có sáu âm tiết nhưng đã gợi ra cả một chuỗi vận động liên hoàn:
tiếng ve kêu gọi mùa hè đến, mùa hè với sắc nắng chói chang của nó nhuộm vàng
cả rừng phách. Hình ảnh con người hiện ra qua cách gọi “người em gái” khiến
người Việt Bắc hiện lên thật thân thương, gần gũi.
Con người hiện ra hết sức lặng lẽ: “người em gái” chỉ có “một mình” giữa rừng
măng, lao động trong thầm lặng. Bức tranh cuối cùng là khung cảnh mùa thu:
Rừng thu trăng rọi hòa bình/ Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Bức tranh mùa
thu yên bình, hạnh phúc, biểu tượng cho hòa bình cũng là cái đích mà cách mạng hướng tới.
Trong dòng hồi tưởng, Tố Hữu cũng không quên nhớ về cuộc sống, chiến đấu đầy
gian khổ. Đó là khi cách mạng còn non trẻ, lực lượng còn yếu, giặc đến truy đuổi
thường xuyên, đây chính là thử thách lớn lao đối với ý chí của con người. Nhưng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
dù trong gian khổ ta vẫn không chịu khuất phục cả con người và rừng núi hợp sức
đánh giặc: Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Kháng chiến ngày một lớn mạnh, ta
giành chiến thắng hết trận này đến trận khác.
Giọng thơ tràn ngập niềm tự hào, niềm vui. Khép lại đoạn thơ, tác giả cũng phác
thảo ra một bản đồ vui toả rộng khắp đất nước báo tin chiến thắng. Nhịp thơ dồn
dập, tươi vui, náo nức cùng với sự xuất hiện của một loạt các địa danh trăm miền
gắn với các tin vui chiến thắng đã cho thấy tốc độ thần kì của thắng lợi. Chiến
thắng ấy trải dài khắp mọi miền Tổ quốc tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn thể dân tộc ta.
Việt Bắc có thể coi như một bản tổng kết lịch sử của cuộc cách mạng dân tộc. Bài
thơ đã tái hiện chân thực vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, cùng với đó là
cuộc kháng chiến anh hùng, vĩ đại của dân tộc ta. Bài thơ có sự kết hợp hài hòa
giữa chất trữ tình và chất chính trị, thể thơ lục bát dân tộc, giọng điệu linh hoạt,
hình ảnh phong phú, giàu sức biểu cảm đã tạo nên một thi phẩm xuất sắc.
Phân tích Việt Bắc - Mẫu 15
Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ trữ tình chính trị xuất sắc nhất của văn học
Việt Nam. Các tác phẩm thơ của ông có thể coi như bản lịch sử về thơ ghi chép lại
những biến cố, những sự kiện trọng đại của lịch sử nước nhà. Việt Bắc là một trong
vô số những bài thơ như vậy, khi lại những tình cảm của kẻ ở người đi, của mười
lăm năm kháng chiến trường kì của dân tộc đã kết thúc thắng lợi.
Việt Bắc được sáng tác vào năm 1954 khi Trung ương Đảng chuẩn bị rời chiến khu
Việt Bắc về Hà Nội. Bởi vậy bài thơ là nỗi nhớ, nỗi lưu luyến, bịn rịn của những
người cán bộ với nhân dân nơi đây. Bởi vậy ngay từ khổ thơ đầu tiên, Tố Hữu đã khẳng định:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Với kết cấu theo lối đối đáp, giao duyên quen thuộc, đoạn thơ cho thấy cuộc chia
tay giữa cán bộ và nhân dân Việt Bắc. Tình nghĩa đôi bên hết sức sâu nặng, đằm
thắm, tha thiết, được thể hiện qua cặp đại từ “mình – ta” gợi nên nỗi lưu luyến, tha
thiết trong giờ phút chia tay. Lời nhắn nhủ của người ở lại thật tình cảm, được thể
hiện chủ yếu qua các từ láy và các câu hỏi: mình có nhớ ta, mình có nhớ không
vang lên liên tiếp cho thấy nỗi nhớ day dứt khôn nguôi. Nỗi nhớ không to lớn, xa
vời mà là với những sự vật hết sức gần gũi, thân quen: cây, sông, núi, nguồn. Mỗi
địa điểm, mỗi không gian lại gắn liền với một kỉ niệm thiết tha, sâu nặng.
Đáp lại lời người ở lại, lời người ra đi cũng không kém phần da diết: “Tiếng ai tha
thiết bên cồn/ Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi/ Áo chàm đưa buổi phân li/
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Hàng loạt các từ láy giàu tình cảm, cảm xúc đã
được Tố hữu vận dụng hết sức linh hoạt: tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn, diễn tả
nỗi xúc động chân thành, tha thiết của những người chiến sĩ cách mạng khi phải rời
xa nơi mình đã gắn bó biết bao năm. Câu thơ cuối bị bỏ lửng với nhịp thơ như
chậm lại, ngừng lại diễn tả sự vấn vương, không nỡ rời xa của người ra đi.
Mười hai câu tiếp theo là lời ứng đáp của người Việt Bắc, kể về một thời quá khứ
với những kỉ niệm đẹp trong buổi đầu cách mạng kháng chiến chống Pháp:
“Mình đi, có nhớ những ngày …
Tân Trào, Hồng Thái mái đình, cây đa?”
Hàng loạt các không gian khác nhau lần lượt hiện ra, là không gian rừng núi, là
không gian sinh hoạt cộng đồng, … tất cả những không gian này đều gắn bó chặt
chẽ với người ra đi. Các địa điểm được gợi nhắc từ xa đến gần, đi từ những mưa
nguồn suối lũ, mây mù – những địa điểm không xác định địa danh, cho đến những
địa danh cụ thể - chiến khu, Tân Trào, Hồng Thái. Khiến lòng người ra đi cũng xúc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
động không thôi. Không chỉ nói đến những địa danh, họ còn đề cập đến cả cuộc
sống thường ngày hết sức bình dị, thậm chí có phần khắc khổ trong những năm
tháng chiến tranh đó, là bát cơm chấm muối, là trám bùi, là măng mai,… ấy vậy
nhưng lại đậm đà sâu sắc tấm lòng. Đằng sau từng câu, từng chữ ấy ta còn thấy sự
bâng khuâng, tiếc nuối của người ở lại, câu thơ cuối cùng của khổ thơ là một câu
hỏi tu từ khiến cho nó càng trở nên da diết và khắc khoải hơn bao giờ hết.
Đáp lại tình cảm chân thành, thắm thiết của người ở lại, những chiến sĩ cách mạng
cũng không ngần ngại, thể hiện tấm lòng biết ơn, tình cảm sâu nặng của bản thân
với con người và thiên nhiên nơi đây: “Ta với mình, mình với ta/…./Chày đêm nện
cối đều đều suối xa”. Khổ thơ là lời khẳng định chắc nịch tình cảm tha thiết, bền
vững của người đi đối với người ở lại đó là tình cảm không thể đổi thay “Nguồn
bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Và để khẳng định cho tình cảm chân thành
đó, Tố Hữu cũng vô cùng tinh tế tái hiện lại kỉ niệm trong mười lăm năm kháng
chiến gian khổ mà hết sức vui tươi, hào hùng: là bản khói cùng sương, là những địa
danh quen thuộc Ngòi Thia, sông Đáy, là lớp học chữ trong những đêm trăng, là sự
chia sẻ ngọt bùi, bát cơm phải sẻ nửa, tấm chăn phải đắp cùng, là niềm biết ơn vô
hạn với người mẹ, mà rộng ra là với nhân dân đã nuôi dưỡng, đã tiếp thêm sức
mạnh cho những người chiến sĩ. Đoạn thơ không chỉ tái hiện kỉ niệm những năm
tháng vừa gian khổ, vừa hào hùng mà còn thể hiện lòng biết ơn sâu nặng đối với nhân dân Việt Bắc.
Ở khổ thơ tiếp theo là bức tranh đẹp đẽ nhất, thể hiện tài năng của một nhà thơ xuất
chúng của Tố Hữu – bức tranh tứ bình:
Ta về mình có nhớ ta
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Hai câu thơ đầu là lời ướm hỏi của người ra đi đối với người ở lại như thế nào và
đồng thời cũng tự bộc lộ tình cảm, cảm xúc của mình. Tám câu thơ tiếp theo vẽ lên
khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ và chân dung con người Việt Bắc dần dần hiện lên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
qua bốn mùa. Mùa đông vốn được mặc định coi là mùa lạnh lẽo, mùa của tàn tạ,
héo úa, nhưng trong bức tranh của Tố Hữu ta không hề thấy cái cô đơn, lạnh lẽo
mà thay vào đó là hình ảnh rực đỏ của hoa chuối trên nền xanh ngát của núi rừng.
Màu sắc đỏ rực đó đã xua tan cái lạnh lẽo của mùa đông, làm ấm không gian của
thiên nhiên núi rừng. Sau sắc đỏ rực rỡ của hoa chuối là đến sắc trắng tinh khôi của
những rừng mơ bạt ngàn, đem lại cảm giác tinh khôi, mới mẻ cho khung cảnh thiên
nhiên. Mùa hạ lại ngập tràn âm thanh tiếng ve và màu vàng óng của rừng phách đổ
vàng, cả không gian ấm nóng của mùa hè. Cuối cùng là khung cảnh yên bình của ánh trăng dìu dịu.
Mỗi một câu thơ miêu tả khung cảnh thiên nhiên lại là chân dung của một con
người Việt Bắc.Ở bức tranh nào con người cũng hiện lên vô cùng mạnh mẽ, chủ
động. Là người dân đi rừng với cái rực sáng của dao gài thắt lưng, chinh phục thiên
nhiên. Đến bức tranh mùa xuân, hình ảnh “người đan nón” uyển chuyển, đầy nữ
tính chuốt từng sợi giang. Cô em gái hái măng một mình nhưng không hề đơn độc
mà làm chủ khung cảnh thiên nhiên mùa hạ. Và cuối cùng là tiếng hát ngập tràn
không gian trong mùa thu. Ở bất cứ bức tranh nào hình ảnh con người hiện lên
cũng vô cùng chủ động, mạnh mẽ, họ không bị hòa lẫn vào thiên nhiên mà chủ
động, làm chủ toàn bộ không gian.
Trong mạch hồi tưởng, tác giả nhớ về những năm kháng chiến hào hùng của các
chiến sĩ, của nhân dân Việt Bắc tuy gian khổ mà cũng đầy hào hùng. Khi ấy không
chỉ nhân dân Việt Bắc mà cả thiên nhiên cũng hợp lực để đánh tan kẻ thù xâm
lược: “Núi giăng thành lũy sắt dày/ Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”. Trải qua
những năm tháng khó khăn, quân dân ta liên tiếp đạt được những thắng lợi, thành
công vang dội: “Những đường Việt Bắc của ta/…/Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi
Hồng”. Những đoàn xe ngày đêm ra trận, rạch tan sương mù tăm tối của Việt Bắc.
câu thơ thực mà cũng vô cùng lãng mạn, không chỉ rạch tan cái tăm tối của Việt
Bắc mà còn mở ra tương lai, hi vọng cho đất nước. Câu thơ “Đèn pha bật sáng như
ngày mai lên” chính là thể hiện tinh thần, niềm tin ấy của tác giả.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc có thể coi như bản tổng kết về cuộc kháng chiến trường kì, vĩ đại của dân
tộc ta. Không chỉ vậy bài thơ còn cho thấy tình cảm sâu nặng, chân thành , long
biết ơn vô hạn của tác giả nói riêng và của chiến sĩ cách mạng nói chúng đối với
nhân dân Việt Bắc. Đồng thời bài thơ cùng thể hiện tài năng nghệ thuật của Tố Hữu.
Phân tích Việt Bắc - Mẫu 16
Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi là một sự kiện lịch sử quan trọng
trong trường kì kháng chiến của dân tộc ta. Nhờ sự kiện trọng đại này mà tháng
bảy năm 1954, hiệp định Giơnevơ được kí kết, hòa bình lặp lại, miền Bắc được
giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Vì thế mà, các cơ
quan trung ương Đảng rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Trong phút chia ly bâng
khuâng lưu luyến, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc để bộc lộ nỗi lòng mình.
Ai trong chúng ta cũng biết, Tố Hữu là một nhà thơ quen thuộc của kháng chiến.
Con đường thơ của ông gắn liền với con đường cách mạng. Với giọng thơ tâm tình
ngọt ngào, các sáng tác của ông đều chạm đến tim người đọc. Và "Việt Bắc" cũng
không ngoại lệ. Bài thơ "Việt Bắc" được viết theo lối đối đáp giữa người đi và kẻ ở
lại trong giờ phút chia tay đầy lưu luyến sau nhiều năm gắn bó. Mở đầu bài thơ là lời người ở lại.
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn"
Trong cuộc chia tay, người ở lại như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay đã lên tiếng
để gợi nhắc cho người ra đi những kỉ niệm gắn bó. Người ở lại hỏi về không gian:
"nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn", hỏi về thời gian: "mười lăm năm ấy…".
Điệp ngữ "mình có nhớ" tạo cho đoạn thơ một giai điệu lưu luyến không nguôi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Người ở lại như đang nhắc nhở người ra đi về đạo lý uống nước nhớ nguồn. Nghe
những lời của người ở lại, người ra đi cũng chùn bước, "bước đi một bước giây hai
lại dừng". Trong cuộc chia tay thật tế nhị và sâu sắc người ra đi nghẹn ngào khó
nói lên lời:"Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay". Cái cầm tay ấy chất chứa bao nỗi
niềm của người ra đi. Từng câu thơ lục bát nhịp nhàng diễn tả một thoáng ngập
ngừng của tác giả. Chút ngập ngừng ấy tạo ra một phút lặng cho chuỗi câu hỏi tiếp
theo vang lên dồn dập hơn. Bằng những lời mà người ở lại tiếp tục hỏi, người ở lại
đã gợi nhớ những ngày ở chiến khu Việt Bắc. Mười hai dòng thơ được chia thành
sáu câu hỏi như khơi sâu vào những kỉ niệm. Kỉ niệm đầu tiên là những ngày đầu
gian khổ, vất vả của chiến khu, của kháng chiến:"rừng cây núi đá", "mênh mông
bốn mặt sương mù", "mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù"… Những hình ảnh
vừa chỉ đặc trưng của thiên nhiên những ngày khắc nghiệt đồng thời là những ngày
gian nan, vất vả. Rồi tiếp theo lại là cảnh vật, con người Việt Bắc – những con
người ân nghĩa thủy chung, đồng cam cộng khổ: "miếng cơm chấm muối mối thù
nặng vai", "hắt hiu lau xám đậm đà lòng son". Rồi kỉ niệm về mảnh đất chiến khu
từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh. Chỉ bằng vài câu thơ, Tố Hữu đã chứng
minh Việt Bắc là một căn cứ địa vững chắc với những địa danh đã đi vào lịch sử:
Tân Trào, Hồng Thái. Mười hai câu thơ tiếp theo này không chỉ gợi kỉ niệm cũ với
người ra đi, nó còn thể hiện tài năng nghệ thuật trong thơ của Tố Hữu. Trong các
câu thơ sáu tiếng, cứ một câu "mình đi", kế một câu "mình về" đều chỉ một hướng
của người về xuôi. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ tiếng việt để tạo ra sự
đa nghĩa. Hấp dẫn người đọc cũng là nghệ thuật đối "đi – về" kết hợp với động từ
"có nhớ" tạo âm điệu vừa êm ái vừa réo rắt trong sự tiếc nuối vừa ân nghĩa thủy
chung. Đặc biệt đan xen những câu hỏi nhưng không dùng để hỏi mà để độc thoại
nội tâm: "mình về rừng núi nhớ ai – trám bùi để rụng măng mai để già". . Trước
những gợi nhớ kỉ niệm của người ở lại, người ra đi cũng khẳng định nghĩa tình
không bao giờ thay đổi: "Ta với mình mình với ta – Lòng ta sau trước mặn mà
đinh ninh". Cặp đại từ "mình – ta" đan xen khăng khít như sự gắn bó của người ra
đi đối với người ở lại. Sự thủy chung ấy còn được so sánh với nước trong nguồn:
"nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu". Câu thơ đã khẳng định sự thủy
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
chung mãi mãi bền chặt sắc son như tình yêu đôi lứa, như nước trong nguồn không
bao giờ cạn. Tác giả đã khai thác rất đắt từ "mình". Trong tiếng việt, từ "mình" là
chỉ bản thân hoặc người khác, xưng hô giữa vợ chồng. Nhưng trong tác phẩm,
"mình" vừa là người ở lại vừa là người ra đi: "mình đi mình lại nhớ mình". Cách sử
dụng đa thanh đa nghĩa này đã làm tăng tính nghệ thuật cho bài thơ.
