












Preview text:
VIỆT BẮC
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua long lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
Quả thật đúng như thế phải là con người yêu mảnh đất hóa tâm hồn ấy lắm mới có thể cảm nhận sâu sắc được cái
tình mà nó đem lại đến vậy. Phải chăng vì thế mà khi đọc thơ Tố hữu người đọc lay động từng chút, từng câu chữ
sáng tạo độc đáo nhưng thấm nhuần hương sắc đất Việt. Điều này được khắc họa rõ nét trong bài thơ “Việt Bắc”
một thi phẩm đặc sắc đậm đà bản sắc dân tộc, ca ngợi con người kháng chiến và cuộc sống chiến khu thời kháng
chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng và là bản tình ca thủy chung, nghĩa tình giữa con người cách mạng với đồng bào Việt Bắc.
Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của bộ đội ta trong kháng chiến chống Pháp. Tại nơi
đây, người dân miền núi đã che chở, đùm bọc cho Đảng, Chính phủ và kề vai sát cánh bên những người cán bộ
kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Chính vì thế bài thơ “Việt Bắc” được coi là một trong
những đỉnh cao sáng tác của đời thơ Tố Hữu bài thơ được sáng tác nhân một sự kiện quan trọng diễn ra vào năm
1954. Đó là thời điểm quân và dân ta giành được thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu,
buộc Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán và ký với ta hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở miền Bắc. Đây cũng là lúc
cơ quan trung ương đảng và cán bộ cách mạng rời chiến khu Việt Bắc để trở về với Hà Nội- thủ đô sao vàng nắng
Ba Đình. Nhân sự kiện trọng đại đó tháng mười năm 1954, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc, bài thơ ra đời trở thành
khúc hùng ca, khúc tình ca, được biết bao thế hệ yêu thích và trân trọng gọi đó là đình cao của thơ kháng chiến
chống Pháp. Đúng như lời Chế Lan Viên tâm sự "Anh là một con chim vụ ở đường bay, hơn là bộ lông bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp"
Là nhà cách mạng nhưng Tố Hữu lại hiện lên trong mắt bạn đọc giống như một nhà thơ kể chuyện một người nghệ
sĩ chuyên viết tình ca, tình cảm gắn bó với đồng bào Việt Bắc trong những năm tháng sinh hoạt và chiến đấu tại đây
đã trở thành niềm trăn trở trong Tố Hữu. Có lẽ cũng bởi vậy mà giây phút chia li giữa người đi kẻ ở đã được tái hiện
vô cùng chân thực và sinh động:
“Mình về mình mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”
Mở đầu bài thơ là lời của người ở lại- đồng bào Việt Bắc, trước khoảnh khắc chia tay đầy lưu luyến với cán bộ cách
mạng, đồng bào đã không thể kìm nổi lòng mình mà kết thành tiếng bày tỏ câu hỏi được đặt ra một cách trực tiếp,
tình cảm của cán bộ cách mạng. khi về đến thủ đô Hà Nội rồi liệu có còn nhớ đến chúng tôi hay không? Chữ “về”
nghe sao mà tha thiết bâng khuâng đến thế? Có lẽ đây là nơi thấp nhất khiến người đọc dễ dàng nhìn ra một khoản
hụt hẫng trong tâm hồn, giữa buổi chia tay đầy bịn rịn. Đọc một bài thơ viết về tháng năm cách mạng một tình cảm
chung của cả dân tộc vậy mà cách xưng hô nhà thơ này sử dụng lại là “mình -ta”. Chúng ta đã từng gặp rất nhiều trong ca dao:
“Mình nhớ ta như cà nhớ muối
Ta nhớ mình như cuội nhớ trăng”
Hay cặp đại từ mình ta để diễn tả tình yêu đôi lứa:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm dải áo ta đề câu thơ”
Sáng tạo của Tố hữu khi sử dụng cặp đại từ mình ta để diễn tả tình cảm cách mạng cho mối quan hệ càng trở nên
gắn bó gần gũi thân thiết. Cuộc ân tình cách mạng đã hóa thành hàng loạt lời hỏi tha thiết vừa để dò hỏi khám phá
sự nhắn nhủ cán bộ về xuôi vừa để bày tỏ nỗi nhớ niềm thương đang đong đầy cõi lòng mình. Đây cũng là thời
điểm phù hợp để người ở lại nhắc nhớ về khoảng thời gian mười lăm năm. Đó là giai đoạn kháng chiến thủa còn
Việt Minh một khoảng thời gian dài gắn bó với biết bao kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình. Tố Hữu đã rất tinh tế khi sử
dụng chữ “ấy” để cá nhân hóa khoảng thời gian này. Đây là khoảng thời gian đã chứng kiến biết bao kỉ niệm trong
chiến đấu trong sinh hoạt của cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Và đặc biệt thay đó cũng là mốc thời gian
nhắc nhớ về cội nguồn cách mạng. Cách sử dụng từ ngữ của Tố hữu thật đặc biệt nói về tình cảm của những người
cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc mà lại sử dụng tính từ “thiết tha, mặn nồng”. Đây vốn là những từ ngữ
thường sử dụng cho tình cảm của đôi lứa, uyên ương. Vậy mới thấy được chất trữ tình nồng đượm trong tứ thơ
của nhà thơ cách mạng Tố Hữu. Chế Lan Viên người bạn thơ đã đưa ra nhận xét về thơ Tố hữu như sau "thơ là đi
giữa nhạc và ý rơi vào cái vực ý thơ sẽ sâu nhưng rất dễ khó khan, rơi vào cái vực nhạc thì thơ dễ làm đắm say
người nhưng cũng dễ nông cạn, Tố hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy thơ của anh vừa run
người trong nhạc vừa thức người bằng ý.” Đọc Việt Bắc chúng ta càng thêm thấm thía nhận định này. Qua những
câu thơ trên, người ở lại đặt bày tỏ tình cảm lưu luyến bịn rịn không nỡ rời xa. Chưa dừng lại ở đó người ở lại tiếp tục tỏ bày:
“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Điệp từ “nhìn và nhớ” được nhắc lại hai lần, thể hiện một nỗi nhớ bao trùm không gian và cả thời gian, như tha
thiết thường trực trong lòng của người ở lại. Vẫn là câu hỏi tu từ nhắc nhở người đi về tình cảm của người ở lại. Lời
ướm hỏi nhắc người đi về nỗi nhớ thiên nhiên và con người nơi đây. Về với Hà Nội của đèn đường của phố thị,
những cảnh sắc thiên nhiên của Việt Bắc nơi đây có khiến người quên đi hay không? “Nhìn cây nhớ núi” là nhớ về
thiên nhiên Việt Bắc đẹp tươi, “nhìn sông nhớ nguồn” là nhớ về cội nguồn của tình nghĩa, cội nguồn cách mạng. Có
lẽ bởi vậy, nhà thơ chế Lan Viên cũng đã từng gửi gắm tình cảm của mình nói hộ biết bao trái tim và những cung bậc trước khi chia xa
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
Có lẽ giờ đây Việt Bắc đối với những người cán bộ cách mạng chỉ là một thời đã xa nhưng vẫn hiện hữu trong ký ức.
