/37
Phân tích i thơ Việt Bắc của nhà thơTố Hữu
"Việt Bắc" đỉnh thơ cao nhất Tố Hữu ớc n." Tác phẩm không ch
khúc hùng ca chiến đấu còn khúc tình ca dân tộc. Bên cạnh đó, "Việt
Bắc" còn là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu - cờ đầu của thơ ca Cách
mạng Việt Nam. Kính mời quý bạn đọc tham khảo bài mẫu Phân tích bài thơ
Việt Bắc chọn lọc hay nhất do Luật Minh Khuê biên soạn qua i viết dưới đây
nhé!
1.
Tác giả phong cách ng tác
-
Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh Nguyễn Kim Thành.
-
Quê quán: ng Phù Lai (xã Quảng Thọ, huyn Qung Điền, tỉnh Thừa Thn
Huế). T Hu sinh ra và lớn n một ng đất thơ mộng, tr nh, còn lưu lại
nhiều t n a n gian với nhng làn điệu n ca Nam Ai, Nam Bình,
những câu mái nhì, mái đẩy và c nền nhã nhc cung đình Huế. Điều này đã
tạo sự thun lợi để Tố Hữu tiếp c với nền văn hc n gian.
-
Tố Hu sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho nghèo, c cha m đu
say sưu tầm ca dao tục ngữ. Đây điều kiện để phát triển hồn thơ Tố
Hữu mang âm ởng tr tình, đậm đà tính n tộc.
-
Tố Hữu nhà thơ lớn, người tiên phong của nền thơ ca ch mạng Việt
Nam, thơ ông luôn gắn bó vi nhng chặng đưng cách mạng của n
tộc. Phong cách t mang nh tr nh cnh tr ng sâu sắc, hướng đến
những cái tôi chung và lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái i trong
thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cng đng n tộc, nhng vần thơ y vừa
giàu nhc điệu lại mang tính dân tộc đậm đà.
-
"T Hữu đưc mnh danh "ca sĩ" sớm nht và ng là "ca sĩ" lớn nhất
trong bn "hp ca" cách mng. Sc hút lớn nhất của thơ T Hữu chất men
say của lý tưởng ch mng, chất trữ nh ngt ngào thương mến qua nhng
vần thơ đậm đà nh n tộc. Bài t "Việt Bắc" (10/1954) khúc tình ca tha
thiết mn nng của ngưi n b vi quê ơng ch mng Việt Bc, là bản
ng ca về cuc kháng chiến chng Pháp."
-
Thơ T Hữu là nhng vần thơ
th hiện tiếng i của dân tộc, của m hn
những con người gắn sâu sắc với s nghip Cách mng, với quê hương,
đất nước. Trong nhng vần thơ ấy ta s bắt gặp nhng tình cảm mến thương
1
u sắc, trữ tình, xut phát t một trái tim trung thành vi dân tộc nhân
n, tiêu hơn cả bài thơ "Vit Bắc".
2.
Tác phẩm
2.1.
Hoàn cảnh ra đời
-
Sau chiến thắng lịch s Điện Biên Ph (7/5/1954), Hiệp đnh Giơnevơ đưc
kết, hòa bình đưc lập lại, một trang s mi của đt nước và mt giai đoạn
mới của ch mạng được m ra. Tháng 10 năm 1954, các quan của Trung
ương Đng Chính ph rời khi chiến khu Việt Bắc, i đã che chở, nuôi
ỡng cho Cách mng suốt nhng năm trường k chng thực dân Pháp trở
về Hà Nội.
-
Cuc sống thay đổi có tính chất bước ngot: từ chiến tranh sang a bình,
từ núi rừng về thành thị. Biết bao u luyến ân nh với nơi đã từng đồng cam
cộng khổ, với nhng người đã từng "chia ngt sẻ bùi". Người ra đi kng khỏi
ng khuâng thương nhớ, người lại cũng không khỏi bịn rịn, trng trải, i
ngùi.
Nhân s kiện tính cht thời sự và lịch s ấy, T Hữu - mt n b ca
Đảng, mt nhà thơ lớn của Cách mạng đã sáng c bài thơ "Việt Bc" vào
tháng 10 năm 1954. Bài thơ đã vinh d được lấy tên chung cho c tp thơ
"Việt Bắc" (1946 - 1954) -
một đỉnh cao của thơ T Hu và cũng một tác
phẩm xut sắc thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
Lưu ý:
thể tóm tắt hoàn cnh ra đời mt ch ngắn gọn như sau:
Tố Hữu - mt hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nn văn học Việt Nam.
th nói những tác phm của ông không ch thể hiện ng, lẽ sống của
bản thân mình mà qua đó ta n thy đưc nhng sự kiện quan trọng của
ch mạng nước nhà. Tháng 10 năm 1954, sau chiến thng Điện Bn Phủ,
bộ đội ta phi chuyển lực lượng v th đô và chia tay với chiến khu Việt Bc.
Kẻ người đi ng không khỏi nh thương tiếc nuối tình quân n trong mười
lăm m kháng chiến, nhân s kiện trọng đại này, ng với m trạng nỗi
niềm y, Tố Hu đã viết bài thơ Việt Bắc.
Hoặc:
Ra đời trong mt hoàn cảnh lịch s o hùng của dân tộc, sau chiến thắng
Điện Biên Phủ, min Bắc được hoàn tn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp bóng
cờ hoa trong ngày hội non ng, bài t "Vit Bắc" ra đời tiếng hát nghĩa
2
tình, son sắt, thy chung của mình với ta, của chiến , n bộ, đồng bào đối
với chiến khu Việt Bắc vi Cách mng kháng chiến, đối với Đng và Bác
Hồ của miền xuôi miền ngưc, khúc tình ca của một n tộc anh hùng.
Đoạn trích trong SGK:
-
Bài thơ Việt Bắc 2 phần, gồm 150 câu thơ.
-
Phần t trong SGK đoạn mở đầu và phần một gồm 90 câu - phn đc
sắc hơn cả của bài t Vit Bắc. Đoạn trích
hai đoạn hoài niệm về một
Việt Bắc gian kh, vẻ vang của ch mạng và kháng chiến, nay đã trở thành
kỉ nim u nng khôn nguôi trong lòng người. Toàn phn trích giảng tng
qua ni nh da diết, th hiện nghĩa tình cách mạng, nh cảm thủy chung son
sắt của ngưi n bộ về xi đối với quê ơng Vit Bắc.
2.2.
Thể thơ
i t "Việt Bắc" được viết theo
th thơ lục t
, tạo n âm hưởng nh
nhàng, trầm bng lắng sâu trong ng người đọc. Đây cnh mt sự
khéo o tạo n thành công của bài t chính tr trữ tình, dạt dào cảm
c y.
"Việt Bắc" vận dng lối hát giao duyên đối đáp nam n của dân ca, vy
thường sử dụng lối xưng thân mật rất quen thuc mình - ta. "Ta"
thường dùng ngôi th nhất. "Mình" thường ng ngôi th hai. Tùy theo
n cnh, ta mình có thể là Việt Bắc hay ngưi n b v xuôi. Nhưng
nhiều lúc lẫn lộn, tuy hai một mình hay ta cũng đều người ch
mạng, ng đều ân nh sâu nng với nhau "tuy hai một".
kết cấu đối đáp, nhưng Việt Bắc không chỉ lời i, lời đáp mà còn
sự hô ng, đồng vọng của ng mt tâm trạng. Li đáp, ngoài việc trả li cho
những câu hỏi, còn là s m rộng, làm phong phú tm cho những ý tình đã
được gợi ra trong lời hỏi. Cũng khi c lời hi lời đáp đã trở tnh lời
đồng vọng ngân vang lên nhng tình cảm chung.
Nếu nhìn sâu n vào kết cấu của i thơ, chúng ta thy được đối thoi chỉ
lớp v ngoài còn chiều sâu n trong chính lời độc thoi. Hình thức độc
thoi là kh ng phân thân của i "tôi" trữ tình đ hóa tn o đối tượng,
khiến tâm trạng được th hiện sâu sắc d lay động ng người hơn.
3
2.3.
Đại ý - ý nghĩa bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc bài t trữ tình đằm thắm thiết tha th hiện
ân tình u nng
thủy chung của c giả - ngưi cán b sắp rời Việt Bắc về min xuôi - đi với
n cứ địa Cách mạng của cả nước. Đây không chỉ tình cm riêng của nhà
thơ mà đồng thi ng tâm trạng chung của mọi ngưi. i t y tiêu
biểu cho những suy nghĩ, tình cảm cao đẹp của những con người kháng chiến
đối với min đất quê hương Cách mng, với đất nước nn dân, với kháng
chiến ch mạng. Cũng có thể i đây khúc t m nh thy
chung không những của con người kháng chiến, của nhân dân ta còn của
truyền thống ân nghĩa, thủy chung ca dân tộc hòa o, tiếp nối và khơi sâu
thêm nét truyn thống cao đẹp đó.
Việt Bc dựng ra một hoàn cnh đc biệt để bộc lộ nhng cảm c trữ nh
o dạt. Đó mt cuc chia tay đầy lưu luyến giữa k ở, người đi, giữa Việt
Bắc vi n bộ về xi bâng khuâng bịn rịn. Đó cũng cuc chia tay của
những ngưi đã từng gn u nặng với nhau, ng nằm gai nếm mt, chia
ngọt sẻ bùi. Giờ đây, trong phút giây chia tay, họ ng nhau gợi lại bao k
niệm về những ngày tng đã qua. Họ khẳng định nghĩa tình n chặt và
hẹn ước về mt ngày mai tươi ng.
3.
Đọc - hiểu n bản
3.1.
Cảm nhận chung về đoạn thơ
-
Đon thơ đã i hiện đưc khí ca cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn sau 15
m gắn bó ân tình giữa k ngưi đi. Đó là không k ân tình của hồi tưởng,
hoài niệm của ước vọng và tin ng.
-
Kết cấu: Theo lối đi đáp quen thuc của ca dao dân ca. Không đơn thuần là
lời hỏi - đáp là s ng đồng vọng, sự độc thoại nội m, đó cách
"phân thân", "hóa thân" để bộc lộ m trạng phong phú hơn.
-
Giọng điệu: Ngt ngào êm ái, giọng m tình thủ thỉ,
3.2.
Cuộc chia tay tâm trạng của kẻ người đi
a. m trạng khi chia tay của k người đi (8 câu thơ đầu)
4 câu thơ đầu
Thơ s giãi y đời sống nh cảm, "là tiếng nói đầu tiên, tiếng i th nhất
của m hồn khi đng chạm đến cuc sống" (Nguyễn Đình Thi). Tình cảm ấy
những trạng thái cảm xúc mà người ngh sĩ từng trải qua, từng sống trong
4
những cung bậc ấy. Thơ không chấp nhận th tình cm hời hợt, mờ nhạt. Nếu
nhà t kng viết thơ bằng nước mắt, bằng máu của chính nh, không u
sắc vi nhng tình cảm của con người thì thơ sẽ thiếu sức sống, ch thể
làm đưc những bài thơ vô hồn, chỉ nhng câu ch hoa mĩ đưc ép khô
trên giấy.
Tố Hữu đã viết "Vit Bắc" bằng cảm c bâng khuâng, da diết khi phi chia
tay đồng bào Việt Bắc với biết bao k niệm ngọt bùi khó quên của một thời
gắn . Hình thc là đi đáp giữa k - ngưi đi nhưng thực chất là lời đc
thoi nội m, đắm mình trong hoài niệm quá khứ ca tác giả.
Trong cuc chia tay giữa đồng o Việt Bắc với nhng người chiến sĩ Cách
mạng v xi, người lại nhng người n tiếng trước bởi h đã nhạy cm
nhận ra s thay đổi của hoàn cảnh nên bồn chồn, lo lắng không yên. Trong
âm hưởng ngt ngào của ca dao, những u hỏi của người lại cất n như
chất cha bao nỗi niềm vấn vương, u luyến:
"Mình về mình nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình nh không
Nhìn cây nhớ i nhìn sông nhớ nguồn"
i m năm gi ra hành trình từ nhng ngày đu Cách mạng với cuộc khi
nga Bắc Sơn năm 1940 và sự kiện m 1941, sau nhng m n ba khp
m châu bốn bể tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã trở về Tổ Quốc, người chọn
Việt Bắc m căn c địa Cách mạng:
"Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh tt bờ lau vui ngẩn n."