Sau màn đối đáp của người ra đi và người ở lại, người ra đi bộc bạch nỗi lòng
mình. Đó là nỗi nhớ khôn nguôi. Đầu tiên là nhớ về Việt Bắc. Nỗi nhớ ấy cồn
cào:"nhớ gì như nhớ người yêu". Người ra đi nhớ về cảnh sắc thiên nhiên thanh
bình yên ả và thơ mộng. Với những hình ảnh: "ánh trăng", "nắng chiều", "núi đèo",
"bếp lửa bập bùng"…. và con người nghĩa tình thủy chung sâu nặng: "bát cơm xẻ
nửa chăn sui đắp cùng". Nhà thơ cũng không quên hình ảnh người mẹ Việt Bắc:
"nhớ người mẹ nắng cháy lưng – địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô". Không chỉ có
cảnh sắc thiên nhiên con người nơi đây mà những kỉ niệm về cuộc sống của đồng
bào, cán bộ ấm áp tình quân dân khó khăn gian khổ nhưng vẫn lạc quan yêu đời
cũng ùa về: "nhớ sao lớp học i tờ – đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan –
nhớ sao ngày tháng cơ quan – gian nan đời vẫn ca vang núi đèo".
Nối tiếp dòng hồi ức của người ra đi là bức tranh tứ bình tuyệt mĩ. Cảnh và người
đan xen với nhau qua bốn cặp lục bát, thể hiện qua bốn mùa. Mùa đông xuất hiện
giữa bạt ngàn sắc xanh nổi bật với "hoa chuối đỏ tươi". Mùa xuân không gian bừng
sáng bởi sắc "mơ" thanh khiết, mùa hạ là "rừng phách đổ vàng" trong âm thanh của
tiếng ve. Mùa thu là ánh trăng dịu hiền hòa vào tiếng hát ân tình thủy chung. Một
bức tranh đẹp đầy sống động đã hiện ra trước mắt người đọc chỉ bằng vài lời thơ của Tố Hữu.
Cuộc kháng chiến đầy gian khổ mà hào hùng là kỉ niệm khó phai mờ trong lòng
người ra đi. Người ra đi nhớ về những ngày gian khổ mà Việt Bắc – mảnh đất anh
hùng thiên nhiên cùng chiến sĩ đánh giặc: "rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây"; nhớ
về những chiến thắng vang dội gắn liền với các địa danh: "Phủ Thông, đèo Giàng",
"nhớ sông Lô nhớ phố Ràng – nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị – Hà". Người ra đi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
còn nhớ bức tranh Việt Bắc ra quân. Trên khắp nẻo đường Việt Bắc, khí thế ra trận
"đêm đêm rầm rập như là đất rung", lực lượng quân đội với sức mạnh đoàn quân
"điệp điệp trùng trùng" nối đuôi nhau xung trận rất đẹp trong tư thế "ánh sao đầu
súng". Cuộc hành quân toàn dân toàn diện mang khí thế quyết chiến: "dân công đỏ
đuốc từng đoàn – bước chân nát đá muôn tàn lửa bay". Với khí thế xung trận ấy,
những chiến công vang dội liên tiếp diễn ra: "tin vui chiến thắng trăm miền". Với
những chiến thắng ấy đã đưa đến khẳng định cuối cùng đó là sự đúng đắn của
đường lối cách mạng của Đảng. Chính vì thế mà phần cuối của bài thơ Tố Hữu đã
dùng để tuyên truyền đường lối ấy, đồng thời khẳng định Việt Bắc là cái nôi của
cách mạng, là niềm tin, niềm tự hào.
Khép lại bài thơ là một cảm xúc khó quên. Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bài thơ
tiêu biểu của thi ca kháng chiến mà còn là tác phẩm thể hiện rõ nét phong cách thơ
của Tố Hữu. Với thể thơ lục bát được sử dụng sáng tạo, sự thành công của cặp đại
từ " mình – ta", bài thơ đã có một chỗ đứng vững trong lòng người đọc và nền thi ca cách mạng Việt Nam.
Phân tích Việt Bắc lớp 11 - Mẫu 17
Tố Hữu là nhà thơ chính trị, là lá cờ đầu của thơ ca Cách mạng Việt Nam. Dù
những tác phẩm thơ ca của ông thường viết về Đảng, về cách mạng hay chiến tranh
nhưng thơ Tố Hữu không hề khô khan, cứng nhắc, ngược lại thơ ông luôn tha thiết
và thấm đẫm tình người. Đúng như Chế Lan Viên từng nói : "Thơ Tố Hữu là thơ
Cách mạng chứ không phải thơ tình yêu …nhưng thơ anh là thơ của một tình nhân,
anh nói các vấn đề bằng trái tim của một người say đắm.”. Trong đó, Việt Bắc là
một trong những đỉnh cao thơ Tố Hữu, cũng là một trong những thi phẩm xuất sắc
của Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.Tố Hữu đã xây dựng nên một bài thơ
nói về tình nghĩa đối với quê hương cách mạng, là tiếng nói của tình cảm, tình yêu
đối với quê hương, đất nước, đối với nhân dân .
Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10/1954, đây là giai đoạn chuyển giao khi cuộc
kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, các cán bộ chiến sỹ rời chiến khu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc quay trở lại thủ đô Hà Nội. Bài thơ được đặt vào một hoàn cảnh rất đặc
biệt, đó là cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những con người đã từng gắn bó khăng
khít, tình nghĩa cùng gánh vác trên vai nhiệm vụ dân tộc. Mối tình giữa cán bộ
cách mạng và nhân dân Việt Bắc được Tố Hữu diễn tả như một mối tình riêng.Ông
đã mượn thể hát đối đáp rất dân tộc, ngôn ngữ đậm đà màu sắc để thể hiện tình
cảm của mình, qua đó khẳng định và ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng, con
người Việt Bắc ân tình, ân nghĩa.
Mở đầu bài thơ là lời hỏi đáp của người ở lại và người ra đi nhằm khơi gợi những
kỉ niệm ân tình giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ về xuôi trong suốt mười lăm năm
gắn bó keo sơn . Bốn câu thơ đầu là lời của nhân dân Việt Bắc hỏi người ra đi :
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Câu thơ mở đầu mang âm hưởng của ca dao, dân ca chan chứa tình thương của
người ở lại với người ra đi, hỏi để gợi nhắc những kỉ niệm gắn bó. Trong câu hỏi
này “mình” là chỉ người ra đi, “ta” là người ở lại . “Mình” ở đầu câu, “ta” ở cuối
câu, tưởng xa mà gần bởi được liên kết bởi từ “nhớ”. Nỗi nhớ ấy bắt nguồn từ cơ
sở "mười lăm năm ấy” .Người ở lại hỏi người ra đi có nhớ tới những lần đồng cam
cộng khổ, gắn bó cùng nhau chia ngọt sẻ bùi với mình hay không ? Bốn chữ "thiết
tha mặn nồng” đã cho thấy phần nào tình cảm giữa Việt Bắc và người cán bộ thật
thủy chung, sâu nặng . Bởi vậy hỏi nhưng mục đích chính là để bộc lộ tình cảm và
hỏi là để thể hiện mong muốn người ra đi cũng có tình cảm như mình .Nếu như hai
câu thơ đầu là lời gợi nhắc về kỉ niệm “mười lăm năm ấy” gắn bó, thì ở hai câu thơ
sau là lời nhắc nhở chân tình và cũng là lời dặn dò kín đáo của người ở lại . Câu
hỏi tu từ thứ hai đã hướng ta tới không gian, đối tượng hỏi không còn bó hạn hẹp
trong mối quan hệ mình-ta nữa mà nỗi nhớ đó đã hướng vào cả cây, sông và núi,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
nguồn. Không gian đó với người ra đi và người ở lại đều chứa đựng những kỉ niệm
gắn bó khó quên. Động từ “nhớ” và “nhìn "được điệp lại hai lần, tác động mạnh
vào cảm xúc của con người . Phải chăng cách gợi nhớ khéo léo này chính là lời dặn
dò, mong muốn rất đỗi kín đáo của người ở lại : Việt bắc là cội nguồn của cách
mạng là quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa, xin người về đừng quên . Qua
bốn câu thơ, ta thấy được cách vận dụng từ ngữ linh hoạt của Tố Hữu, ông đã vận
dụng rất khéo léo đạo lí "Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc để nhắc nhở con cháu
đời sau không được quên công ơn của thế hệ cha ông đi trước.
Sau lời hỏi để gợi nhắc một cách khéo léo của người ở lại là lời giãi bày, bộc bạch
cảm xúc của người ra đi . Dù không trực tiếp nhưng đầy bâng khuâng, xao xuyến:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Những cặp từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý nhớ thương,
luyến tiếc khiến lòng chẳng thể yên. Như Tú Xương đã viết:
“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”...
Tiếng “ai” ấy lại chất chứa biết bao yêu thương, chẳng thể chỉ cụ thể một người,
bởi tình cảm ấy là dành cho cả một đồng bào Việt Bắc. Tố Hữu đã khai thác tiếng
“ai” ấy một cách xuất sắc, khi để lại âm vang trong lòng người về. Nó khiến cho
tâm trạng con người càng trở nên nôn nao, những dòng cảm xúc cứ ào về không
thôi.Cách ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối đối lập giữa bên trong và bên ngoài là
cho hiệu quả diễn đạt thêm xúc tích . Tâm trạng bâng khuâng bồn chồn ấy còn
được thể hiện hết sức tinh tế qua nhịp điệu hai câu tiếp theo:
“Áo chàm đưa buổi phân li
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Cặp thơ lục bát được tác giả góp thêm một chút nhịp điệu, như một đảo phách
trong âm nhạc. Màu “áo chàm” đặc trưng của những con người chân chất miền núi
Tây Bắc. Hình ảnh thấy thật đơn sơ, mộc mạc của chốn quê nghèo, nghèo vật chất
nhưng luôn giàu tình cảm. Tấm áo ấy đã chất chứa biết bao mồ hôi, khó khăn vất
vả, một nắng hai sương để chiến đấu, nuôi dưỡng các anh lính cụ Hồ để các anh an
tâm đánh giặc. Chẳng phải áo bào, áo gấm để tiễn đưa, cảm ơn công lao của các
anh, chỉ là bóng dáng của những con người lao động nhưng sao vẫn khiến cho ta
không khỏi cảm kích, biết ơn. Tình cảm bịn rịn ấy còn được thể hiện qua hình ảnh
“cầm tay”. Cầm tay là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết, cầm tay để nói lên
cảm xúc trong lòng .Nó giống như một nốt nhạc trầm trong một khuông nhạc bổng,
là nhịp rơi của cảm xúc sâu lắng . Đoạn thơ mở đầu của bài Việt Bắc đã vẽ nên
những cung bậc cảm xúc hết sức đa dạng, sâu lắng của người đi kẻ ở. Nhịp thơ nhẹ
nhàng, du dương để diễn tả một cách trọn vẹn, khéo léo những tình cảm chân thành
ấy đã cho thấy tài năng nổi bật của Tố Hữu trong số những thi sĩ tài hoa của Việt Nam.
Có thể nói Việt Bắc không chỉ là khúc tình ca mà còn là khúc hùng ca thể hiện ân
tình của nhà thơ đối với khu căn cứ địa của cách mạng Việt Bắc .Điều này được
thể hiện rõ qua khổ thơ thứ hai – lời tâm tình của người dân Việt Bắc về những
ngày kháng chiến đã đồng cam cộng khổ cùng cán bộ trong suốt mười lăm năm :
Mình về có nhớ chiến khu ............
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa
Bốn câu thơ đầu là lời nhắc nhở về kỉ niệm trong kháng chiến gian khổ mà cán bộ
và nhân dân Việt Bắc đã cùng nhau trải qua .Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần
cùng hai câu hỏi tu từ “có nhớ những ngày” đã gợi nên những kỉ niệm gian khổ
nhưng vô cùng tình nghĩa.Mình có còn nhớ không những ngày tháng khắc nghiệt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
ấy "mưa nguồn, suối lũ, mây mù”, những lúc thiếu thốn, ảm đạm "ăn tuyết nằm
sương” mà cán bộ và nhân dân đã trải qua .Nhưng những gian khổ ấy đã gắn kết
“mình-ta” lại với nhau có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu., gạt đi những khó
khăn để cùng thực hiện nhiệm vụ là bảo vệ đất nước .Ở đây cái chung luôn đặt lên
trên cái riêng, đó là tinh thần lớn của thời đại
Bốn câu thơ tiếp theo người Việt Bắc tiếp tục khắc ghi vào lòng người đi những
câu hỏi tu từ khơi gợi nên những kỉ niệm gắn bó với núi rừng, thiên nhiên và con
người nặng tình nặng nghĩa.Ẩn sâu trong bốn câu thơ người Việt Bắc hỏi người ra
đi như còn chưa thỏa mãn, họ còn hỏi chính mình . Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh
hoán dụ "Rừng núi nhớ ai” để chỉ người dân Việt Bắc và nỗi nhớ da diết của người
dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng, chính phủ….Ở đây
không chỉ có con người mang nỗi nhớ mà đến cả thiên nhiên cũng rất nặng tình
nghĩa .Mình về khiến núi rừng bỗng trở nên trống vắng, ngay cả “trám bùi”, “măng
mai” mà cũng không ai thu hái. Không chỉ gợi kỉ niệm với thiên nhiên mà người
dân Việt Bắc còn gợi kỉ niệm với con người làm cho cảm xúc càng thêm xao xuyến
khôn nguôi.Nhà thơ đã hướng nỗi nhớ của mình về những con người Việt Bắc qua
câu thơ "Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”. Câu thơ đã sử dụng biện pháp đảo
ngữ, làm nổi bật hơn khung cảnh vắng vẻ, hoang sơ nơi núi rừng . Nhưng đối lập
lại bên trong những căn nhà ấy lại ẩn chứa tấm lòng thủy chung son sắc của nhân dân.