Nó như một nỗi ám ảnh thường trực như một mạch cảm xúc nóng đang chảy trong lồng ngực. Qua bốn câu thơ ta
thấy được cách vận dụng từ ngữ linh hoạt của Tố hữu, Ông đã vận dụng rất khéo léo đạo lí " uống nước nhớ
nguồn" của dân tộc để nhắc nhỏ con cháu đời sau không được quên công ơn của thế hệ cha ông đi trước. Sau này
hỏi để gợi nhắc một cách khéo léo của người ở lại là lời giãi bày bộc bạch cảm xúc của người ra đi. Dù không trực
tiếp nhưng đầy bâng khuâng xao xuyến:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”
Mở đầu đoạn thơ là đại từ phiếm chỉ “ai “vang lên một cách đầy tự nhiên.Đó chính là người ở lại, nhưng đại từ
phiếm chỉ gợi cảm giác tiếng của ai đó chưa rõ mặt chỉ là những âm thanh cách lên vang vọng từ núi rừng Tây
Bắc.Những cặp từ láy “bâng khuâng” “bồn chồn” diễn tả trạng thái tâm lý nhớ thương luyến tiếc khiến lòng chẳng
thể yên. “bâng khuâng” gọi trạng thái cảm xúc khó tả mơ hồ đan xen bởi buồn vui luyến tiếc nhớ nhung. Còn “bồn
chồn” là tâm trạng thấp thỏm, nôn nào khiến con người ta đứng ngồi không yên. Đúng như Tú xương đã viết:
“Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”
Cách ngắt nhịp 4/4 với hai vị tiểu đối đối lập giữa bên trong và bên ngoài cho thấy hiệu quả diễn đạt thêm súc tích.
Tâm trạng chia tay đầy lưu luyến ấy còn được thể hiện một cách tinh tế qua hai câu thơ tiếp theo:
“ Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
Tình nghĩa sắt son mặn nồng nhưng cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến lúc phải chia ly. Màu “áo chàm” đặc trưng cho
những con người chân chất miền núi Tây Bắc. Tố Hữu đã khéo léo tận dụng hình ảnh hoán dụ này, càng thể hiện sự
gần gũi giản dị giữa quân và dân miền núi. Họ không cùng một quê hương nhưng chung một đất nước, có thể lý
tưởng sống của mỗi người cũng khác nhau nhưng một khi đã gặp nhau trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng trong
lòng họ không ai bảo ai, đều chung một niềm tin chiến đấu chiến đấu đến cùng đập tan quân giặc. Sắc áo chàm
vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của những người con về xuôi, màu áo vừa khắc họa tính cách một mặt vừa
thắm lên tấm lòng son sắc thuỷ chung của họ với cách mạng với kháng chiến. Động từ “cầm tay” thể hiện sự gắn bó
khăng khít yêu thương và đoàn kết đó là hành động thể hiện sự lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Người ta cầm tay
nhau để truyền sức mạnh, truyền tình cảm. Giống như người lính cụ Hồ trong kháng chiến “nắm tay” nhau để
truyền hơi ấm và gắn kết tình đồng đội: “ Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Họ cầm tay nhau trong tâm trạng nghẹn ngào vì thế không nói nên lời. “Biết nói gì hôm nay” có lẽ không phải
không muốn nói gì mà họ có quá nhiều điều muốn nói nên không biết nói gì vào lúc này, khi mọi lời nói trở nên bất
hữu trước tình cảm trào dâng mãnh liệt, bao nhiêu tình cảm thân thương trìu mến chất chứa trong sự im lặng đầy
xúc động. Dấu ba chấm xuất hiện như một nốt nhạc ngân dài nối tiếp tình cảm hai bên. Bốn câu thơ là lời đồng
vọng nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu nặng trong ngày
chia tay. Tất cả đều được tái hiện qua cặp đại từ “mình ta”, thể thơ lục bát truyền thống với ngôn ngữ giản dị mộc
mạc, cùng các biện pháp tu từ: hoán dụ, từ láy,. . Có thể nói Việt Bắc không chỉ là khúc tình ca mà còn là khúc
hùng ca thiết tha, ân tình của nhà thơ đối với khu căn cứ địa của cách mạng Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ
qua khổ thơ thứ hai lời tâm tình của người dân Việt Bắc và những ngày kháng chiến đã đồng cam cộng khổ cùng
cán bộ trong suốt mười lăm năm:
“ Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Lời nói mộc mạc giản dị, như thủ thỉ mà rót vào lòng người đi mình đi có nhớ rất ngọt ngào sâu lắng, mà lại thân
thương gần gũi. Những ngày đó là khoảng thời gian gắn bó cuộc đời mình với chiến đấu với Việt Bắc và cả đồng bào
Việt Bắc. Câu thơ mang dáng dấp của câu hỏi tu từ, cũng đồng thời gợi ra một khoảng thời gian ký ức đong đầy nhớ
thương của đồng bào Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Và những ngày ấy là:
“Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối muối thù nặng vai”
Tác giả đã liệt kê ra những khung cảnh thiên nhiên hoang sơ thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc. Qua đó
khắc họa những khó khăn mà nhân dân Việt Bắc cùng cán bộ kháng chiến đã cùng nhau trải qua trong mười lăm
năm gắn bó. Hơn nữa nghệ thuật đối lập “mưa nguồn suối lũ” “những mây cùng mù” đã gợi lên hình ảnh thiên
nhiên Việt Bắc rất đỗi thơ mộng và trữ tình. Trong khung cảnh quen thuộc ấy hình ảnh “miếng cơm chấm muối”
“ mối thù nặng vai”gợi ra những tháng ngày khó khăn gian khổ và đầy thiếu thốn. Mặc dù trong gian lao thế nhưng
họ cùng chung chí hướng ,cùng chung lý tưởng đó là mối thù sâu nặng đối với những kẻ cướp nước. Câu thơ thấp
thoáng niềm tự hào, bởi mình và ta đã cùng nhau sát cánh trải qua những tháng ngày gian khổ sống chết bên nhau.
Tố Hữu viết tiếp những dòng thơ thương nhớ:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Tất cả những điều đó như lần lượt theo dòng hồi ức mà tràn về trong nỗi nhớ của cả người đi lẫn người ở. Câu hỏi
với sự ám ảnh của người đi người về cứ xoáy sâu vào tâm trí của người đọc. Qua nghệ thuật nhân hóa “rừng núi
nhớ ai” nỗi nhớ như bao trùm lan tỏa khắp không gian của núi rừng Việt Bắc, rừng núi cũng dường như gần ngơ
trước nỗi buồn chia xa. Nhà thơ Tố hữu thật tinh tế khi lấy " trám và măng" để gợi tả nỗi nhớ. Bởi đó là hai sản vật
quen thuộc của núi rừng Việt Bắc: người ở lại đã lấy sự thừa thãi của cảnh vật để diễn tả nỗi trống vắng trong tâm
hồn. Mình về khiến núi rừng Việt Bắc trở nên trống trải buồn bã đến lạ thường. Cách giãi bày nỗi nhớ rất mộc mạc,
giản dị ,chân thành mà tha thiết. Bên cạnh đó hình ảnh những nếp nhà Việt Bắc cũng được nhắc đến trong ý thơ.
Tác giả đã đảo " hắt hiu" lên đầu câu để nhấn mạnh sự vắng vẻ hoang vu của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh lau xám
dường như rất quen thuộc đối với núi rừng hoang sơ :
“Ai đi biên giới cho lòng ta theo với
Trăm ngàn lâu lau trắng có một mình”
Thủ pháp đối lập giữa hình ảnh trong câu thơ " hắt hiu lau xám đậm đà lòng son" đã thể hiện đậm nét sự thủy
chung, son sắt bền lòng của tình quân dân trên mảnh đất này. Nhìn từ xa đó là những ngôi nhà có sự heo
hút ,nghèo nàn, đơn sơ nhưng ẩn sâu bên trong lại là trái tim ấm áp và tình cảm sắt son của đồng bào Việt Bắc.
Hình ảnh “tấm lòng son “khiến ta gợi nhớ đến vẻ đẹp của người phụ nữ phong kiến trong thơ của Hồ Xuân Hương:
" Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son" Những năm tháng gian nan vất vả thiếu thốn, khó tránh khỏi những đau thương khắc
nghiệt của cuộc sống, ngọn lửa chiến tranh vẫn còn cháy dữ dội những ngày tháng vẫn còn phải kháng Nhật thuở
còn Việt Minh như đã in sâu trong tiềm thức trong trí nhớ:
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Câu lục tác giả đã sử dụng cách xưng hô vô cùng độc đáo: ba từ “mình” diễn tả hai ngôi hai ,từ “mình “đầu tiên ở
ngôi thứ hai từ “mình” thứ ba ở ngôi thứ nhất. Từ đó tác giả muốn thể hiện “ta với mình “tuy hai mà một, quấn
quýt gắn bó không thể tách rời. Câu tám đã khép lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử bằng nghệ thuật
liệt kê. Đó là những địa danh địa điểm vô cùng quen thuộc có ý nghĩa đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Câu thơ đã gợi nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ
nhất là sự kiện cây đa Tân Trào . Đó là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của quân đội nhân
dân Việt Nam) làm lễ xuất quân lúc đầu chỉ có 34 thành viên sau đó đã trở thành một quân đội lớn mạnh. Địa điểm
thứ hai là mái đình Hồng Thái, nơi bác chủ trì cuộc họp quyết định cách mạng tháng tám . Chính quyết định sáng
suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp thành công giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Có lẽ tác giả nhắc lại
những địa danh lịch sử nhằm nhấn mạnh câu hỏi để nhắc nhở và khẳng định Việt Bắc chính là cái nôi của cách
mạng là thủ đô của kháng chiến. Khổ thơ tiếp theo là lời thề son sắt thủy chung và nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc
thơ mộng trữ tình là lời bộc bạch trực tiếp của cán bộ về xuôi đối với người dân Việt Bắc: Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…
Sâu nặng bền chặt tình “ta và mình” luôn khắc sâu và được hai bên ghi lòng tạc dạ. Đó là tình quân dân gắn bó như
cá với nước, là sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cách mạng ,là bài học cha ông vẫn còn nguyên giá trị.Qua
nghệ thuật lặp kết hợp với đảo "ta, mình ,với" đã thể hiện được sự gắn bó tình cảm gần gũi của người ra đi dành
cho người ở lại. “Mình và ta” là một quấn quýt yêu thương. Bên cạnh đó là nghệ thuật đối lập “sau và trước” khẳng
định tình cảm thủy chung trước sau như một không thay đổi. Đó không chỉ là tình cảm đối với người ở lại, mà còn
là sự chung thủy gắn bó với cách mạng. Hai từ láy “mặn mà ,đinh ninh” vang lên một cách tự nhiên khẳng định đó
là tình cảm chắc chắn bền vững không thay đổi theo thời gian. Hai câu thơ là lời thề lời hứa ra đi không quên cội
nguồn Việt Bắc. Câu thớ gợi về một tứ Kiều:
“Vầng trăng vằng vằng giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song”
Còn từ “lại” chính là đáp lại câu hỏi của người ở lại khẳng định nỗi nhớ thường trực không nguôi trong lòng của
người ra đi. “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã mượn cách nói quen thuộc của ca dao:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Qua nghệ thuật so sánh nghĩa tình của người ra đi và người ở lại với nước trong nguồn. “Nước trong nguồn” thì
không bao giờ vơi cạn và tình nghĩa cách mạng cũng thuỷ chung son sắt không bao giờ thay đổi. Lời của người ra đi
đáp lại tình cảm của người ở lại bằng những lời khẳng định chắc chắn đinh ninh, như một lời thề lời hứa thủy chung
son sắt không bao giờ thay đổi. Tác giả đã tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân
Việt Bắc đồng thời khẳng định tình cảm thủy chung son sắt . Đó là nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam.
Tính dân tộc đó mà thấm nhuần trong từng câu chữ của thi phẩm:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Những ký ức như ngày nào dội về, mỗi kỷ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Tác giả đã
so sánh nỗi nhớ Việt Bắc như nỗi nhớ người yêu. Có lẽ bởi khi nói về nỗi nhớ người yêu khiến cho con người ta bồn
chồn đứng ngồi không yên. Đó là nỗi nhớ ám ảnh thường trực, không nguôi nhiều khi mãnh liệt và phi lý:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Qua đó, nỗi nhớ đã cho thấy mức độ tình cảm của người về xuôi dành cho Việt Bắc là vô cùng sâu nặng và tha
thiết. Có ai ngờ giữa không khí cách mạng cao trào lại hiện lên khung cảnh thiên nhiên lãng mạn đến vậy? “Trăng
lên đầu núi nắng chiều lưng nương"cảnh sắc nên thơ êm ả quá. Cả miền Việt Bắc như dịu êm, mờ ảo trong khói
chiều làm mê đắm lòng người. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê hình ảnh thiên nhiên “trăng, núi, nắng, khói
sương, rừng nứa bờ tre , sông suối. …Từ đó bức tranh thiên nhiên Việt Bắc được khắc họa một cách phong, phú đa
dạng, đồng thời cũng rất lãng mạn thơ mộng và trữ tình. Thời gian thì cứ liên tiếp nhau lặp lại cùng không gian bao
la của núi rừng. Dường như nỗi nhớ đã bao trùm toàn bộ không gian và thời gian. Điệp ngữ “nhớ từng” được lặp lại
hai lần như khắc sâu một lần nữa tình cảm sâu nặng da diết. Bên cạnh đó tác giả đã liệt kê một loạt các địa danh
ngồi Thia, sông đáy, suối lê đó là những địa danh thân thuộc gắn bó. Hơn nữa từ “vơi đầy” là chỉ sự phơi bày của
nước dòng sông và cũng như nỗi nhớ dào dạt tha thiết của người về xuôi. Bức tranh thiên nhiên khép lại để mở ra
một nỗi nhớ da diết hơn về con người Việt Bắc. “Sớm khuya” là khoảng thời gian trong ngày kết hợp với động từ
“đi về” đã thể hiện sự vất vả chăm chỉ cần cù của người dân Việt Bắc. “Người thương” ấy là những con người nghĩa
tình, đã cùng cán bộ chia sẻ buồn vui, gánh vác gian khó. Đó có chăng là hình ảnh người mẹ, người em liên lạc,
người con gái quả cảm hay người anh du kích trong thơ Chế Lan Viên:
“Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc”
“Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Tưởng như câu thơ “Ta đi ta nhớ “đã khẳng định một cách chắc chắn đinh ninh tình cảm kiên định không thay đổi.