Nhà thơ đã sử dng sáng tạo hai đại từ "mình - ta" vốn là cách ng hô lứa
đôi quen thuộc trong ca dao với biết bao nh cảm mến thương dt dào:
"Mình về nhớ ta chăng
Ta v ta nh m răng mình cười."
Hay
"Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ."
5
Tố Hữu đã mưn nh thức quen thuộc của văn học dân gian để th hiện một
vấn đề tính chất lịch sử. T những câu ca ngọt no của tình u đã tr
thành "khúc tâm tình" của k - ngưi đi, từ cách xưng lứa đôi trở thành
tiếng gọi thân thương của những ngươi đng chí, đồng bài khiến cho tình
cảm tr n đẹp đẽ, gắn .
Với biện pháp điệp ng "mình nh ta", "mình có nh kng" đã tạo nên
giọng thơ đầy u luyến, th hin sự day dt, bịn rịn, băn khoăn của ngưi
lại và c ni lo s người ra đi sẽ không giữ được nh cảm thủy chung với Việt
Bắc. Đó đồng thi lời nhn ng với người ra đi đừng bao giờ quên quê
ơng nghĩa nh ch mạng với những k niệm mn nồng keo sơn.
"Mười m năm y ai quên
Quê hương Cách mạng dffing nên Cộng hòa."
Sau nhng câu hi y, người lại đã khơi gi nhng k niệm khó quên Việt
Bắc với thời gian "mười lăm năm y thiết tha mặn nồng". Mười lăm năm ấy
đủ đong đầy bao nghĩa tình sâu nặng như phng phất âm hưởng của t
Kiều:
"Những rày ước mai ao
ời m năm y biết bao nhiêu tình."
Đó khoảng thời gian "T khi kháng Nht thu n Việt Minh", nhng
ngày tng mà đồng bào Việt Bắc đã cưu mang n bộ. Họ đã từng gian kh
nhau, đồng cam cộng khổ, chia ngọt s bùi, thy chung gn bó. Mưi m
m o sinh ra tử với biết bao k niệm chiến đấu, bao ân tình đằm thắm
khó quên.
Không ch nh về thời gian, người lại như muốn ngưi ra đi nh về kng
gian Việt Bắc, thủ đô gió ngàn, n cứ địa Cách mạng "nhìn y nh núi, nhìn
ng nh ngun". Nh i, nhớ ngun nh v khung cảnh thiên nhiên, nh
về quê hương Cách mạng, ngọn ngun của ch mạng, đó không ch
không gian hồn mà đã trở nên rất đỗi thân quen, in du từng bước chân,
lưu gi bao kỉ nim. Câu thơ vừa tình cảm u luyến, hụt hng trong ng
người lại vừa như lời dn kín đáo với người ra đi đừng quên đạo "ung
ớc nh ngun".
"Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, ngày nh đêm."
(Tố Hữu)
6
4 u thơ sau
"Thơ điệu hồn đi tìm những hồn đng điệu", là tiếng i đng vọng của
những ti tim, nhng m hồn tri âm. Nhà thơ T Hu như đã thu cảm đưc
sự đồng vọng tha thiết ca k - ngưi đi qua kết cu đối đáp ngọt ngào, ân
tình. Sau nhng câu hi của ngưi lại, người ra đi ch im lặng lắng nghe, chỉ
biết cầm tay nghẹn ngào không nói n lời:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi"
Đại từ phiếm ch "ai" gợi ra bao nhiêu cảm xúc, "ai" nghĩa rằng không biết
ai đang tha thiết, hin hiện trong mi con người lại, của c nhân n
Việt Bắc ch không của mt nhân nào. Tiếng dân cứ tha thiết gi v biết
bao bịn rịn, để rồi người ra đi cứ "bâng khuâng trong dạ", chân bước đi
lòng c bồn chồn không yên, đau đáu nhìn lại. Hai từ y "bâng khuâng",
"bồn chồn" kng ch tạo ra tính nhạc cho lời thơ mà còn diễn tả tâm trạng
luyến tiếc, nh thương, ngp ngừng, bịn rịn, không th chia tay, không thể
dứt khoát để về xuôi.
Giữa khung cảnh bui chia tay, nếu "tiếng ai" âm thanh mơ hồ, là tiếng
vọng trong m ởng, thì hình ảnh o chàm" lại tht c thể, không th xóa
nhòa trong m ng ngưi ra đi.
"Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói m nay."
o chàm" hoán d cho nhân n Vit Bắc, bởi đây là trang phục dân tộc
quen thuc nơi ng cao. Áo cm màu áo bền bỉ, khó phai, bình dị, đơn
, mộc mạc của mt ng q nghèo kh mà nghĩa nh. Đây màu áo đặc
trưng của ngưi dân Việt Bc, nhng con người tuy vất v lam nhưng vẫn
một lòng son sắt với Cách mạng và kháng chiến. Với hình ảnh áo cm, n
thơ đã gợi n hình nh của toàn th nhng ngưi n Việt Bắc đã có mt
trong bui tiễn biệt người chiến ch mng v xuôi.
biết bao nỗi nim, cảm c nhưng người ra đi lại chng "biết nói gì hôm
nay". Họ im lặng khi mi lời đều bất lực, khi rất nhiu điều mun nói
nhưng lại không thể i hết, nói trọn vẹn nhng nỗi niềm đang trào dâng
nh liệt. Ni ra đi im lặng bởi xúc động, nghn ngào kng i n lời,
bởi s bâng khuâng bịn rịn. n hết, h im lặng đ tri ân, thấu hiểu, để lời
người lại ngân vang thấm sâu o m hồn.
7
u thơ cuối đưc ngắt nhịp 3/3/2 diễn t s ngập ngừng, u luyến lúc chia
tay. Và tất c tình cảm người ra đi gửi gắm qua hành động "cm tay". Cái
cầm tay không lời nous lại cht chứa bao nhiêu điều mun nói. Trong bài thơ
ồng chí", nhà t Chính Hữu đã từng viết "Thương nhau tay nắm lấy bàn
tay." Đó những nh động đã trở tnh ngôn ng giao tiếp đặc bit, th
hiện những cảm xúc trong ng người. Cái cầm tay của người ra đi đã khng
định tình cảm mãi thủy chung với Việt Bắc vừa để củng cố niềm tin cho người
lại, động viên tinh thần giúp h vượt n hoàn cnh. Cầm tay bi sự vấn
vương, c động khó dứt, và dường như đó hành động thay cho lời tạm
biệt, thay cho lời hứa sẽ mãi bền ng, vng tâm với ng đất con người
i đây. Trong bài thơ "Hơi m n tay", u Quang Vũ cũng có nhng câu
thơ rất tình:
"Điều chưa nói thì n tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta."
Phút cầm tay của tình quân dân hay tình yêu đôi lứa, thế o ng là
những phút giây để nh thương:
"Khi cách nhau hàng vạn dặm không gian
Anh mới hiểu khoảng cách không đáng sợ
Anh thấy em bên nh, như nghe từng nhịp thở."
Tin rằng, với "mình" và "ta", họ cũng thy nhau n mình, "nghe tng nhp
thở", bởi hồi c mười lăm năm chẳng ít i để lãng quên, hung chi hồi c
về nhng tng ngày kiêu hùng của n tộc. Mượn thơ nh của u Quang
để nói về thơ trữ tình chính trị của T Hữu thật không n bằng, nhưng trữ
tình trong tình thương giữa con ngưi với con người, với tình u, cũng cùng
những cung bậc gần biết mấy!
Nếu nhng u thơ đu hiện lên với từ "tha thiết", t đến đây ta lại nghe
"tha thiết", cảm c ca k người đi nh cho nhau quyện hòa nng thắm.
Nhà thơ đã s dụng thật tinh tế hệ thống t láy dồn dp, m nổi bật những
cảm c đang dâng to,
Đọc m câu t của T Hu, cm nhn "buổi phân li" thắm đưm ân tình, ta
bỗng nh đến câu t trong cảnh Thúc Sinh từ bit Thúy Kiu:
"Người lên ngffia, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san"
8
Cuc phân ly nào ng bun da diết đến thế, nhưng nh người, tình u vẫn
thắm đượm đong đầy.
b) Nỗi nhớ da diết mênh mang với nhiều sắc thái cung bậc khác
nhau
Nhà t Tagore từng bày tỏ: "Ngọn gió nhà t băng qua rừng, băng qua
biển để tìm ra tiếng nói của riêng mình." T Hữu được xem nhà thơ lớn của
n tộc, sm giác ng Cách mng, hăng say tham gia kháng chiến, dùng
ngòi bút để phc vụ cuộc chiến đu của dân tộc. Và Tố Hữu đã tìm cho mình
một lối đi riêng, đó là lối thơ đậm đà tính n tộc, mang khuynh hướng sử thi
cảm hứng ng mn với giọng điệu ngọt ngào, tha thiết.
Trong lời nhn nh của ngưi lại qua mưi hai u thơ tiếp theo, tác giả
không ch th hin nỗi trăn trở, lo lắng, băn khoăn của người lại mà còn
khắc họa v đẹp ca bc tranh thiên nhiên, com người Việt Bc mang đậm
u sắc n tộc:
"Mình đi nhớ những ngày
Mưa nguồn suối những mây cùng mù."
Thn nhiên Việt Bc hin ra vi s khắc nghiệt, d di, hiểm nguy trong
những hình nh "mưa ngun", "suối ", "nhng mây ng mù". Nắng lắm,
a nhiều, quét, đất l và quanh m mây mù bao ph. Bao nhiêu tr
ngại, gian kh đã được nhà t khc họa qua nhng ấn tượng cụ thể, sinh
động. Đó cũng chính i trường kháng chiến nhiu khó khăn, th thách
quân và n ta đã gắn bó trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Không những thiên nhiên khắc nghiệt mà cuộc sống đây lại ng thiếu thốn
n. Ni lại như muốn gi nhắc để người ra đi nh về nhng ngày tháng
gian kh, những con người Việt Bắc như nh v một i thân thương nht:
"Mình về nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai"
"Mình đi nhớ những ngày
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son."
nh nh thơ xúc động đã diễn đạt theo hình thc tiểu đi nhn mnh hi ức
về những ngày "miếng cơm chm mui". Nhưng trong gian kh th tch,
ch mạng với nhân dân ng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. H đoàn
kết sánh vai mục đích ng chung, luôn nung nấu "mi thù nặng vai".
9
Khung cảnh Việt Bắc hoang vu, vắng lặng cuc sống nghèo nàn "hắt hiu
lau m" nhưng con người luôn một lòng thủy chung u sắc. Họ nhng
con người bình dị, thm lặng nhưng đã hi sinh cống hiến hết mình cho
ch mng, luôn gắn bó với ch mạng từ nhng ngày đu kháng chiến:
"Mình về còn nhớ núi non
Nh khi kháng Nht, thuở n Việt Minh
Mình đi mình lại nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa"
Đây là k niệm u sắc v thi k gian khó khi Việt Bắc trở thành cái i của
ch mạng, n c địa quan trọng của Việt Minh. Đó nhng ngày tháng
đầy mất mát, hy sinh song ng thật o hùng của dân tộc. Nếu "Tân To",
"Hồng Thái" địa danh lịch s trọng đi, i hp QUốc dân Đại hội là
i m lễ xuất quân của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, t "mái
đình", "cây đa" lại những hình nh thật bình dị, quen thuộc của ng quê
Việt Nam, không gian sinh hot cộng đng, giao u, hò hẹn. Điều này cho
thấy s gn u sắc của người dân Vit Bc với Cách mng, tình cảm họ
nh cho Cách mng ng gần gũi, thân quen như tình ng, nghĩa m.