Bốn câu thơ cuối người Việt Bắc đã gợi nhắc lại những sự kiện lịch sử gắn với
những địa danh, những tên gọi đã trở thành điểm mốc của chiến đấu: Tân Trào,
Hồng Thái …nhằm nhắc nhở người về xuôi rằng Việt Bắc là nơi có mặt trận Việt
Minh lãnh đạo Cách mạng đánh đuổi giặc Pháp, là khu căn cứ quan trọng của cách
mạng. Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi tu từ sâu sắc chứa đựng ẩn ý rằng giữa
người Việt Bắc và cán bộ đã có sự gắn kết tha thiết, hòa nhập vào nhau làm một.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Khổ thơ tiếp theo là lời thề son sắt, thủy chung và nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc
thơ mộng, trữ tình, là lời bộc bạch trực tiếp của cán bộ về xuôi đối với người dân Việt Bắc :
Ta với mình, mình với ta ...........
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…
Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra
ngày hôm qua vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình
cảm dạt dào và nghĩa tình sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng.
Người chiến sĩ còn nhớ đến vầng trăng tròn đầy sau những rặng núi xa sau bản,
nhớ những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh đồng ruộng bậc
thang ngào ngạt mùi lúa chín, nhớ những sáng tinh sương mịt mù trong mây và
khói tỏa, nhớ từng dòng suối cánh rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại một
lần nữa hiện lên qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà
chẳng nhớ về. Ở đây chỗ sâu sắc nhất trong tình nghĩa gắn bó giữa nhân dân và cán
bộ là tình cảm yêu thương đùm bọc, cùng san sẻ từng củ sắn, miếng cơm, manh áo,
tấm chăn …. Vật chất ít ỏi nhưng tình người lúc nào cũng đong đầy.Các chi tiết
nghệ thuật ở đây vừa có tình hiện thực, vừa có tính khái quát. . "Sức mạnh của thơ
Tố Hữu trong những ngày tháng đen tối ấy, chính là vì nó nói với trái tim, chính là
bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thực sự. “Xuân Diệu quả thật nói
không sai, đọc thơ Tố Hữu dù ông đang viết về những khó khăn, thiếu thốn khi
tham gia chiến đấu nhưng tinh thần cách mạng, ý chí kháng chiến luôn hiện hữu
trong từng lời thơ, làm cho ý chí nhân dân càng mạnh mẽ. Đặc biệt sự xuất hiện
hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy đã khắc họa thành công hình tượng người mẹ
lam lũ, vất vả cùng đức hi sinh cao quý cho cách mạng của những người mẹ Việt
Bắc.Nhớ Việt Bắc còn là nhớ âm thanh đặc trưng : tiếng mõ rừng, tiếng chày, …
âm thanh của sự thanh bình yên ả ở Việt Bắc . Cả đoạn thơ tác giả đã thể hiện sâu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
sắc nỗi nhớ, tình cảm của người cán bộ đối với nhân dân Việt Bắc một cách đầy
tha thiết, chân thực . Kết cấu thơ trùng lặp làm ta nhớ tới những câu ca dao xưa :
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Khổ thơ tiếp theo là bức tranh tứ bình đa màu sắc hòa quyện giữa thiên nhiên và
con người được Tố Hữu miêu tả bằng ngòi bút trữ tình đặc sắc ;
"Ta về, mình có nhớ ta .............
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Hai câu thơ đầu mang cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi về Việt
Bắc nhưng sau đến với những câu thơ tiếp theo là một bức tranh về thiên nhiên đầy
màu sắc . Bức tranh thứ nhất:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn thiên nhiên Việt Bắc. Trên cái nền xanh
bạt ngàn của núi rừng đại ngàn, nổi bật lên hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi. Bởi thế,
thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh, thật là một nét tài
tình của Tố Hữu thể hiện trong thơ. Nghệ thuật điểm xuyết của tác giả còn trở lên
độc đáo hơn: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có
sự nhấp nháy của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có
sức sống, sự chuyển động. Bức tranh thứ hai
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Khác hẳn với bức tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về
thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:
Ngày xuân mở nở trắng rừng
Cách điệp âm (mơ/nở; trắng/rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo
ra một không gian vừa rộng lớn nhẹ nhàng và thanh thoát. Ở bức tranh thơ thứ
nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả độc đáo ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc
màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà
thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.
Trên cái nền không gian rộng lớn và háo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một
hoạt độnh có vẻ tỉ mỉ:
…Người đan nón chuốt từng sợi giang.
Đó là hình ảnh thực. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh người đan nón
chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ như gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn
là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng dễ nhận thấy của sinh hoạt đời thường ở Việt
Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhặt, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân
tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc sâu trong tâm khảm. Bức tranh thứ ba
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Câu thơ mở đầu bằng âm thanh tiếng ve như giúp người đọc cảm nhận được đã có
bước biến chuyển về thời gian sang hè. Ý thơ trong câu thơ như vừa có âm thanh
rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc sinh
động ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quyện, cùng tôn vinh lẫn nhau. Đan
hòa với nhau mà làm nổi bật lên cho nhau. Và chính sự hài hoà đó đã tạo nên chất
thơ ân tình của Tố Hữu. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trưng với
những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực tại.Bức tranh thứ tư
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian "rừng thu”.
Ứng với mỗi câu thơ đặc sắc và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa
đông, mùa xuân, mùa hạ). Không ngoại lệ câu thơ này cũng là bức tranh về một
mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ bức tranh thu là bức tranh cuối của bộ
tứ bình cũng là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy
đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông, rộng lớn nhưng hề không lạnh
lẽo. “Trăng rọi hòa bình” là hình ảnh vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân
tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có niềm tin, tự do. Và trong cuộc sống đó
còn có cả tình nghĩa thủy chung khi đã có tự do thì ta vẫn không quên những ngày gian khó.
Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật cùng với thể thơ
lục bát với âm điệu ngọt ngào, sâu lắng. Cách miêu tả hình ảnh sống động, nhiều
phép liệt kê, phép điệp tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu hình tượng về thiên
nhiên và con người Việt Bắc, mở rộng hơn nữa là tình yêu quê hương, đất nước
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
của tác giả. Quả thật đúng như ông đã từng nói "Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta
cuộc sống thật đầy”, ông đã thể hiện rất sâu sắc tình yêu đối với nơi núng rừng
Việt Bắc, nơi gắn bó suốt chặng đường hoạt động cách mạng của mình .
Sau những câu thơ miêu tả về thiên nhiên thơ mộng nơi đây thì tác giả lại tập trung
viết về nỗi nhớ khi hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi của mình :
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…
Trong những ngày tháng kháng chiến gian khổ ở giai đoạn phòng ngự, bộ đội ta
phải dựa vào dân, dựa vào rừng núi để đánh giặc . Trong bốn câu thơ đầu, “rừng”,
“núi” được lặp lại đến năm lần tạo nên tình thế hiểm của tường thành lũy thép vây
bọc quân thù.Phép nhân hóa "rừng núi cùng ta đánh Tây” cho thấy sự đồng lòng
cùng con người đánh giặc đồng thời thể hiện tình cảm của con người và thiên
nhiên . Với sự đồng lòng, đồng sức tất cả đã tạo nên một khối đoàn kết vững chắc.
Khí thế ấy đã tạo nên những chiến thắng vẻ vang, hàng loạt địa danh vang lên, mỗi
nơi đều là một chiến tích thắng lợi . Điệp từ “nhớ” cùng thể thơ lục bát mang âm
hưởng sâu lắng đã diễn tả dào dạt nỗi nhớ của tác giả về những lần hoạt động cách
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
mạng cùng nhân dân và đồng đội. Chế Lan Viên cũng từng viết về sự gắn bó với chiến khu :
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn
Nhưng trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:
Những đường Việt Bắc của ta ..............
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.
Đoạn thơ là không khí ra trận và tin vui chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp.Câu thơ vang lên rất đỗi tự nhiên tạo cảm giác
khỏe khoắn, hùng tráng chứa đầy niềm kiêu hãnh.Đó là niềm tự hào về những con
đường Việt bắc đã và đang được giải phóng sau bao ngày tháng kháng chiến vất vả
. Những từ láy "đêm đêm”, "rầm rập” cùng phép so sánh đất rừng tất cả đã tạo nên
một bức tranh tổng hợp của sức mạnh đoàn kết dân tộc. Đoàn quân nối dài trên
những con đường Việt Bắc thật hùng vĩ như vươn rộng khắp mọi nẻo đường . Hình
ảnh “ánh sao đầu súng” làm ta liên tưởng tới chi tiết "đầu súng trăng treo” trong
thơ Chính Hữu, đây là một hình ảnh thực mang vẻ đẹp lãng mạn khi người lính
hành quân trong đêm, những ngôi sao sáng trên trời cùng làm bạn . Nguyễn Đình
Thi cũng từng viết về khung cảnh lãng mạn ấy :
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa hàng quân
Ngọn đuốc trên tay quân dân không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy
mà nó còn thắp lên cả những thế hệ, thắp lên tương lai, thắp lên niềm tin và hi
vọng về một chiến thắng không xa. Sức mạnh của cả một đoàn quân khí thế đến
nỗi có thể làm cho đá nát lửa bay không một thế lực nào có thể ngăn cản được.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Bằng nghệ thật phóng đại cường điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như đã tái hiện lại
bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để rồi giờ đây chỉ qua những dòng thơ ngắn gọn, ta
như trở về với một thời hào hùng của cha ông. Giữa bóng tối vây quanh ngọn đèn
pha như thắp lên niềm tin niềm hi vọng của quân dân về một tương lai tốt đẹp
hơn.Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu gian lao và khổ cực quân và dân
ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Hạnh phúc vỡ òa không từ ngữ nào có
thể diễn tả. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên, nhân dân như vui cùng một niềm
hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt sự đoàn kết không thể nào phá
rời của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.Nếu ở Tây Tiến những địa danh
căn cứ của bộ đội ta được nhắc đến với niềm thương nhớ thì Tố Hữu lại gọi tên
những địa danh gắn với những chiến công lẫy lừng làm bừng tỉnh lòng người. Có
thể nói đây là điểm độc đáo trong thơ Tố Hữu.
Đoạn thơ cuối khép lại là cảnh Việt Bắc sau kháng chiến Điện biên phủ thắng lợi :
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang. ................
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.”
Sau chiến thắng vẻ vang của toàn dân ta, khắp nơi hân hoan trong màu sắc rực rỡ
tươi vui dưới ánh nắng và lá cờ đỏ sao vàng. Trung ương Đảng và Chính phủ thu
xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với
chính sách mới của Đảng và nhà nước “Giữ đê, phòng hạn, thu lương/Gửi dao
miền ngược, thêm trường các khu...”. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca
những công lao vĩ đại của Bác Hồ kính yêu, là lời tri ân sâu sắc với miền núi rừng
Việt Bắc thân thương, dù mai này đã về thủ đô nhưng trong tim những người chiến
sĩ cách mạng luôn giữ một góc trong tim dành cho Việt Bắc, dành cho “Mái đình
Hồng Thái cây đa Tân Trào”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Bài thơ Việt Bắc với những hình ảnh đẹp về thiên nhiên, con người Việt Bắc đã để
lại ấn tượng đẹp trong lòng người đọc. Bằng những hình ảnh so sánh, ẩn dụ, hoán
dụ, thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng thơ sôi nổi, Tố Hữu đã mang
đến cho người đọc những cảm xúc khó tả, sự khâm phục tinh thần gắn kết, đồng
lòng đánh giặc của quân và dân ta . Quả thật không sai khi nói rằng "thái độ toàn
tâm toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm nên thành công của nhà thơ Tố Hữu” ( Hoài Thanh ).
"Thơ là đi giữa nhạc và ý.Rơi vào vực ý, thơ rất ăn sâu nhưng dễ khô khan. Rơi
vào vực nhạc dễ say đắm lòng người nhưng dễ nông cạn. Tố Hữu là nhà thơ giữ
thế quân bình giữa hai lưu vực ấy. Thơ của anh vừa ru người trong nhạc, thức
người trong ý"(Chế Lan Viên ). Tình yêu quê hương, đất nước cùng với nỗi niềm
với nhân dân Việt Bắc đã tạo nên một áng thơ Việt Bắc đầy cảm xúc sâu lắng,
khiến ai đọc qua cũng phải xao xuyến, bồi hồi. Bài thơ là một tác phẩm xuất sắc
của Tố Hữu trong sự nghiệp thơ ca cách mạng và là một tiếng ca bất hủ trong lòng
người yêu thơ ca Việt Nam.
Phân tích Việt Bắc - Mẫu 18
Tố Hữu là nhà thơ hăng hái dấn thân vào sự nghiệp giải phóng đất nước bằng trái
tim và lòng yêu nước sôi sục. Ông là lá cờ tiên phong cho thơ ca cách mạng với
nhiều tác phẩm vô cùng giá trị. Việt Bắc là một tác phẩm tiêu biểu xuất sắc của ông.
Việt Bắc được sáng tác vào năm 1954 kể lại một chặng đường khó khăn của dân
tộc để đi đến thắng lợi với những câu thơ hào hùng, đầy lòng tự hào của tác giả.
"Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn."
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Bài thơ bắt đầu với tự tình của người ở lại. Tác giả đã tạo nên khung cảnh lưu
luyến giữa cuộc chia tay vỉa người Việt Bắc và người lính. Từ "thiết tha mặn nồng"
không chỉ nói về tình cảm lứa đôi mà còn là những sẻ chia nên cái nặng sâu của
tình nghĩa. Tác giả chỉ dùng hai hỏi đã gợi lên một thời cách mạng, kháng chiến.
Người ở nhắc nhắc cho người đi về thời kỳ đầu tiên xây nền móng cách mạng
kháng chiến. Dùng hình ảnh miêu tả sông, núi, rừng làm nỗi nhớ trở nên sâu đậm
đồng thời gợi về những đặc điểm quen thuộc của quê hương Việt Bắc.
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Người ra đi đã hồi đáp lời của người ở lại. Sự tri kỷ khiến họ thấu hiểu nhau cùng
hô ứng đồng vọng. Nhà thơ sử dụng những cặp từ láy như bâng khuâng, bồn chồn,
tạo nhạc điệu và cho thấy cảm xúc của người ra đi. Bâng khuâng là từ láy thể hiện
cảm xúc mơ hồ đan xen buồn vui. Bồn chồn là tâm trạng không nỡ lìa xa.
Áo chàm là hình ảnh đơn sơ, giày nghĩa tình, không thể nhạt phai như tấm lòng
thủy chung của người Việt Bắc. Sự lưu luyến được thể hiện trong nhịp thơ 3/3/2
thể hiện cảnh chia tay đầy tiếc nuối, nhớ nhung. Tám câu thơ đầu đã diễn tả cảm
xúc băn khoăn, trăn trở của người đi và người ở lại.
Đoạn thơ tiếp theo là vẻ đẹp của con người trong nỗi nhớ:
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi"
Sắc thái của nỗi nhớ được tác giả thể hiện thật cụ thể. Nhớ người yêu là nỗi nhớ
biểu hiện của tình yêu sâu sắc. Từng cảnh vật của Việt Bắc liên tiếp hiện ra trong
nỗi nhớ của người đi: Việt Bắc với tươi đẹp, với ánh nắng ấm áp, với khói sương
huyền ảo và bếp lửa nghĩa tình. Những địa danh tác giả từng trải qua đều in đậm
trong tiềm thức của người ra đi.
"Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa."
