Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc | Văn mẫu 12 Chân trời sáng tạo

Nhà văn đã thành công trong khi khắc họa hình tượng nghĩa quân Cần Giuộc. Các từ miêu tả nguồn gốc xuất thân ngoại hình và hành động của người nghĩa sĩ nông dân cho thấy họ chỉ là những dân bình thường chất phác chăm chỉ nhưng khi nước nhà có giặc họ tự nhận về mình trách nhiệm phải bảo vệ đất nước sẵn sàng hi sinh vì nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Thông tin:
31 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc | Văn mẫu 12 Chân trời sáng tạo

Nhà văn đã thành công trong khi khắc họa hình tượng nghĩa quân Cần Giuộc. Các từ miêu tả nguồn gốc xuất thân ngoại hình và hành động của người nghĩa sĩ nông dân cho thấy họ chỉ là những dân bình thường chất phác chăm chỉ nhưng khi nước nhà có giặc họ tự nhận về mình trách nhiệm phải bảo vệ đất nước sẵn sàng hi sinh vì nước. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!

Dàn ý phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
I. Mở bài
- Vài nét về Nguyễn Đình Chiểu: một tác giả mù nhưng nhân cách vô cùng cao
đẹp, là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học dân tộc và “càng nhìn càng thấy
sáng” (Phạm Văn Đồng)
- Đôi nét về Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một
thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc
II. Thân bài
1. Phần lung khởi: khái quát bối cảnh thời đại và lời khẳng định sự bất tử của
người nông dân nghĩa sĩ
+ “Hỡi ôi!”: Câu cảm thán thể hiện niềm tiếc thương chân thành, thiết tha, thương
tiếc
+ “ Súng giặc đất rền”: sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân
+ “ Lòng dân trời tỏ” : đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước Trời
chứng giám
- NT đối lập nhằm thể hiện khung cảnh bão táp của thời đại, những biến cố chính
trị lớn lao.
Lời khẳng định tuy thất bại những người nghĩa sĩ hi sinh nhưng tiếng thơm còn
lưu truyền mãi.
2. Phần thích thực: Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc
a. Nguồn gốc xuất thân
- Từ nông dân nghèo khổ, những dân ấp, dân lân (những người bỏ quê đến khai
khẩn đất mới để kiếm sống)
+ “ cui cút làm ăn ”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương tựa
- NT tương phản “chưa quen >< chỉ biết, vốn quen >< chưa biết.
tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối
lập về tầm vóc của người anh hùng
b. Lòng yêu nước nồng nàn
- Khi TD Pháp xâm lược người nông dân cảm thấy: Ban đầu lo sợ trông chờ tin
quan ghét căm thù đứng lên chống lại.
Diễn biến tâm trạng người nông dân, sự chuyển hóa phi thường trong thái độ
- Thái độ đối với giặc: căm ghét, căm thù đến tột độ
- Nhận thức về tổ quốc: Họ không dung tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm họ
chiến đấu một cách tự nguyện: “nào đợi đòi ai bắt…”
c. Tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân
- Tinh thần chiến đấu tuyệt với: Vốn không phải lính diễn binh, chỉ là dân ấp dân
lân mà “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”
- Quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con
cúi đã đi vào lịch sử.
- Lập được những chiến công đáng tự hào: “ đốt xong nhà dạy đạo”, “ chém rớt
đầu quan hai nọ”
-“đạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược”…: động từ mạnh
chỉ hành động mạnh mẽ với mật độ cao nhịp độ khẩn trương sôi nổi
Tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu
nước.
3. Phần Ai vãn: Sự tiếc thương và cảm phục của tác giả trước sự hi sinh của
người nghĩa sĩ
- Sự hi sinh của những người nông dân được nói đến một cách hình ảnh với niềm
tiếc thương chân thành
- Hình ảnh gia đình: tang tóc, cô đơn, chia lìa, gợi không khí đau thương, buồn bã
sau cuộc chiến.
- Sự hi sinh của những người nông dân nghĩa sĩ để lại xót thương đau đớn cho tác
giả, gia đình thân quyến, nhân dân Nam Bộ, nhân dân cả
Bút pháp trữ tình, nhịp câu trầm lắng, gợi không khí lạnh lẽo, hiu hắt sau cái
chết của nghĩa quân.
4. Phần kết: ca ngợi linh hồn bất tử của người nghĩa sĩ
- Tác giả khẳng định: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ: Danh tiếng nghìn năm
còn lưu mãi
- Ông cũng nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân
- Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người
anh hùng thất thế.
khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ.
III. Kết bài
- Khái quát những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công về nội
dung của tác phẩm
- Trình bày suy nghĩ bản thân
Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 1
“Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ
hơn trong bầu trời văn nghệ của dân tộc, nhất là trong lúc này” (trích “Nguyễn
Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”, Phạm Văn Đồng). Lời
nhận định của tác giả Phạm Văn Đồng đã thể hiện sự ngưỡng mộ, trân trọng, đề
cao đối với tài năng của cụ đồ Nguyễn Đình Chiểu - gương mặt nổi bật tiêu biểu
đại diện cho những thành tựu của nền văn học trung đại Việt Nam. Một trong
những đóng góp nổi bật của Nguyễn Đình Chiểu là xây dựng thành công bức
tượng đài bất hủ về những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước thông qua tác phẩm
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Ra đời vào năm 1858 - thời điểm thực dân Pháp bắt
đầu nổ súng xâm lược nước ta tại cửa biển Đà Nẵng, tác phẩm đã phác họa bức
chân dung những người nông dân đã hi sinh anh dũng trong cuộc nổi dậy chống
thực Pháp vào ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu.