Nhng u hỏi ấy không chỉ gợi lại thời gian kháng chiến, nhắc lại không gian
lịch s còn gợi lại những kỉ nim chiến đấu ng k vai sát nh, vào sinh
ra tử với ng căm thù giặc u sắc và ý chí quyết tâm cao đ. Chính điều
y đã phn ánh vẻ đp phẩm chất của người lại - người n Việt Bắc.
Nhng câu hi đều ớng đến người ra đi nhưng cũng lúc người lại hỏi
chính lòng mình:
"Mình về rừng núi nh ai
Trám bùi đ rụng, măng mai để già"
"Rừng núi" hình ảnh hoán dụ để i về nhng người dân Việt Bắc, nhng
người li đang "nh ai", thy vấn vương, hụt hẫng trong lòng khi phi chia
tay những ngưi đã từng gắn . Câu thơ đã nói n sự trống vắng, đơn,
nỗi nh tơng của người lại khi mi ngưi mi phương tri xa xôi. H lấy
sản vật của i rừng để nuôi cán bộ, "trám bùi", "măng mai" đ hoài niệm
quá kh gian kh thm thía nỗi bun xa ch hiện tại.
3.3.
Bảy mươi (70) u t tiếp theo: Lời đáp của người ra đi
a)
Bốn câu đầu
10
Sau rất nhiều u hỏi của người lại, những người ra đi tr lời lin mch qua
bảy mươi ng t như nhng cảm c bị dồn n, cht chứa trong ng
nay tn trào và cuộn chy. Người ra đi đã khẳng định tình cảm thủy chung,
bền vững vi Việt Bắc:
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nh mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu."
Đại từ "mình", "ta" được sắp xếp thành "ta - mình", "mình - ta" tạo cảm giác
gắn bó, hòa quyn, khăng khít th hiện tình cảm trn vẹn trước sau như một.
inh ninh" là sự khng định chắc chn và sẽ mãi thy chung với mnh đất
con ngưi Việt Bắc.
Nếu ngưi lại đã từng n khoăn tự hi "mình đi mình có nh mình", t
người ra đi đã hi đáp như lời khng định son st "Mình đi mình lại nh nh".
Từ "mình" thứ ba để ch c ngưi lại c người ra đi. Những ngưi ra đi
không th o quên được Việt Bắc, quê hương của ch mng cũng nơi
từng gắn sâu nặng.
b)
Nỗi nhớ của người ra đi
"Nhớ n nhớ người yêu
...
Chày đêm nện cối đều đều suối xa"
Thơ ca là tiếng i ca nhịp đp con tim, là tiếng i ca cảm xúc, tình cảm.
"Thơ nơi duy nht để gii phóng tôi và đ tôi t ẩn" (Nguyễn Quang
Thiều). Ngưi đọc tìm đến t như những m hn th hai ca mình, không
ch để cảm nhn đưc vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống còn m được
tiếng nói tri ân với c giả. Trong i thơ "Việt Bắc" ta cảm nhn đưc tình
cảm tha thiết, u nặng ca thi nhân, của nhng người kháng chiến với đồng
o Việt Bắc trong khonh khc chia tay đy u luyến, bịn rịn. Đó là nỗi nh
về mt thời kì gian kh nhưng m đà ng son", nỗi nh ào ạt như thác lũ,
vang vọng ngân nga, dội o ch núi di vào trái tim người đọc.
i thơ Việt Bắc triển khai theo lối kết cấu đối đáp gia kẻ người đi thật tự
nhn, khéo o. Những câu hỏi gợi nhc của người lại đã khơi ngun biết
bao k nim ùa về. K niệm kết nối k niệm, kí c gi ký c. Tt c bỗng thức
dậy chảy trong mạch cảm xúc dạt dào tưởng chng như không bao gi i
11
cạn. th nói, nhớ thương đã tr thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất
cả c hoài niệm ca một thời gắn .
Nỗi nh về thiên nhiên Việt Bắc
Mở đu cho bn tình ca nỗi nh ấy mt giai điệu ngọt ngào, say đắm ca
tình yêu:
"Nh gì như nh người yêu"
Tình yêu luôn đi kèm với ni nh khi xa ch. Đó nỗi nh da diết, thường
trực, ám ảnh vô ng mãnh liệt.
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than."
Hay đó ni nh cồn o đến mức phi như trong cảm nhn của Xuân
Diệu:
"Uống xong lại khát tình
Gặp rồi lại nh mình với ta."
Hoc như T Hu ng đã từng rất ngạc nhiên:
"Lạ chưa vẫn n em
anh vẫn nhớ vẫn thèm gặp em."
Với hình ảnh so nh đầy ngt ngào, thấm thía, T Hữu khiến cho nỗi nhớ
của người ra đi với đồng bào Việt bc cũng giống như nỗi nh ca hai người
u nhau, da diết, sâu lắng, cồn o như nỗi nh trong tình yêu. Điệp từ
"nh" càng khiến cho ni nh trở nên khc khoi, khôn nguôi như nhng đợt
ng ng to ng mãnh lit.
Sau u thơ mang hơi th của nh yêu, c một không gian núi rừng Việt Bắc
trải dài đã hiện n mộc mạc, tn quen mà thi vị, ng mn như không gian
của tình yêu đôi lứa.
"Trăng n đầu núi nắng nắng chiều lưng ơng
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về."
Thn nhiên Việt Bc trở về trong nỗi nh của người ra đi nhng đêm trăng
ng bạc thp thoáng i đầu i. Ánh trăng trở thành người bạn ca con
người, những người cán bộ kháng chiến. Không gian núi rừng tr nên lung
linh, hữu tình nh ánh trăng soi chiếu. Đó n là n tượng v nhng bui
chiều ánh nắng trải dài khắp c lưng nương, a lẫn với màu xanh bạt ngàn
12
của i rừng, tạo ra một bức tranh rất đc tng nơi Việt Bc. Ánh nắng nh
nhàng, phng phất mà lan tỏa, a quyện, gắn đến k lạ.
Không thể o quên Việt Bc nhng bản làng ngp chìm trong sương
khói, vừa hồ, huyền o, vừa thanh bình, yên lại vừa thân thương, gi
nhớ. Những ngôi nhà thot ẩn, thot hin trong màn ơng mù bao phủ cùng
với hình ảnh "người thương đi về" tần tảo sớm hôm đã tạo ra linh hn, sức
sống cho bức tranh thiên nhiên. Nếu câu thơ đu h như "ngưi u" t gi
đây đã trở thành "người tơng" trong ng người ra đi, gần gũi, gn bó với
nhau như những người thân ruột thịt. Đây cnh những con người đã che
chở, u mang cán b trong sut mt thời gian i gian khó. nhịp sống
giản dị, đời thường của không gian nơi đây đưc tái hiện qua nh ảnh bếp
lửa chập chờn trong đêm đông lạnh giá như xua tan đi cái lạnh lẽo của núi
rừng và sưởi ấm tâm hn con người.
Trong c của người ra đi còn dội lại bao địa danh đong đầy k niệm: Ni
Thia, sông Đáy, suối Lê c "rng na", "b tre" quen thuộc, gắn bó. Đây
nhng ấn tượng rất riêng ch Việt Bắc. Gọi lại địa danh là gọi lại k
niệm v nghĩa nh ch mng, kháng chiến làm cho k niệm sống lại vẹn
nguyên, đủ đầy. Với những nh ảnh liệt , khiến cho người đọc cảm nhn
n v nỗi nh da diết, miên man, không dứt, hết đt y đến đợt kc n
một cuốn phim quay chm để rồi lắng đọng trong tâm t người ra đi tình
cảm chân thành không th o quên.
Nỗi nh về cuộc sống, con người
"Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết hạt vàng mà đời rơi vãi
Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang."
(Chế Lan Viên)
Đó là s mệnh thng liêng của mỗi nhà thơ, phi m rộng hồn mình để đón
nhận nhng vang động của đất tri, n r o mảnh đất mang n hiện thực
đời sống. n chương được nuôi dưỡng từ m cuộc sống để tr li làm đẹp
cho đời, bồi đắp cho m hồn con người. Nhng trang thơ của T Hữu đã
"nht lấy ch của đời" để viết nên những tác phẩm chân thực như những
trang đời sức lay động bao thế hệ ngưi đọc.
Trong tiềm thức của ngưi ra đi, không chỉ có nỗi nh v bức tranh thiên
nhn thơ mộng, gần i nơi Việt Bắc n ni nh v hiện thực cuộc
sống và nhng con người nghĩa tình nơi đây:
13
"Ta đi ta nh những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi."
Đó câu trả lời ca nhng người ra đi cho câu hỏi đầy thấm thía, xúc động
của người lại trước khi chia tay "mình đi có nh những ngày". Nh "nhng
ngày" đó những ngày ng gắn bó, s chia ngọt bùi được gói ghém từ
những ngày "kháng Nhật, thu còn Việt Minh", trong "mười m năm thiết tha
mặn nồng" vi "bát cơm chm mui, mi thù nặng vai". "Mình đây ta đó" tất
cả như n hiện hữu vẹn nguyên vi bao "ngt i" ng ng, ng cay"
ng chịu trong nỗi nh da diết, mênh mang.
Hồi ức v cuộc sống của nhng m tháng chiến tranh ác liệt, đầy gian kh
i Việt Bắc đã được nhà thơ Tố Hữu i hiện qua thước phim quay chậm như
một cuốn sách lịch sử bằng thơ:
"Thương nhau chia c sắn lùi
Bát cơm s nửa, chăn sui đắp cùng."
"Sắn i", "bát m sẻ na", "cn sui" những hình ảnh hiện thc cụ th
phản ánh một cuộc sống cùng thiếu thn, khó khăn, gian kh. i đây
không chỉ a bom o đạn của kẻ thù mà n có cả bệnh tật, đói t,
kh cc, gian k. Nhưng cũng chính t trong đói khổ, thiếu thốn đó lại nhen
nhóm lên tình nghĩa gắn bó giữa đồng o Việt Bc với nhng người lính
kháng chiến. Mt c sn i cũng chia nhau, bát cơm s nửa để m m lòng
nhau và một chiếc chăn sui đắp ng đ sưởi m cho nhau trong đêm đông
lạnh g. H không ch vượt qua thử thách bằng ng dũng cảm mà n bng
tình yêu thương, bằng sức mnh của tinh thần đoàn kết.
"Thơ cần hình cho người ta thấy", đó không ch hình ảnh của thiên nhiên
còn nhng nh ảnh quen thuc của cuc sống con người nơi đây:
"Nhớ người mẹ nắng cháy ng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô."
Trong t T Hữu, nh nh người m luôn ngun cảm hng vô tận, nhng
người m Vit Nam anh ng, kiên trung song ng rất tần tảo, chu thương,
chịu khó gu đức hi sinh. Đó nh nh m Tơm:
"Con đã về đây ơi mẹ m
Hỡi người m khổ đã dành cơm
Cho con, cho Đảng ngày a ấy
Không sợ gông, chấp súng gươm."
14
Hay đó hình nh của "Bầm ơi"
"Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em."
nh nh ngưi m Việt Bc ng hiện thân cho những m Việt Nam,
cần cù lam mà vẫn kng sờn lòng, nản c trong đu tranh. Trong cái
nắng chói chang, mẹ vẫn nhẫn nại bn bỉ bẻ từng bắp ngô, ng con ng cả
nắng trời cháy lưng. Giữa i khc nghiệt, mênh mông của thiên nhn "nắng
cháy ng", m vẫn "địu con n rẫy", miệt mài với công việc lao động, âm
thầm lặng lẽ cống hiến cho cuộc Cách mng, che ch, cưu mang n bộ.
Đằng sau hình nh người mẹ, ta cảm nhận được niềm thương cảm cả sự
cảm phc, tri ân ca nhà thơ những ngưi kng chiến vi những con
người lao động rất bình d cùng cao cả.