Tác giả tả về vẻ đẹp của người Việt Bắc trong sinh hoạt đời thường. Đắng cay là
những thiếu thốn trong đời sống vật chất, còn ngọt bùi là tình yêu thương giữa cán
bộ và đồng bào. Những xúc động chứa đựng trong mấy chữ đắng cay, ngọt bùi.
Tác giả đã tả về cuộc sống đói nghèo của người dân. Thương nhau chia củ sắn lùi,
bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Người chiến sĩ và nhân dân không chỉ đối mặt
với kẻ thù mà còn cả cái đói, cái rét. Đó là một tình cảm đáng trân trọng. Người
cán bộ cũng bồi hồi nhớ về người mẹ Việt Bắc cơ cực, vất vả địu con lên rẫy. Lớp
học bình dân học vụ với những giờ sinh hoạt cũng hiện ra thật ấm áp. Khép lại
đoạn thơ là hình ảnh thân thương “tiếng mõ”, gợi tả âm thanh êm dịu, thanh bình
của một cuộc sống thật bình dị, giản đơn.
Cảnh thiên nhiên bốn mùa ở Việt Bắc là bức tranh tứ bình đầy màu sắc:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung."
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mùa đông trong thơ Tố Hữu ấm áp một cách kỳ lạ làm xua tan cái hiu hắt của đồi
núi. Mùa xuân là một rừng hoa mơ tinh khiết, trắng ngần với sức sống tràn trề của
núi rừng Việt Bắc và đồng thời gợi cảm giác xốn xao , nhớ nhung trong lòng. Mùa
hè là khúc nhạc tình ca của đàn ve và hình ảnh con người giản dị giữa thiên nhiên.
Tác giả đón nhận mùa hè bằng tất cả các giác quan của mình. Người cán bộ sau đó
đã nhớ về trăng ở Việt Bắc vào mùa thu. Ánh trăng trong sáng hòa bình đem bao
ước vọng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Giữa sự thay đổi của bốn mùa, hình ảnh
người lao động hiện ra thật giản dị, chăm chỉ đóng góp cho sự phát triển của đất nước.
Đoạn tiếp theo là vẻ đẹp của con người trong chiến đấu:
"Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên."
Từng sự kiện được gợi lên với biết bao đau thương, mất mát nhưng người dân vẫn
một lòng đoàn kết thành lập một chiến tuyến chống kẻ thù. Đoạn thơ thể hiện
không khí chiến đấu của con người Việt Bắc: núi vươn lên thành lũy sắt, rừng
thành phòng tuyến chống quân thù. Điệp từ kết hợp với phép nhân hóa thể hiện sức
mạnh đoàn kết của con người và thiên nhiên. Khí thế xung trận thể hiện bằng từ
láy rầm rập, gấp gáp của đoàn quân. Tất cả đoàn quân cùng bước đi mạnh mẽ, từng
đợt này nối tiếp đợt kia. Khí thế ấy được thể hiện bằng hình ảnh:
"Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Và tin vui chiến thắng cuối cùng cũng đến:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng."
Nhà thơ chuyển sang nhịp điệu vui tươi, dồn dập, mọi người từ khắp cả nước cùng
đón chào chiến thắng, đón chào một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Bài thơ lục bát sử dụng nhiều biện pháp tu từ độc đáo bút pháp tả cảnh ngụ tình để
lại cho người đọc ấn tượng khó phai về cuộc kháng chiến lịch sử của dân tộc.
Tố Hữu đã khắc họa thành công những sự kiện, những kỉ niệm thời kháng chiến
với những cảm xúc trọn vẹn, đó chính là khúc hát tâm tình và truyền thống, đạo lí
cội nguồn của dân tộc.
Phân tích Việt Bắc - Mẫu 19
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc là một bài thư gồm hai phần. Trong đó, đoạn trích "Việt bắc" của nhà thơ
Tố Hữu thuộc phần 1 tái hiện lại giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và
kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc. Đoạn trích được coi là đỉnh cao thơ Tố Hữu và
cũng là tác phẩm xuất sắc văn học Việt nam thời kì kháng chiến chống Pháp.
Mở đầu đoạn trích là lời ướm hỏi "Mình về có nhớ...nhìn sông nhớ nguồn". Lời
ướm hỏi người ra đi có nhớ về chiến khu Việt Bắc, nhớ về cuộc kháng chiến trong
suốt 15 năm, nhớ thiên nhiên Việt Bắc. Bên cạnh đó, đoạn thơ cũng là nỗi lo
lắng,thắc thỏm của người ở lại sợ người ra đi về thủ đô họ sẽ quên thiên nhiên núi
rừng hoang vu và cả những người ở lại.
"Mình về thành thị... giữa rừng".
Nhà thơ sử dụng rất nhiều tính từ giàu giá trị biểu cảm mang âm hưởng ngọt ngào
diễn tả tình cảm gắn bó sâu nặng. Phải chăng, mình ấy ta ấy là một phần đời. Tố
Hữu để người ở lại nói trước thể hiện nhãn quan chính trị nhạy bén của Tố Hữu
cùng trái tim tinh tế của một người chiến sĩ.
Đồng thời, để người ở lại nói trước tác giả tạo cơ hội cho người ở lại được bày tỏ
tình cảm và giúp người ra đi thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên. Và đây cũng là
cách nhắc nhở kín đá đối với cách mạng sắp về xuôi cũng như cả dân tộc phải
hướng về cội nguồn, phải nhớ tới truyền thống ân nghĩa và đạo lý ngàn xưa của cả dân tộc.
Bốn câu tiếp theo là lời của người ra đ. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật đăng đối 2 vế
trong một câu thơ diễn tả trạng thái cảm xúc lưu luyến, xốn xang. Người ra đi cũng
cảm thấy trong lòng có gì đó chơi vơi, hụt hẫng để rồi chân bước đi mà lòng muốn
ở lại. Tác giả sử dụng tài tình biện pháp tu từ hoán dụ diễn tả chân thành, cảm động
tình cảm của người ra đi dành cho người ở lại. Màu á chàm vốn giản dị, đơn sơ
mộc mạc nhưng đã in đậm trong kí ức của Tố hữu.
Tám câu thơ đầu cả người ra đi và người ở lại đều hướng tới khẳng định nghĩa tình
son sắc thủy chung, khẳng định sự bền chặt tình đồng chí. Tám câu đầu, diễn tả
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
khung cảnh chia tay giữa núi rừng Việt Bắc của người dân Việt bắc và cán bộ cách
mạng sắp về xuôi. Một cuộc chia tay lịch sử nhưng thiêng liêng và đầy cảm động.
Mười hai câu thơ tiếp theo là những cặp câu lục bát liên hoàn. Sau mỗi câu lục
xoáy vào cái tình của người ra đi là những câu bát gợi ra những kỉ niệm gắn bó
chặt chẽ của người cán bộ cách mạng với Việt Bắc. Dường như mỗi câu thơ là một
dòng nhật kí của chính người trong cuộc.
Những câu thơ miêu tả thiên nhiên Việt Bắc rất bình dị nhưng cũng rất đỗi thơ
mộng mang dấu ấn vùng miền, chứa linh hồn, hơi thở của Việt bắc. Mười tám câu
thơ miêu tả thiên nhiên là những dòng cảm xúc chảy trôi miên man. "Ta về mình
có nhớ ta...ân tình thủy chung". Đoạn thơ này là bức tranh tứ bình sinh động có
màu sắc, đường nét, âm thanh, ánh sáng thể hiện tài năng của tác giả trong việc tả cảnh.
Ông sử dụng sáng tạo nghệ thuật vẽ tranh tứ bình- 1 đặc sản của hội họa cổ điển
phương Đông. Bức tranh ấy hiện lên với 4 mùa xuân, hạ, thu, đông của núi rừng
Việt Bắc. Ông không miêu tả chi tiết, cụ thể mà ông chỉ điểm xuyết một vài hình
ảnh nhưng là những hình ảnh kết đọng nhiều nhất sức sống và linh hồn của cảnh vật.
Và trên nền bức tranh thiên nhiên ấy là hình ảnh của con người luôn trong trạng
thái lao động. Ở họ hội tụ đầy đủ phẩm chất cần cù, chăm chỉ, chịu thương chịu
khó. Đồng thời họ còn là những con người sống thủy chung, nghĩa tình, nhân hậu và vị tha.
Hai mươi hai câu thơ tiếp "nhớ khi giặc đến giặc lùng...Nhớ sang Nhị hà" là hình
ảnh thiên nhiên Việt bắc mang sức mạnh của con người. Chính sự hòa quyện, gắn
bó giữa con người với thiên nhiên tạo nên sức mạnh của khối đoàn kết toàn
dân.Thiên nhiên Việt Bắc cũng trở thành những chiến sĩ cùng với con người tạo
nên hình ảnh một đất nước đứng lên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Sử dụng biện pháp liệt kê giúp tác giả hồi tưởng một cách chân thực về các địa
danh, tên đất, tên bản trên bản đồ địa lý vùng miền. Điều đó trở thành một nhân
chứng lịch sử và cũng lưu lại đậm nhất dấu ấn lịch sử kháng chiến chống Pháp.
Khép lại đoạn trích đó là những lời ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ Chí Minh, khẳng
định vai trò quan trọng thiêng liêng Việt Bắc trong cách mạng và kháng chiến. Việt
bắc chính là cội nguồn, là chân lý nơi nuôi dưỡng và tiếp thêm sức mạnh. Và Việt
Bắc cũng là nơi khai sinh ra những địa danh mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 20
Việt Bắc là bài thơ trữ tình đằm thắm thiết tha thể hiện ân tình sâu nặng thuỷ chung
của tác giả - người cán bộ sắp rời Việt Bắc về miền xuôi - đối với căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Đây là một tác phẩm thơ trường thiên dài 150 dòng được Tố Hữu hoàn thành vào
tháng 1 năm 1954, đúng vào thời điểm Đảng và Nhà nước ta sắp rời chiến khu Việt
Bắc về Hà Nội sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình
được lập lại, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.
Việt Bắc là bài thơ trữ tình đằm thắm thiết tha thể hiện ân tình sâu nặng thuỷ chung
của tác giả - người cán bộ sắp rời Việt Bắc về miền xuôi - đối với căn cứ địa cách
mạng của cả nước. Đây không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà đồng thời cũng
là tâm trạng chung của mọi người.
Bài thơ này tiêu biểu cho những nghĩ suy, tình cảm cao đẹp của những con người
kháng chiến đối với miền đất quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với
kháng chiến và cách mạng. Cũng có thể nói đây là khúc hát tâm tình chung không
những của con người kháng chiến, của nhân dân ta mà động đến chỗ sâu xa của
truyền thống ân nghĩa, thuỷ chung của dân tộc hoà vào, tiếp nối và khơi sâu thêm
nét truyền thống cao đẹp đó.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc dựng ra một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ những cảm xúc trữ tình dào dạt.
Đó là một cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa kẻ ở với người đi, giữa Việt Bắc với
cán bộ về xuôi bâng khuâng và bịn rịn. Đó cũng là cuộc chia tay của những người
đã từng gắn bó sâu nặng với nhau: Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Họ từng
cùng nhau nằm gai nếm mật, sẻ ngọt chia bùi. Giờ đây, trong phút giây chia tay, họ
cùng nhau gợi lại bao kỉ niệm về những ngày tháng đã qua. Họ khẳng định nghĩa
tình bền chặt và hẹn ước về một ngày mai tươi sáng.
Việt Bắc vận dụng lối hát giao duyên đối đáp nam nữ của dân ca vì vậy thường sử
dụng lối xưng hô thân mật tình tứ rất quen thuộc là: ta, mình. Ta thường dùng ở
ngôi thứ nhất. Mình thường dùng ở ngôi thứ hai. Tuỳ theo văn cảnh, ta và mình có
thể là Việt Bắc hay người cán bộ về xuôi. Nhưng nhiều lúc lẫn lộn, tuy hai mà một
vì mình hay ta cũng đều là người cách mạng cả, cũng đều là ân tình sâu nặng với nhau "tuy hai mà một" cả.
Dù là kết cấu đối đáp, nhưng ở Việt Bắc không chỉ là lời hỏi, lời đáp mà còn là sự
hô ứng, đồng vọng của cùng một tâm trạng. Lời đáp, ngoài việc trả lời cho những
điều đặt ra của lời hỏi, còn là sự mở rộng, làm phong phú thêm cho những ý tình
đã được gợi ra trong lời hỏi. Cũng có khi cả lời hỏi và lời đáp đã trở thành lời đồng
vọng ngân vang lên những tình cảm chung.
Thật ra, nếu nhìn sâu hơn vào kết cấu của bài thơ, chúng ta thấy được đối thoại chỉ
là lớp vỏ ngoài còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại. Hình thức độc
thoại là khả năng phân thân của cái "tôi" trữ tình để hoá thân vào đối tượng, khiến
tâm trạng được thể hiện sâu sắc dễ lay động lòng người hơn.
Bài giảng văn trong sách giáo khoa là đoạn mở đầu và phần một là phần đặc sắc
hơn cả của bài thơ. Đoạn trích là đoạn hoài niệm về một Việt Bắc gian khổ, vẻ
vang của cách mạng và kháng chiến, nay đã trở thành kỉ niệm sâu nặng khôn nguôi
trong lòng người. Toàn phần trích giảng thông qua nỗi nhớ da diết, thể hiện nghĩa
tình cách mạng, tình cảm thủy chung son sắt của người cán bộ về xuôi đối với quê hương Việt Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mở ra bài thơ là một cảnh chia tay đầy quyến luyến giữa hai người: kẻ ở và người
đi. Đó là Việt Bắc và người cán bộ cách mạng sắp về xuôi. Cả hai được nhà thơ
hình tượng hoá như một đôi bạn tình. Đôi bạn tình này đã cùng nhau chia bùi sẻ
ngọt, đồng cam cộng khổ trong suốt thời gian mười lăm năm ân sâu nghĩa nặng.
Nhà thơ sử dụng cặp đại từ nhân xưng mình - ta thật tự nhiên, sinh động và linh
hoạt mang nhiều sắc thái ngữ nghĩa làm bài thơ dạt dào xúc cảm đời thường với
những lời nhắn nhủ, dặn dò, hò hẹn, thề nguyền... vừa rất riêng tư thể hiện được
những nghĩa tình cách mạng rộng lớn, sâu sắc có tính khái quát cao mang yếu tố
trữ tình sử thi rõ rệt. Thật ra, hình thức đối đáp ở đây chỉ là một dụng ý nghệ thuật
khơi gợi bộc lộ tâm trạng và tạo ra được sự hô ứng và đồng vọng của xúc cảm trữ tình.
Bao trùm trong tâm trạng của kẻ ở lẫn người đi là một nỗi nhớ da diết, mênh mang,
một niềm hoài niệm thiết tha, sâu nặng về những tháng ngày vừa qua trong kháng
chiến và cách mạng. Nỗi nhớ, niềm hoài niệm đó đã khơi gợi lên, tái hiện lại bức
tranh về Việt Bắc với cảnh thiên nhiên, núi rừng, với những cảnh sinh hoạt của
nhân dân, cơ quan và cán bộ, với mọi hoạt động khẩn trương, sôi nổi trong cuộc
sống kháng chiến gian khổ mà hào hùng.