Hơn hết cách nói “mình đây ta đó” thể hiện tình cảm khăng khít gắn bó. Chính vì thế họ đã trải qua những “đắng
cay ngọt bùi” cho những gian khổ khó khăn cũng như niềm vui buồn trong mười lăm năm sâu nặng nghĩa tình. Thật
tinh tế và khéo léo, qua cách Tố hữu đã đưa thành ngữ vào thơ một cách tự nhiên “đắng cay ngọt bùi”. Tất cả khó
khăn ấy đầu khép lại bằng phép im lặng qua dấu ba chấm ở cuối câu, để thể hiện cảm xúc dâng trào không thể tiếp
tục nói lên lời. Họ không chỉ trải qua khó khan, mà họ còn chia nhau “củ sắn lùi”,”bát cơm sẻ nửa” “chăn sui” qua
liệt kê một loạt các hình ảnh phong phú sinh động và chân thực. Dường như tác giả đã vẽ lên bức tranh cuộc sống
kháng chiến không chỉ ác liệt với kẻ thù, mà còn thiếu thốn trong đời sống sinh hoạt. Và có lẽ các động từ “chia sẻ”
“đắp cùng” đã thể hiện chân thực cảm động tình cảm giữa người dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến. Họ chia sẻ với
nhau từng miếng ăn ngày đói, hơi ấm trong những đêm đông giá lạnh. Chính những điều đó đã tiếp thêm động lực
để cán bộ kháng chiến có thể chiến đấu để có thể vượt qua những gian khổ. Đó cũng chính là cội nguồn của nỗi
nhớ. Nhưng cảm động hơn ở một khía cạnh khác đó là hình ảnh của người mẹ trong kháng chiến:
“nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”
Hình ảnh nắng cháy lưng lên ảnh tả thực gửi mẹ Việt Bắc lao động trong điều kiện khắc nghiệt dữ dội nhất. Tố hữu
đã sử dụng thành công các động từ địu, Bẻ để diễn tả sự vất vả của người mẹ Việt Bắc trong cuộc sống lao động.
Người mẹ đã nhọc nhằn chịu thương chịu khó chắt chiu cho con và ủng hộ kháng chiến. Lúc này con người Việt Bắc
hiện lên trong tứ thư của nhà thơ là những con người cần cù chịu thương chịu khó trong lao động, yêu thương ủng
hộ kháng chiến, thủy chung với cách mạng. Bên cạnh đó còn là tình cảm yêu mến của nhà thơ và sự trân trọng biết
ơn đối với những người mẹ kháng chiến. Hình ảnh của họ từng hiện lên rất xúc động trong thơ Thu Bồn.
“Mẹ quạt con bằng gió nồm lòng mẹ
Mẹ ấp con bằng lồng ngực không còn mùa đông Mẹ xoa đầu con
Bằng bàn tay mẹ xoa cánh đồng”
Hơn hết không chỉ là những con người cao cả ấy mà cả cuộc sống sinh hoạt ở Việt Bắc cũng để lại ấn tượng sâu
đậm trong trí nhớ của nhà thơ:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…”
Điệp ngữ nhớ sao được nhắc lại hai lần thể hiện một nỗi nhớ da diết mãnh liệt khôn nguôi đang chào dâng ăm ắp
trong lòng. Đó là hình ảnh của lớp học " i tờ " là hình ảnh của những lớp bình dân học vụ xóa nạn mù chữ trong
những ngày đầu kháng chiến. Cụm từ ấy đã gọi xa cách đánh vần ngọng nghịu những nét chữ vụng về. Nhưng đằng
sau đó là cả một sự cố gắng và tinh thần giác ngộ cách mạng của con người Việt Bắc. Bởi có lẽ biết chữ họ mới có
thể tiếp cận được với thông tin kháng chiến để góp một phần công sức nào đó vào sự độc lập của dân tộc. Hình ảnh
những giờ liên hoan cũng được hiện lên với không khí vui tươi phấn khởi náo nức. Đó là những phút giây khiến cho
con người kháng chiến quên đi những mệt nhọc để tiếp tục chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Khó khăn gian khổ là thế
nhưng đâu đó vẫn vang vọng tinh thần lạc quan yêu đời tin tưởng vào ngày mai tươi sáng của những con người
Việt Bắc qua âm thanh tiếng hát ca vang. Hai câu cuối âm thanh hiện lên vô cùng sinh động đã xua đi cái im lặng
của núi rừng tiếng mõ rừng chiều chạy đêm nện cối suối xa. Đó là những âm thanh quen thuộc của Việt Bắc mang
nét đặc trưng của núi rừng, gợi cuộc sống em đềm thanh bình êm ả.
Thiên nhiên Việt Bắc cũng tạo nên một bức tranh tứ bình với phong cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông: Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Câu hỏi tu từ vang lên, cũng là câu hỏi đầu tiên từ phía người ra đi một câu hỏi phản phất hương vị ngọt ngào của
tình yêu. Đó cũng là câu hỏi để gọi nhắc chứ không gọi câu trả lời. Vì có lẽ họ quá hiểu rõ lòng nhau. Một lần nữa ta
lại bắt gặp giọng điệu ngọt ngào tha thiết qua cặp đại từ “mình ta”. “Hoa” là biểu tượng cho những gì tinh túy nhất
của núi rừng Việt Bắc. Nhắc đến hoa là nhớ đến người dân Việt Bắc nơi đây. Hoa và người có sự hòa quyện gắn bó,
làm cho bức tranh thiên nhiên thêm sống động. Cấu trúc của khổ thơ rất độc đáo cứ một câu nói về cảnh lại là một
câu nói về người, tạo nên bức tranh tứ bình cảnh với cảnh sắc bốn mùa. Trong nghệ thuật tứ bình phương Đông khi
nói đến cảnh của thiên nhiên bao giờ cũng có hình ảnh của tùng, cúc, trúc, mai hay long, ly, quy, phượng, còn nói
tới con người là ngư, tiêu, canh, mục. Còn ở đây Tố Hữu đã lãng mạn hóa núi rừng Tây Bắc tạo nên bức tứ bình
riêng rất Việt Nam. Đầu tiên là cảnh mùa đông:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Bức tranh mùa đông gợi lên bởi không gian mênh mông với chiều rộng của rừng xanh đại ngàn. Tất cả trở nên sáng
hơn khi tô điểm trên nền màu xanh bát ngát của núi rừng, là màu đỏ tươi của hoa chuối đang nở rộ. Hai từ “đỏ
tươi” làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng ấm áp xua đi cái hoang sơ lạnh lẽo vốn có của mùa đông. Nổi
bật trên nền xanh ấy là hình ảnh con người trong một tư thế trên đỉnh đèo cao. Đó là tư thế của con người hiên