Nỗi nh về những sinh hoạt tập thể nơi chiến khu Việt Bắc
Nhng kỉ niệm kng chiến, những sinh hot mang tính tập thể n cứ địa
Việt Bc thực s đã trở thành mt phần kí c sâu đậm trong lòng ngưi ra đi.
Vẫn mang ng chy ca những hoài nim, nhưng những k nim về lớp học
a mù chữ, những bui liên hoan tại chiến khu mang lại u sắc tươi vui,
o nức:
"Nhớ sao lớp học i t
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan."
Điệp ng "nh sao" nghe ng khuâng, da diết như luyến tiếc ht hẫng trong
lòng người ra đi. Nhng n b Cách mạng đến ng cao đâu ch gây dựng
kháng chiến mà n gieo chữ nơi bn xa, đem ánh ng n a đến làng
m. Những lớp hc "i tờ" nh nh quen thuộc của phong to "bình dân
học vụ", xóa mù chữ cho đồng bào Việt Bắc và những người chiến lại trở
thành thầy giáo tận tụy, gu tình yêu tơng. Tiếng đánh vần ê a, t ch
n vụng v nhưng nhng ơng mt cùng o hc, say mê khi đưc hc
con ch của Cách mng, của Bác Hồ ấn tượng kng th phai nhòa trong
lòng người ra đi.
Cuc sống i chiến khu không ch niềm hnh phúc chinh phục được tri
thức còn đầy ắp niềm vui trong sinh hoạt tập thể. Ý t "đồng khuya
đuốc sáng nhng gi liên hoan" gi ta nh đến "doanh trại bừng n hi đuc
hoa" trong "Tây Tiến" của Quang Dũng. Cuc sng nơi chiến khu du gian
15
kh nhưng luôn m áp, nghĩa tình, trái tim mỗi người luôn rực ng niềm lạc
quan tin tưởng:
"Nh sao ngày tháng quan
Gian nan đời vẫn ca vang i đèo."
Đời lính nhiều gian kh song họ luôn lạc quan, u đi. c lại những mt
t, hy sinh nơi chiến trn, quên đi tiếng ng đạn, hiểm nguy, những người
kháng chiến đã ng với đng bào Việt Bắc hòa nhịp vào đêm hi liên hoan
trong ánh sáng lung linh, diu kì của bó đuốc rực r khp i rừng. Tinh thn
trưng k kháng chiến nhất định thắng lợi, phong trào "Tiếng hát át tiếng
bom" thc s thm u vào nhn thức của mi người. Những lời ca tiếng hát
được vang lên rộn ng, vui ơi như xua tan đi bao mệt nhọc, gian khổ, khơi
gợi thắp n niềm tin mãnh liệt o ngày mai chiến thắng. Đây chính
động lực đ những người Cách mạng đng o Vit Bắc t qua mọi thử
thách, đẩy i mọi khắc nghit, hiểm nguy, sẵn sàng đối mặt với tất cả.
Khép lại những thước phim về cuc sống chiến khu gin dị, nghĩa nh âm
thanh quen thuộc tn thương:
"Nhớ sao tiếng rừng chiều
Chày đêm, nện cối đều đều suối xa."
Hai câu thơ như vọng n khúc nhc đồng quê, mi một âm thanh lại gi m
bức họa bình d n , thơ mộng. Đó tiếng mõ rừng chiều giục đàn trâu
về trong niềm vui háp hc của đám tr mục đng, tiếng g gạo đêm
khuya bình dị ghi dấu bao nghĩa tình u nặng. Tiếng suối róc rách nơi
rừng xa lại gợi i trong ngần, thơ mng của cảnh vật. Lời thơ dt mà âm
thanh y c ngân vang i trong lòng ngưi chia xa. Với điệp từ "nh" khiến
cho cảm xúc của thi nhân như một dòng chảy mênh mông, bất tận, thấm sâu
o tâm hồn độc giả.
c)
Bức tranh tứ bình
"Ta về mình nhớ ta
...
Nh ai tiếng hát ân tình thủy chung."
"Thế giới đưc tạo lập không phi một lần, mà mi lần người ngh sĩ độc đáo
xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập" (Marcell Proust) Qu tht vậy!
Tố Hữu đã mang theo mt luồng gió mới đến cho nền thơ ca Cách mng Việt
Nam. Đó mt Tố Hữu với phong cách thơ trữ nh - chính trị với giọng điệu
16
ngọt ngào tha thiết chân thành. Từ một s kiện chia tay mang nh lịch s tr
thành cuộc chia tay của hai người u nhau đầy luyến lưu bịn rịn. Bao cảm
c dồn nén, bao nhiêu nỗi nh chất chồng để ri những vần thơ đp nhất về
thiên nhiên và con người Việt Bắc ra đời.
Đon thơ đưc đánh giá tuyệt bút của bài t, tập trung khắc họa bc
tranh tứ bình v cảnh và ngưi Vit Bc. Mt u nói về thiên nhn, lại đến
một u nói về con người c thế a quyn, gắn bó khăng khít. Cảnh vật m
nền cho con ngưi, thổi hồn o cnh vật tạo ra v đẹp đặc trưng riêng cho
không gian nơi đây. Có thể thấy ngay thi tạo hình theo lối xây dựng bộ
tranh t bình - mt hình thức rất ph biến ca ngh thuật c điển. Hoa và
người soi chiếu cho nhau, n vinh lẫn nhau. Bức tranh dường như đã tái hiện
trọn vẹn đầy đ nhịp vn hành luân chuyển của thiên nhiên và con người
Việt Bắc.
m đầu cho đoạn thơ tứ bình câu hi ca ni ra đi đy ngọt ngào,
mang i thở của nh yêu:
"Ta về mình nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người."
u hi thực ra ch cái cớ để bộc lộ ni niềm xao xuyến nh nhung phút
chia li. Hỏi nhưng không cần câu trả lời, hỏi để rồi khẳng định ngay sau đó
"ta nh nhng hoa cùng người". Nh "hoa" hình nh hoán d đ i v nỗi
nh thiên nhn n cạnh nỗi nh v con người, là mt phn kng th thiếu
trong ký ức người ra đi. Vi mật đ sử dng đại từ "mình - ta" điệp từ
"nh" như nhấn mạnh nỗi nh đang đầy ắp trong ng tạo ra cảm gc vấn
vương đến lạ.
Khung cảnh Việt bắc m ra trong nỗi nh của người ra đi bức tranh thn
nhn a đông với sự a phi u sắc tuyệt vời:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng."
Trên i nền xanh thẫm, bạt ngàn của rừng già màu đ tươi của hoa chuối
như những ngọn đuốc thắp sáng cả nh rừng đại ngàn. i u đỏ m ng
của hoa chui đã đẩy i vẻ thâm u, trầm lắng cái lạnh lẽo của không gian,
làm cho thiên nhiên tr nên bừng sáng, ấm áp n. Bên cạnh đó thấp
thoáng những đm nng với màu ng rất nh đang phảng phất nơi đồi
ơng, cây rừng m cho bức tranh mùa đông thêm phn ơi tắn. S pha
17
trộn giữa u xanh của rừng già, màu đỏ tươi của hoa chuối màu ng
ấm áp của nắng đã tạo nên một bức ha tht thơ mng, đầy cun hút thay
sự khc nghiệt, giá lạnh của màu xanh.
Con người Việt Bc hiện n trong thế lao động thật khỏe khon, đẹp đẽ
èo cao nắng ánh dao gài tht lưng". Giữa cái hùng ca i rừng với gập
ghềnh cheo leo dốc núi, những ngưi lao động vn thật hiên ngang như đang
làm ch và chế ng thiên nhiên. Với con dao đi rừng ng loáng i ngang
lưng, với sáng vẻ lồng lộng trên đèo cao đầy nng, tầm c con người như
lớn lao, rắn rỏi hơn giữa núi rừng Việt Bắc. Đây ng thế của người lính
trong bài "Lên y Bắc" mà T Hữu đã ngợi ca:
"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh núi cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
ngụy trang reo với núi đèo."
Nếu mùa đông Vit Bắc hiện lên vi hình nh của hoa chuối đỏ ơi t mùa
xuân về núi rừng như được khc n mình mt chiếc áo mới, mt màu trắng
bạt ngàn ph đầy kng gian.
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan n chuốt từng sợi giang."
Cả cánh rừng Việt Bắc ngp tràn sắc trắng của hoa mơ. u trắng gợi lên sự
tinh khôi, trong trẻo như hiện thân cho v đẹp trong ng, thun khiết ca
con người i đây. S trỗi dậy mạnh mẽ ca hoa mơ thể hiện sức sống mãnh
liệt của thn nhiên, đang bung nở, ng sắc, tỏa hương cho c núi rừng.
Với s lan tỏa, trải i ca màu trắng hoa mơ m cho bức tranh thiên nhn
trở n bừng ng, tạo ra t rất riêng Việt Bắc. nhà thơ Tố Hữu đã "hơn
một lần" nhc đến sắc trắng của hoa mơ:
"Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ."
("Theo chân Bác")
Hay trong i "Hoan chiến sĩ Điện Bn", nhà thơ cũng từng viết:
"Mừng Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa lại trắng, vườn cam lại vàng."
18
Trên i nn của thiên nhn mùa xuân, con người hin ra trong nh ảnh
"đan nón chuốt từng sợi giang", một ng việc đòi hỏi s cần mn, cm chỉ,
i hoa và khéo o đến từng chi tiết. Bao nhu sản phm tinh tế đã đưc tạo
ra t bàn tay lao động thô mà thật kì ng ấy. Sau này, nhà thơ Y Pơng
ng đã nói đến v đp đó của "ni đồng mình" trong i thơ "Nói với con"
"Người đồng mình tơng lắm con ơi
Đan lờ i nan hoa, vách nhà ken câu hát."
Trong bức tranh t bình về Việt Bc, nhiều người cho rằng mùa đẹp nht
bởi s kết hp c nh nh âm thanh, tha mãn th giác thính
giác, đẹp bởi s hòa quyn giữa v đẹp c điển và hiện đại, tạo ra mt chui
vận động liên hoàn:
"Ve u rừng phách đổ vàng
Nhớ em i i măng một mình."
Âm thanh của tiếng ve m kng gian ngày tr nên rộn , náo nức, vui
tươi. Tiếng ve u gọi mùa hè rất tinh tế, không chỉ thể hiện được nhịp bước
của thi gian từ xuân sang hè mà còn din tả đưc s chuyển đổi màu sắc.
Trong t ca, ng không hiếm những nhà thơ nói lên sự vận đng của thời
gian qua sự thay đi ca màu sắc. Đó Xuân Diệu trong bài "Đây mùa thu
tới"
"Trong vườn sắc đỏ a màu xanh"
Hay đó Nguyễn Bính trong i "Tương tư"
"Ny qua ngày lại qua ngày
xanh nhum đã tnh y vàng."
Nếu từ "rũa" th hiện quá trình xâm lấn dần, sắc đ đang bào mòn dần màu
xanh, t "nhum" diễn tả quá trình ấy đã hoàn tất, t t " lại chng t
một sự vận động nhanh chóng, đồng lot t màu xanh sang vàng. C cánh
rừng Việt Bc tr nên lung linh, lộng lẫy bi i màu ng tri i, kiêu sa
đầy bắt mắt.
nh nh i "hái ng một nh" linh hồn của bức tranh a . ch
gọi "cô em gái" nghe thật thân thương, gần gũi, tình mến như anh em rut
thịt trong gia đình. i ấy đang "mt mình" miệt i trong lao động "hái
ng", âm thầm, lặng lẽ p sức mình cho cuc kháng chiến t nhng điều
bình dị, nh bé. Đó là những con ngưi bình d mà cao c "Kng ai nh mt
đặt tên. Nhưng h đã m ra Đất Nước". (Nguyễn Khoa Điềm)
19

Preview text:

Phân tích bài thơ Việt Bắc của nhà thơTố Hữu
"Việt Bắc" là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu bước lên." Tác phẩm không chỉ là
khúc hùng ca chiến đấu mà còn là khúc tình ca dân tộc. Bên cạnh đó, "Việt
Bắc" còn là tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu - lá cờ đầu của thơ ca Cách
mạng Việt Nam. Kính mời quý bạn đọc tham khảo bài mẫu Phân tích bài thơ
Việt Bắc chọn lọc hay nhất do Luật Minh Khuê biên soạn qua bài viết dưới đây nhé!
1. Tác giả và phong cách sáng tác
- Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành.
- Quê quán: làng Phù Lai (xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên
Huế). Tố Hữu sinh ra và lớn lên ở một vùng đất thơ mộng, trữ tình, còn lưu lại
nhiều nét văn hóa dân gian với những làn điệu dân ca Nam Ai, Nam Bình,
những câu mái nhì, mái đẩy và cả nền nhã nhạc cung đình Huế. Điều này đã
tạo sự thuận lợi để Tố Hữu tiếp xúc với nền văn học dân gian.
- Tố Hữu sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho nghèo, cả cha và mẹ đều
say mê sưu tầm ca dao tục ngữ. Đây là điều kiện để phát triển hồn thơ Tố
Hữu mang âm hưởng trữ tình, đậm đà tính dân tộc.
- Tố Hữu là nhà thơ lớn, là người tiên phong của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam, thơ ông luôn gắn bó với những chặng đường cách mạng của dân
tộc.
Phong cách thơ mang tính trữ tình chính trị vô cùng sâu sắc, hướng đến
những cái tôi chung và lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn, cái tôi trong
thơ của ông luôn nhân danh Đảng, cộng đồng dân tộc, những vần thơ ấy vừa
giàu nhạc điệu lại mang tính dân tộc đậm đà.
- "Tố Hữu được mệnh danh là "ca sĩ" sớm nhất và cũng là "ca sĩ" lớn nhất
trong bản "hợp ca" cách mạng. Sức hút lớn nhất của thơ Tố Hữu là chất men
say của lý tưởng cách mạng, chất trữ tình ngọt ngào thương mến qua những
vần thơ đậm đà tính dân tộc. Bài thơ "Việt Bắc" (10/1954) là khúc tình ca tha
thiết mặn nồng của người cán bộ với quê hương cách mạng Việt Bắc, là bản
hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp."
- Thơ Tố Hữu là những vần thơ thể hiện tiếng nói của dân tộc, của tâm hồn
những con người gắn bó sâu sắc với sự nghiệp Cách mạng, với quê hương,
đất nước.
Trong những vần thơ ấy ta sẽ bắt gặp những tình cảm mến thương 1
sâu sắc, trữ tình, xuất phát từ một trái tim trung thành với dân tộc và nhân
dân, và tiêu hơn cả là bài thơ "Việt Bắc". 2. Tác phẩm 2.1. Hoàn cảnh ra đời
- Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954), Hiệp định Giơnevơ được
kí kết, hòa bình được lập lại, một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn
mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan của Trung
ương Đảng và Chính phủ rời khỏi chiến khu Việt Bắc, nơi đã che chở, nuôi
dưỡng cho Cách mạng suốt những năm trường kỳ chống thực dân Pháp trở về Hà Nội.
- Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt: từ chiến tranh sang hòa bình,
từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với nơi đã từng đồng cam
cộng khổ, với những người đã từng "chia ngọt sẻ bùi". Người ra đi không khỏi
bâng khuâng thương nhớ, người ở lại cũng không khỏi bịn rịn, trống trải, bùi ngùi.
Nhân sự kiện có tính chất thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu - một cán bộ của
Đảng, một nhà thơ lớn của Cách mạng đã sáng tác bài thơ "Việt Bắc" vào
tháng 10 năm 1954. Bài thơ đã có vinh dự được lấy tên chung cho cả tập thơ
"Việt Bắc" (1946 - 1954) - một đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một tác
phẩm xuất sắc thơ Việt Nam thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
Lưu ý:
Có thể tóm tắt hoàn cảnh ra đời một cách ngắn gọn như sau:
Tố Hữu - một hồn thơ dân tộc, một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam.
Có thể nói những tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tư tưởng, lẽ sống của
bản thân mình mà qua đó ta còn thấy được những sự kiện quan trọng của
Cách mạng nước nhà. Tháng 10 năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ,
bộ đội ta phải chuyển lực lượng về thủ đô và chia tay với chiến khu Việt Bắc.
Kẻ ở người đi lòng không khỏi nhớ thương tiếc nuối tình quân dân trong mười
lăm năm kháng chiến, nhân sự kiện trọng đại này, cùng với tâm trạng nỗi
niềm ấy, Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc. Hoặc:
Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử hào hùng của dân tộc, sau chiến thắng
Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Thủ đô Hà Nội rợp bóng
cờ hoa trong ngày hội non sông, bài thơ "Việt Bắc" ra đời là tiếng hát nghĩa 2
tình, son sắt, thủy chung của mình với ta, của chiến sĩ, cán bộ, đồng bào đối
với chiến khu Việt Bắc với Cách mạng và kháng chiến, đối với Đảng và Bác
Hồ của miền xuôi và miền ngược, là khúc tình ca của một dân tộc anh hùng.
Đoạn trích trong SGK:
- Bài thơ Việt Bắc có 2 phần, gồm 150 câu thơ.
- Phần thơ trong SGK là đoạn mở đầu và phần một gồm 90 câu - phần đặc
sắc hơn cả của bài thơ Việt Bắc. Đoạn trích là hai đoạn hoài niệm về một
Việt Bắc gian khổ, vẻ vang của Cách mạng và kháng chiến, nay đã trở thành
kỉ niệm sâu nặng khôn nguôi trong lòng người.
Toàn phần trích giảng thông
qua nỗi nhớ da diết, thể hiện nghĩa tình cách mạng, tình cảm thủy chung son
sắt của người cán bộ về xuôi đối với quê hương Việt Bắc. 2.2. Thể thơ
Bài thơ "Việt Bắc" được viết theo thể thơ lục bát, tạo nên âm hưởng nhẹ
nhàng, trầm bổng mà lắng sâu trong lòng người đọc. Đây chính là một sự
khéo léo tạo nên thành công của bài thơ chính trị mà trữ tình, dạt dào cảm xúc này.
"Việt Bắc" vận dụng lối hát giao duyên đối đáp nam nữ của dân ca, vì vậy
thường sử dụng lối xưng hô thân mật rất quen thuộc là mình - ta. "Ta"
thường dùng ở ngôi thứ nhất. "Mình" thường dùng ở ngôi thứ hai. Tùy theo
văn cảnh, ta và mình có thể là Việt Bắc hay người cán bộ về xuôi. Nhưng
nhiều lúc lẫn lộn, tuy hai mà một vì mình hay ta cũng đều là người cách
mạng, cũng đều là ân tình sâu nặng với nhau "tuy hai mà một".
Dù là kết cấu đối đáp, nhưng ở Việt Bắc không chỉ là lời nói, lời đáp mà còn là
sự hô ứng, đồng vọng của cùng một tâm trạng. Lời đáp, ngoài việc trả lời cho
những câu hỏi, còn là sự mở rộng, làm phong phú thêm cho những ý tình đã
được gợi ra trong lời hỏi. Cũng có khi cả lời hỏi và lời đáp đã trở thành lời
đồng vọng ngân vang lên những tình cảm chung.
Nếu nhìn sâu hơn vào kết cấu của bài thơ, chúng ta thấy được đối thoại chỉ là
lớp vỏ ngoài còn ở chiều sâu bên trong chính là lời độc thoại. Hình thức độc
thoại là khả năng phân thân của cái "tôi" trữ tình để hóa thân vào đối tượng,
khiến tâm trạng được thể hiện sâu sắc dễ lay động lòng người hơn. 3
2.3. Đại ý - ý nghĩa bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc là bài thơ trữ tình đằm thắm thiết tha thể hiện ân tình sâu nặng
thủy chung của tác giả - người cán bộ sắp rời Việt Bắc về miền xuôi - đối với
căn cứ địa Cách mạng của cả nước.
Đây không chỉ là tình cảm riêng của nhà
thơ mà đồng thời cũng là tâm trạng chung của mọi người. Bài thơ này tiêu
biểu cho những suy nghĩ, tình cảm cao đẹp của những con người kháng chiến
đối với miền đất quê hương Cách mạng, với đất nước và nhân dân, với kháng
chiến và Cách mạng. Cũng có thể nói đây là khúc hát tâm tình thủy
chung
không những của con người kháng chiến, của nhân dân ta mà còn của
truyền thống ân nghĩa, thủy chung của dân tộc hòa vào, tiếp nối và khơi sâu
thêm nét truyền thống cao đẹp đó.
Việt Bắc dựng ra một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ những cảm xúc trữ tình
dào dạt. Đó là một cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa kẻ ở, người đi, giữa Việt
Bắc với cán bộ về xuôi bâng khuâng và bịn rịn. Đó cũng là cuộc chia tay của
những người đã từng gắn bó sâu nặng với nhau, cùng nằm gai nếm mật, chia
ngọt sẻ bùi. Giờ đây, trong phút giây chia tay, họ cùng nhau gợi lại bao kỉ
niệm về những ngày tháng đã qua. Họ khẳng định nghĩa tình bên chặt và
hẹn ước về một ngày mai tươi sáng.
3. Đọc - hiểu văn bản
3.1. Cảm nhận chung về đoạn thơ
- Đoạn thơ đã tái hiện được khí của cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn sau 15
năm gắn bó ân tình giữa kẻ ở người đi. Đó là không khí ân tình của hồi tưởng,
hoài niệm của ước vọng và tin tưởng.
- Kết cấu: Theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao dân ca. Không đơn thuần là
lời hỏi - đáp mà là sự hô ứng đồng vọng, là sự độc thoại nội tâm, đó là cách
"phân thân", "hóa thân" để bộc lộ tâm trạng phong phú hơn.
- Giọng điệu: Ngọt ngào êm ái, giọng tâm tình thủ thỉ,
3.2. Cuộc chia tay và tâm trạng của kẻ ở người đi
a. Tâm trạng khi chia tay của kẻ ở người đi (8 câu thơ đầu) 4 câu thơ đầu
Thơ là sự giãi bày đời sống tình cảm, "là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất
của tâm hồn khi đụng chạm đến cuộc sống" (Nguyễn Đình Thi). Tình cảm ấy
là những trạng thái cảm xúc mà người nghệ sĩ từng trải qua, từng sống trong 4
những cung bậc ấy. Thơ không chấp nhận thứ tình cảm hời hợt, mờ nhạt. Nếu
nhà thơ không viết thơ bằng nước mắt, bằng máu của chính mình, không sâu
sắc với những tình cảm của con người thì thơ sẽ thiếu sức sống, chỉ có thể
làm được những bài thơ vô hồn, chỉ là những câu chữ hoa mĩ được ép khô trên giấy.
Tố Hữu đã viết "Việt Bắc" bằng cảm xúc bâng khuâng, da diết khi phải chia
tay đồng bào Việt Bắc với biết bao kỉ niệm ngọt bùi khó quên của một thời
gắn bó. Hình thức là đối đáp giữa kẻ ở - người đi nhưng thực chất là lời độc
thoại nội tâm, đắm mình trong hoài niệm quá khứ của tác giả.
Trong cuộc chia tay giữa đồng bào Việt Bắc với những người chiến sĩ Cách
mạng về xuôi, người ở lại là những người lên tiếng trước bởi họ đã nhạy cảm
nhận ra sự thay đổi của hoàn cảnh nên bồn chồn, lo lắng không yên. Trong
âm hưởng ngọt ngào của ca dao, những câu hỏi của người ở lại cất lên như
chất chứa bao nỗi niềm vấn vương, lưu luyến:
"Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn"
Mười lăm năm gợi ra hành trình từ những ngày đầu Cách mạng với cuộc khởi
nghĩa Bắc Sơn năm 1940 và sự kiện năm 1941, sau những năm bôn ba khắp
năm châu bốn bể tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã trở về Tổ Quốc, người chọn
Việt Bắc làm căn cứ địa Cách mạng:
"Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ."