Tất cả từ lâu đã lắng vào kỉ niệm giờ đây theo dòng hồi tưởng của tác giả lại hiện
lên. Những bức tranh đó có nhiều sắc độ khác nhau: lúc rõ đến từng màu sắc,
đường nét, chi tiết (Nhớ người mẹ nắng cháy lưng, Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Nhớ cô em gái hái măng một mình...) lúc lại xa thẳm mơ hồ (Nhớ gì như nhớ
người yêu, Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, Mưa nguồn suối lũ những
mây cùng mù, Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều, Chày đêm nện cối đều đều suối xa),
lúc cô đọng lại thành biểu tượng (Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai, Bát
cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng...)
Nỗi nhớ da diết mênh mang của nhà thơ ở đây là nỗi nhớ về thiên nhiên núi rừng
Việt Bắc, nỗi nhớ con người, cuộc sống ở Việt Bắc và những kỉ niệm khó quên về
cuộc sống kháng chiến gian khổ hào hùng ở nơi đây.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Hình ảnh thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên trong bài thơ với những vẻ đẹp đa
dạng trong nhiều thời gian, không gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm,
nắng chiều, trăng khuya và các mùa xuân hạ thu đông thay đổi, nhưng lúc nào cũng
hài hoà gắn bó với con người. Bóng dáng con người khiến cảnh đẹp hoang sơ bớt
phần hiu quạnh. Đặc sắc hơn chính là đoạn thơ:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Nhiều người cho rằng bút pháp tả cảnh của Tố Hữu ở đoạn thơ này đạt đến vẻ đẹp
cổ điển như thể Truyện Kiều. Cuộc sống của con người Việt Bắc, tiếp đó, cũng thể
hiện ra trong nhiều khung cảnh bình dị, quen thuộc khác nhau. Có khung cảnh thơ mộng, thanh binh:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa
Nhưng cũng có khung cảnh nghèo khó cơ cực mà thấm đẫm nghĩa tình sâu nặng:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô
Lại có khung cảnh gắn với những kỉ niệm riêng tư:
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Tuy nhiên, xúc động hơn cả là những câu thơ tái hiện cảnh sinh hoạt và cuộc sống
bình dị của đồng bào miền núi tuy gian khổ, thiếu thốn nhưng nghĩa tình son sắt
thuỷ chung với cách mạng và kháng chiến: Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son.
Liền một mạch thơ là hình ảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng
lớn, hào hùng, sôi động với hình ảnh những đoàn bộ đội dân công nao nức trên các nẻo đường:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay...
Khép lại phần 1 của bài thơ là cảnh một cuộc họp của Trung ương Đảng, Chính
phủ bộ máy đầu não của cuộc kháng chiến, thật giản dị mà trang nghiêm gần gũi
được thể hiện trong tám câu thơ sáng đẹp, rõ ràng. Để khẳng định niềm tin yêu của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
nhân dân cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại sử dụng những vần thơ thuần chất dân
tộc vừa trang trọng vừa thắm thiết nghĩa tình:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.
Như thế, Việt Bắc là bài thơ dài làm theo thể loại lục bát truyền thống, lại dùng cả
hình thức đối đáp thường gặp trong các điệu hát quan họ hoặc dân ca ca dao. Nhờ
hình thức đối đáp ta - mình, mình - ta gắn bó, quấn quýt tạo nên cảm giác thân
thuộc, gần gũi với bất kì một người Việt Nam nào. Vì vậy, bài thơ đậm đà chất trữ
tình, đằm thắm tinh tế về tình cảm, dìu dặt về nhạc điệu. Việt Bắc của Tố Hữu
xứng danh là đỉnh cao của văn học cách mạng ở nước ta.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 21
Tố Hữu được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng. Thơ ông là
vũ khí để tuyên truyền, cổ động tinh thần chiến đấu cũng như nêu cao tình yêu và
tinh thần yêu nước mãnh liệt. Mặc dù thơ ông viết về chính trị nhưng không hề khô
khan, ngược lại rất tình cảm. Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực
dân Pháp, tác giả muốn gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong
cuộc kháng chiến. Bài thơ được viết theo thể đối đáp càng gợi lên sự bình dị, ấm
áp và than quen đến lạ lùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể lục bát tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, trầm
bổng mà lắng sâu trong lòng người đọc. Đây chính là một sự khéo léo tạo nên
thành công của bài thơ chính trị mà trữ tình, dạt dào cảm xúc này.
Tác giả mở đầu bằng sự nuối tiếc, quyến luyến, bịn rịn của người ở lại và kẻ ra đi
trong một khung cảnh tràn đầy nhớ thương:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn
Những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong sự níu kéo và tiếc nuối khi
phải chia xa những người chiến sỹ cách mạng đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả
đặt đại từ “ta” và “mình” thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy. Tác
giả đã đưa ra quãng thời gian cụ thể là “mười lăm năm ấy” – quãng thời gian rất
dài gắn liền với cuộc chiến tranh ác liệt của nhân dân ta với thực dân Pháp. Đó
cũng chính là quãng thời gian tình quân và dân thiết tha, nặng tình nặng nghĩa.
Lòng người ra đi và người ở lại tràn ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu đâu cũng thấy
bóng dáng của những điều xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở trong lòng. Tố
Hữu dường như đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách lạ lùng.
Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi
bồn chồn không muốn rời chân bước đi:
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Tâm sự của người ở lại khiến cho người ra đi không đành lòng bước đi. Tiếng nói
đó lại làm chực trào nhớ thương và những kỉ niệm khó quên. Tâm trạng ấy được
gói gọn trong từ “bâng khuâng” như dùng dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi. Thật
khó để có thể hiểu được cảm xúc của người trong cuộc lúc này. Lúc này đây chính
tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý giải được là tại sao lại
như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá đầy để có thể quay mặt
bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất nơi đây, đồng đội và đồng bào
đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho nhau từng bữa cơm giấc
ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau trong vài câu chữ như thế
này, nhưng chính câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra, không thể thôi nhớ và thôi
mong. Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Ta và mình dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời
nhau. Người ra đi một mực khẳng định rằng "mặn mà đinh ninh". Hai từ "đinh
ninh" như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau
như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả.
Khi nhớ về núi rừng việt bắc tác giả nhớ tất thảy thiên nhiên và con người nơi đây.
Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài bước phác
họa bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách vẹn
tròn, ý nghĩa, tươi đẹp nhất:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vang
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi và núi rừng Việt Bắc.
Trong bức tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn
xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý
nghĩa biết bao. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong bài thơ
Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan nhất.
Điệp từ nhớ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ
dường như tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt.
Tác giả không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc, quan trọng hơn nữa là
ông nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Với giọng điệu không còn dìu dặt, tha thiết đặc trưng của thể lục bát nữa mà đã
chuyển sang sự hào hùng, vang dội khi kể về những trận chiến giữa núi rừng Việt
Bắc. Đọc những vần thơ này, chúng ta nhận ra được hào khí Đông A thật mạnh mẽ
và quyết liệt, dữ dội trong lòng của tác giả. Những năm tháng đó, những cuộc
chiến đó vẫn chưa hề xóa nhòa trong lòng quân và dân.
Thực vậy, bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu với giọng điệu thiết tha, da diết và hào
hùng, đanh thép đã gợi mở về tình quân dân đậm đà thắm thiết và tinh thần yêu
nước mãnh liệt của nhân dân ta. Đọc bài thơ chúng ta thêm ngưỡng mộ và khâm
phục sự tài tình của Tố Hữu.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 22
"Việt Bắc" là bài thơ kiệt tác của Tố Hữu, là một trong những thành tựu xuất sắc
của thơ ca Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).
Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sâu chiến thắng Điện
Biên chấn động địa cầu, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp
đỏ bóng cờ trong ngày hội non sông (10 – 1954), bài thơ "Việt Bắc" là tiếng hát
nghĩa tình sắt son thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối
với chiến khu Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác Hồ
của miền xuôi và miền ngược; là khúc tráng ca anh hùng của một dân tộc thắng
trận sau hơn ba ngàn ngày máu lửa.
Bài thơ "Việt Bắc" mang tầm vóc một trường ca, dài 150 câu thơ lục bát, vừa mang
âm điệu ca dao, dân ca đậm đà, vừa mang vẻ đẹp thơ ca cổ điển và thơ ca cách mạng dân tộc.
Mở đầu bài thơ là cảnh đưa tiễn của mình với ta, giữa kẻ ở với người về đã gợi ra
một trời thương nhớ, lưu luyến, bồn chồn, thiết tha:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Hình ảnh hoán dụ "áo chàm" hiện lên trong buổi tiễn đưa đã tạo nên màu sắc Việt
Bắc, màu sắc núi rừng chiến khu, màu thương nhớ của mối tình quân dân "đậm đà
lòng son" suốt mười lăm năm trời cách mạng và kháng chiến:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
Có biết bao kỉ niệm sâu sắc ghi nhớ trong lòng, trải suốt một chặng đường dài gian
lao và anh dũng, từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến chiến thắng Điện Biên
và ngày miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (mùa thu năm 1954). Những câu hỏi
của người ở lại hòa theo tiếng hát cứ quyện vào hồn, thấm sâu vào lòng người cán
bộ kháng chiến về xuôi: "Mình về có nhớ... Mình đi có nhớ...". Mình đi có nhớ
những tháng ngày "nhóm lửa" gian khổ: "Mưa nguồn suối lũ những mây cùng
mù". "Mình về có nhớ chiến khu" thời đánh Pháp đuổi Nhật "Miếng cơm chấm
muối, mối thù nặng vai". Trong thiếu thốn gian lao, nợ nước thù nhà khắc sâu hồn
người, càng chất chứa trong lòng, càng đè nặng đôi vai: "Mày sẽ chết! Thằng giặc
Pháp hung tàn – Băm xương thịt mày tan mới hả" ("Dọn về làng" – Nông Quốc
Chấn). Mình đi..., mình về... có nhớ, nhớ trám bùi, nhớ măng mai, nhớ lau xám,
nhớ những địa danh lịch sử, nhớ "Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?". Nhớ
Việt Bắc là "Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh", nhớ đồng bào của dân tộc
tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa thủy chung son sắt với cách mạng.
Những ẩn dụ, tượng trưng trong thơ Tố Hữu thật rung động, mở ra một không gian
thương nhớ mênh mông với bao tình nghĩa vơi đầy:
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Xa dần Việt Bắc, trên đường về Thủ đô, về xuôi, người cán bộ kháng chiến mang
theo bao nỗi nhớ, chất chứa dào dạt trong tâm hồn bao kỉ niệm đẹp và sâu sắc:
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu....
Người đi, người về mang theo bao nỗi nhớ: nhớ mình, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ
nắng chiều lưng nương, nhớ bản khói cùng sương, nhớ bếp lửa, nhớ rừng nứa bờ
tre, nhớ ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê,...
Một củ sắn lùi, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui... trong những tháng ngày "đắng
cay ngọt bùi" ấy, người về có bao giờ quên. Sự đồng cam cộng khổ đã làm cho tình
thương nỗi nhớ thêm bồi hồi da diết:
"Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng".
Các từ ngữ: thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ,
làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân, tình cá nươcs thêm ấm áp.
Nhớ chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta nhớ mình, nhớ người mẹ vất vả, tần tảo "nắng
cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô". Điệp ngữ "nhớ sao" diễn tả bao da
diết bồn chồn: nhớ sao lớp học i tờ, nhớ sao đuốc sáng những giờ liên hoan; nhớ
tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm
nện cối... của khúc nhạc rừng chiến khu. "Những hoa cùng người" của Việt Bắc
trong bốn mùa đã trở thành mảnh tâm hồn của ta cùng với bao nỗi nhớ:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về ta nhớ những hoa cùng người,
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đoạn thơ như một bài hành mang vẻ đẹp cổ điển. Thiên nhiên và con người Việt
Bắc được điểm nhãn trong bức tranh tứ bình đẹp như gấm như thêu. Màu đỏ tươi
của hoa chuối giữa rừng xanh mùa đông và con dao quắm của người đi nương, đi
rẫy "nắng ánh" trên đèo cao. Hoa mơ mùa xuân "nở trắng rừng" và người thợ thủ
công khéo léo đan nón "chuốt từng sợi giang". Rừng phách mùa hè "đổ vàng"
trong tiếng ve và hình ảnh cô gái Việt Bắc "một mình" đi hái măng giữa rừng tre
rừng trúc. Tiếng hát ân tình thủy chung của ai cất lên trong rừng thu dưới ánh trăng
xanh hòa bình mát dịu. Tất cả đều trở thành nỗi nhớ của ta, của người cán bộ kháng chiến.
Tố Hữu đã sống hết mình với Việt Bắc nên ông mới viết thật hay về nỗi nhớ ấy.
Cảnh sắc thiên nhiên đẹp rực rỡ, đẹp dịu dàng và đầy sức sống. Cảnh bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông, mùa nào cũng đẹp, một vẻ đẹp thơ mộng xinh tươi. Con người
Việt Bắc được nói đến là con người lao động: người đi làm nương rẫy, người thợ
thủ công, cô em gái hái măng, và ai đang cất cao tiếng hát – tất cả đều tượng trưng
cho những đức tính tốt đẹp của đồng bào các dân tộc Việt Bắc như cần cù, khéo
léo, lạc quan yêu đời. Đọc bài thơ "Việt Bắc", ta không bao giờ quên được cảnh
sắc thiên nhiên bốn mùa và những con người lao động đáng yêu ấy.
Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu bất khả xâm phạm: "Núi giăng thành lũy sắt dày".
Nhớ Việt Bắc là nhớ thế trận chiến tranh nhân dân thần kì: "Rừng cây núi đá ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
cùng đánh Tây". Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu với tất cả niềm tự hào về khối đại
đoàn kết dân tộc làm nên sức mạnh Việt Nam để chiến đấu và chiến thắng:
Mênh mông bốn mặt sương mù,
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ và nhân hóa ngợi ca chiến khu Việt
Bắc mang tầm vóc dũng sĩ hiên ngang – cái nôi của cách mạng "dựng nên Cộng
hòa". "Ai về ai có nhớ không?" – Ta nhớ nhiều và nhớ lắm. Nhớ những nẻo đường
chiến dịch, nhớ những địa danh lịch sử mà bộ đội ta từng vào sinh ra tử, làm cho
giặc Pháp bạt vía kinh hồn: "nhớ Phủ Thông, đèo Giàng – Nhớ sông Lô, nhớ phố
Ràng – Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà". Cả một trời thương nhớ không bao
giờ có thể quên. Ta về ta nhớ những con đèo, những dòng sông, những ngọn núi...,
nay "đã hóa tâm hồn" ta từ những tháng ngày gian khổ và oanh liệt.
Nhớ Việt Bắc là nhớ những nẻo đường chiến dịch, nhớ những đêm "rầm rập" hành
quân ra trận. Là nhớ những binh đoàn "Quân đi điệp điệp trùng trùng" trong ánh
sao đêm. Là nhớ những đoàn dân công vận tải "Bước chân nát đá" theo ngọn đuốc
đỏ rực, cùng ánh "đèn pha bật sáng" của đoàn xe kéo pháo ra trận. Giọng thơ mang
âm điệu anh hùng ca cất lên như những tiếng reo biểu lộ niềm vui trước khí thế
chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong ba nghìn ngày khói lửa:
Những đường Việt Bắc của ta,
Đêm đêm rầm rập như là đất rung.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
"Ai về có nhớ không" – Ta về…, ta nhớ nhiều và nhớ lắm!" Nhớ Việt Bắc là nhớ
"thủ đô gió ngàn" của cuộc kháng chiến, là nhớ "Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa
hang", là nhớ "Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào", là nhớ "Quê hương cách
mạng dựng nên Cộng hòa"…
Chiến khu Việt Bắc là nơi gửi gắm bao niềm tin của đồng bào và chiến sĩ trên mọi
miền đất nước gần xa trong những năm dài chiến đấu gian khổ: "Trông về Việt
Bắc: Cụ Hồ sáng soi… Nhìn lên Việt Bắc mà nuôi chí bền".