Trước hết, tác giả đã tái hiện vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ trong không khí
căng thẳng và sục sôi của thời đại: “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Chỉ với
tám chữ nhưng tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa thành công cuộc đối đầu
lịch sử giữa bước chân của kẻ thù xâm lược và tinh thần yêu nước kiên cường, bất
khuất của nhân dân ta thông qua kết cấu đối lập: “súng giặc/ lòng dân, đất rền / trời
tỏ”. Giữa bối cảnh khẩn trương đó, vẻ đẹp của người nông dân - nghĩa sĩ hiện lên
trong sự so sánh giữa bối cảnh xưa và nay:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng”
Trước khi trận nghĩa đánh Tây diễn ra, họ chỉ là những người nông dân hiền lành,
chất phác sau “lũy tre làng”, gắn bó với cuộc sống “dãi nắng dầm mưa”, “hai
sương một nắng”. Những công việc binh đao hoàn toàn lạ lẫm đối với họ: “Tập
khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng”. Phải chăng vì gắn bó với ruộng
đồng, quê hương nên trong họ luôn ý thức và rực sáng ngọn lửa của tinh thần yêu
nước: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
...
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen
xì, muốn ra cắn cổ”
Trong giây phút đất nước lâm nguy, triều đình hèn nhát, nhu nhược, những người
nông dân vẫn giữ vững ý thức trách nhiệm đối với quê hương thông qua thái độ
căm thù giặc sâu sắc. Những câu văn của tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã gợi nhắc
đến tấm lòng căm thù giặc sâu sắc của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn: “Ta
thường tới bữa quên ăn , nửa đêm vỗ gối , ruột đau như cắt , nước mắt đầm đìa, chỉ
căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này
phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng vui lòng” (Trích “Hịch
tướng sĩ”). Không cần đợi đến sự lãnh đạo, kêu gọi, họ tự nguyện đứng lên đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược bằng tinh thần anh dũng, quả cảm: “Nào đợi ai đòi ai
bắt, phen này xin ra sức đoạn kình - Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này
dốc ra tay bộ hổ”.
Với tinh thần sẵn sàng hi sinh tính mạng, xả thân vì sự nghiệp bảo vệ dân tộc,
những người nông dân đã tham gia trận nghĩa đánh Tây với tư thế hiên ngang, tinh
thần kiên cường, bất khuất, không hề run sợ trước mũi súng của kẻ thù. Dù bước
vào cuộc chiến với vũ khí, trang bị thô sơ: “manh áo vải”, “ngọn tầm vông”, “rơm
con cúi”, “lưỡi dao phay” nhưng với tinh thần yêu nước mãnh liệt, họ chiến đấu
với tâm thế anh dũng, đầy nhiệt huyết và khí thế sục sôi: “đạp rào lướt tới, coi giặc
cũng như không”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có” qua những hành
động quyết liệt “Kẻ đâm ngang, người chém ngược”,... Tác giả Nguyễn Đình
Chiểu đã vận dụng thành công trường từ vựng diễn tả hành động nhanh, mạnh, dứt
khoát như “đạp”, “lướt”, “xô”, “xông”, “đâm”, “chém” để phác họa vẻ đẹp ngoan
cường, anh dũng của người nông dân nghĩa sĩ. Bởi vậy, dù cuộc nổi dậy của họ
thất bại nhưng cùng ý chí đấu tranh của họ đã tạo nên một bài ca về sự chiến thắng
của tinh thần yêu nước và để lại sự xót thương, đau đớn trong lòng những người
dân Việt Nam yêu nước.
Như vậy, qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp của những
người nông dân nghĩa sĩ thông qua tinh thần yêu nước, ý chí tự nguyện đứng lên
đấu tranh chống lại giặc ngoại xâm cũng như tư thế hiên ngang, anh dũng trong
trận mạc. Dưới ngòi bút “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm - Đâm mấy thằng
gian bút chẳng tà” của cụ Đồ Chiểu, bức chân dung của người nghĩa sĩ nông dân
trong trận nghĩa đánh Tây với vẻ đẹp bi tráng.
Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 2
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc như một "bức tượng đài nghệ thuật sừng sững hiên
ngang" mà lạ thay gót thời gian không hề tàn phá nổi. Nguyễn Đình Chiểu - con
người ấy đã đi xa chúng ta từ lâu lắm rồi nhưng những áng văn thơ của người còn
trẻ mãi, đỏ mãi.
Hỡi ơi
Súng giặc đến rền Lòng dân trời tỏ.
Câu thơ tứ tự mở đầu tách đôi ra làm hai vế gãy gọn nhưng sức khái quát của nó
thật lớn. Chỉ ngần ấy câu chữ đã vẽ lên một cách, toàn diện về những điều mà
người viết muôn gửi gắm: tội ác và nghĩa cả, cái đau thương tang tóc và cái cao lớn
đẹp đẽ, một bên là súng giặc mâu thuẫn với lòng dân.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn mà danh nổi tợ pha
Một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất mà tiếng vang như mỏ.
Đã rõ hơn rồi, tác giả muốn nói điều gì. Câu thơ phản ánh sự tương phản, giữa
"mười năm công vỡ ruộng" và "một trận nghĩa đánh Tây" - sức vùng lên mạnh mẽ,
quyết liệt, mau lẹ của những người nông dân. Mười năm vỡ ruộng ít ai biết đến,
thế mà một trận nghĩa đánh Tây, những con người nghĩa sĩ đã gây được "tiếng
vang như mỏ". Tứ thơ như báo trước cái anh hùng của họ, sức mạnh của họ và cả
cái bi thương tất yếu nữa.
Nhớ linh xưa Cui cút làm ăn
Riêng lo nghèo khó.