ngang vững chãi làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng. Không chỉ thế thì hình ảnh “dao gài thắt lưng” làm con
người hiện lên trong lao động hằng ngày chăm chỉ cần cù. Nhưng đặc sắc hơn là cụm từ “nắng ánh”. Tác giả thật
tinh tế khi đã chớp lấy khoảnh khắc đẹp nhất trong ngày. Đó là khi anh nắng rọi vào lối sau khiến con người trở
thành điểm hội tụ của ánh sáng tỏa sáng trên đỉnh đèo cao. Có lẽ đây là một phát hiện độc đáo và sáng tạo trong
cái nhìn quan sát đầy tinh tế và chi tiết của Tố hữu. Qua hai câu thơ ta thấy giữa hoang sơ heo hút, giữa trời cao và
rừng rộng mênh mông con người đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông ở Việt Bắc. Khép lại bức tranh mùa
đông là sự bao trùm với màu trắng tinh khiết của hoa mơ đã làm cho không gian núi rừng Việt Bắc mang vẻ đẹp trong trẻo lạ thường:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Đó là khi Việt Bắc vào mùa xuân. Chúng ta đã thấy hình ảnh ấy trong bài thơ “trường ca theo chân Bác”:
“Ôi sáng xuân nay Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về . . im lặng! Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Tố hữu đã sử dụng thành công động từ “nở” để miêu tả được sức sống mùa xuân như lan tỏa khắp không gian núi
rừng Tây Bắc. Hai từ “trắng rừng” đã làm cho không gian của núi rừng Việt Bắc như bừng sáng cả một khoảng trời,
như được thay áo mới. Trên nền trắng tinh khôi ấy thì con người vẫn tỉ mỉ khéo léo cần mẫn trong công việc hằng
ngày qua từ " chuốt ". Đó là ngày đan nón một công việc truyền thống ở Việt Bắc. Từ đó về đẹp con người Việt Bắc
đã khắc sâu trong tâm trí của người ra đi trở thành một dấu ấn không thể nào phai mờ. Bức tranh mùa xuân qua đi
màu trắng cũng mờ dần, để nhường chỗ cho âm thanh tiếng ve kêu rạo rực cả một góc trời Việt Bắc vào mùa hè.
Đó là âm thanh rộn rã tươi vui một âm thanh rất đặc trưng để báo hiệu hè về:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Trong cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi, ông cũng đã từng nhắc đến tiếng ve như một dấu hiệu nhận biết hè sang:
“Dắng dỏi cầm vé lầu tịch dương”
Không chỉ là âm thanh mà cả hình ảnh cũng hiện lên với màu sắc vô cùng rực rỡ khi rừng phách đổ vàng. Động từ
“đổ” đã diễn tả thật tinh tế cảm giác choáng ngợp ấy, vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài
tình từng đợt lá phách rừng trút xuống khi có ngọn gió thoảng qua. Dường như cảnh vật có sự giao cảm với nhau.
Sau lời giục giã của tiếng ve, dòng thác vàng bất ngờ “đổ” ụp từ trời cao xuống khiến cả rừng cây óng ánh sắc vàng.
Chúng ta cũng đã từng bắt gặp sự chuyển đổi màu sắc trong bài thơ “Duyên” của Xuân Diệu :
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
Bức tranh mùa hè trong tưởng tượng như một bức tranh sơn mài lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.
Sau cùng là bức tranh mùa thu, tuy nhiên là không hề có bất cứ màu sắc nào cả thay vào đó là hình ảnh của ánh
trăng Khác với xu thế bình thường là xuân-hạ-thu-đông, mở đầu lại là mùa đông và kết lại bằng mùa thu.Bởi trong 9
năm ấy là từ mùa đông năm 1946 Bác đưa ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và khép lại bằng tháng 10/1954. Rồi
mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh núi rừng Việt Bắc trở nên mơ màng, êm ả đầy không
khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy, những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại
được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát của núi rừng
Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát "ân tình" khép lại bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người,
gợi cho người đi, kẻ ở và cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa về tình yêu Tổ quốc. Với những nét
phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con
người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một
nét độc đáo trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại nhớ ngay đến
những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung. Tuy cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ, nhưng nhắc đến Việt Bắc
nhắc đến Điện Biên Phủ, thì cũng không thể thiếu những hình ảnh của những người lính trên chiến trận. Mở đầu
khúc hùng ca ta bắt gặp hình ảnh của những con người ra trận:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Hình ảnh những con đường ra trận dòng hoài niệm của người cán bộ với ăm ắp những niềm tự hào. Hai chữ “của
ta” vang lên thật hùng hồn. Câu thơ giống như lời khẳng định chắc nịch. Đọc xong sáu chữ ấy mà khát khao được
đứng lên làm chủ quê hương, đất nước mình vẫn vang vọng trong trí nhớ. Cảm hứng này đã từng xuất hiện nhiều trong thơ ca cách mạng:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta”.
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Hình ảnh những con đường hành quân đi tới ngày mai tươi sáng. Nhưng những con đường ấy cũng chính là biểu
tượng cho con đường cách mạng trong cả quá trình trưởng thành. Nếu ở hai câu đầu người cán bộ nhớ về hình ảnh
đoàn quân Việt Bắc ra trận qua từ láy rầm rập thì ở hai câu thơ sau ông miêu tả trọn vẹn sức mạnh khổng lồ của
đoàn quân qua từ lấy tượng hình điệp điệp trùng trùng.