Việt Bắc là nơi hội tụ mọi chiến công, chiến thắng của quân và dân ta từ khắp các
chiến trường báo về; niềm vui thắng trận dâng lên dào dạt:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về,
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Lời đối đáp tâm tình của mình, ta được thể hiện trong phần thứ hai bài thơ "Việt
Bắc" càng trở nên bồi hồi tha thiết; người ở, người về, miền xuôi và miền ngược
càng gắn bó ân tình sâu nặng. Món quà Việt Bắc gửi về miền xuôi là đặc sản, là
"cây nhà lá vườn", là hương vị của núi rừng:
Mình về ta gửi về quê,
Thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa mai.
Món quà ấy càng làm cho tình nghĩa mình – ta, tình non nước thêm bền đẹp, càng
làm cho cuộc sống, cuộc đời thêm đậm đà sắt son: "Chàm nâu thêm đậm, phấn son
chẳng nhòa… Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
"Việt Bắc" là bài ca tình nghĩa. Có biết bao câu hỏi vang lên dồn dập như nhắc
nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân, của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta:
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?
Hai chữ "ngày mai" được điệp lại, mở ra một trời mơ ước bao la. Và đó cũng là
niềm tin yêu của những tấm lòng ân tình, ân nghĩa thủy chung:
Ngày mai về lại thôn hương,
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về.
Ngày mai rộn rã sơn khê,
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng…
Việt Bắc sẽ đổi thay trong sự đổi thay của đất nước. Những nhà máy mới sẽ mọc
lên. Phố phường sẽ mọc lên. Có nhiều mái trường ngói mới đỏ tươi cho tuổi thơ.
Có "Chợ vui trăm nẻo về khơi nguồn hàng". Mối quan hệ đầy tình nghĩa giữa miền
xuôi và miền ngược, sẽ trở nên sâu nặng, gắn bó thiết tha vô cùng. Muối Thái
Bình, cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh, chum vại Hương Canh… là đặc
sản miền xuôi gửi lên miền ngược sẽ góp phần làm cho cuộc sống mới thêm ấm áp,
đẹp tươi. Món quà miền xuôi gửi lên miền ngược là món quà tình nghĩa "Ai lên
mình gửi cho anh với nàng":
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông.
Những món quà tình nghĩa ấy đã làm cho lời thề giữa mình với ta được khắc sâu,
làm cho khúc tình ca non nước mãi mãi bền đẹp:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nước trôi lòng suối chẳng trôi,
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non.
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn…
Một trong những hình ảnh đẹp nhất được Tố Hữu tô đậm trong bài thơ là hình ảnh
vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. ông Cụ đã từng hoạt động bí mật tại Cao Bằng.
Người đã đến với Tân Trào trong những ngày Quốc dân đại hội. Người đã sống và
đi thuyền trên sông Đáy. Bác đã đi chiến dịch Biên giới… nay Bác về xuôi cùng
đoàn quân thắng trận. Núi rừng Việt Bắc "không nguôi nhớ Người", ngẩn ngơ
"trông theo bóng Người". Bức chân dung lãnh tụ vừa cổ kính thiêng liêng vừa bình dị, gần gũi:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người.
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người.
Nét vẽ nào cũng thần tình. Có núi rừng, có đèo cao, có suối reo… làm nền cho bức
họa truyền thần. Có những nét chấm phá linh diệu về Ông Cụ: mắt sáng ngời, áo
nâu túi vải đẹp tươi, phong thái ung dung khi ngồi trên yên ngựa trong tiếng suối
reo, khi bước trên đèo cao… Thời gian là những sáng tinh sương. Thần thái của
Người là thông minh tài trí, là giản dị, bình dị, là ung dung, thanh cao. Thiên nhân
được nhân hóa: "Người đi, rừng núi trông theo bóng Người" làm cho tình thương
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
nhớ, lưu luyến và sự kính yêu ngưỡng mộ của nhân dân đối với Bác Hồ thêm đậm
đà, sâu sắc. Đây là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất của Tố Hữu viết
về vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Bài thơ "Việt Bắc" được khép lại trong tình non nước và lòng biết ơn Bác Hồ kính
yêu. Đó là mối tình đời đời bất diệt:
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Bác càng sâu càng bền.
"Việt Bắc" là sự kết tinh nghệ thuật thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của dân tộc.
Cách đối đáp giữa mình với ta theo lối ca dao dân ca được vận dụng sáng tạo. Tình
lưu luyến, bồi hồi giữa kẻ ở người về gắn liền với bao kỉ niệm đắng cay, ngọt bùi
trong suốt mười lăm năm trời, từ ngày "kháng Nhật thuở còn Việt Minh" đến ngày
chiến thắng giòn giã: "Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về". Hình ảnh quân dân
kháng chiến, hình ảnh lãnh tụ kính yêu, cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ,
đẹp tươi… tất cả đã chung đúc một cách hài hòa, tuyệt đẹp làm nên tính dân tộc và
tính hiện đại của bài thơ tuyệt bút này.
"Việt Bắc" là khúc tình ca cũng là bản anh hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng
chiến và con người kháng chiến. Nó đã nâng cao tình yêu nước và niềm tự hào dân
tộc. Tình ân nghĩa thủy chung là bài học sâu sắc đối với mỗi chúng ta, mãi mãi là
hành trang của mỗi chúng ta.
"Thơ hay phải có dư vị văn chương" như có người đã nói. Trong những năm dài
sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc
Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy "dư vị" của nó.
Bước sang thế kỉ XXI, đất nước ta đang đổi mới từng ngày từng giờ. Tuy đến nay
(2008), Việt Bắc chưa có cảnh tượng "Phố phường như nấm, như măng giữa trời",
nhưng ai cũng cảm thấy lạc quan và hi vọng. Dự báo ấy chính là "dư vị văn
chương" của bài thơ "Việt Bắc".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Phân tích Việt Bắc - Mẫu 23
Nếu nói Phan Bội Châu là người đã mở đường cho nền thơ ca trữ tình chính trị thì
có lẽ mấy mươi năm sau Tố Hữu chính là người đã mang đạt đến đỉnh cao, trở
thành một hiện tượng có giá trị lâu dài trong nền văn chương hiện đại Việt Nam
nói chung và nền thơ ca cách mạng nói riêng. Ngay từ khi còn trẻ Tố Hữu đã thể
hiện mình là một nhà thơ, một người chiến sĩ cách mạng tận tâm, tận lực cả trong
sáng tác và chiến đấu. Sự giác ngộ lý tưởng cách mạng từ khi mới 18 tuổi và trở
thành một trong những Đảng viên trẻ tuổi nhất lúc bấy giờ đã trở thành bước đệm
cho sự nghiệp sáng tác nhiều vẻ vang của nhà thơ. Mà đường thơ của Tố Hữu thì
luôn gắn liền với các sự kiện quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc,
phục vị và đóng góp nhiều cho kháng chiến, có thể xem như là những tư liệu lịch
sử được viết bằng văn chương, kết tinh của hai tính trữ tình và tính chính trị xuyên
suốt. Thật không quá khi nói Tố Hữu là một nhà thơ lý tưởng trong nền văn học
Việt Nam hiện đại, với phong cách sáng tác ổn định, dồi dào, luôn hướng đến cái ta
chung, hướng đến những tình yêu lớn, bộc lộ lòng trung thành với cách mạng, sự
ca ngợi Đảng và đất nước. Nếu như Từ ấy khiến tên tuổi Tố Hữu bất chợt vụt sáng
trên thi đàn Việt Nam, thì Việt Bắc chính là chiến công vang dội nhất của nhà thơ
trong sự nghiệp sáng tác, thể hiện rõ ràng sự trưởng thành và hoàn chỉnh trong tư
tưởng, phong cách cũng như bút lực của nhà thơ.
Việt Bắc đã ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, tháng 7/1954 chiến
dịch Điện Biên Phủ trên không nổ ra và giành thắng lợi tuyệt đối, hiệp định Giơ-
ne-vơ về Đông Dương được ký kết, pháp rút quân về nước, miền Bắc lập lại hòa
bình, chuẩn bị bước sang giai đoạn xây dựng và khôi phục đất nước sau chiến
tranh. Đến tháng 10/1954, nhận thấy tình hình đất nước có nhiều chuyển biến tích
cực, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị dời toàn bộ cơ quan
đầu não của đất nước từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội để phục vụ cho các giai
đoạn chính trị tiếp theo của đất nước. Như vậy sau gần 15 năm trời gắn bó, sống và
chiến đấu cùng nhau như những người thân ruột thịt, nếm trải nhiều cay đắng ngọt
bùi, thì đến hôm nay những chiến sĩ cách mạng phải chia tay vùng đất và những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
con người thấm đẫm ân tình thủy chung để trở về miền xuôi chờ nhiệm vụ mới.
Nhân sự kiện lịch sử có tính thời sự ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để
bộc lộ những tình cảm, những ân tình của người ra đi đối với người ở lại, đồng thời
cũng là một bản tổng kết kháng chiến có tính chất chính trị, điểm lại những mốc sự
kiện lịch sử quan trọng trong suốt 10 năm trời kháng chiến chống Pháp tại núi rừng
Việt Bắc. Có thể nói rằng ở phương diện tổng kết quá trình kháng chiến này, Việt
Bắc và Bình Ngô đại cáo cũng có những nét tương đồng nhất định, dù rằng bản
chất của hai tác phẩm là hoàn toàn khác nhau.
Trước hết khung cảnh chia tay đã được mở ra với những vần thơ rất mực ân tình,
lưu luyến, tái hiện lại khung cảnh chia ly của người ra đi và người ở lại, những con
người đã từng có một khoảng thời gian dài sống và chiến đấu bên nhau, rất mực
gắn bó, thân thuộc, mang trong mình những tình cảm sâu nặng, ấn tượng khó quên.
“ Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...”
Người ở lại là người lên tiếng trước, giọng thơ bùi ngùi, xúc động, không chỉ bộc
lộ cảm xúc níu kéo sự tiếc nuối khi phải chia xa người chiến sĩ cách mạng sau một
thời gian dài gắn bó mà còn là sự khéo léo nhắc lại, gợi mở ra cả một vùng trời kỷ
niệm “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Bên cạnh đó cũng thể hiện tình cảm
lưu luyến, buồn bã nhân buổi phân ly không chỉ là đối với người ở lại mà còn là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
của cả người ra đi về miền xuôi, nỗi xúc động khiến đôi bên đều “Cầm tay nhau
biết nói gì hôm nay”. Mạch cảm xúc, hay lối nói đối đáp “ta-mình”, cách xưng hô
tựa như buổi chia tay của những người yêu nhau mà Tố Hữu sử dụng, đã mang đến
những rung cảm mới lạ, đậm âm hưởng vùng miền Tây Bắc, rất thiết tha, ân tình,
sự gắn bó sâu sắc, bền chặt giữa đôi bên. Dễ dàng đưa người đọc hòa vào một bầu
trời ký ức mà cả hai nhân vật trữ tình “ta” và “mình” luân phiên nhau đối đáp, gợi
lại một cách dịu dàng, đằm thắm, như những lời tâm tình, thủ thỉ đầy bịn rịn của đôi lứa yêu nhau.
“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Người ở lại đã nhắc nhở người ra đi về những ký ức sâu nặng trong suốt một chặng
đường chiến đấu dài lâu của dân tộc. Đó là sự gian khổ trong sinh hoạt khi cách
mạng phải đối mặt với chốn rừng sâu nước độc, nhiều thiếu thốn, hoàn cảnh chiến
đấu khó khăn “Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”, sự thiếu thốn cái ăn, cái
mặc trong những năm đầu với “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”. Thế
nhưng sự vất vả, khó khăn chồng chất ấy cũng không thể nào đánh gục được ý chí
của những người làm cách mạng, bởi Việt Bắc đã cho ta những “trám bùi”, “măng
mai” dồi dào, những con người Việt Bắc “đậm đà lòng son” và cả núi rừng thủy
chung gắn bó, từ thuở còn kháng Nhật, còn là Việt Minh với những sự kiện, những
trận chiến gắn liền với các địa danh nổi tiếng như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình
cây đa”. Đối đáp lại với những lời gợi nhắc kỷ niệm, thấm đẫm tình cảm, sự gắn bó
tha thiết, sâu nặng, người ra đi đã một lòng khẳng định tình cảm của mình dành
cho Việt Bắc và cả con người Việt Bắc, những người mà sắp tới đây sẽ phải chia
xa, ngày gặp lại chưa biết là khi nào. Rằng “Lòng ta sau trước mặn mà đinh
ninh/Mình đi, mình lại nhớ mình/Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy
nhiêu.../Nhớ gì như nhớ người yêu”. Đó là thứ tình cảm dạt dào “đinh ninh” trong
dạ trước sau một lòng, đi rồi hãy vẫn còn mãi nhớ, nghĩa tình sâu nặng tựa như
nước chảy trong nguồn, gắn bó, tha thiết, nhớ thương như tình cảm của những
người yêu nhau. Đồng thời nhân vật “ta” cũng bộc lộ nỗi nhớ, những kỷ niệm khắc
ghi trong lòng về thiên nhiên Việt Bắc với cảnh “trăng lên”, “nắng chiều”, “bản
khói cùng sương”, “rừng nứa bờ tre”, “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, nhớ cả
những ngày sóng vai, cùng nhau chia sẻ “ngọt bùi đắng cay”. Mà mai đây khi về
miền xuôi, xa rời Việt Bắc, người ra đi vẫn sẽ giữ nguyên những kỷ niệm đáng
nhớ, những xúc động khó quên về một vùng đất lắm ân tình, những con người chân
chất, thật thà, đùm bọc cách mạng bằng cả tấm lòng son sắt “Thương nhau, chia củ
sắn lùi/Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”. Nỗi nhớ ấy không chỉ bộc lộ trong ký
ức về những cảnh điểm của Việt Bắc, mà còn là ký ức về những ngày tháng cùng
hoạt động, cùng sinh hoạt với những con người nơi đây, vượt qua tất cả mọi gian
khó, sao có thể quên những “lớp học i tờ”, những người mẹ địu con lên núi bẻ ngô
nuôi cách mạng, những giờ liên hoan vui vẻ, những ngày tháng sinh hoạt cơ quan
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
nhiều khó khăn, những tiếng chày, tiếng mõ vang vọng núi rừng,… Tất cả đã khắc
sâu vào trí nhớ của người ra đi bằng những tình cảm quý giá và trân trọng nhất.