Nhà thơ đã sử dụng sáng tạo hai đại từ "mình - ta" vốn là cách xưng hô lứa
đôi quen thuộc trong ca dao với biết bao tình cảm mến thương dạt dào:
"Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười." Hay
"Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ." 5
Tố Hữu đã mượn hình thức quen thuộc của văn học dân gian để thể hiện một
vấn đề có tính chất lịch sử. Từ những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở
thành "khúc tâm tình" của kẻ ở - người đi, từ cách xưng hô lứa đôi trở thành
tiếng gọi thân thương của những ngươi đồng chí, đồng bài khiến cho tình
cảm trở nên đẹp đẽ, gắn bó.
Với biện pháp điệp ngữ "mình có nhớ ta", "mình có nhớ không" đã tạo nên
giọng thơ đầy lưu luyến, thể hiện sự day dứt, bịn rịn, băn khoăn của người ở
lại và cả nỗi lo sợ người ra đi sẽ không giữ được tình cảm thủy chung với Việt
Bắc. Đó đồng thời là lời nhắn ngủ với người ra đi đừng bao giờ quên quê
hương nghĩa tình cách mạng với những kỉ niệm mặn nồng keo sơn.
"Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương Cách mạng dffing nên Cộng hòa."
Sau những câu hỏi ấy, người ở lại đã khơi gợi những kỉ niệm khó quên ở Việt
Bắc với thời gian "mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng". Mười lăm năm ấy
đủ đong đầy bao nghĩa tình sâu nặng như phảng phất âm hưởng của thơ Kiều:
"Những là rày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình."
Đó là khoảng thời gian "Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh", là những
ngày tháng mà đồng bào Việt Bắc đã cưu mang cán bộ. Họ đã từng gian khổ
có nhau, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, thủy chung gắn bó. Mười lăm
năm vào sinh ra tử với biết bao kỷ niệm chiến đấu, bao ân tình đằm thắm khó quên.
Không chỉ nhớ về thời gian, người ở lại như muốn người ra đi nhớ về không
gian Việt Bắc, thủ đô gió ngàn, căn cứ địa Cách mạng "nhìn cây nhớ núi, nhìn
sông nhớ nguồn". Nhớ núi, nhớ nguồn là nhớ về khung cảnh thiên nhiên, nhớ
về quê hương Cách mạng, ngọn nguồn của Cách mạng, đó không chỉ là
không gian vô hồn mà đã trở nên rất đỗi thân quen, in dấu từng bước chân,
lưu giữ bao kỉ niệm. Câu thơ vừa có tình cảm lưu luyến, hụt hẫng trong lòng
người ở lại vừa như lời dặn dò kín đáo với người ra đi đừng quên đạo lí "uống nước nhớ nguồn".
"Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm." (Tố Hữu) 6 4 câu thơ sau
"Thơ là điệu hồn đi tìm những hồn đồng điệu", là tiếng nói đồng vọng của
những trái tim, những tâm hồn tri âm. Nhà thơ Tố Hữu như đã thấu cảm được
sự đồng vọng tha thiết của kẻ ở - người đi qua kết cấu đối đáp ngọt ngào, ân
tình. Sau những câu hỏi của người ở lại, người ra đi chỉ im lặng lắng nghe, chỉ
biết cầm tay nghẹn ngào không nói nên lời:
"Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi"
Đại từ phiếm chỉ "ai" gợi ra bao nhiêu cảm xúc, "ai" nghĩa rằng không biết rõ
là ai đang tha thiết, nó hiển hiện trong mỗi con người ở lại, của cả nhân dân
Việt Bắc chứ không của một cá nhân nào. Tiếng dân cứ tha thiết gợi về biết
bao bịn rịn, để rồi người ra đi cứ "bâng khuâng trong dạ", chân bước đi mà
lòng cứ bồn chồn không yên, đau đáu nhìn lại. Hai từ láy "bâng khuâng",
"bồn chồn" không chỉ tạo ra tính nhạc cho lời thơ mà còn diễn tả tâm trạng
luyến tiếc, nhớ thương, ngập ngừng, bịn rịn, không thể chia tay, không thể dứt khoát để về xuôi.
Giữa khung cảnh buổi chia tay, nếu "tiếng ai" là âm thanh mơ hồ, là tiếng
vọng trong tâm tưởng, thì hình ảnh "áo chàm" lại thật cụ thể, không thể xóa
nhòa trong tâm tưởng người ra đi.
"Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay."
"Áo chàm" là hoán dụ cho nhân dân Việt Bắc, bởi đây là trang phục dân tộc
quen thuộc nơi vùng cao. Áo chàm là màu áo bền bỉ, khó phai, bình dị, đơn
sơ, mộc mạc của một vùng quê nghèo khổ mà nghĩa tình. Đây là màu áo đặc
trưng của người dân Việt Bắc, những con người tuy vất vả lam lũ nhưng vẫn
một lòng son sắt với Cách mạng và kháng chiến. Với hình ảnh áo chàm, nhà
thơ đã gợi lên hình ảnh của toàn thể những người dân Việt Bắc đã có mặt
trong buổi tiễn biệt người chiến sĩ Cách mạng về xuôi.
Có biết bao nỗi niềm, cảm xúc nhưng người ra đi lại chẳng "biết nói gì hôm
nay". Họ im lặng khi mọi lời đều bất lực, khi có rất nhiều điều muốn nói
nhưng lại không thể nói hết, nói trọn vẹn những nỗi niềm đang trào dâng
mãnh liệt. Người ra đi im lặng bởi xúc động, nghẹn ngào không nói nên lời,
bởi sự bâng khuâng bịn rịn. Và hơn hết, họ im lặng để tri ân, thấu hiểu, để lời
người ở lại ngân vang và thấm sâu vào tâm hồn. 7
Câu thơ cuối được ngắt nhịp 3/3/2 diễn tả sự ngập ngừng, lưu luyến lúc chia
tay. Và tất cả tình cảm người ra đi gửi gắm qua hành động "cầm tay". Cái
cầm tay không lời nous lại chất chứa bao nhiêu điều muốn nói. Trong bài thơ
"Đồng chí", nhà thơ Chính Hữu đã từng viết "Thương nhau tay nắm lấy bàn
tay." Đó là những hành động đã trở thành ngôn ngữ giao tiếp đặc biệt, thể
hiện những cảm xúc trong lòng người. Cái cầm tay của người ra đi đã khẳng
định tình cảm mãi thủy chung với Việt Bắc vừa để củng cố niềm tin cho người
ở lại, động viên tinh thần giúp họ vượt lên hoàn cảnh. Cầm tay bởi sự vấn
vương, xúc động khó dứt, và dường như đó là hành động thay cho lời tạm
biệt, thay cho lời hứa sẽ mãi bền lòng, vững tâm với vùng đất và con người
nơi đây. Trong bài thơ "Hơi ấm bàn tay", Lưu Quang Vũ cũng có những câu thơ rất tình:
"Điều chưa nói thì bàn tay đã nói
Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại
Còn bồi hồi trong những ngón tay ta."
Phút cầm tay của tình quân dân hay tình yêu đôi lứa, dù thế nào cũng là
những phút giây để nhớ thương:
"Khi cách nhau hàng vạn dặm không gian
Anh mới hiểu khoảng cách không đáng sợ
Anh thấy em bên mình, như nghe từng nhịp thở."
Tin rằng, với "mình" và "ta", họ cũng thấy nhau bên mình, "nghe từng nhịp
thở", bởi hồi ức mười lăm năm chẳng ít ỏi để lãng quên, huống chi là hồi ức
về những tháng ngày kiêu hùng của dân tộc. Mượn thơ tình của Lưu Quang
Vũ để nói về thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu thật không cân bằng, nhưng trữ
tình trong tình thương giữa con người với con người, với tình yêu, cũng cùng
những cung bậc gần biết mấy!
Nếu những câu thơ đầu hiện lên với từ "tha thiết", thì đến đây ta lại nghe
"tha thiết", cảm xúc của kẻ ở người đi dành cho nhau quyện hòa nồng thắm.
Nhà thơ đã sử dụng thật tinh tế hệ thống từ láy dồn dập, làm nổi bật những cảm xúc đang dâng trào,
Đọc tám câu thơ của Tố Hữu, cảm nhận "buổi phân li" thắm đượm ân tình, ta
bỗng nhớ đến câu thơ trong cảnh Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều:
"Người lên ngffia, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san" 8
Cuộc phân ly nào cũng buồn da diết đến thế, nhưng tình người, tình yêu vẫn thắm đượm đong đầy.
b) Nỗi nhớ da diết mênh mang với nhiều sắc thái và cung bậc khác nhau
Nhà thơ Tagore từng bày tỏ: "Ngọn gió nhà thơ băng qua rừng, băng qua
biển để tìm ra tiếng nói của riêng mình." Tố Hữu được xem là nhà thơ lớn của
dân tộc, sớm giác ngộ Cách mạng, hăng say tham gia kháng chiến, dùng
ngòi bút để phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc. Và Tố Hữu đã tìm cho mình
một lối đi riêng, đó là lối thơ đậm đà tính dân tộc, mang khuynh hướng sử thi
và cảm hứng lãng mạn với giọng điệu ngọt ngào, tha thiết.
Trong lời nhắn nhủ của người ở lại qua mười hai câu thơ tiếp theo, tác giả
không chỉ thể hiện nỗi trăn trở, lo lắng, băn khoăn của người ở lại mà còn
khắc họa vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên, com người Việt Bắc mang đậm màu sắc dân tộc:
"Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù."
Thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với sự khắc nghiệt, dữ dội, hiểm nguy trong
những hình ảnh "mưa nguồn", "suối lũ", "những mây cùng mù". Nắng lắm,
mưa nhiều, lũ quét, đất lở và quanh năm mây mù bao phủ. Bao nhiêu trở
ngại, gian khổ đã được nhà thơ khắc họa qua những ấn tượng cụ thể, sinh
động. Đó cũng chính là môi trường kháng chiến nhiều khó khăn, thử thách
mà quân và dân ta đã gắn bó trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Không những thiên nhiên khắc nghiệt mà cuộc sống ở đây lại càng thiếu thốn
hơn. Người ở lại như muốn gợi nhắc để người ra đi nhớ về những ngày tháng
gian khổ, những con người Việt Bắc như nhớ về một nơi thân thương nhất:
"Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai"
"Mình đi có nhớ những ngày
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son."
Hình ảnh thơ xúc động đã diễn đạt theo hình thức tiểu đối nhấn mạnh hồi ức
về những ngày "miếng cơm chấm muối". Nhưng trong gian khổ thử thách,
Cách mạng với nhân dân cùng đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Họ đoàn
kết sánh vai vì mục đích lý tưởng chung, luôn nung nấu "mối thù nặng vai". 9
Khung cảnh Việt Bắc hoang vu, vắng lặng và cuộc sống nghèo nàn "hắt hiu
lau xám" nhưng con người luôn có một lòng thủy chung sâu sắc. Họ là những
con người bình dị, thầm lặng nhưng đã hi sinh và cống hiến hết mình cho
Cách mạng, luôn gắn bó với Cách mạng từ những ngày đầu kháng chiến:
"Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình lại nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa"
Đây là kỉ niệm sâu sắc về thời kỳ gian khó khi Việt Bắc trở thành cái nôi của
Cách mạng, là căn cứ địa quan trọng của Việt Minh. Đó là những ngày tháng
đầy mất mát, hy sinh song cũng thật hào hùng của dân tộc. Nếu "Tân Trào",
"Hồng Thái" là địa danh lịch sử trọng đại, là nơi họp QUốc dân Đại hội và là
nơi làm lễ xuất quân của đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, thì "mái
đình", "cây đa" lại là những hình ảnh thật bình dị, quen thuộc của làng quê
Việt Nam, là không gian sinh hoạt cộng đồng, giao lưu, hò hẹn. Điều này cho
thấy sự gắn bó sâu sắc của người dân Việt Bắc với Cách mạng, tình cảm họ
dành cho Cách mạng cũng gần gũi, thân quen như tình làng, nghĩa xóm.