Hình ảnh những con người bình thường hiện lên, những con người sẽ làm nên lịch
sử ấy, họ chẳng phải là ai cả, chỉ là những con người sống sau lũy tre làng, sau
rặng dừa, bụi chuối vì nghĩa lớn mà hi sinh. Họ hi sinh khi "Tổ quốc cần". Và hình
ảnh của họ trở nên cao đẹp từ đó. Họ chỉ là những người quen lấm láp với công
việc cấy cày.
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhưng,Pchỉ biết:
Ruộng trâu ở trong làng bộ.
Việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm.
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.
Cuộc sống của họ lặng thầm, ngày ngày chỉ biết lăn lộn cùng miếng cơm manh áo
nhưng cuộc sống nghèo đói vẫn ghì sát đất. Họ chưa bao giờ hình dung nổi việc
binh đao. Lần đầu nghe tin giặc Pháp giày xéo họ cũng có tâm lí chung của những
người "dân đen" "con đỏ", lo sợ, trông đợi rồi thất vọng.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng Trông tin quan như trời hạn trông
mưa Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm Ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Chờ
mong "tin nhạn" nhưng rồi nhạn vắng bóng. Họ đi từ thắc thỏm hi vọng đến vô
vọng, từ lo sợ, hoảng loạn đến căm ghét - cái căm ghét trong mơ hồ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.
Cho dù sự căm ghét chỉ được phôi thai qua ý niệm mơ hồ nhưng sự phẫn nộ đã
dâng lên ngùn ngụt. Họ muốn lao ra bằng tay không để "ăn tươi nuốt sống kẻ đã
gây bao tội ác". Đọc tới đây, ta chợt nhớ lại lời hịch sang sảng, vang vọng một thời
của Trần Quốc Tuấn "Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như
cắt, nước mắt đầm đìa" (Hịch tướng sĩ). Sự day dứt, đau đớn vò xé tâm can thôi
thúc con người hành động, thôi thúc con người muốn "nuốt gan uống máu quân
thù" cho hả dạ. ở Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc cũng vậy. Họ bắt đầu nghĩ tới non
sông đất nước và cảm thấy nhục nhã nếu như cứ để cho lũ "chó má" ấy giày xéo
lên những giá trị tinh thần của dân tộc ngàn thu văn hiến.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Ý thức được như thế, họ đã đi đến quyết tâm làm một cuộc nổi dậy. Họ vùng lên
tinh thần sẵn sàng tự nguyện.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Họ đã hình dung ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. Họ chẳng cần phải trốn
tránh khi tiếng gọi của quê hương tha thiết đến thế. Họ biết phải chiến đấu, xả thân
để giữ lấy bờ ao bụi chuối, giữ lấy mảnh đất biết mấy thân yêu gắn bó, giữ lấy
những điều thiêng liêng mà họ cho là không liên quan gì đến "cha ông nó" cả. Hình
ảnh của họ thật đẹp, những tấm lòng của họ thật cao cả. Hình ảnh ấy thật khác xa
với người lính trước kia khi phải đối mặt với tiếng trống giục quân bắt bớ "bước
chân xuống thuyền nước mắt như mưa".
Người nghĩa sĩ của Nguyễn Đình Chiểu bước vào cuộc chiến đấu vẫn mang một
màu bình dị sáng trong. Họ là những người "dân ấp dân lân" với những vũ khí thô
sơ, chỉ là một ngọn tầm vông, một nùi rơm, con cúi, thế nhưng họ đã dệt nên
những trang sử hào hùng, vẻ vang. Họ thật cao đẹp, thật anh hùng và tràn đầy dũng
khí. Bên trong "manh áo chật" đáng thương, nhỏ bé lại chứa đựng bao điều lớn lao,
cao cả.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng
hằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ.
Họ là những con người bình dị nhưng anh hùng. Khi cầm cuốc làm ruộng họ là
những con người hiền như đất, như khoai song khi đối mặt với kẻ thù, họ không
kém phần dữ tợn. Họ hòa hợp bằng tinh thần đoàn kết của người dân áo vải đất
Việt. Cái tinh thần đoàn kết mà trước đây Nguyễn Trãi từng ngợi ca trong Cáo
bình Ngô.
Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới.
Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ lên hình ảnh của họ - của những con người cụ thể trong
công cuộc đánh Tây bằng một tâm trạng nô nức, phấn chấn.
Chi nhọc quan quản gióng, trống kỳ, trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như
không
Nào đợi thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có
Kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh
Bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ngòi bút của Nguyễn Đình Chiểu sung sướng vung lên như một thanh gươm trên
chiến trường trước sức mạnh ồ ạt, tấn công dồn dập như vũ bão của những người
nghĩa sĩ. Cách ngắt nhịp ngắn gọn đã tạo nên một khí thế xông trận bừng bừng,
mang hơi thở gấp gáp của cuộc hỗn chiến. Trong khung cảnh ấy, tung hoành giữa
chiến địa chỉ còn có người nông dân mộ nghĩa anh dũng, oai phong lẫm liệt. Giọng
thơ có khác nào hồn cáo của Nguyễn Trãi mấy trăm năm về trước.
Ngày mười tám trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn
Nguyễn Đình Chiểu có lẽ cũng muốn lắm, để viết được những sự thất bại chồng
chất của kẻ thù. Nhưng ở đây ta thấy trận đánh dù có rầm rộ đến đâu đi nữa nó
cũng mang tính chất của người dân cầm cuốc, cầm cày đã quen. Họ thất bại là
phải, bởi lẽ:
Mười ban võ nghệ nào đợi tập rèn
Chín chục trận binh thư không chờ bày bố.
Đấy là những cơn người anh hùng nhưng rất đáng thương. Nhìn hoàn cảnh đánh
giặc của họ, ai mà không xót xa cho những con người cụ thể và xót xa cho cả toàn
đất nước. Bởi thế âm điệu thơ như mặt hồ đang nổi sóng bỗng dưng lắng xuống,
đang hừng hực lửa chiến trận bỗng chốc trở nên hoang vắng lạnh lùng, mang màu
sắc bi thương não nuột.
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ ...
Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng.
Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Những câu thơ như câm lặng trôi trong niềm kí ức của tác giả. Nhà thơ gửi một nỗi
tiếc thương vô hạn cho những người đã khuất. Cái chết của họ làm cho cả trời đất,
cây cỏ tang thương, nhỏ lệ, cái chết nhuốm màu sầu ải lên vạn vật. Cả một bầu trời
âm u, tối tăm trước sự hi sinh mất mát của những người nghĩa sĩ.
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm.
Đồng lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều.
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Những hình ảnh thương tâm ấy gặm nhấm tâm can ta, linh hồn ta đau nhức.
Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh lịch sử mà cất tiếng khóc cho những người anh
hùng hi sinh vì Tổ quốc. Từ những âm thanh sầu thảm vang vọng lên qua đoạn
văn, chúng ta không phân biệt được đâu là tiếng khóc của tác giả, của nhân dân,
gia đình mà như nghe thấy một tiếng khóc chung của đất nước. Ngòi bút của
Nguyễn Đình Chiểu đã hội tụ lại mọi nỗi đau để cất lên tiếng khóc cao cả.
Sau phút giây đau thương, nức nở, lời ván đang đắm chìm trong thảm đạm bỗng
tỉnh táo hẳn lên, nêu bật một quan niệm tuyệt vời về nhân sinh, về lẽ sống và cái
chết.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn.
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh.
Hơn còn mà chịu chữ đầu tây, ở với man di rất khổ.
Nguyễn Đình Chiểu đã đưa ra một quan điểm mang tính nhân văn sâu sắc: Thà
chết chứ nhất định không chịu làm nô lệ, làm những điều nhơ bẩn, ô danh. Câu thơ
"sống đánh giặc thác cũng đánh giặc" dược nêu cao như một chân lí sống rực rỡ,
chói ngời. Chân lí ấy đã xua tan bao cảm giác bi thương, mất mát của người nghĩa
sĩ đã dâng trọn tấm thân mình cho đất nước, quê hương.
Thác mà trả nước non rồi nợ, sánh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen.
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.
Họ là những tấm gương sáng cho muôn đời con cháu mai sau. Linh hồn người
nghĩa sĩ trong tưởng niệm thành kính của tác giả vẫn níu lấy cuộc sống để theo
đuổi đến cùng sự nghiệp giết giặc cứu nước, Với Nguyễn Đình Chiểu, họ vẫn sống
và được ngưỡng mộ.
Ôi chết thế không thể nào chết được
Không thể chết những người dân yêu nước
Những con người không chịu ô danh.
(Tố Hữu)
Họ đã vui vẻ hoàn thành nghĩa cả cao đẹp như một người nông dân "cày xong thửa
ruộng". Cái chết của họ như một giấc ngủ trưa yên lành, bình thản. Nhưng cái yên
lành, bình thản ấy lại gợi nỗi đau nhức nhối trong tâm tưởng của bao kiếp người.
Với lối văn bình dân, giản dị, dùng nhiều thành ngữ, lời ăn tiếng nói đời thường,
Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng lên hình tượng người nghĩa sĩ vừa bi thương vừa
hùng tráng. Qua "Bức tượng đài nghệ thuật" ấy tác giả gửi gắm một quan niệm
sống tốt đẹp. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc cao cả của một tấm lòng giàu
tình dân, nghĩa nước.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc đã khép lại nhưng lịch sử dân tộc vẫn được mở ra. Và
chúng ta - những người con của đất nước phải nhớ giữ lấy giá trị ngàn đời mà bao
thế hệ, bao lớp người từng xây dựng nên giang sơn, gấm vóc của ngày hôm nay.
Điều mà Nguyễn Khoa Điềm đã xúc động viết lên những lời thơ xiết bao ân nghĩa.
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Nhưng họ đã làm nên Đất Nước.
(Đất Nước)
Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 3
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một trong những ngôi sao sáng trên bầu trời
của nền văn học Việt Nam. Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho chân chính,
cha là Nguyễn Huy người Thừa Thiên. Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu đầy trắc
trở oan nghiệt, năm 1846 ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc
sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất và phải bỏ thi giữa chừng trở về Nam
chịu tang (1849). Dọc đường về Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù.
Không khuất phục trước sự khắc nghiệt của số phận ông tiếp tục mở trường dạy
học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Về sau khi giặc Pháp đánh vào Gia Định,
người trí thức yêu nước đó đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến
chống giặc và tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” được ra đời từ đó. Tác phẩm
chính là sự biết ơn và xót thương trước những mất mát của những người nông dân
– nghĩa sĩ Cần Giuộc đã anh dũng hy sinh thân mình vì đất nước. Đây cũng chính
là tác phẩm thể hiện một tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt của tác giả.
Vậy, tại sao tác phẩm lại có tên là “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”? Đầu tiên chúng ta
cùng tìm hiểu “văn tế” có nghĩa là gì nhé! Đó chính là loại văn được viết nhằm
tưởng nhớ và bày tỏ lòng thương tiếc tới những người đã có những công lao to lớn.
Văn tế thường mang một âm hưởng chung đó chính là bi thương. Nhưng ở mỗi
hoàn cảnh khác nhau thì văn tế được viết với mục đích khác nhau, có bài thì chỉ
thuần túy là tiếng khóc, có bài thì mang tính sử thi bi tráng. Văn tế được viết theo
rất nhiều thể như là văn xuôi, thể thơ lục bát, song thất những từ ngữ , hình ảnh có
giá trị biểu cảm mạnh. Tiếp theo “Nghĩa sĩ Cần Giuộc” là ai? Trước khi trở thành
những người nghĩa sĩ Cần Giuộc thì họ chính là những người nông dân chân chất
thật thà, quanh năm chỉ biết chân lấm tay bùn làm nông “cui cút làm ăn, toan lo
nghèo khó” và “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”. Thế nhưng với tinh thần yêu
nước bất diệt những con người lam lũ vất vả ấy họ đã thể hiện tấm lòng yêu nước
bất diệt của mình xung phong xông pha vào trận mạc ở Cần Giuộc để chiến đấu dù
trong lòng canh cánh bao nhiêu nỗi lo. Tóm lại, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” chính
là bài văn được viết để tế những người nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tập kích đồn
quân pháp ở Cần Giuộc năm 1861. Có thể nói lần đầu tiên trong văn học dân tộc,
người nông dân nghĩa sĩ chống giặc ngoại xâm đã được dựng nên một bức tượng
đài nghệ thuật bất tử.
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng trời dân tỏ.
Tác phẩm được mở đầu bởi một khung cảnh đau thương với một tiếng than “Hỡi
ôi!” đó chính là tiếng khóc của nhân dân ta trước khung cảnh tang tóc, hoà với
tiếng khóc và tiếng than thở chính là tiếng súng vang cả trời đất, thật là khung cảnh
hỗn loạn. Chỉ có trời mới nhìn thấy được cảnh nhà tan cửa nát mà nhân dân đang
phải chịu đựng và cũng chỉ có trời mới thấy được, những hy sinh và tinh thần yêu
nước mãnh liệt của dân ta. Câu văn chính là lời tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp
vừa thể hiện những phẫn nộ của dân ta với bọn thực dân Pháp. “Mười năm công vỡ
ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao” mười năm làm ruộng bán mặt cho đất bán
lưng cho trời chưa chắc được ai biết đến tên tuổi, nhưng “một trận nghĩa đánh Tây,
tuy là mất nhưng tiếng vang như mỏ” một trận đánh Tây tuy hy sinh thân mình
nhưng công lao to lớn ấy luôn được lịch sử ngợi ca và ghi nhận công ơn. Để có
được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của ngày hôm nay phần lớn chính là m
hôi xương máu của những người anh hùng đã đổ xuống.
Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó.
Trước khi trở thành “nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì họ chính là những con người có xuất
thân là nông dân, luôn chân chất thật thà quanh năm chỉ biết “côi cút làm ăn”
nhưng cái nghèo khó vẫn đeo bám không buông tha. Cuộc sống vốn bình dị như
vậy, cung ngựa thì chưa quen, chưa từng tập khiên, tập súng, tập mác, quanh năm
chỉ biết làm bạn với con trâu con bò, quen với việc cầm cuốc cầm cày, nhưng
những điều đó có cản trở được việc họ đứng lên bảo vệ đất nước, không làm giảm
đi cái ý chí kiên cường, có lẽ chính tình yêu mãnh liệt đó đã tiếp thêm một nguồn
sức mạnh phi thường, cởi bỏ sự hiền lành vốn có để đứng lên chiến đấu với bọn
thực dân Pháp.
Với lòng yêu nước chân thành họ luôn chờ mong những điều tốt lành “trông tin
quan như trời hạn trông mưa” nhưng không phải cho bản thân mà chính là cho đất
nước. Sự hoành hành của quân thù, những tội ác của chúng được thể hiện qua câu
“mùi tinh chiên vấy vá” khiến cho dân ta ghét bọn thực dân Pháp như “nhà nông
ghét cỏ” chỉ cần thấy hình dáng, tiếng nói thôi cũng làm cho người ta chán ghét và
ghê tởm.
Bữa thấy bòng bong che chắn lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Là người Việt Nam tuy thấp bé nhẹ cân nhưng tinh thần chiến đấu thì không bé
nhỏ chút nào, nó được thể hiện qua những hành động như là muốn ăn tươi nuốt
sống “muốn ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Tuy có đáng sợ nhưng nào có đáng sợ
bằng việc kẻ thù lấn áp, điều đó đủ để cho ta cảm nhận được ý chí kiên cường ấy.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược, chốn xuôi chuyến này dốc tay ra bộ hổ.
Là một quốc gia có độc lập, có chủ quyền, họ nhận thức được trách nhiệm của
mình là phải bảo vệ đất nước. Nếu mình không đứng lên thì còn đợi chờ ai nữa,
chẳng trốn tránh, những người chiến sĩ của Nguyễn Đình Chiểu quyết tâm tiêu diệt
giặc ngoại xâm cho dù thân hình bọn chúng có cao to hung dữ, vũ khí có hiện đại.
Bức tranh của người chiến sĩ tuy không lộng lẫy xa hoa nhưng nó là một bức tranh
tuyệt đẹp trong mắt người dân đất Việt.
Vốn chẳng được huấn luyện như “quân cơ quân vệ” họ chỉ là “dân ấp dân lân”,
chẳng được trang bị vũ khí, chẳng được áo bào áo giáp, với những vật dụng hết sức
thô sơ như đi cày đi cấy, một một manh áo vải trên lưng, tay chỉ có “một ngọn tầm
vông”, “dao tu” và cái nón che nắng, những thứ ấy được họ sử dụng thay cho mã
tấu, thuốc đạn hay ngòi nổ. Tuy chỉ dùng rơm để làm mồi lửa cũng có thể đốt cháy
được nhà, “gươm đeo dùng bằng dao lưỡi phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ”.
Có lẽ vũ khí mạnh nhất khi đó chính là tinh thần đoàn kết và ngọn lửa yêu nước sôi
sục chảy trong tim của họ. Chẳng sợ thằng Tây nào bắn đạn nhỏ đạn to cứ xông lên
“xô cửa xông vào”, họ oai phong lẫm liệt tung hoành trên chiếc trường. Dưới ngòi
bút tài ba của tác giả người đọc như được chứng kiến cái tinh thần hào hùng ấy, nó
như đang diễn ra trước mắt một cách sinh động.
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng…già trẻ hai hàng luỵ nhỏ
Tác giả tỏ lòng thương tiếc tới sự hy sinh cao cả của những nghĩa sĩ đã quên mình
vì đất nước, họ ra đi khi tâm nguyện chưa thành. Cái chết của họ khiến cho trời đất
cũng phải đau thương.
Tác giả căm ghét tới những kẻ đã mang đau thương đến cho dân ta. Vì cớ gì lại
cướp đi niềm hạnh phúc của dân ta khi tất đất ngọn rau đều là công sức bao đời của
ông cha ta để lại, làm cho bao người phải khổ sở lao đao. Đó chính là tiếng khóc
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ
Còn nỗi đau nào đau hơn nỗi đau của việc mất đi người thân. Chiến tranh khiến họ
phải cách biệt âm dương, mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, gợi cho ta một
không khí ảm đạm.
Kết thúc bài tế chính là lời ca ngợi những linh hồn đã khuất của Nguyễn Đình
Chiểu. Tuy đã ra đi nhưng những công lao của họ luôn lưu mãi với thời gian.
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc” cho dù sống hay chết thì tinh thần vì tổ
quốc mà chiến đấu vẫn còn đó, linh hồn của họ vẫn luôn dõi theo đất nước.
Với lối văn bình dân, giản dị, dùng nhiều thành ngữ, lời ăn tiếng nói đời thường,
Nguyễn Đình Chiểu đã xây dựng lên hình tượng người nghĩa sĩ vừa bi thương vừa
hùng tráng. Qua “Bức tượng đài nghệ thuật” ấy tác giả gửi gắm một quan niệm
sống tốt đẹp. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc cao cả của một tấm lòng giàu
tình dân, nghĩa nước.
Phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 4
Ngày nay, đọc thơ văn Đồ Chiểu không chỉ thấy tâm huyết và tài nghệ của nhà thơ
mà còn thấy cả một thời đại lịch sử, thấy lại cả dân tộc ta trong một thời kỳ đau
thương nhưng vĩ đại. Văn thơ của Đồ Chiểu mãi mãi vẫn là món ăn tinh thần của
người Việt Nam. Vì vậy Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận định: “Ngòi bút là
tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả thật là sinh động và não
nùng, cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ của nghĩa quân … người anh
hùng cứu nước”.
Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đó đã chứng minh được điều u nêu cao một tấm
lòng yêu nước, quan tâm tha thiết đến vận mệnh của dân tộc và cũng là lời thở than
chua xót.
Ngay sau khi được phổ biến, bài văn có tiếng vang rất lớn, nhất là trong nhân dân.
Nó có giá trị mở đầu cho dòng văn học yêu nước chống Pháp nửa sau thế kỷ XIX.
Bài văn được xây dựng trên cơ sở người thật, việc thật, cho nên ý nghĩa của nó
càng trở nên sâu sắc …
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã làm xúc động lòng người bởi tiếng nói đầy
“thương cảm”, bởi cái hay của văn chương bình dị, lời văn man mác, lắng đọng
một nỗi đau vì dân vì nước. Mở đầu bài tế là lời than nghe thật chua xót:
“Hỡi ơi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”.
Chỉ một câu ngắn thôi, ta cũng thấy được cả một xã hội, thấy được hoàn cảnh ly
loạn lúc bấy giờ. Kia là cuộc xâm lăng ào ạt, bạo tàn của kẻ thù và kia là bổn phận,
ý chí chống quân bạo tàn đó của người nông dân. Nhân dân đau xót trước bao tang
thương, áp bức nhưng ai có thể hiểu được ‘lòng dân” chứ. Họ chỉ tin có “trời”:
“Lòng dân trời tỏ” vì chỉ có trời mới thấu hiểu được lòng dạ học, chứ cái bọn vua
tôi hèn hạ khi nào biết gì, họ chỉ biết tự xưng danh mà thôi.
Cuộc đời người nông dân đang bình lặng trôi qua theo bao. Tháng ngày lam lũ, họ
có ngờ đâu những tai biến sẽ xảy ra.
“Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao
Một trận nghĩa đánh Tây tuy là mất tiếng vang như mõ
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhưng, chỉ biết ruộng trâu ở theo làng bộ
…”
Cuộc sống rất ư là giản dị trong thôn xóm, lam lũ nghèo khó. Họ chỉ biết cui cút
làm ăn và chỉ cần có miếng cơm manh áo. Họ chỉ biết có thế, việc gươm đao cung
kiếm họ chưa từng biết. Thế mà họ vẫn giàu lòng yêu nước và căm thù giặc, họ
căm thù đến mức cao độ “muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ”. Điều này thể hiện rất
rõ cá tính của người nông dân.
Những người nghĩa sĩ ấy chẳng phải là quân lính mà là dân cày nghèo khổ. Việc
đánh giặc không phải là việc của họ, mà vì lòng yêu nước căm thù giặc, chờ đợi
quân quan mãi nhưng nào thấy, đành làm những việc lớn, phải “chém rắn”, “đuổi
hươu”… Thực tế cho ta thấy được thái độ ươn hèn của triều đình nhà Nguyễn và
càng đề cao hơn vai trò của người nông dân trước “vũ đài lịch sử”.
Họ – “Những người nghĩa sĩ ấy” không làm sao chịu được cảnh quân giặc giày xéo
lên mồ mả tổ tiên … và họ quyết định phải đứng lên đánh chúng, đánh bằng được
bọn tàn ác đó:
Mười tám ban võ nghệ nào đợi tập rèn
Chín chục vạn binh thư chưa chờ bày bố
Ngoài cật một manh áo vải,
Nào đợi mang bao tấu bầu ngòi,
Trong tay cầm một ngọn tầm vông,
Chi nài sắm dao tu, nón gõ.
Bây giờ họ không cần gì hết, cũng không đợi tập rèn, trong tay có gì đánh nấy. T
những công cụ thô sơ cũng trở nên quan trọng, quý hiếm và có tác dụng đối với họ:
Súng hỏa mai đánh bằng rơm con cúi,
Cũng đốt xong nhà dạy đạo kia.
Gươm đeo bằng lưỡi dao phay
Cũng chém rơi đầu quan hai nọ.
Nguyễn Đình Chiểu nói lên điều này để làm gì? Phải chăng, chính ông đang nhận
thấy rõ bọn cần quyền có đầy đủ công cụ nhưng không hề lay chuyển mà người
dân thì … Thái độ nhà thơ căm tức, oán trách bọn vô trách nhiệm và mến thương
những người dân nghèo nhưng có lòng trung nghĩa, yêu nước. Phải chăng, ngòi bút
của Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả thật sinh động hình ảnh người nông dân? Đúng
thế. Và chỉ vài câu văn cũng bật rõ phần nào lòng trung nghĩa của nhà thơ Đồ
Chiểu.
Rồi cứ thế, người nghĩa quân nông dân tiếp tục bước vào cuộc chiến đấu với khí
thế mãnh liệt như vũ bão:
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược
Làm cho mã tà, ma ni hồn kinh” …
Họ chiến đấu anh dũng với sức mạnh, ý chí và lòng căm thù. Họ liều mạng chăng?
Không! Bởi vì họ yêu nước. Đọc bài tế ở đoạn này nào là:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ trống giục.
Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không,
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to
Liều mình như chẳng có”
Nào là:
“Kẻ đâm ngang, người chém ngược …”
Ta cứ tưởng như ngòi bút tác giả cũng đang tung hoành ngang dọc cùng với nghĩa
quân trên chiến trường. Giọng văn hào hùng sảng khoái, nhịp điệu dồn dập, sôi nổi
thể hiện rõ khí thế của trận công đồn. Nào là tiếng hò, ó; tiếng đạn nổ, cùng với
ngọn lửa đốt đồn giặc bốc cao, cháy sáng rực cả dòng sông Cần Giuộc… Những
yếu tố này đã xây dựng thành công hình tượng của người nông dân cứu nước giết
giặc. Đây là một hình tượng độc đáo trong văn học cổ điển Việt Nam. Và kìa! Bên
cạnh những hình ảnh đó là cảnh quan quân nhà Nguyễn nhỏ bé, thấp kém. Bây giờ
họ không còn ra gì nữa. Thật: “Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu là tâm hồn của ông đã
diễn tả thật là sinh động và não nùng cảm tình của dân tộc đối với người chiến sĩ
của nghĩa quân. Ở đây, Nguyễn Đình Chiểu đã đại diện, đã thay mặt cho dân tộc,
cho tình cảm dân tộc để viết ca ngợi về người chiến sĩ ấy. Nhưng mặt khác, nếu
như Cụ Đồ không có lòng “trung nghĩa” thì việc thay mặt cũng quả là khó. Thơ
văn ông thường là hồn, là tâm của ông. Vì vậy, khi đối diện với những người nghĩa
sĩ, đối diện với tang thương thì làm sao nhà thơ không tuôn dòng lệ:
“Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng,
Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ”
Đang diễn ra khí thế tưng bừng của chiến trận, thế mà bỗng nhiên như có gì hụt
hẫng, khựng lại. Người nghĩa quân đang hăng say chiến đấu trên chiến trường
không hề sợ cái chết những tưởng tấm lòng mến nghĩa sẽ lâu dài … thế nhưng làm
sao tránh khỏi cảnh hi sinh …
Tấm lòng xót thương của tác giả càng ngày càng thương tiếc cho những người dân
ấp dân lân chỉ biết côi cút làm ăn, những khi giặc đến thì mặc dầu, chỉ có những
công cụ thô sơ mà dám liều mạng giết giặc. Nay họ đã ngã xuống trên chiến
trường, thì tác giả lại càng tiếc thương gấp bội. Và dường như cả cỏ cây, trời đất
cũng buồn bã, ảm đạm:
“Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng
Nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ”
Dọc hai bờ sông cần Giuộc cỏ cây ủ rũ một màu tang, chợ Trường Bình thì già trẻ
tuôn hai hàng lụy nhỏ. Tất cả mọi người đầu đã khóc thương những nghĩa quân đã
bỏ mình vì nước. Không làm sao ngăn được dòng nước mắt khi đi đến đâu cũng
lưu giữ hình bóng họ:
“Chùa Tông Thạnh, năm canh ưng đóng lạnh
Tấm lòng son gởi lại bóng trăng rằm …”
Nhìn lại cảnh vật ngày xưa thì lòng tác giả dâng lên một niềm thương tiếc, căm
giận. Căm giận bọn bất lương, loài ác quỷ bất nhân; thương tủi cho số phận ngắn
ngủi, nhỏ nhoi của những nghĩa quân, của những người đứng lên vì đạo nghĩa. Họ
đã mất đi là mất hết tất cả: mất gia đình, người thương. Và gia đình họ mất đi một
chỗ tựa nương.
Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ
Ngọn đèn khuya leo lét cháy trong lều
Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng
Cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Thật là đau khổ biết dường nào khi người con và người chồng đã ra đi để lại sau
lưng những tiếng kêu xé lòng thê lương, thảm thiết. Người vợ chạy tìm chồng
trong không gian vô tận, trong cái dật dờ của nửa tỉnh nửa mê. Hình dáng mẹ già
không còn nước mắt nhưng vẫn khóc, khóc những tiếng khóc đắng cay của cõi
lòng.
Cảm xúc chân thành, lớn lao của tác giả đã đem lại cho đoạn văn chất trữ tình đặc
biệt, tác động mạnh vào tâm hồn người đọc. Nguyễn Đình Chiểu đặc biệt đề cao
cái chết vẻ vang của người nghĩa quân. Chính vì vậy mà ông khẳng định quan điểm
sống của người nghĩa sĩ “chết vinh còn hơn sống nhục”:
Thà thác mà đặng câu địch khái
Về theo tổ phụ cũng vinh
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây
Ở với man di rất khổ.
Chết như vậy mới thật sự là cái chết của người nghĩa quân, chết để được trả nợ với
nước non, để đem lại danh thơm cho muôn thuở. Qua những cái chết đó, tác giả đã
phê phán lối sống hèn hạ của bọn “tay sai bán nước hại dân”:
“Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương
Vì ai xui đồn lũy tan tành xiêu mưa ngã gió
Sống làm chi theo quân tà đạo
Quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn
Sống làm chi ở lính mã tà, chìa rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thèm khổ …”
Điệp từ “vì ai”, “sống làm chi”, như đè nén sự căm tức, như lên án kết tội, như
giày vò lũ tay sai bán nước – chính là nguyên nhân của mọi đau thương, tang tóc
… Càng phê phán lối sống tôi mọi của bọn thống trị bao nhiêu thì Nguyễn Đình
Chiểu càng đề cao cái chết vinh quang của nghĩa quân bấy nhiêu. Đó là ý của
Nguyễn Đình Chiểu: ông luôn muốn những người nghĩa sĩ đó mãi sống trong lòng
dân tộc, đất nước. Nhà thơ Đồ Chiểu một lần nữa khẳng định quan niệm sống cao
đẹp của người Việt Nam thông qua những tấm gương hy sinh sáng chói. Vì vậy
nên đồng chí Phạm Văn Đồng đã nhận định một cách đúng đắn về cụ Đồ Chiểu:
“Ngòi bút … xưa kia chỉ quen cày cuốc bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu
nước” …
Kết thúc bài tế là những câu nghe như lời tâm huyết:
Sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc
Linh hồn theo giúp cơ bụng, muốn kiếp nguyện trả thù kia ..
Người đã chết đi nhưng lòng vẫn còn đó, ý chí vẫn còn đó. Phải chăng trong suy
nghĩ của tác giả, linh hồn nghĩa sĩ vẫn níu chặt lấy cuộc sống để theo đuổi sự
nghiệp đánh giặc cứu nước đến cùng. Có lẽ Nguyễn Đình Chiểu đã quan niệm rằng
“những cái gì chính nghĩa thì không thể nào tiêu diệt được …”
Bài văn tế đã kết thúc nhưng nó vẫn còn phảng phất mãi mùi hương mà chính dân
tộc đã dâng lên cho linh hồn những người nghĩa sĩ đó.
Đồng chí Phạm Văn Đồng nhận định: “Ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu là tâm hồn
của ông, chính ông đã diễn tả sinh động và não nùng, cảm tình của dân tộc đối với
người chiến sĩ của nghĩa quân. Vốn là người nông dân, xưa kia chỉ quen cày cuốc,
bỗng chốc trở thành người anh hùng cứu nước …” Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc đã
hùng hồn chứng minh được điều đó.
Bài Văn tế sẽ mãi mãi là nén hương thơm của dân tộc dâng lên những người còn
trung nghĩa, những người nghĩa sĩ của đất nước anh hùng.
Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 5
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc
sâu sắc. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch đau khổ và bất hạnh. Có lẽ vì vậy
mà hơn ai hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp sang
xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia
Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân
Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở
rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc
Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu
tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều
nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm
kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình
Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong
trận đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn,
Nguyễn Đình Chiểu đã viết bàiˆVăn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không
những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối
với các nghĩa sĩ cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất
đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ...
Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chính từ sự gian
nguy, đau thương đó, tình yêu đất nước của những người nông dân bình thường
mới được thể hiện, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bày tỏ cùng trời
đất.
Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng
được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục dùng biện pháp
so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.
Nhớ lính xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó...
Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống,
vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi lo toan “miếng
cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nhà nông: cày, bừa,
cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết đến “cung ngựa”,
“trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ
là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng
yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc.
Khi mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ ngóng trông mệnh lệnh
của triều đình: "trông tin quan như trời hạn trông mưa”.
Thì ra cái bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, không hiểu được lòng
dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm
chế:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
... Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy
đen xì, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm
hào hùng. Lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến
cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh. Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu
nước được toát ra chính từ lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã
biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người
nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà
vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như
mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự
giác, tự nguyện đứng lên chiến đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản
chất nhất trong hành động của người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đến đây
không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những
người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên
một cách rõ rệt. Từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử
mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc
ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào dại mang
bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”.
Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa
cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai
trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với kẻ thù lớn mạnh với
“đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng” với đội quân xâm lược nhà nghề, vậy mà
vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải", “một ngọn tầm vông”, chỉ
có “lưỡi dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Thử hỏi
rằng đem những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân
vào chỗ chết. Cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau
biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi
kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn bi kịch này đã đưa đến
cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng cũng chính từ cái tấn bi kịch này mà đà làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình
tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng
| 1/31