Hơn thế nữa với cả con người và thiên nhiên Việt Bắc nhân vật trữ tình “ta” tức là
người ra đi còn có những cảm nhận, những ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp thực hài hòa
và gắn bó trong bức tranh tứ bình:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Mùa đông hiện lên với vẻ đẹp của “rừng xanh” thăm thẳm, gợi ra hiện thực lạnh
lẽo, khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc, tuy nhiên với sự xuất hiện thật tinh tế rực rỡ
của bông “hoa chuối đỏ tươi”, gam màu nóng đã phần nào làm dịu đi cái giá rét,
độc hại, mang đến sự lãng mạn, trữ tình nhưng không hoàn toàn tránh né hiện thực
chiến đấu gian khổ ở nơi đây. Hình ảnh con người nổi bật khỏe khoắn với cảnh
“dao gài thắt lưng”, thể hiện tư thế hiên ngang, xông pha núi rừng, dưới cái ấm áp
của ánh nắng mùa đông, nhiệt huyết của con người trong công cuộc trèo đèo lội
suối, lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Đông qua, xuân tới với cảnh tượng
“mơ nở trắng rừng”, một điểm nhấn đặc biệt của vùng núi Tây Bắc, sắc trắng thanh
nhã, dịu dàng càng làm tôn lên cái sự dẻo dai, khéo léo của con người nơi đây với
công cuộc lao động tỉ mỉ “chuốt từng sợi giang”. Bức tranh mùa hè được gợi ra
không chỉ nằm ở phần nhìn, mà còn mở rộng với cả âm thanh, đó là tiếng ve kêu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
rộn rã với cảnh “rừng phách đổ vàng”, gợi cho người đọc những cảm giác sôi
động, tràn đầy sức sống, mà con người giữa khung cảnh ấy thì vẫn miệt mài lao
động, hình ảnh cô em gái giản dị, ngồi hái măng một mình, khiến người ta không
khỏi thêm yêu, thêm nhớ và xúc động. Kết thúc bức tranh tứ bình là cảnh tượng
mùa thu được gợi ra với “trăng rọi hòa bình”, vốn là một hình ảnh có nhiều ý
nghĩa. Xưa nay trăng luôn tượng trưng cho những gì tươi đẹp, dịu dàng, thanh mát,
cũng tượng trưng cho sự đoàn tụ, viên mãn, đồng thời nói đến mùa thu người ta
vẫn thường nhắc đến rằm tháng tám trăng tròn vành vạnh. Mà trong câu thơ này
“trăng rọi hòa bình” cũng chính là ẩn dụ cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi vẻ
vang của dân tộc, ánh trăng là tượng trưng cho vẻ đẹp bình yên, tươi sáng. Đồng
thời cũng là lúc người chiến sĩ cách mạng chuẩn bị hành trang về thủ đô Hà Nội,
nên hình ảnh con người Việt Bắc đã hiện lên thật sâu sắc trong “tiếng hát ân tình
thủy chung” sau bao nhiêu năm tháng gắn bó. Có thể nói rằng bức tranh tứ bình về
Việt Bắc là một trong những điểm nhấn quan trọng và đặc sắc nhất của toàn bộ tác
phẩm, bộc lộ không chỉ vẻ đẹp con người và thiên nhiên nơi đây mà còn là cả một
ẩn dụ cho quá trình kháng chiến bắt đầu vào mùa đông và kết thúc thắng lợi vào
mùa thu, thể hiện tài năng quan sát tinh tế, sự khéo léo, chất trữ tình chính trị và cả
tình cảm gắn bó sâu nặng của Tố Hữu với vùng đất lắm ân tình thủy chung này.
Nỗi nhớ, tình cảm gắn bó, quyến luyến của người ra đi không chỉ nằm trong những
ký ức về cảnh sống, cảnh sinh hoạt mà còn bộc lộ thông qua quãng đường chiến
đấu và hy sinh của cách mạng. Tuy Tố Hữu không hề đi sâu vào miêu tả rõ ràng
các trận đánh lịch sử mà chỉ điểm lại đồng thời bộc lộ những cảm xúc bùi ngùi, tha
thiết thế nhưng cũng đã đủ để gợi nhắc về một thời chiến đấu oanh liệt của cách
mạng ta giữa núi rừng Tây Bắc.
“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về”
|Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Từ những ngày chiến đấu đầy gian khổ “giặc đến giặc lùng”, nhưng nhờ có sự
đoàn kết quân dân một lòng, ý chí chiến đấu mạnh mẽ, kiên cường, mà rừng núi
trước đây vốn hiểm trở, mang lại nhiều khó khăn cho cách mạng, ngày nay đã trở
thành người bạn chiến đấu, trở thành “lũy sắt dày”, che chở cho bộ đội lại vây
khốn quân thù, trợ lực cho quân đội ta trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ. Rồi
sau những ngày còn bỡ ngỡ, non yếu lực lượng ta ngày một mạnh mẽ, kiêu hùng,
anh dũng trong chiến đấu vang vọng cả một miền rừng Việt Bắc, ngày một tiến dần
đến chiến thắng sau cùng.
“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu...
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”
Phần cuối của đoạn trích, tuy chưa phải là kết thúc của tác phẩm, nhưng lại có ý
nghĩa đánh dấu sự thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống Pháp suốt từ
những năm 1940 cho đến năm 1954. Mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước, dù
vẫn bị chia cắt hai miền nhưng lại là động lực lớn cho công cuộc thống nhất đất
nước, miền Bắc đi vào xây dựng kiến thiết đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Khẳng định niềm tin vào Đảng và Bác Hồ, vào sự đúng đắn của cách mạng, cũng
như niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.
Việt Bắc là một tác phẩm xuất sắc, đỉnh cao trong các sáng tác của Tố Hữu cũng
như trong nền văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ sử dụng
kết cấu đối đáp quen thuộc trong ca dao, dân ca xưa, lối xưng hô “ta-mình” thân
thiết gắn bó, lời thơ tình cảm, thấm đẫm ân tình, vận dụng tinh tế thể thơ lục bát
truyền thống của dân tộc. Bộc lộ được sự lưu luyến, bịn rịn phút chia ly, tình cảm
quân dân gắn bó sâu nặng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ
nhiều gian khổ, khó khăn. Đồng thời thi phẩm cũng có ý nghĩa đúc kết một giai
đoạn lịch sử hết sức gian lao, nhiều vẻ vang, lắm hào hùng của dân tộc, thể hiện
tấm lòng ân nghĩa thủy chung của cách mạng với chiến khu Việt bắc, lòng tự hào,
niềm tin , niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Phân tích Việt Bắc - Mẫu 24
Tháng 10 năm 1954, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, trung ương Đảng và chính phủ rời Việt Bắc để trở về Hà Nội tiếp tục lãnh
đạo phong trào cách mạng. Trước sự kiện đó Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc. Đây
là bài thơ ân tình cách mạng, gọi lại những kỉ niệm thân thiết và vẻ đẹp của Việt
Bắc từ ngày đầu gian khổ chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng cho đến khi
kháng chiến thắng lợi. Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam nữ
nhưng lại thể hiện những ân tình cách mạng, và vì thế bài thơ như một chất men
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
say ngấm sâu vào lòng người, trở nên gần gũi, đằm thắm hơn với những cung bậc lan toả của nó.
Mở đầu bài thơ là những lời phảng phất phong vị ca dao, tái hiện cảnh tiễn đưa đầy dùng dằng, quyến luyến:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
Con người đang đứng trước một cuộc biệt li nên câu thơ cũng nhuốm màu li biệt.
Tác giả đặt đại từ "mình" và "ta" ở hai đầu câu thơ tạo cảm giác xa xôi, cách biệt, ở
giữa là tâm trạng băn khoăn của người ở lại: không biết bạn có còn thuỷ chung
trước bao đổi thay và cám dỗ của cuộc sống mới. Lòng ngập tràn nhớ thương,
người ở lại không nén được lòng mình đã đưa ra những câu hỏi dồn dập: mình có
nhớ ta, mình có nhớ không ? ...càng làm cho người ra đi thêm lưu luyến, cứ vang
lên như một niềm khắc khoải khôn nguôi. Không chỉ đưa ra những câu hỏi, người
Việt Bắc còn nhắc lại khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha. Mới đọc ta
bắt gặp tứ thơ quen thuộc từ ca dao tình yêu nam nữ kiểu như: Mình về có nhớ ta
chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười ... trong đó người tình chỉ nhắc đến kỉ
niệm mười lăm năm ấy. Nhưng đến cặp lục bát tiếp theo thì nó không còn là tình
yêu nữa mà được thay thế bằng tình yêu thương gắn bó với với mảnh đất quê
hương Việt Bắc. Nhớ núi, nhớ rừng thực chất là nhớ ngọn nguồn của cách mạng.
Bốn câu thơ đầu tạo thành hai câu hỏi rất khéo mà mỗi câu hỏi về một khía cạnh
khác nhau: thời gian và không gian gói gọn một thời cách mạng, một vùng cách mạng.
Trước tâm trạng, nỗi niềm bộc bạch của kẻ ở, người đi im lặng lắng nghe:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Người ra đi im lặng là để tri âm, để tiếng ai từ từ ngân vang lắng sâu vào hồn mình
cho thật vẹn tròn, đầy đủ. Lặng im nhưng vẫn không kém phần mãnh liệt. Người ở
lại nói thiết tha, người đi nghe thiết tha, sự hô ứng ngôn từ này tạo sự đồng vọng
trong lòng người. Nhịp thơ lục bát đang đều đặn, nhịp nhàng đến đây như cũng vì
chút bối rối ấy trong lòng người mà thay đổi:
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
Trong thời khắc chia tay sau một khoảng thời gian dài gắn bó, có biết bao nhiêu kỉ
niệm ngọt bùi, sâu nặng, có nhiều điều để nói nhưng không thể nói đủ, nói trọn vẹn
cùng nhau. Vì thế lòng người cũng bâng khuâng, bước chân cũng bồn chồn, và
mặc dù người đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại nhưng hình ảnh áo
chàm và hành động cầm tay nhau im lặng đó trả lời thay tất cả, nó chất chứa cả bề
sâu cảm xúc của cả người đi và kẻ ở.
Bao trùm lên tất cả trong tâm trạng của kẻ ở và người đi là nỗi nhớ da diết mênh
mang với nhiều sắc thái khác nhau. Người ở lại băn khoăn tự hỏi về lòng thuỷ
chung son sắt của người ra đi thì ngược lại người ra đi khẳng định nghĩa tình mãi
không phai nhòa trong kí ức. Và cứ thế Việt Bắc hiện lên trong hoài niệm thật sinh động và cụ thể.
Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến những tháng ngày gian khổ hi sinh: Mưa nguồn suối
lũ những mây cùng mù, khó khăn nhiều, gian khổ cũng lắm nhưng cán bộ và đồng
bào đồng cam cộng khổ, cùng có mối thù sâu nặng với quân xâm lược: Miếng cơm
chấm muối mối thù nặng vai. Đồng thời nhớ đến Việt Bắc cũng là nhớ đến những
nghĩa tình đồng bào sâu nặng. Người về khiến núi rừng cũng trở nên trống vắng,
ngẩn ngơ, các điệp từ mình về, mình đi được nhắc đi nhắc lại một cách tha thiết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
khiến cho không gian, thời gian Việt Bắc hiện ra từ trong khói sương của hoài
niệm, của tâm trạng chất chứa nhớ nhung trở nên rõ nét và rõ tình hơn.Đại từ "ai"
phiếm chỉ được sử dụng để như hỏi vào sự trống vắng nay mai của lòng mình. Với
thủ pháp đối lập giữa một bên là lau xám với lòng son, giữa hắt hiu và đậm đà,
người ở nhấn mạnh sắc độ của nỗi nhớ. Người ở lại còn bày tỏ nỗi lo âu, dự cảm:
Mình về mình lại nhớ mình. Ba chữ mình được dùng liên tiếp trong một dòng thơ
làm cho ý thơ trở nên đa nghĩa một cách thú vị. Mình ở đây là tôi, là chủ thể của
nỗi nhớ, và mình cũng có thể là khách thể của nỗi nhớ. Và biết đâu đó đây lại là lời
nhắc nhở người đi liệu rồi có còn nhớ chính bản thân mình. Cả người đi và kẻ ở
đều được gói gọn trong một chữ mình tha thiết. Và nói gì đi nữa cả ta và mình đều
là những người kháng chiến, đều là cách mạng nên không tách rời nhau là lẽ dĩ
nhiên, là điều dễ hiểu.
Đáp lại những băn khoăn của người ở lại, người ra đi khẳng định một điều đinh
ninh tình nghĩa của mình vẫn còn sâu nặng, dẫu có thế nào thì sự keo sơn, gắn bó
bền chặt vẫn không phai nhạt theo thời gian:
Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh.
Và cụ thể hơn nữa, người ra đi khẳng định: Mình đi mình lại nhớ mình và nghĩa
tình mãi dạt dào không bao giờ khô cạn:
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu.
Sự gắn bó sâu nặng với Việt Bắc đã làm cho cảnh Việt Bắc tái hiện trong nỗi nhớ
của người về xuôi đã đẹp lại càng trở nên đẹp hơn, càng trở nên lung linh huyền
ảo. Nỗi nhớ trong lòng người đi day dứt, thiết tha đến độ cồn cào, ám ảnh như nhớ
người yêu. Lấy nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi để đo nỗi nhớ về ngọn nguồn kháng
chiến, về nghĩa tình cách mạng, đó là một sáng tạo của hồn thơ Tố Hữu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Và cũng chính từ sự gắn bó và nỗi nhớ thương da diết đó, thiên nhiên Việt Bắc mới
hiện lên đẹp lộng lẫy như một bức tranh tứ bình về bốn mùa với những nét đặc trưng của Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Trong bề bộn của kí ức và hoài niệm, bức tranh sáng đẹp về Việt Bắc hiện lên
trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên những kỉ niệm.
Và trong bức tranh thiên nhiên sống động, bừng sáng đó có sự xuất hiện của con
người đang cần mẫn lao động: chuốt từng sợi giang, hái măng một mình giữa rừng
vàng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng nhất là tiếng hát ân tình thuỷ chung của con
người Việt Bắc. Nó vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của
thời gian mà vương vít bước chân người ra đi. Điệp từ nhớ được lặp lại nhiều lần
như khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương tha thiết.
Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh nhớ người, nhưng quan trọng hơn là nhớ về cuộc
kháng chiến, một Việt Bắc trong kháng chiến thật hào hùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân quân đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tiết tấu ngân nga, dìu dặt như lời ru đến đây được tác giả phá vỡ để tạo ra một kết
cấu khác phi đối xứng làm giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập như âm hưởng
bước hành quân vũ bão. Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn tả, hình ảnh kì
vĩ, ý thơ phóng xa vào viễn cảnh ... tất cả tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng
để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng. Miêu tả
cảnh hành quân, nhà thơ sử dụng cụm từ "điệp điệp, trùng trùng" thật chính xác.
Còn từ ngữ nào để diễn đạt sức mạnh của đoàn binh tràn đầy nhiệt huyết hơn
những từ ấy ? Nó vừa diễn tả vẻ đẹp hùng dũng bên ngoài lại vừa miêu tả sức
mạnh quật cường bên trong. Trong những con người hiên ngang ấy, họ không chỉ
biết làm bạn với khói lửa đạn bom mà họ còn đôi lúc thả hồn theo trăng sao. Sự hài
hoà giữa sự dữ dội và vẻ đẹp lãng mạn đã làm nên sự chói sáng trong tâm hồn
người lính. Hình ảnh ánh sao đầu núi mặc dù không mới (Đầu súng trăng treo -
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Đồng chí - Chính Hữu) nhưng vẫn có sức lay động kì lạ cái phần hồn dân tộc trong mỗi con người Việt Nam.
Và bài thơ khép lại bằng lời khẳng định Việt Bắc mãi là cái nôi, là quê hương của
phong trào cách mạng, nơi đặt niềm tin tưởng và hi vọng của người Việt Nam trên
khắp mọi miền của Tổ quốc, đặc biệt là những nơi còn u ám quân thù.
Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ Tố Hữu viết về nghĩa tình cách
mạng. Bài thơ không chỉ là lời chia tay dạt dào xúc cảm mà còn là lời khẳng định
đinh ninh sự thuỷ chung son sắt của những người cách mạng, là khúc ca bất tận của
tình nghĩa được viết với giọng điệu vừa trữ tình ngọt ngào, vừa sôi nổi thiết tha, trong sáng.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 25
Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được biết đến với tiếng thơ mang đậm tính
trữ tình - chính trị. Những vấn đề mang tính lịch sử khi đi vào thơ ông đều mang
âm hưởng của sự ngọt ngào, tha thiết. Điều này đã được thể hiện rõ qua tác phẩm
"Việt Bắc" - một bài ca về tình quân dân gắn bó thủy chung, son sắt.
Bài thơ đã tái hiện thành công tình cảm gắn bó sâu nặng và nghĩa tình đầy thủy
chung của người cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Trước hết, tình cảm đó
được thể hiện rõ thông qua kết cấu của tác phẩm. Bài thơ là lời đối đáp của nhân
dân Việt Bắc và người cán bộ cách mạng trong hoàn cảnh những người kháng
chiến từ chiến khu Việt Bắc trở về xuôi. Cuộc chia tay lịch sử đó đã được tái hiện
thông qua những cung bậc tình cảm đầy da diết về biết bao kỉ niệm đẹp cùng hoài
niệm tha thiết về năm tháng đã qua. Tác giả Tố Hữu đã khéo léo vận dụng lối đối
đáp gần gũi, quen thuộc với những khúc hát ca dao, dân ca thông qua đại từ "mình"
- "ta", tạo nên những vần thơ chan chứa yêu thương và sâu nặng nghĩa tình nhân
dân, nghĩa tình cách mạng.
Khúc hát đầy ân tình thủy chung được tái hiện ngay từ những phút giây đầu tiên
qua lời của người ở lại:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?"
Tác giả đã sử dụng thành công lời ướm hỏi với âm hưởng ngọt ngào, tha thiết để
gợi nhắc về "Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Đó là quãng thời gian người
chiến sĩ cách mạng cùng nhân dân Việt Bắc gắn bó ân tình. Các đại từ "mình" -
"ta" vốn gắn liền với tình yêu đôi lứa trong thơ ca dân gian kết hợp với điệp từ
"nhớ" được điệp lại bốn lần đã thể hiện thành công tình cảm, nỗi lòng của "kẻ ở".
Đáp lại tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc, "người đi" - những chiến sĩ cách mạng
không tránh khỏi sự "bâng khuâng", "bồn chồn":
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay..."
Sự lưu luyến của "người đi" đối với cảnh và tình Việt Bắc đã được thể hiện qua
những cử chỉ cụ thể, đặc biệt là hành động "Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay"
diễn tả sự nghẹn ngào trong cảm xúc và không thể diễn đạt thành lời. Nối tiếp
mạch cảm xúc đó là những kỉ niệm ấm áp thời kháng chiến gian khổ. Khoảng
không gian thuộc về hoài niệm và tâm tưởng đó được mở đầu bằng hình ảnh thiên
nhiên, cuộc sống gắn với tình người Việt Bắc: "Mưa nguồn", "suối lũ", "những
mây cùng mù", "Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai" cùng những năm tháng
lịch sử của cuộc kháng chiến chống Nhật: "cây đa Tân Trào", "mái đình Hồng
Thái". Nổi bật hơn cả là nỗi nhớ về con người đầy da diết và mãnh liệt:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
"Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi."
Những địa danh, tên gọi cụ thể đã gợi tả thành công nét đẹp rất riêng "Trăng lên
đầu núi, nắng chiều lưng nương". Tác giả đã sử dụng điệp từ "nhớ từng" kết hợp
biện pháp liệt kê để diễn tả từng khoảnh khắc thời gian và không gian núi rừng
Việt Bắc qua những hình ảnh: "bản khói cùng sương", "rừng nứa bờ tre", "ngòi
Thia sông Đáy", "suối Lê" khiến cho nỗi nhớ càng thêm ngân vang với âm hưởng
da diết. Đặc biệt, nhớ về Việt Bắc là nhớ về tấm lòng đồng cam cộng khổ cùng
những sẻ chia, thấu hiểu thời kháng chiến gian nan: "Thương nhau, chia củ sắn lùi/
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng". Nghĩa tình gắn bó đó chính là một trong
những biểu hiện làm ngời sáng vẻ đẹp của tinh thần yêu nước - mạch ngầm xuyên
suốt chiều dài lịch sử dân tộc.
Vẻ đẹp nghĩa tình cùng sự gắn bó trong tình cảm của "người đi" - "kẻ ở" đã được
tái hiện thành công thông qua các biện pháp nghệ thuật giàu tính dân tộc mang đặc
trưng của thơ Tố Hữu - một tiếng thơ có sự hòa quyện giữa tính trữ tình và chính
trị. Tác giả đã khéo léo vận dụng thành công thể thơ lục bát truyền thống kết hợp
lối kết cấu giao duyên quen thuộc trong ca dao, dân ca. Bên cạnh đó, các biện pháp
nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ cùng lối nói giàu hình ảnh đã được sử
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
dụng nhuần nhuyễn để tạo nên một giọng thơ tâm tình, ngọt ngào của bài ca về tình
cảm son sắt thủy chung mang đậm nghĩa tình cách mạng.
Như vậy, qua bài thơ "Việt Bắc", chúng ta có thể thấy được tình cảm gắn bó đầy
nghĩa tình thủy chung giữa quân và dân ta trong những năm tháng kháng chiến
gian khổ cũng như tài năng của nhà thơ Tố Hữu trong việc diễn đạt một câu
chuyện mang tính chính trị trở nên da diết, trữ tình và thiết tha.
Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 26
Đất nước Việt Nam đã trải qua những năm đấu tranh kháng chiến để giữ gìn độc
lập tự do, có những con người thầm lặng góp sức tinh thần trong chiến đấu qua
những lời thơ, lời văn thể hiện. Trong các tác phẩm văn chương đó có thể kể đến
bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm là tấm chân tình trong buổi chia tay đầy
lưu luyến giữa tình cảm giữa nhân nhân Việt Bắc và cán bộ cách mạng.
Những bài thơ lớn của Tố Hữu đều sáng tác vào những điểm mốc của lịch sử cách
mạng Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” – kiệt tác của Tố Hữu cúng được sáng tác
trong một thời điểm trọng đại của đất nước.
Tố Hữu là một nhà thơ – chiến sĩ. Ông làm thơ trước hết vì sự nghiệp của dân tộc,
của Đảng. Thơ ông biểu hiện lẽ sống lớn, tình cảm, niềm vui lớn của dân tộc và
cách mạng. Cảm hứng trong thơ Tố Hữu hướng về nhân dân, cách mạng, cảm
hứng lịch sử hào hùng của dân tộc, chứ không phải cảm hứng đời tư tư của chính tác giả.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lập lại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ, bộ đội rời Việt Bắc trở về Thủ đô
Hà Nội. Trong không khí chia tay đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt
Bắc và những người cán bộ cách mạng, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 12 năm 1945 nhân một sự kiện lịch sử là
trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Bài thơ Việt Bắc là
đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng, đóng góp to lớn cho
thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Phân tích bài thơ Việt Bắc ta sẽ thấy được tình cảm gắn bó thân thiết giữa người đi
và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với thủ đô kháng
chiến, với nhân nhân Việt Bắc.
Với tầm nhìn của một nhà thơ cách mạng, một nhà tư tưởng, Tố Hữu đã phản ánh
sâu sắc hiện thực kháng chiến mười lăm năm của Việt Bắc và dự báo những diễn
biến tư tưởng trong hoà bình.
Tình yêu thiên nhiên, đất nước qua phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu đã được
thể hiện một cách sâu sắc qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc qua bao năm tháng
chiến đấu với nhân dân nơi này. Một tình cảm gắn bó thân thiết như những người máu mủ ruột già.
Nỗi nhớ của tác giả là nỗi nhớ của một người cán bộ sắp phải xa Việt Bắc trở về
xuôi. Hình ảnh của Việt Bắc đã hiện lên rất mộc mạc nhưng đã ôm trọn nỗi nhớ của Tố Hữu.
Đó là hình ảnh “Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương”, những hình ảnh bản
làng mờ mờ trong sương khói, bếp lửa hồng thắp sáng trong đêm, hay những “rừng
nứa bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy”, tiếng “Chày đêm nện cối đều đều suối xa”…tất
cả những nét đẹp bình dị của một vùng rừng núi hoang vui nhưng vẫn ấm áp tình
thương, đặc biệt đó là những trái tim con người nơi đây khiến Tố Hữu nhớ nhất,
mang đậm nghĩa tình nhất.
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Tố Hữu sử dụng thành công lối đối đáp “ta”, “mình”. “ ta về mình có nhớ ta. Ta về
ta nhớ những hoa cùng người”. Nỗi nhớ không sao quên, không nỡ xa cách nơi mà
đã từng gắn bó yêu thương với bao kỉ niệm, cùng dân sống và chiến đấu. Ấn tượng
của tác giả về con người Việt Bắc luôn cần cù trong lao động, thủy chung trong tình nghĩa.
Qua đó thể hiện thiên nhiên Việt Bắc với những cảnh đẹp phong phú, đa dạng, thay
đổi theo từng mùa. Gắn với cảnh tượng đẹp đó là những con người là những con
người thật giản dị, đi làm nương rẫy, trồng khoai, trồng sắn…Nhưng tất cả đều góp
công, góp sức để chung tay làm nên sức mạnh to lớn, kết thành làn sóng xây nên
cuộc kháng chiến trường kì.
Trong hồi tưởng của Tố Hữu Việt Bắc hiện lên đó là hình ảnh những mái nhà” hắt
hiu lau xám, đậm đà tình son”, hình ảnh người mẹ “địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”.
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Câu thơ trữ tình vang lên tạo nên sự đằm thắm gắn bó giữa tình đồng chí và nhân dân.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Những hình ảnh chiến đấu hào hùng, những hoạt động sôi nổi, tinh thần sục sôi
chiến đấu âm vang trong những câu thơ trong phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố
Hữu đậm chất sử thi đã miêu tả một cách hùng tráng.
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Một dân tộc đã vượt qua bao gian khó hi sinh đã tạo nên những chiến công, kì tích:
Phù Thông, đèo Giàng, sông Lô, Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…Tố Hữu đã đi
sâu vào để giải thích cội nguồn sức mạnh chung một lòng để giành những thắng lợi vẻ vang ấy.
Đó là sức mạnh toàn dân, toàn quân kháng chiến, sự gắn bó giữa con người và thiên nhiên:
Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh
Tây Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Bằng những lời thơ trang trọng tha thiết, Tố Hữu đã nhấn mạnh được hình ảnh và
vai trò của Việt Bắc đối với cách mạng. Nơi đây như quê hương, chiến khu đã nuôi
dưỡng nên sức mạnh trong kháng chiến trường kì của nhân dân ta:
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Những câu thơ mang đậm nét trữ tình, ca dao sâu lắng về nghĩa tình dân tộc. trong
cuộc kháng chiến vĩ đại ấy đã có cụ Hồ soi sáng, có “trung ương, chính phủ luận
bàn việc công”, những con người tài giỏi, những lý tưởng cao đẹp, những con
đường đúng đắn sáng suốt ấy đã tạo nên sự thắng lợi.
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa
Tố Hữu từ tình yêu đối với Việt Bắc đã đặt niềm tin vững chắc vào một ngày mai
tươi sáng, đặt niềm tin vào sức mạnh của toàn nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Bác Hồ. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh tươi đẹp của dân tộc:
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
Những hình ảnh chính là mơ ước khát vọng không chỉ của những người cán bộ
kháng chiến mà còn cả nhân dân, tác giả không vì có cái mới mà quên đi những cái
cũ, luôn nghĩ về nhau giữa miền xuôi và miền ngược.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Đây cũng chính là lời tác giả muốn nhắc nhở đừng để sự thay đổi của môi trường,
khi về thủ đô lại quên đi nghĩa tình năm xưa. Những lời thơ của Tố Hữu đến ngày
nay vẫn còn giữ nguyên những giá trị đó.
Hai câu thơ tạo ra tương quan đối lập giữa bóng tối và ánh sáng: nếu câu trên khắc
họa bóng đêm đen tối thăm thẳm gợi kiếp sống nô lệ của cả dân tộc dưới ách đô hộ
của kẻ thù thì câu dưới lại bừng lên ánh sáng của niềm tin vào ngày mai chiến
thắng huy hoàng, tương lai tốt đẹp. Thực ra trong đoạn thơ trên người ta đều nhận
thấy sự đối lập này: Tố Hữu đã sử dụng cả một hệ thống từ chỉ ánh sáng như ánh
sao, đỏ đuốc, lửa bay, bật sáng tương phản với một hệ thống chỉ bóng tối như đêm
đêm, nghìn đêm, thăm thẳm – với xu thế ánh sáng lấn át bóng tối dường như tác
giả có dụng ý nêu bật xu thế của dân tộc ta trước mọi kẻ thù hắc ám, đồng thời
khẳng định những ngày tươi sáng, hạnh phúc nhất định sẽ tới với dân tộc ta.
Có những tác phẩm văn học chỉ giúp chúng ta thấy được một phần nhỏ cuộc sống
hoặc nói về một nhân vật cụ thể nào đó, nhưng với bài thơ Việt Bắc, ta lại thấy
được toàn bộ hình ảnh của cả dân tộc Việt Nam. Cả bài thơ như một bản nhạc nhịp
nhàng, nhẹ nhàng, tha thiết được viết lên như một khúc tình ca và trường ca cho
cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, về những con người quên mình vì sự độc
lập tự do của đất nước. Qua bài thơ Việt Bắc, tác giả cũng thể hiện tấm chân tình
của mình với người dân Việt Bắc, những cán bộ cách mạng hết lòng vì sự nghiệp
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bài thơ Việt Bắc
giải phóng dân tộc. Bài thơ cũng nhắc nhở lớp trẻ chúng ta phải biết ghi nhớ những
công ơn của các Anh hùng của dân tộc, những trang sử hào hùng đẫm máu và nước nước.
Document Outline
- Dàn ý số 2
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 1
- Phân tích Việt Bắc đạt 9+ - Mẫu 2
- Phân tích Việt Bắc hay nhất - Mẫu 3
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 4
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 5
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 6
- Việt Bắc phân tích - Mẫu 7
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 8
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 9
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 10
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 11
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 12
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 13
- Phân tích Việt Bắc - Mẫu 14
- Phân tích Việt Bắc - Mẫu 15
- Phân tích Việt Bắc - Mẫu 16
- Phân tích Việt Bắc lớp 11 - Mẫu 17
- Phân tích Việt Bắc - Mẫu 18
- Phân tích Việt Bắc - Mẫu 19
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 20
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 21
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 22
- Phân tích Việt Bắc - Mẫu 23
- Phân tích Việt Bắc - Mẫu 24
- Phân tích bài Việt Bắc - Mẫu 26