Những câu hỏi ấy không chỉ gợi lại thời gian kháng chiến, nhắc lại không gian
lịch sử mà còn gợi lại những kỉ niệm chiến đấu cùng kề vai sát cánh, vào sinh
ra tử với lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết tâm cao độ. Chính điều
này đã phản ánh vẻ đẹp phẩm chất của người ở lại - người dân Việt Bắc.
Những câu hỏi đều hướng đến người ra đi nhưng cũng có lúc người ở lại hỏi chính lòng mình:
"Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già"
"Rừng núi" là hình ảnh hoán dụ để nói về những người dân Việt Bắc, những
người ở lại đang "nhớ ai", thấy vấn vương, hụt hẫng trong lòng khi phải chia
tay những người đã từng gắn bó. Câu thơ đã nói lên sự trống vắng, cô đơn,
nỗi nhớ thương của người ở lại khi mỗi người mỗi phương trời xa xôi. Họ lấy
sản vật của núi rừng để nuôi cán bộ, "trám bùi", "măng mai" để hoài niệm
quá khứ gian khổ và thấm thía nỗi buồn xa cách ở hiện tại.
3.3. Bảy mươi (70) câu thơ tiếp theo: Lời đáp của người ra đi a) Bốn câu đầu 10
Sau rất nhiều câu hỏi của người ở lại, những người ra đi trả lời liền mạch qua
bảy mươi dòng thơ như những cảm xúc bị dồn nén, chất chứa ở trong lòng
nay tuôn trào và cuộn chảy. Người ra đi đã khẳng định tình cảm thủy chung,
bền vững với Việt Bắc:
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu."
Đại từ "mình", "ta" được sắp xếp thành "ta - mình", "mình - ta" tạo cảm giác
gắn bó, hòa quyện, khăng khít thể hiện tình cảm trọn vẹn trước sau như một.
"Đinh ninh" là sự khẳng định chắc chắn và sẽ mãi thủy chung với mảnh đất và con người Việt Bắc.
Nếu người ở lại đã từng băn khoăn tự hỏi "mình đi mình có nhớ mình", thì
người ra đi đã hồi đáp như lời khẳng định son sắt "Mình đi mình lại nhớ mình".
Từ "mình" thứ ba để chỉ cả người ở lại cả người ra đi. Những người ra đi
không thể nào quên được Việt Bắc, quê hương của Cách mạng cũng là nơi từng gắn bó sâu nặng.
b) Nỗi nhớ của người ra đi
"Nhớ gì như nhớ người yêu ...
Chày đêm nện cối đều đều suối xa"
Thơ ca là tiếng nói của nhịp đập con tim, là tiếng nói của cảm xúc, tình cảm.
"Thơ là nơi duy nhất để giải phóng tôi và để tôi trú ẩn" (Nguyễn Quang
Thiều). Người đọc tìm đến thơ như những tâm hồn thứ hai của mình, không
chỉ để cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống mà còn tìm được
tiếng nói tri ân với tác giả. Trong bài thơ "Việt Bắc" ta cảm nhận được tình
cảm tha thiết, sâu nặng của thi nhân, của những người kháng chiến với đồng
bào Việt Bắc trong khoảnh khắc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn. Đó là nỗi nhớ
về một thời kì gian khổ nhưng "đậm đà lòng son", nỗi nhớ ào ạt như thác lũ,
vang vọng ngân nga, dội vào vách núi và dội vào trái tim người đọc.
Bài thơ Việt Bắc triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở người đi thật tự
nhiên, khéo léo. Những câu hỏi gợi nhắc của người ở lại đã khơi nguồn biết
bao kỉ niệm ùa về. Kỷ niệm kết nối kỉ niệm, kí ức gọi ký ức. Tất cả bỗng thức
dậy và chảy trong mạch cảm xúc dạt dào tưởng chừng như không bao giờ vơi 11
cạn. Có thể nói, nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất
cả kí ức hoài niệm của một thời gắn bó.
Nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc
Mở đầu cho bản tình ca nỗi nhớ ấy là một giai điệu ngọt ngào, say đắm của tình yêu:
"Nhớ gì như nhớ người yêu"
Tình yêu luôn đi kèm với nỗi nhớ khi xa cách. Đó là nỗi nhớ da diết, thường
trực, ám ảnh và vô cùng mãnh liệt.
"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than."
Hay đó là nỗi nhớ cồn cào đến mức phi lý như trong cảm nhận của Xuân Diệu:
"Uống xong lại khát là tình
Gặp rồi lại nhớ là mình với ta."
Hoặc như Tố Hữu cũng đã từng rất ngạc nhiên:
"Lạ chưa vẫn ở bên em
Mà anh vẫn nhớ vẫn thèm gặp em."
Với hình ảnh so sánh đầy ngọt ngào, thấm thía, Tố Hữu khiến cho nỗi nhớ
của người ra đi với đồng bào Việt bắc cũng giống như nỗi nhớ của hai người
yêu nhau, da diết, sâu lắng, cồn cào như nỗi nhớ trong tình yêu. Điệp từ
"nhớ" càng khiến cho nỗi nhớ trở nên khắc khoải, khôn nguôi như những đợt
sóng lòng trào dâng mãnh liệt.
Sau câu thơ mang hơi thở của tình yêu, cả một không gian núi rừng Việt Bắc
trải dài đã hiện lên mộc mạc, thân quen mà thi vị, lãng mạn như không gian của tình yêu đôi lứa.
"Trăng lên đầu núi nắng nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về."
Thiên nhiên Việt Bắc trở về trong nỗi nhớ của người ra đi là những đêm trăng
bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi. Ánh trăng trở thành người bạn của con
người, những người cán bộ kháng chiến. Không gian núi rừng trở nên lung
linh, hữu tình nhờ có ánh trăng soi chiếu. Đó còn là ấn tượng về những buổi
chiều ánh nắng trải dài khắp các lưng nương, hòa lẫn với màu xanh bạt ngàn 12
của núi rừng, tạo ra một bức tranh rất đặc trưng nơi Việt Bắc. Ánh nắng nhẹ
nhàng, phảng phất mà lan tỏa, hòa quyện, gắn bó đến kỳ lạ.
Không thể nào quên ở Việt Bắc là những bản làng ngập chìm trong sương
khói, vừa mơ hồ, huyền ảo, vừa thanh bình, yên ả lại vừa thân thương, gợi
nhớ. Những ngôi nhà thoắt ẩn, thoắt hiện trong màn sương mù bao phủ cùng
với hình ảnh "người thương đi về" tần tảo sớm hôm đã tạo ra linh hồn, sức
sống cho bức tranh thiên nhiên. Nếu câu thơ đầu họ như "người yêu" thì giờ
đây đã trở thành "người thương" trong lòng người ra đi, gần gũi, gắn bó với
nhau như những người thân ruột thịt. Đây chính là những con người đã che
chở, cưu mang cán bộ trong suốt một thời gian dài gian khó. Và nhịp sống
giản dị, đời thường của không gian nơi đây được tái hiện qua hình ảnh bếp
lửa chập chờn trong đêm đông lạnh giá như xua tan đi cái lạnh lẽo của núi
rừng và sưởi ấm tâm hồn con người.
Trong ký ức của người ra đi còn dội lại bao địa danh đong đầy kỷ niệm: Ngòi
Thia, sông Đáy, suối Lê và cả "rừng nứa", "bờ tre" quen thuộc, gắn bó. Đây
là những ấn tượng rất riêng chỉ có ở Việt Bắc. Gọi lại địa danh là gọi lại kỉ
niệm về nghĩa tình Cách mạng, kháng chiến làm cho kỉ niệm sống lại vẹn
nguyên, đủ đầy. Với những hình ảnh liệt kê, khiến cho người đọc cảm nhận rõ
hơn về nỗi nhớ da diết, miên man, không dứt, hết đợt này đến đợt khác như
một cuốn phim quay chậm để rồi lắng đọng trong tâm trí người ra đi là tình
cảm chân thành không thể nào quên.
Nỗi nhớ về cuộc sống, con người
"Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết hạt vàng mà đời rơi vãi
Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang."
(Chế Lan Viên)
Đó là sứ mệnh thiêng liêng của mỗi nhà thơ, phải mở rộng hồn mình để đón
nhận những vang động của đất trời, bén rễ vào mảnh đất mang tên hiện thực
đời sống. Văn chương được nuôi dưỡng từ bà mẹ cuộc sống để trở lại làm đẹp
cho đời, bồi đắp cho tâm hồn con người. Những trang thơ của Tố Hữu đã
"nhặt lấy chữ của đời" để viết nên những tác phẩm chân thực như những
trang đời có sức lay động bao thế hệ người đọc.
Trong tiềm thức của người ra đi, không chỉ có nỗi nhớ về bức tranh thiên
nhiên thơ mộng, gần gũi nơi Việt Bắc mà còn là nỗi nhớ về hiện thực cuộc
sống và những con người nghĩa tình nơi đây: 13
"Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi."
Đó là câu trả lời của những người ra đi cho câu hỏi đầy thấm thía, xúc động
của người ở lại trước khi chia tay "mình đi có nhớ những ngày". Nhớ "những
ngày" đó là những ngày cùng gắn bó, sẻ chia ngọt bùi được gói ghém từ
những ngày "kháng Nhật, thuở còn Việt Minh", trong "mười lăm năm thiết tha
mặn nồng" với "bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai". "Mình đây ta đó" tất
cả như còn hiện hữu vẹn nguyên với bao "ngọt bùi" cùng hưởng, "đắng cay"
cùng chịu trong nỗi nhớ da diết, mênh mang.
Hồi ức về cuộc sống của những năm tháng chiến tranh ác liệt, đầy gian khổ
nơi Việt Bắc đã được nhà thơ Tố Hữu tái hiện qua thước phim quay chậm như
một cuốn sách lịch sử bằng thơ:
"Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng."
"Sắn lùi", "bát cơm sẻ nửa", "chăn sui" là những hình ảnh hiện thực cụ thể
phản ánh một cuộc sống vô cùng thiếu thốn, khó khăn, gian khổ. Nơi đây
không chỉ có mưa bom bão đạn của kẻ thù mà còn có cả bệnh tật, đói rét,
khổ cực, gian khó. Nhưng cũng chính từ trong đói khổ, thiếu thốn đó lại nhen
nhóm lên tình nghĩa gắn bó giữa đồng bào Việt Bắc với những người lính
kháng chiến. Một củ sắn lùi cũng chia nhau, bát cơm sẻ nửa để làm ấm lòng
nhau và một chiếc chăn sui đắp cùng để sưởi ấm cho nhau trong đêm đông
lạnh giá. Họ không chỉ vượt qua thử thách bằng lòng dũng cảm mà còn bằng
tình yêu thương, bằng sức mạnh của tinh thần đoàn kết.
"Thơ cần hình cho người ta thấy", đó không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên
mà còn là những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống con người nơi đây:
"Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô."
Trong thơ Tố Hữu, hình ảnh người mẹ luôn là nguồn cảm hứng vô tận, những
người mẹ Việt Nam anh hùng, kiên trung song cũng rất tần tảo, chịu thương,
chịu khó và giàu đức hi sinh. Đó là hình ảnh mẹ Tơm:
"Con đã về đây ơi mẹ Tơm
Hỡi người mẹ khổ đã dành cơm
Cho con, cho Đảng ngày xưa ấy
Không sợ tù gông, chấp súng gươm."
14
Hay đó là hình ảnh của "Bầm ơi"
"Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em."
Hình ảnh người mẹ Việt Bắc cũng là hiện thân cho những bà mẹ Việt Nam,
cần cù lam lũ mà vẫn không sờn lòng, nản chí trong đấu tranh. Trong cái
nắng chói chang, mẹ vẫn nhẫn nại bền bỉ bẻ từng bắp ngô, cõng con cõng cả
nắng trời cháy lưng. Giữa cái khắc nghiệt, mênh mông của thiên nhiên "nắng
cháy lưng", mẹ vẫn "địu con lên rẫy", miệt mài với công việc lao động, âm
thầm lặng lẽ cống hiến cho cuộc Cách mạng, che chở, cưu mang cán bộ.