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Đó là một cách sử dụng từ độc đáo của Tố Hữu. Khi ông lấy từ gốc là trùng điệp sau đó tách từ và láy lại, Đã miêu tả
đoàn quân đông đảo có thể chạy sài Vinh dọc khắp núi rừng vừa mạnh mẽ hào hùng vừa có thể đập tan mọi kẻ thù
xâm lược. Câu thơ tiếp theo xuất hiện hình ảnh thật đẹp. Đó là hình ảnh Ánh Sao đầu súng có thể hiểu theo hai
cách. Có thể là ý nghĩa tả thực, những người lính hành quân trong đêm súng vác trên vai Ngôi sao có lúc như treo
trên đầu Ngọn súng, Ngôi sao trở thành người bạn đồng hành của những người chiến sĩ. Hình ảnh thơ ấy có nét
tương đồng với ảnh thơ trong bài thơ đồng chí của chính hữu: Đầu súng trăng treo Hay đó là nét tương đồng trong
thơ của Nguyễn đình Thi: Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây Bên cạnh đó hình
ảnh ấy còn mang ý nghĩa biểu tượng vô cùng đặc sắc. Ánh sao là biểu tượng cho lý tưởng cách mạng lý tưởng cao
đẹp của cuộc đời những người chiến sĩ. Đầu súng là tinh thần chiến đấu là sự oai nghiêm dũng cảm. Cả câu thơ có
thể hiểu, đó là lý tưởng cách mạng đã soi đường chỉ lối cho những người lính tiếp tục chiến đấu bằng ý chí và sự
bất khuất kiên cường. Tất cả hình ảnh thơ được tái hiện vừa thực vừa lãng mạn. Không chỉ có bộ đội ra trận mà
nhân dân ta ở bất kì đâu cũng hăng hái góp sức mình vào cuộc kháng chiến. Cùng hành quân với bộ đội là những
đoàn dân công phục vụ chiến đấu:
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Tác giả đã sử dụng đảo ngữ “dân công” lên đầu câu. Từ đó nhấn mạnh lực lượng cùng tham gia kháng chiến bao
gồm cả các dân công. Dường như đó là cuộc kháng chiến của cả toàn dân của cả dân tộc chứ không riêng gì những
người chiến sĩ đầu đội trời chân đạp đất. Tố hữu thật tinh tế và độc đáo khi đặt “dân công” ở đâu câu cuối câu là
“từng đoàn”. Với cấu trúc ấy đã gợi ra sự trùng điệp vô tận của những đoàn dân công, họ ngày đêm cần mẫn với
công việc chuyển lương thực, phục vụ chiến trường. Hình ảnh đoàn dân công bước đi trong đêm với những ngọn
đuốc cháy sáng rực trên tay. Tất cả đều mang âm hưởng sử thi hào hùng, hình ảnh hoành tráng bay bổng lãng mạn.
Nhưng đặc sắc hơn khi nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật phóng đại bước chân nát đá. Từ đó để miêu tả được sự
đông đảo của những lực lượng tham gia kháng chiến. Dường như mọi thứ đã được thần thoại hóa kể cả sức mạnh
của quân đội ta: những con người đạp bằng chông gai đi tới. Để có thể chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm
lược họ quyết hi sinh bản thân mình vì dân tộc. Khép lại hai câu thơ trên hình ảnh thơ đã tái hiện được khí thế hào
hùng của Việt Bắc trong chiến đấu. Mặc dù điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ, nhưng trong họ vẫn luôn giữ
niềm lạc quan tin tưởng vững chắc vào ngày mai chiến thắng của dân tộc ta:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Hiện thực mà tác giả khắc họa là cuộc chiến đấu của nhân dân, bộ đội rất gian khổ, bí mật thường phải chiến đấu
trong đêm tuổi nên cần đốt đuốc, “Nghìn đêm” được tái hiện qua nghệ thuật ước lệ. Đó là khoảng thời gian dài
không có điểm dừng. Nhưng hơn thế nữa, qua từ láy “thăm thẳm” đã gợi tả được màn sương dày đặc bao phủ Việt
Bắc. Đó là thiên nhiên khắc nghiệt dữ dội, gọi lên sự mù mịt không hướng đi. Đặc sắc hơn hình ảnh đó còn ẩn dụ
cho quãng thời gian đen tối khi dân tộc, chìm trong đêm trường nô lệ. Nhân dân cả nước phải chịu sự đau khổ mất
mát cả về tinh thần lẫn vật chất trong những năm tháng chiến tranh. Xua đi đêm tối, gạt đi màn sương dày động từ
“bật sáng” xuất hiện như làm bừng sáng cả câu thơ kết hợp với nghệ thuật so sánh “như ngày mai lên”. Hai hình đó
đã nhấn mạnh khoảnh khắc chói lòa khi kháng chiến chuyển sang một thời kỳ mới: thời kỳ của chiến thắng vẻ vang
đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng của cán bộ kháng chiến của nhân dân Việt Bắc. Tố Hữu đã đã sử dụng nghệ thuật
đối lập “thăm thẳm sương dày” và “bật sáng như ngày mai lên” để diễn tả sự tự hào, niềm tin vào tương lai tươi
sáng của cách mạng. Tất cả những hình ảnh ấy khép lại làm hiện lên trước mắt người đọc một Việt Bắc hào hùng
anh dũng, một quân đội nhân dân lớn mạnh có thể chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Và đó cũng là
một thời kỳ gian khổ hiểm nguy nhưng vô cùng hào hùng của dân tộc. Chính những sức mạnh ấy, niềm tin ấy đã
đem lại những niềm vui chiến thắng. Những tin vui chiến thắng dồn dập, liên tục trên nhiều mặt trận được gửi về
làm nức lòng quân và dân ta:
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De, núi Hồng Điệp
từ "vui" được lặp đi lặp lại nhiều lần gợi lên những đợt sóng tình cảm trào dâng, đợt sóng này kế tiếp đợt sóng kia
cứ dâng lên, dâng lên mãi, tràn ngập tâm hồn nhà thơ, trong lòng quân dân cả nước.Với lối thơ lục bát ngọt ngào
như ca dao, với chất thơ trữ tình cách mạng, thật sôi nổi, hào hùng, thiết tha, nhà thơ Tố Hữu trong đoạn thơ này
đã thể hiện nổi bật khí thế hào hùng của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc; đồng thời
đoạn thơ còn thể hiện niềm lạc quan cách mạng, ý chí chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, làm nên những chiến thắng
vẻ vang, mang niềm vui về cho dân tộc. Đoạn thơ như một đoạn sử thi của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau chiến
thắng vẻ vang của toàn dân ta, khắp nơi hân hoan trong màu sắc rực rỡ tươi vui dưới anh nắng và lá cờ đỏ sao vàng: Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch Thu – đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu… Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng Hòa.