Đằng sau hình ảnh người mẹ, ta cảm nhận được niềm thương cảm và cả sự
cảm phục, tri ân của nhà thơ và những người kháng chiến với những con
người lao động rất bình dị mà vô cùng cao cả.
Nỗi nhớ về những sinh hoạt tập thể nơi chiến khu Việt Bắc
Những kỉ niệm kháng chiến, những sinh hoạt mang tính tập thể ở căn cứ địa
Việt Bắc thực sự đã trở thành một phần kí ức sâu đậm trong lòng người ra đi.
Vẫn mang dòng chảy của những hoài niệm, nhưng những kỉ niệm về lớp học
xóa mù chữ, những buổi liên hoan tại chiến khu mang lại màu sắc tươi vui, náo nức:
"Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan."
Điệp ngữ "nhớ sao" nghe bâng khuâng, da diết như luyến tiếc hụt hẫng trong
lòng người ra đi. Những cán bộ Cách mạng đến vùng cao đâu chỉ gây dựng
kháng chiến mà còn gieo chữ nơi bản xa, đem ánh sáng văn hóa đến làng
xóm. Những lớp học "i tờ" là hình ảnh quen thuộc của phong trào "bình dân
học vụ", xóa mù chữ cho đồng bào Việt Bắc và những người chiến sĩ lại trở
thành thầy giáo tận tụy, giàu tình yêu thương. Tiếng đánh vần ê a, nét chữ
còn vụng về nhưng những gương mặt vô cùng háo hức, say mê khi được học
con chữ của Cách mạng, của Bác Hồ là ấn tượng không thể phai nhòa trong lòng người ra đi.
Cuộc sống nơi chiến khu không chỉ có niềm hạnh phúc chinh phục được tri
thức mà còn đầy ắp niềm vui trong sinh hoạt tập thể. Ý thơ "đồng khuya
đuốc sáng những giờ liên hoan" gợi ta nhớ đến "doanh trại bừng lên hội đuốc
hoa" trong "Tây Tiến" của Quang Dũng. Cuộc sống nơi chiến khu dẫu gian 15
khổ nhưng luôn ấm áp, nghĩa tình, trái tim mỗi người luôn rực sáng niềm lạc quan tin tưởng:
"Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo."
Đời lính nhiều gian khổ song họ luôn lạc quan, yêu đời. Gác lại những mất
mát, hy sinh nơi chiến trận, quên đi tiếng súng đạn, hiểm nguy, những người
kháng chiến đã cùng với đồng bào Việt Bắc hòa nhịp vào đêm hội liên hoan
trong ánh sáng lung linh, diệu kì của bó đuốc rực rỡ khắp núi rừng. Tinh thần
trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, phong trào "Tiếng hát át tiếng
bom" thực sự thấm sâu vào nhận thức của mỗi người. Những lời ca tiếng hát
được vang lên rộn ràng, vui tươi như xua tan đi bao mệt nhọc, gian khổ, khơi
gợi và thắp lên niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng. Đây chính là
động lực để những người Cách mạng và đồng bào Việt Bắc vượt qua mọi thử
thách, đẩy lùi mọi khắc nghiệt, hiểm nguy, sẵn sàng đối mặt với tất cả.
Khép lại những thước phim về cuộc sống chiến khu giản dị, nghĩa tình là âm
thanh quen thuộc thân thương:
"Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm, nện cối đều đều suối xa."
Hai câu thơ như vọng lên khúc nhạc đồng quê, mỗi một âm thanh lại gợi mở
bức họa bình dị mà yên ả, thơ mộng. Đó là tiếng mõ rừng chiều giục đàn trâu
về trong niềm vui háp hức của đám trẻ mục đồng, là tiếng giã gạo đêm
khuya bình dị mà ghi dấu bao nghĩa tình sâu nặng. Tiếng suối róc rách nơi
rừng xa lại gợi cái trong ngần, thơ mộng của cảnh vật. Lời thơ dứt mà âm
thanh ấy cứ ngân vang mãi trong lòng người chia xa. Với điệp từ "nhớ" khiến
cho cảm xúc của thi nhân như một dòng chảy mênh mông, bất tận, thấm sâu vào tâm hồn độc giả.
c) Bức tranh tứ bình
"Ta về mình có nhớ ta ...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung."
"Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo
xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập" (Marcell Proust) Quả thật vậy!
Tố Hữu đã mang theo một luồng gió mới đến cho nền thơ ca Cách mạng Việt
Nam. Đó là một Tố Hữu với phong cách thơ trữ tình - chính trị với giọng điệu 16
ngọt ngào tha thiết chân thành. Từ một sự kiện chia tay mang tính lịch sử trở
thành cuộc chia tay của hai người yêu nhau đầy luyến lưu bịn rịn. Bao cảm
xúc dồn nén, bao nhiêu nỗi nhớ chất chồng để rồi những vần thơ đẹp nhất về
thiên nhiên và con người Việt Bắc ra đời.
Đoạn thơ được đánh giá là tuyệt bút của bài thơ, tập trung khắc họa bức
tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc. Một câu nói về thiên nhiên, lại đến
một câu nói về con người cứ thế hòa quyện, gắn bó khăng khít. Cảnh vật làm
nền cho con người, thổi hồn vào cảnh vật tạo ra vẻ đẹp đặc trưng riêng cho
không gian nơi đây. Có thể thấy ngay thi sĩ tạo hình theo lối xây dựng bộ
tranh tứ bình - một hình thức rất phổ biến của nghệ thuật cổ điển. Hoa và
người soi chiếu cho nhau, tôn vinh lẫn nhau. Bức tranh dường như đã tái hiện
trọn vẹn đầy đủ nhịp vận hành luân chuyển của thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Và mở đầu cho đoạn thơ tứ bình là câu hỏi của người ra đi đầy ngọt ngào,
mang hơi thở của tình yêu:
"Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người."
Câu hỏi thực ra chỉ là cái cớ để bộc lộ nỗi niềm xao xuyến nhớ nhung phút
chia li. Hỏi nhưng không cần câu trả lời, hỏi để rồi khẳng định ngay sau đó
"ta nhớ những hoa cùng người". Nhớ "hoa" là hình ảnh hoán dụ để nói về nỗi
nhớ thiên nhiên bên cạnh nỗi nhớ về con người, là một phần không thể thiếu
trong ký ức người ra đi. Với mật độ sử dụng đại từ "mình - ta" và điệp từ
"nhớ" như nhấn mạnh nỗi nhớ đang đầy ắp trong lòng tạo ra cảm giác vấn vương đến lạ.
Khung cảnh Việt bắc mở ra trong nỗi nhớ của người ra đi là bức tranh thiên
nhiên mùa đông với sự hòa phối màu sắc tuyệt vời:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng."
Trên cái nền xanh thẫm, bạt ngàn của rừng già là màu đỏ tươi của hoa chuối
như những ngọn đuốc thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn. Cái màu đỏ ấm nóng
của hoa chuối đã đẩy lùi vẻ thâm u, trầm lắng và cái lạnh lẽo của không gian,
làm cho thiên nhiên trở nên bừng sáng, ấm áp hơn. Bên cạnh đó là thấp
thoáng những đốm nắng với màu vàng rất nhẹ đang phảng phất nơi đồi
nương, cây rừng làm cho bức tranh mùa đông thêm phần tươi tắn. Sự pha 17
trộn giữa màu xanh của rừng già, màu đỏ tươi của hoa chuối và màu vàng
ấm áp của nắng đã tạo nên một bức họa thật thơ mộng, đầy cuốn hút thay vì
sự khắc nghiệt, giá lạnh của màu xanh.
Con người Việt Bắc hiện lên trong tư thế lao động thật khỏe khoắn, đẹp đẽ
"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Giữa cái hùng vĩ của núi rừng với gập
ghềnh cheo leo dốc núi, những người lao động vẫn thật hiên ngang như đang
làm chủ và chế ngự thiên nhiên. Với con dao đi rừng sáng loáng gài ngang
lưng, với sáng vẻ lồng lộng trên đèo cao đầy nắng, tầm vóc con người như
lớn lao, rắn rỏi hơn giữa núi rừng Việt Bắc. Đây cũng là tư thế của người lính
trong bài "Lên Tây Bắc" mà Tố Hữu đã ngợi ca:
"Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh núi cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với núi đèo."
Nếu mùa đông Việt Bắc hiện lên với hình ảnh của hoa chuối đỏ tươi thì mùa
xuân về núi rừng như được khoác lên mình một chiếc áo mới, một màu trắng
bạt ngàn phủ đầy không gian.
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang."
Cả cánh rừng Việt Bắc ngập tràn sắc trắng của hoa mơ. Màu trắng gợi lên sự
tinh khôi, trong trẻo như hiện thân cho vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của
con người nơi đây. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của hoa mơ thể hiện sức sống mãnh
liệt của thiên nhiên, nó đang bung nở, dâng sắc, tỏa hương cho cả núi rừng.
Với sự lan tỏa, trải dài của màu trắng hoa mơ làm cho bức tranh thiên nhiên
trở nên bừng sáng, tạo ra nét rất riêng ở Việt Bắc. Và nhà thơ Tố Hữu đã "hơn
một lần" nhắc đến sắc trắng của hoa mơ:
"Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ."
("Theo chân Bác")
Hay trong bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên", nhà thơ cũng từng viết:
"Mừng Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng." 18
Trên cái nền của thiên nhiên mùa xuân, con người hiện ra trong hình ảnh
"đan nón chuốt từng sợi giang", một công việc đòi hỏi sự cần mẫn, chăm chỉ,
tài hoa và khéo léo đến từng chi tiết. Bao nhiêu sản phẩm tinh tế đã được tạo
ra từ bàn tay lao động thô sơ mà thật kì công ấy. Sau này, nhà thơ Y Phương
cũng đã nói đến vẻ đẹp đó của "người đồng mình" trong bài thơ "Nói với con"
"Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát."
Trong bức tranh tứ bình về Việt Bắc, nhiều người cho rằng mùa hè đẹp nhất
bởi nó có sự kết hợp cả hình ảnh và âm thanh, thỏa mãn thị giác và thính
giác, đẹp bởi sự hòa quyện giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, tạo ra một chuỗi vận động liên hoàn:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình."
Âm thanh của tiếng ve làm không gian ngày hè trở nên rộn rã, náo nức, vui
tươi. Tiếng ve kêu gọi mùa hè rất tinh tế, không chỉ thể hiện được nhịp bước
của thời gian từ xuân sang hè mà còn diễn tả được sự chuyển đổi màu sắc.
Trong thơ ca, cũng không hiếm những nhà thơ nói lên sự vận động của thời
gian qua sự thay đổi của màu sắc. Đó là Xuân Diệu trong bài "Đây mùa thu tới"
"Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh"
Hay đó là Nguyễn Bính trong bài "Tương tư"
"Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng."
Nếu từ "rũa" thể hiện quá trình xâm lấn dần, sắc đỏ đang bào mòn dần màu
xanh, từ "nhuộm" diễn tả quá trình ấy đã hoàn tất, thì từ "đổ" lại chứng tỏ
một sự vận động nhanh chóng, đồng loạt từ màu xanh sang vàng. Cả cánh
rừng Việt Bắc trở nên lung linh, lộng lẫy bởi cái màu vàng trải dài, kiêu sa đầy bắt mắt.
Hình ảnh cô gái "hái măng một mình" là linh hồn của bức tranh mùa hè. Cách
gọi "cô em gái" nghe thật thân thương, gần gũi, tình mến như anh em ruột
thịt trong gia đình. Cô gái ấy đang "một mình" miệt mài trong lao động "hái
măng", âm thầm, lặng lẽ góp sức mình cho cuộc kháng chiến từ những điều
bình dị, nhỏ bé. Đó là những con người bình dị mà cao cả "Không ai nhớ mặt
đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước". (Nguyễn Khoa Điềm) 19