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào
Trung ương đảng và chính phủ thu xếp trở về thủ đô, trong không khí nhộn nhịp, miền Bắc ngày một đổi mới với
chính sách mới của đảng và nhà nước. Đồng thời đoạn thơ cũng là lời ngợi ca công lao vĩ đại của Bác hồ kính yêu lời
tri ân sâu sắc với miền núi rừng Tây Bắc thân thương, dù mai này đã trở về thủ đô nhưng trong tim những người
chiến sĩ cách mạng luôn giữ cho mình một góc trong tim dành cho Việt Bắc. Và một lần nữa tác giả lại nhắc đến các
địa danh địa điểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc kháng chiến: mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào như
gợi nhắc chúng ta về một thời lịch sử đã qua nhưng vẫn hiện hữu ở đó. Và khổ thơ cuối gắn liền với ảnh của Bác hồ
và cũng là cội nguồn cuộc cách mạng, là điểm tựa niềm tin tinh thần của nhân dân Việt Nam. Từ đó thể hiện tình
cảm tri ân của nhà thơ dành cho Việt Bắc. Có lẽ bởi Việt Bắc chính là cái nôi của cách mạng là đầu não kháng chiến,
mà một phần đời còn lại các cán bộ kháng chiến không thể nào quên.
Bài thơ Việt Bắc để lại ấn tượng trong lòng người đọc bởi bức tranh thiên nhiên con người Việt Bắc. Đó đều là
những dấu ấn không thể phai nhòa trong khoảng lặng tâm hồn của nhà thơ và cũng như độc giả. Bằng cách sử dụng
thể thơ lục bát mang âm hưởng sâu lắng, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cách sử dụng cặp đại từ mình ta độc đáo sáng
tạo, ngôn ngữ giản dị mộc mạc, cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ điệp cấu trúc, nghệ thuật liệt kê, ….Tố Hữu đã
mang đến cho người đọc những cảm xúc khó tả, sự khâm phục tinh thần bất khuất của một thời lịch sử hào hùng
đã qua. Quả thật không sai khi nói rằng "thái độ toàn tâm toàn ý với cách mạng là nguyên nhân chính làm nên
thành công của nhà thơ Tố Hữu " Nhà văn Macxen Prut cho rằng: Thế Giới được tạo lập không phải chỉ một lần mà
mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập”. Mỗi người nghệ sĩ đều có nét đẹp
riêng, phong cách riêng, phong cách độc đáo. LIÊN HỆ
Nói về sự quen thuộc của cách xưng hô “mình” - “ta”, có thể liên hệ đến ca dao:
“Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ
“Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình”
Chữ trung thì để phần cha
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình”
Khi phân tích lời đáp của người ra đi:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Chúng ta có thể liên hệ đến lời thơ của Lưu Quang Vũ:
“Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình
Điều chưa nói mà bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn để lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta”
(“Hơi ấm bàn tay” - Lưu Quang Vũ)
Phân tích câu thơ: “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng/ Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô” gợi cho chúng ta nhớ đến
hình ảnh người mẹ trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm:
“Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ con nằm trên lưng”
(“Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” - Nguyễn Khoa Điềm)
Khi phân tích chữ “đổ” trong câu thơ: “Ve kêu rừng phách đổ vàng/ Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Chúng ta
có thể so sánh với chữ “đổ” trong “Thơ duyên” của Xuân Diệu:
“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”
Khi nói đến phẩm chất anh hùng, bất chấp hy sinh, gian khổ, sát cánh bên bộ đội của người dân Việt gợi ta nhớ đến:
“Ôi đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
(“Đất nước” - Nguyễn Đình Thi)
Khi phân tích hình ảnh hiện thực “vành mũ” trong câu thơ: “Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan” ta có thể liên hệ đến hình ảnh:
“Vẫn đôi dép lội chiến trường
Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”
(“Tiếng hát sang xuân” - Tố Hữu)
Ý thơ “Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan” gợi ta nhớ đến:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
(“Tây Tiến” - Quang Dũng)
Khi phân tích hình ảnh: “Những đường Việt Bắc của ta” để làm nổi bật niềm tự hào của nhân vật trữ tình vì cảm
giác được làm chủ những vùng không gian rộng lớn của Tổ quốc ta có thể liên hệ cảm hứng quen thuộc ấy trong thơ ca cách mạng:
“Mây trời của ta, trời thắm của ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”
(“Ta đi tới” - Tố Hữu) Hoặc:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”
(“Đất nước” - Nguyễn Đình Thi)
Nói đến sự tự hào về cuộc kháng chiến thần thánh của thời đại cách mạng, Quân đội nhân dân Việt Nam:
“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan”