TƯỚNG VỀ HƯU CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
Các vấn đề:
1. Ý thức hệ
2. Tâm độc (liên hệ với câu chuyện của nhân vật bị trầm cảm sau khi về hưu
trong Đại ơng đen), lạc lõng trong cuộc sống phức tạp, bộn bề
3. Khủng hoảng hiện sinh
4. Bi kịch của những người lính trở về sau chiến tranh => Bóng ma chiến tranh hằn
sâu trong tâm thức => Ông Thuấn sản phẩm của chiến tranh - đồng hành với hệ
ý thức tư duy chiến tranh
5. Nếp sống thực dụng của nền kinh tế thị trường
6. Sức mạnh đồng tiền chi phối con người
7. Sự mất kết nối trong gia đình
8. Cảm thức hậu hiện đại đơn
I. Đặt vấn đề:
Đã có một thời đại, văn chương mang đậm khuynh hướng sử thi cảm hứng lãng mạn, từng câu văn nặng về
ca ngợi những phẩm chất cao c của những con người thuộc về cộng đồng nhân dân ta dân tộc ta.
mỗi tác phẩm đều tồn tại một lằn ranh phân tuyến “địch-ta” với lăng kính đánh giá cuộc đời cùng giản đơn
rằng thế giới của địch thì luôn xấu xa, tiêu cực còn cộng đồng người của ta thì phổ biến với nhiều mặt tốt đẹp, lạc
quan, hy vọng lòng quyết tâm sắt đá giành lại độc lập t do. Nói cách khác, khi ấy văn học trở thành công cụ để
minh họa cho tưởng Đảng, niềm tin dân tộc cổ không khí chiến đấu.
Thế rồi, chiến tranh kết thúc, phe địch, tượng trưng cho cái xấu đã bị diệt trừ, phe chính nghĩa quân ta toàn
thắng, nhân dân mang niềm háo hức vui sướng bước vào nền hòa bình trong cõi lòng ngập tràn hy vọng về những
ngày tháng mới tươi sáng.
Hòa theo không khí chiến thắng, nền văn học nước nhà tiếp tục phát triển theo quán tính của sự minh họa được
nhắc đến trên nhưng trong lúc đó, những nhà văn đã tỉnh dậy khỏi hào quang của cuộc chiến để trở về với đời
sống hiện thực nhận ra những thay đổi thầm lặng nhưng đáng cảnh báo đang dần làm mai một nhân cách con
người trong hội đương thời.
Nguyễn Minh Châu là một trong những người mở đường tinh anh tài năng cho việc thay đổi duy
khác thác hiện thực này Nguyễn Huy Thiệp đã tiếp bước con đường nhà văn của Bức tranh hay Chiếc thuyền
ngoài xa chỉ ra.
Tác phẩm văn học nơi c giả bày tỏ những quan điểm, suy nghĩ về cuộc sống phản ánh những tâm
tình cảm của con người, trong đó bi kịch, ngoài bi kịch do hoàn cảnh mang lại còn bi kịch do chính bản
thân con người tạo ra - bi kịch nhân.
Văn học Việt Nam sau giai đoạn chuyển mình từ trung đại sang hiện đại, thoát khỏi khuôn khổ kết thúc
tác phẩm hậu giá trị của bi kịch được đảm bảo trọn vẹn nhất, nổi bật là bi kịch của những người lính trở về
sau chiến tranh vào thời điểm chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường.
Nhận thấy vấn đề bi kịch nhân đặc biệt ấy, nhóm tiến hành chọn chủ đề Bi kịch nhân con
người được thể hiện trong truyện ngắn Tướng về hưu của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, một nhà văn đương đại
Việt Nam với nhiều góc nhìn mới lạ, táo bạo.
Nhóm tiếp cận tác phẩm để tìm ra tiến hành phân tích những bi kịch nhân của con người, đưa ra
những luận điểm kết luận về vấn đề này. Trong giai đoạn hòa bình hiện nay, bi kịch của con người không chỉ
những khủng hoảng hiện sinh còn những đấu tranh bên trong mỗi nhân, nhóm nguyện vọng đưa
bi kịch nhân con người trong tác phẩm đến đời sống nhằm chứng minh giá trị của tác phẩm thúc đẩy mỗi
người tìm ra vấn đề của chính mình.
II. Giới thiệu tác gi
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại huyện Thanh Trì, Nội. Ông nhà văn đương đại
Việt Nam nổi tiếng trong c thể loại kịch, truyện ngắn tiểu thuyết với những góc nhìn mới, táo bạo.
Trong nhiều sáng c của ông, nông thôn những người lao động để lại nhiều dấu ấn đậm t, do thuở nhỏ
ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Những ức ngày thơ ấy đã hằn sâu trong trí nhớ
của nhà văn sau này, chúng trở thành những chất liệu hiện thực đắt giá để ông sáng tạo nên các tác phẩm nghệ
thuật của mình.
Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sử Trường Đại học phạm Nội. Đó do sao ta bắt gặp rất nhiều
các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn được lấy cảm hứng từ những câu chuyện lịch sử, tiêu biểu như bộ ba Kiếm
sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết với sự xuất hiện của vua Gia Long hay Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam Chút thoáng
Xuân Hương.
Nhà văn bộc l sức sáng tạo dồi dào của mình nhiều nh vực từ viết văn xuôi đến sáng tạo kịch bản thậm
chí ra mắt tiểu luận văn chương. Thế nhưng thể loại n học Nguyễn Huy Thiệp để lại dấu ấn nhân đậm
nét nhất chính truyện ngắn. Sự nghiệp văn chương của ông bắt đầu khá muộn với các truyện ngắn đăng trên
báo n nghệ. Vài m sau đó, cả làng n học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về các tác
phẩm của ông.
Cũng từ đó, ông xây dựng cho nh sở trường viết truyện ngắn, mảng đ tài đa dạng gồm lịch sử văn
học, hơi hướng huyền thoại cổ tích, hội Việt Nam đương đại, hội làng quê những người lao động.
Ngoài ra, Nguyễn Huy Thiệp còn viết nhiều kịch, tiêu biểu là Xuân hồng, Còn lại tình yêu, Gia đình,... nhiều thơ
(tuy chưa xuất bản tập thơ nào nhưng thơ xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm của ông).
Nguyễn Huy Thiệp không tránh nhìn thẳng vào mặt trái của hiện thực phơi bày tất cả ung nhọt
của hội, s mai một của những giá trị tinh thần bằng những câu văn ngắn, tốc độ nhanh ngữ pháp đơn
giản.
Các câu văn trong truyện ngắn của ông đa số câu đơn, tạo nên nhiều khoảng trắng biến thiên truyện
thành những mảnh vụn vỡ tưởng chừng như rời rạc nhưng thực chất sau những khoảng trắng ấy nhiều ẩn dụ
đầy ám ảnh.
Nổi bật trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp một giọng văn đọng, khách quan phần sắc
lạnh. Nhà văn thường viết những cái kết mở thậm chí một số truyện ngắn, ông còn xây dựng nhiều kết cục
khác nhau cho một nhân vật.
Bằng lối trần thuật ấy, thế giới nhân vật nội dung câu chuyện luôn hiện ra một cách trung thực trước mắt
người đọc, độc gi không bị chi phối bởi thiên kiến của người sáng tác được tự do nhìn nhận tác phẩm từ
góc độ của nh.
Mở ra với muôn vàn khả năng sự biến thiên lạ k, các tác phẩm của ông luôn khiến ta phải suy về các
nhân vật, trăn trở trước những mặt tối của đời sống thậm chí trở ngược vào bên trong tự vấn chính
mình.
Nguyễn Huy Thiệp từ lâu đã không còn chỉ một cái tên. Bởi vì, ông đã thành một cột mốc văn đàn, trước
vốn không có, sau chẳng dễ tìm. Nhà văn được giới mộ điệu gọi vua truyện ngắn”, hiện tượng của văn học
thời kỳ đổi mới sau ấy rất nhiều năm người ta vẫn chưa tìm được một hiện tượng thứ hai.
Biết bao người đã gối đầu giường, đã ghi ra giấy, đã mến mộ chữ nghĩa của Nguyễn Huy Thiệp. Những lớp chữ
tầng tầng thi pháp, biến hóa khôn cùng nhưng cũng rất đỗi đời thường, chao chát mặn hơn muối. n
chương Nguyễn Huy Thiệp luôn mang theo góc nhìn số phận, đôi khi thật đến phũ phàng, khắc nghiệt, đôi khi lại
tình, thơ như sâu thoát xác thành bướm, như hoa nở từ đất cằn. => Mỗi công dân một dạng vân tay. Mỗi ngh
thứ thiệt đều một dạng vân chữ không trộn lẫn (Lê Đạt)
Sau tiểu thuyết Vong bướm, Nguyễn Huy Thiệp đã quyết định dừng hẳn sự nghiệp sáng tác tuổi 65.
Ông từng được nhận Huân chương Văn học Nghệ thuật Pháp (2007), giải thưởng Premio Nonino, Italy
(2008).
III. lược về tác phẩm “Tướng về u”
1. Hoàn cảnh:
Truyện ngắn Tướng về hưu” của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được in lần đầu tiên vào m 1987 trên tuần
báo Văn Ngh số 20 của Hội Nhà văn Việt Nam. Trước đó, năm 1986, ông đã ra mắt vài truyện in trên báo Văn
Nghệ, với Tướng về hưu” năm 1987, ông đã vị trí xác lập trong văn đàn Việt Nam nói chung dòng văn học
đương đại nói riêng.
=> Chính Tướng về hưu với góc nhìn văn chương “độc nhất nhị” vào thời điểm đó đã đưa Nguyễn Huy
Thiệp thành “của hiếm”, được xếp vào vị trí không phải ai cũng được được xem như 1 truyện ngắn
đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác. không những góp phần định hình phong cách của anh còn m ra 1
thời k mới cho nền văn học VN, đoạn tuyệt với quá khứ, viết nên ...lời ai điếu cho 1 thời văn nghệ minh
hoạ đưa văn chương trở về đúng với bản chất của nó. Ngay từ những trang truyện ngắn, Tướng về hưu
đã đầy tính tự sự về thời cuộc, nhịp điệu cuộc sống đương thời chan chát vào nhau nặng trĩu thông điệp.
VH vốn tấm gương phản ánh đời sống thế thời nào văn ấy. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, hòa
bình lập lại, con người trở về với cuộc sống đời thường, cái đời thường phồn tạp, muôn vẻ lẫn lộn tốt xấu, trắng đen,
bi hài,…, ý thức nhân với nhu cầu của con người đã thức tỉnh trở lại. Các giá trị tinh thần tinh thần trước đây bền
vững thế t lúc này đã không còn thích hợp thế đã lung lay rạn nứt.
Trong Đọc lại tướng về hưu của Đặng Văn Sinh: Người ta thi nhau nói về hiện tượng NHT, nhất khi anh
in Tướng về hưu, Nguyễn Khải u lên rằng: “Nó đã viết đến thế này thì mình còn để viết nữa đây?
2. Tóm tắt truyện: Tướng về hưu mang dung lượng 1 cuốn tiểu thuyết được tác giả nén” lại trong 20 trang nên
khiến tiềm tàng 1 nội lực khả năng công phá như 1 “quả bom” nghệ thuật, mang đến cho ng đọc những nhận
thức không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau.
“Tướng về hưu” được viết như những dòng nhật của anh Thuần ghi lại chuyển biến gia đình sau khi người
cha làm tướng - ông Thuấn, quay về nhà sau hơn 50 năm phục vụ cách mạng chiến đấu cho độc lập t do. Vị
tướng về hưu trở n lạc lõng, đơn giữa chính gia đình của mình, giữa hội nền kinh tế thị trường vừa
chuyển đổi, những biểu hiện chạy theo vật chất một cách tha hóa, mất tình người của những người xung quanh lần
lượt đả kích vào tưởng của ông. Tướng về hưu đã viết nên nỗi lòng của nhiều hoàn cảnh tương tự như ông
Thuấn, phơi bày những góc tối của hội đương thời tái hiện lại cuộc đời của một vị tướng chỉ vỏn vẹn trong 15
phần truyện. Mỗi chương truyện qua đi sự nối tiếp của những nứt vỡ để bộc lộ dáng hình cô đơn của con người,
đậm sự lạc lõng mất kết nối cũng như làm nổi lên niềm trăn trở về khoảng ch giữa chiến tranh hòa bình.
3. Nhân vật
Thế giới nhân vật trong Tướng về hưu ẩn chứa tâm thức hậu hiện đại trong nhà văn NHT. Phần lớn các nhân
vật đều đơn về tinh thần, tâm , thậm chí ý thức hệ. Những ng sống trong ngôi nhà ấy đều có 1 thế giới
riêng k hoà nhập vào cs chung mặc đời sống vật chất của họ mức ổn định. Từ đó dẫn tới hệ quả,
mqh ruột thịt nhưng họ lại nhìn nhau n những kẻ xa lạ, những mâu thuẫn đơn thuần được tích tụ qua thời
gian tạo nên sự trầm uất, buộc mỗi thể phải tự chịu đựng, khiến các mqh cách ứng xử trở nên gượng gạo,
khiên cưỡng giả dối
Gia đình của Thuần lẽ 1 định nghĩa của NHT về hình mẫu gia đình hiện đại, sống theo lối mới, suy nghĩ
độc lập; nhìn nhận vấn đề hội tương đối giản dị đó cũng nguyên nhân dấn đến những mâu thuẫn ngầm trong
gia đình. Gia đình y như một hội thu nhỏ, cả người làm kinh doanh, người trí thức, tướng quân đội, người
làm thuê những thành phần bất hảo của hội, xung đột của họ cũng chính xung đột của giai cấp trong hội
thời đổi mới. => Con người từ điểm nhìn tưởng hóa được đặt vào điểm nhìn thế sự.
NHT làm chấn động luận khi ông nhìn con người như 1 bản thể tự nhiên. Nhân cách con người không
chỉ kết quả của trí, còn sự tham gia của thức, tiềm thức, tâm linh. NHT thể cực đoan khi quá
nhấn mạnh vào phần bản năng tăm tối của con người nhưng ít nhất ông đã đề xuất được 1 tưởng độc đáo về
con người chống lại cái nhìn duy ý chí hoặc ảo tưởng phong thánh” cho con người.
Nhìn chân dung người lính 1 hoàn cảnh, góc độ khác:
+ Không phải ngẫu nhiên ông đặt n cho tác phẩm của mình “TVH” : “tướng” niềm tin, sự cai trị, là 1 trật
tự nào đó được sắp đặt dưới 1 quyền lực thực sự. bây giờ i điều đó không tồn tại t đồng nghĩa với việc
niềm tin con người đã bị mất đi, khi chỗ dựa đó mất đi thì trong thế giới đó con người trở nên đê tiện đi, sống
đến tận cùng cái ích kỉ của mình. thế giới đó đã thể hiện 1 phần những cuộc sống hiện đại đang diễn ra.
+ Nhân vật trong hàng loạt truyện ngắn của ông đều được ông phơi y bộ mặt đê tiện, thực dụng tàn nhẫn:
* Ông Thuấn: con trưởng họ Nguyễn, từ nhỏ sống dưới sự cay nghiệt của mẹ ghẻ. Lớn lên, ông lấy vợ nhưng đây
cuộc hôn nhân không tình yêu. Sau đó, ông đi lính biền biệt nhiều năm, sống với súng đạn, chiến tranh. Năm
70 tuổi, ông về hưu, niềm tự hào của cả họ giữ chức Thiếu tướng
* Thuần - Con trai ông Thuấn: 37 tuổi, làm kỹ Viện Vật lý. Tự nhận khá cổ hủ, đầy bất trắc thô vụng
* Thuỷ - vợ của Thuần: làm bác bv sản công việc nạo phá thai. học thức, sống theo lối mới, lo liệu việc
kinh tế va dạy dỗ con cái
* Ông Lài - đứa con gái gàn dở: Nhà bị cháy, được Thuỷ mang về nhà cưu mang cho làm giúp vic
* Ông Bổng: anh em cùng cha khác mẹ với ông Thuấn
* Thằng Tuân: con trai ông Bổng, làm nghề đánh xe bò. Vừa lấy vợ 2 tên Kim Chi - làm nghề nuôi dạy tr
Trong “TVH” đồng tiền trong hội hiện đại đã rửa trôi những nét nhân cách con người, m con người
tha hóa, bất chấp tất cả để sống: Tướng Thuấn đau khổ khi nhận thấy sự băng hoại nhân cách của con dâu, sự
nhu nhược không chấp nhận được của con trai mình.
* Thủy bác bệnh viện sản => lấy nhau thai, bào thai non để nấu cháo cho chó becgie ăn. Vợ tôi bác
bệnh viện sản, công việc nạo phá thai. Hằng ngày các rau thai bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về…. Cha tôi
dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó các mẩu thai nhi xíu”. Đáp lại điều đó, Thủy lại tỉnh táo 1 cách
hãi hùng: Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?!”. Khi mẹ chồng sắp chết, chồng định đổ sâm cho
nhưng lại tiếc rẻ: “Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ" => khiến chồng cô òa khóc. Trong đám tang mẹ lại chỉ lo làm bao
nhiêu mâm cho “sát”. => Đồng tiền làm con người đê tiện mất hết tính người
* Ông Bổng: cũng nhân vật khá đặc biệt khiến người đọc liên tưởng đến Chí Phèo “ghê gớm, to n h pháp,
ăn nói văng mạng”. Ông mang tưởng của người bình dân, xem thường quân trí thức Quân trí thức khốn nạn!
Rẻ dân lao động! nhưng vẫn không ngại ngùng đi vay tiền hay lợi dụng khi tang ma làm lợi riêng cho mình.
Cũng những nỗi đau riêng: “Thế chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em đồ chó. Vợ em gọi em đồ
đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ chị gọi em người". Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò, lỗ
mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay trước mắt tôi.” => Giọt nước mắt của
ông cũng n của Chí Phèo, giọt nước mắt khao khát làm người lương thiện nhưng trong hội khó khăn
này, không cái danh phận của con nhà tướng, không tiền bạc của người làm kinh doanh hay ít nhất
học thức của người trí thức thì những người nh dân không đủ sống bằng sự lương thiện của mình.
* Nhân vật tôi”: đê hèn, nhu nhược. Mọi chuyện kinh tế trong nhà đều giao cho vợ. Khi biết mình bị cắm sừng
nhưng vẫn chấp nhận không 1 chút phản ứng lại: “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì.”
* Trong đám tang cụ, ngoài ông Thuấn đứa con trai chỉ Lài dở người ông Bổng lỗ mãng, táo tợn”
khóc thật tình, còn con dâu đứa cháu chẳng rơi 1 giọt nước mắt chỉ lo những tính toán cỗ n. Đúng như
NMC nói: Con người đang chung sống cả rồng phượng lẫn rắn rết.”
Vẻ đẹp của thiên lương con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hầu như tập trung hai kiểu
người: nhân vật thiểu năng nhân vật nữ. Người thiểu năng là người không bình thường, khuyết tật về thể chất
hay hạn chế về trí tuệ. Thói đời xưa nay vẫn nhìn kiểu người này bằng cặp mắt hoặc thương hại hoặc khinh
khi. Nguyễn Huy Thiệp thì khác, đối với bọn dốt nát học hay bọn Nho giả tập tọng văn chương ông tỏ ra
coi thường nhưng lại dành cho những người không may này một sự cảm thông hạn. Quan trọng hơn, ông nhìn
thấy họ vẻ đẹp sáng ngời của nhân cách con người. Cô Lài trong Tướng về hưu” gàn dở, ngờ nghệch
nhưng tình cảm đối với mọi người, hành động trong cuộc sống lại hết sức trong ng chân thực.
IV.Phân ch
1. nhân con người với tưởng bình đẳng nếp sống thực dụng của nền kinh tế thị trường
Trong thế giới của Tướng về hưu, các nhân vật không hiện lên với sự tươi sáng giản đơn, ta chẳng thể nào phân
biệt một cách rạch ròi ai mới thực s người tốt đâu là kẻ xấu. Thay vào đó, nhà văn đã dùng ngòi bút đọng
sắc lạnh để đẽo gọt t mỉ từng dáng vẻ phức tạp cùng trăm mối mâu thuẫn ngổn ngang trong từng nhân vật.
Tướng Thuấn - một người đàn ông trải qua tuổi thơ nhiều cay đắng, phải nằm trong guồng quay của cuộc chiến
tranh không biết hồi kết. Những ngày còn trong quân ngũ, ông không được về nhà nhiều Khi lớn lên, tôi chẳng biết
v cha mình cả. Tôi chắc m tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh. Tôi đi làm,
lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé v nhà, nhưng những lần về
đều ngắn. C những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng ới những dòng chữ, tôi biết đấy ẩn chứa nhiều
tình thương cùng với âu lo”.
=> Chiến tranh đã tạo nên những vết thương hữu hình cả hình cho tất cả những ai bị cuốn vào cuộc
chiến đó. Thời chiến đã làm con người ta phải đối mặt với nhiều điều nghiệt ngã người ta ch thể vượt
qua bằng sức mạnh của tưởng chiến đấu.
Nhưng đến khi hoà bình, ông lại phải đối mặt với một thử thách mới, đó chính là sự xung đột về giá trị giữa
quan điểm sống của ông mọi người xung quanh. Ông mới về hưu, chưa bắt kịp nhịp điệu của môi trường ngoài
quân đội, vẫn mang tưởng bình quân, ai cũng như ai giúp đỡ người khác giống như những ngày ông còn trong
quân ngũ. “Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải nh. Ông cả Lài cũng thế. Tôi ời: “Cha bình
quân! Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi người cười ồ”.
Hay lúc ông nói chuyện với hai cháu nội của mình cũng vậy “Cha tôi bảo: “Các cháu sách mang cho ông
đọc”. Cái Mi ời. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo: “Cái dễ đọc”. Hai đứa bảo: “Thế thì
không có”.
=> Con người trong kháng chiến con người của tập thể, của cộng đồng. Họ sống, cống hiến chinh chiến
cho tưởng chung của thời đại, hoà làm một với lịch sử dân tộc. Nhưng trong bối cảnh mới của nền kinh tế
thị trường, người ta sống thiêng về vật chất hơn đồng tiền trở thành thước đo cho mọi chuẩn mực, họ
không quan tâm đến những giá trị thiêng về tình cảm bên trong nữa.
Sự trở về của ông phần làm xáo trộn nếp sống của gia đình. Đầu tiên khách khứa đến thăm nhiều. “Cha
tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo: “Đừng mừng…
họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm quá sức”. Cha tôi cười: “Chẳng đâu… cha chỉ viết thư” Nhưng đối với
con dâu thì điều đó không đơn giản.
Một cái nhìn tinh tế của đôi mắt thục dụng trong hiện thực cuộc sống mà người cha không kịp nhận ra. thể
nơi chiến trường ông đã đi qua những cuộc chiến tranh, con người con người gắn kết nhau trong nh đồng đội, ít
vụ lợi cá nhân. Nhưng khổ nỗi nơi chiến địa, người ta hy sinh, san sẻ cho nhau từ vật chất lẫn tinh thần, còn cuộc
sống hội thì khác hẳn.
thể nơi chiến trường ông đã đi qua những cuộc chiến tranh, con người con người gắn kết nhau trong
tình đồng đội, ít vụ lợi nhân. Nhưng khổ nỗi nơi chiến địa, người ta hy sinh, san sẻ cho nhau từ vật chất lẫn
tinh thần, còn cuộc sống hội thì khác hẳn. Chén cơm manh áo đời thường, sự ty tiện ích kỷ nhân. Con người
giành giật nhau trong đời sống kinh tế.
"Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo: "Cha muốn nói chuyện với con". Tôi pha
phê, cha tôi không uống. Ông hỏi: "Con để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn."
"Vợ tôi làm việc bệnh viện sản, công việc nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào
phích đá mang về. Ông nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan
trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, ch vào nồi cám, trong đó các mẩu thai nhi u. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc.
Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc-giê: "Khốn nạn! Tao không cần sự giầu này!" Ðàn chó sủa vang. Ông
bỏ lên nhà. Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ: "Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết!" Ông bảo: "Cháu quên,
cháu xin lỗi mợ."
Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó bẹc giê. Vợ tôi bảo: "Anh thôi hút thuốc Ga lăng đi. Năm
nay nhà mình hụt hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng bốn mươi lăm nghìn". (Tướng Về Hưu )
Thuỷ con người sống trong hội mới, cái nhìn sắc sảo với mọi việc trong đời sống nhưng cô thực
dụng, tính toán chi li, cô chính sản phẩm” của đời sống mới đầy bồ, người ta luôn đặt tiền tài lợi ích lên
đầu tiên. cũng chính đã làm tướng Thuấn rợn người bởi hành động đem thai nhi bị nạo, phá từ bệnh viện về
nấu lên cho chó ăn.
Ðọc rồi, đọc lại, đọc kỹ, không chỉ mình ông tướng thấy rờn rợn, chính chúng ta cũng thấy rợn, kẻ yếu
bóng vía thể bị tẩu hỏa nhập ma. "Kỹ thuật" ấy phản ánh nghệ thuật hỗn hợp bất nhân nhân trong một con
người.
Ông tướng, nhân từ nhân hậu, sau 58 năm phục vụ t quốc, những tưởng "việc lớn trong đời đã làm xong" về
nghỉ. nhà, ông thấy gì? Ông thấy thai nhi nấu lên cho chó lợn. Ông khóc. Người con dâu chuyên nghề phá thai:
một lần tội ác; trách người làm bằng một câu nói nhị hóa tội ác: "Sao không cho vào máy t". Nhưng ngay sau đó,
nàng lại nhẹ nhàng: "Sao để ông biết?". Chút ân tình nh nhoi này đã rửa tội cho ng. Rồi sự toan nh chi li sau đó:
"Năm nay nhà mình hụt hai mươi bẩy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng bốn mươi lăm nghìn" giải lối hành
sự rợn người của nàng. Trong khi đó người chồng bình thản ngồi đọc Sputnhich. Nguyễn Huy Thiệp vừa vẽ nên
thực trạng đen tối của hội, vừa giải tại sao có thực trạng đó bằng một lượng số chữ nghĩa cực tiểu; nhưng dòng
mực đen, đậm, đặc độc của đã thấm vào tận não thùy người đọc, khiến chúng ta phải vật vã, phải duy.
Tính phản thẩm m được nhấn mạnh qua những dòng viết như dòng ức vụn vặt nhưng gây choáng váng, t
đó bộc lộ cái nhìn khắc nghiệt về cuộc đời đang trong giai đoạn chuyển giao
TVH đã thực sự chống lại các hình thức cổ điển của cái đẹp, của những quan niệm về sự hài hoà cân xứng.
Trong đó, chữ "nhân" đã trở thành một hệ suy tưởng chung của nhân loại. Nhân nh một ý thức trùng phức hai
bản diện: bất nhân nhân bộ mặt thứ nhất thường được che đậy, lấp liếm tới chỗ phủ nhận bộ mặt thứ nhì
được khuếch trương, phô bày như một nhãn hiệu cầu chứng về sự tự mãn của con người về con người.
mỗi người, các cặp đối lập vẫn luôn tồn tại, không nhân vật nào mang tính Thiện hay tính Ác hoàn toàn.
Tác giả muốn nhấn mạnh tức trong con người tốt đến mấy thì vẫn luôn những i xấu tồn tại sâu bên
trong. Cái xấu - cái tốt luôn tồn tại trong cùng 1 nhân sẽ biểu hiện ra ngoài khi gặp hoàn cảnh thuận lợi. Như
nhân vật ông Bổng luôn tìm cách thu lợi về mình nhưng trong các chuyện thì hết sức nhiệt tình, nhân vật Thuỷ
cũng nhận định: Lão ấy tốt nhưng nghèo.
=> Không con người nào hoàn hảo, được mặt này sẽ mất mặt kia. Do đó, NHT đã thực sự thành công khi
xây dựng những nhân vật giống với con người thật nhất - không giả dối, không che đậy nhưng ràng
tường tận.
2. Đặc tính hậu hiện đại trong tác phẩm Tướng về u
Những biến đổi chung của thế giới thời hậu hiện đại gắn với trạng huống hậu hiện đại với 2 vấn đề trung tâm: hoàn
cảnh hậu hiện đại tâm thức hậu hiện đại, trong đó, tâm thức hậu hiện đại cái nền tảng. Tâm thức hậu hiện đại
cái phát sinh trong lòng nhân loại, thể khác nhau về biểu hiện đặc thù nhưng trạng thái chung gắn với
thân phận: thân phận dân tộc thân phận nhân trong nỗi khắc khoải sinh tồn. Bùi Văn Nam Sơn đã nhận xét
rằng: khi xã hội loài người sự biến chuyển nhanh chóng từ hội hiện đại sang hội hậu hiện đại, “tất yếu dẫn
đến sự khủng hoảng về “tâm trạng” hình thành nên 1 tâm thức mới: tâm thức hậu - hiện đại.
Tâm thức hậu hiện đại được phát sinh tiệm tiến trong lòng lịch sử dân tộc từ đầu thế kỷ XX bắt đầu hiển lộ
sau 1975. Đến 1986, lịch sử VN thực sự đối diện với vàn các vấn đề nhân sinh mang tính dân tộc, tính toàn cầu
hệ luỵ kéo dài đến về sau - những vấn nạn buộc phải hiểu, phải giải quyết để tồn tại đi tới. Trong bối cảnh đó:
“tâm thức hậu hiện đại 1 nỗ lực mới nhằm thức tỉnh trước những nguy cám dỗ để tiếp tục suy tưởng
kiến tạo những hình thức mới, phù hợp hơn để “cứu vãn bảo v những giá trị đích thực của Hiện đại: sự tự do
sự khai phóng của nhân.”
Nhận xét về nhà văn Nguyễn Huy Thiệp trong bước đầu xây dựng diện mạo văn học hậu hiện đại Việt Nam, theo
Nguyên Cao Kim Lan: “nhà văn NHT, 1 trong những người đầu tiên thể hiện lối viết hậu hiện đại, đã sử dụng
rất nhiều chất liệu lịch sử chất liệu dân gian trong các sáng tác của mình, nhưng dưới 1 cảm quan mới - cảm
quan HHĐ, với các thủ pháp tiêu biểu như nhại lịch sử, giải thiêng, siêu cấu sử ký, gi thể loại,...”
NHT rất nhạy bén trong việc giải - văn hoá sản, Tướng về hưu đã thể hiện rất sinh động về con người thị
dân sặc mùi kim tiền sau 1975
Chủ nghĩa hậu hiện đại hiện tượng văn hóa độc đáo ảnh hưởng rộng lớn đến nhiều lĩnh vực: triết học, mỹ
học, nghệ thuật thế kỉ XX. Trong văn học chủ nghĩa hậu hiện đại đem đến những sự đột phá ngoạn mục từ trước
đến giờ người ta chưa từng chứng kiến. Các cây bút từ nhiều nơi trên thế giới đã làm một cuộc cách mạng về quan
niệm, về cách viết, thực hiện cuộc phản công vào tất cả những lâu nay vẫn trói buộc hoạt động sáng tạo. Trào lưu
hậu hiện đại đã trở thành một trào lưu ảnh hưởng lớn trên phạm vi toàn cầu. Việt Nam, hậu hiện đại xuất hiện
như một khuynh hướng chúng ta thể m thấy dấu vết hậu hiện đại trong thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh, Trần
Dần, Vi Thùy Linh....trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, trong tiểu thuyết của Bảo Ninh,
Phạm Thị Hoài, Thuận, Nguyễn Bình Phương. Trong giới hạn bài viết này, xin được phân tích một số đặc tính hậu
hiện đại trong một số tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp (Vàng lửa, Trương Chi, Kiếm sắc, Chút thoáng Xuân Hương,
Tướng về hưu).
Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, những câu chuyện nghĩa của cuộc đời, sự tha, nhếch nhác của con
người, sự lạc loài của cái đẹp được đề cập đến. Tướng Thuấn trong Tướng về hưu là cái đẹp, nhưng đều lạc loài.
Tướng Thuấn về hưu nhưng không cách o hòa nhập được với gia đình, trước cái chết của vợ, sự hờ hững của con
trai, xa lạ với đứa cháu gái không thể chấp nhận được hành động của con dâu khi xay mảnh thai nhi cho chó,
ông đã chọn cách chết bên đồng đội. Ông thốt n “Sao tôi cứ như lạc loài”. . Ông cùng đồng đội vào sinh ra t để
bảo vệ đất nước, để đồng bào được sống hạnh phúc, nay trở về ông thấy những bào thai nhỏ xíu bị nấu cho chó
ông không chịu được. Trước đây khi còn là tướng, trong quân ngũ ch huy hàng nghìn quân, đưa ra bao quyết định
liên quan đến sinh tử ông Thuấn cũng không thấy khó khăn bằng việc chỉ đạo cái gia đình nhỏ của ông
Với ch kể ngắn gọn, khách quan đến mức dửng dưng, NHT đã dẫn độc giả vào mê cung của những sự kiện
đây, độc giả phải tự chắp nối, xâu chuỗi các chi tiết, tình huống lại với nhau tự đi tìm các tầng nghĩa tưởng.
đây, tác giả không hề biểu đạt sự tôn thờ 1 hình tượng nào mỗi nhân vật đều đời sống riêng:
+ Ông Thuấn sau bao năm lăn lộn ngoài chiến trường trở về với hàm thiếu tướng nhưng lại trở thành
người thừa trong gđ. thể thời chiến, ông Thuấn anh hùng nhưng trong thời bình ông dường như “gánh
nặng” cho xh cái chết ngoài trận mạc cái chết mang tính tất yếu => Hình tượng ông tướng Tuấn hiện
lên đúng 1 con người của thời đại.
+ Nếu xét chung phương diện này, nhân vật Thuỷ - con u ông Thuấn c khoa sản, chuyên nạo
phá thai đem nhau thai về cho chó ăn. Về mặt đạo đức, đây nhân vật nhân nh. Nhưng xét về mặt hội,
người luôn nắm bắt xu hướng của thời đại - thể hiện qua việc làm ăn kinh tế.
+ Bản thân mỗi con người không hề đơn giản một chiều sâu kín, rối rắm, nhiều chiều kích. MiLan
Kundra nói: Con người hiển minh của lưỡng lự”. Bên trong mỗi bản thể nhỏ nhoi ấy bao giờ cũng tồn tại hai
mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện ác, cao cả - thấp hèn, trong sáng tăm tối, hạnh phúc khổ đau… Con người lúc
thần thánh song cũng lúc quỷ dữ. Ai dám bảo một người lương thiện không lúc suy nghĩ đê tiện? Ai dám
bảo một người độc ác lại không lúc lấp lánh trong tâm hồn ánh sáng của thiên lương. Cho nên không nên chỉ
đơn giản phân loại con người theo hai khu vực rạch ròi: tốt xấu”. Kiểu nhân vật đan xen giữa trắng đen, thật
giả ấy n học gọi là nhân vật lưỡng diện.
+ Nguyễn Huy Thiệp tỏ ra người rất thành công trong việc xây dựng con người lưỡng diện. Ông len lỏi
vào những nẻo sâu kín nhất trong nội m nhân vật, nhìn thấy những biểu hiện nhỏ nhất lóe lên trong m hồn họ.
Ông Bổng trong Tướng về hưu” lỗ mãng, táo tợn vậy bật khóc được gọi người: Thế chị thương em
nhất. Cả làng cả họ gọi em đồ chó. Vợ em gọi em đồ đểu. Thằng Tuân gọi em đồ khốn nạn. Chỉ chị gọi
em người”.
=> Các nhân vật khác cũng không ai được đẩy lên để trở thành điển hình cho tác phẩm. Tính không xác
định, sự tôn thờ tính không ràng, bóng gió, “mê cung nghĩa”, mập mờ nghĩa,... đã xuất hiện đồng loạt
trong cách nhân vật trong tác phẩm
Tinh thần hậu hiện đại hoài nghi với tất cả, hoài nghi cả lịch sử là điều chưa từng thấy trong văn học hiện đại. Lịch
sử được nhìn nhận từ nhiều góc độ, không còn i lịch sử “đáng tin” như chúng ta vẫn nghĩ trước đây, Nguyễn
Huy Thiệp đã tạo ra những “lịch sử giả”. Dựng lên lịch sử giả cũng nghĩa đi theo tiếng gọi của trò chơi một
hình thức lại hóa nhằm tổ chức một thế giới nghệ thuật in đậm dấu ấn chủ thể sáng tạo những cây bút non tay
không bao giờ vươn tới được.
Trước đây, trong các tác phẩm thơ ca kháng chiến cách mạng, người ta thường miêu tả hình tượng người lính xông
pha ngoài mặt trận với tinh thần “thắng không kiêu, bại không nản”, sẵn sàng hy sinh độc lập hoà bình của dân
tộc. Người cầm bút hầu như chỉ được quyền hướng thượng, viết về cái hay, cái cao cả, cái tích cực. Họ bắt buộc
phải lờ đi phần xấu, phần khuyết tật trong con người (trừ i xấu của địch). Khuynh hướng này được Hoàng Ngọc
Hiến dùng một ch rất nhẹ nhàng khuynh hướng sử thi.
Nguyễn Huy Thiệp một trong những nhà văn tiên phong, ngược dòng ớc chảy, giao thiệp với cái ác, nhận diện
khảo sát chúng bằng kính hiển vi, không phải để tiêu diệt chúng văn chương chưa bao giờ điểm trang diện
mạo cải hoán bụng dạ nhân loại. Nhưng biết chúng để "biết người biết ta", đừng bịt mắt, đừng đánh lừa mình,
đừng ảo ảnh, đừng sống một nửa. Chấm dứt tự mãn. Tác phẩm Tướng về u của Nguyễn Huy Thiệp lại một
trang khác về những anh hùng kia. Ông không chọn cách kể lại cuộc đời binh nghiệp vinh quang chói l của
tướng Thuấn chọn thời điểm nhân vật đã về hưu trong thời bình, đối mặt với những đổi thay của hội thời
đại, toan tính đồng tiền nhiều hơn sống chết lẽ cao c - độc lập dân tộc.
Điều này giống như một sự “giải thiêng” đối với các đại tự sự. Cái hậu hiện đại vậy, thường nói đến những
mảnh vỡ trong hiện thực, những tiểu tự sự chứ không cần một sự tôn vinh, phá bỏ “sử thi” trong văn học trước đây.
Vị tướng hùng dũng trên chiến trường, trở về nhà không thể quen với lối sống ăn không ngồi rồi hưởng thụ, không
thể chịu đựng khi nhìn thấy ngón tay xíu của thai nhi, cũng không cách nào hòa nhập với các thành viên khác
trong gia đình. Chọn cái chết bằng súng đạn lẽ ông được ra đi thanh thản hơn. Mặt trái sau ánh hào quang mà
Thiệp muốn đề cập đến của một vị tướng cũng như cái hiện thực lạnh lùng của đồng tiền, của lòng người....
Thiên tiểu thuyết đã cho ta thấy được khoảng cách giữa đời sống hòa bình hậu chiến sự văn minh, phát triển thực
sự của một quốc gia. Bi kịch lạc loài của vị tướng Thuấn cùng niềm đơn của nhân vật Thuần trong một hội
chạy theo lối sống vật chất, thực dụng bấy gi người người cho tiến bộ đã khiến ta nhận ra một sự thật. =>
Thành quả của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mấy chục năm qua chỉ mới tiền đề cho sự phát triển chứ
không phải điều kiện chín muồi để cải tạo hội xây dựng cuộc sống mới.
Để hoàn thành được mộng lớn của dân tộc, ta còn phải bắt tay vào giải quyết những vấn đề khó khăn phức tạp
hơn rất nhiều, từ việc vứt bỏ cái lạc hậu trong quá khứ, loại trừ mầm mống của sự tha hóa mới nảy sinh đến đưa ra
những giải pháp thiết thực để đảm bảo an sinh hội giúp đất nước đi lên một cách bền vững.
=> Đó một hành trình rất dài sẽ luôn tiếp diễn, đòi hỏi sự chung tay góp sức không những của những
thế hệ cha ông xưa còn của lớp người trẻ ngày nay mãi sau này nữa. Như Nguyễn Minh Châu trong
tiểu thuyết Miền cháy (1977): Xưa nay đất dưới chân những người vừa thắng giặc bao giờ n sẵn đầy hoa?
Mảnh đất vừa được giải phóng này như 1 lời thách đố, như một thứ chiến trường mới lập tức mở ra trên chính
vùng chiến trường cũ… Bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng cần thiết phải đầy đủ trí tu nghị lực
như bước vào 1 cuộc chiến tranh.”
V.Nghệ thuật
Điểm nhìn trần thuật: Sự đa dạng, chuyển đổi liên tục điểm nhìn trần thuật. Trong “Tướng về hưu”,
ngôi kể ngôi thứ nhất “tôi”, nhưng qua sự đối thoại, chuyển lời liên tiếp giữa các nhân vật, điểm nhìn cũng
thay đổi liên tục: tôi, tướng Thuấn, ông Bổng, Thủy từ đó nhận ra tính cách các nhân vật.
Sự trần thuật từ nhiều điểm nhìn bằng chứng quan trọng về đổi mới quan niệm văn xuôi. Điểm nhìn trần thuật do
người phán truyền chân đảm nhận. Tinh thần dân chủ hóa văn học bắt đầu từ chỗ thay quan hệ độc thoại, 1 chiều
thành quan hệ đối thoại 2 chiều. Độc giả không bị áp đặt chân được quyền bình đẳng với nhà văn trong nh
trình tìm kiếm chân lý.
Người kể chỉ thể kể được những điều họ cảm thấy, nghe thấy, nhìn thấy trong không gian, thời gian, trong trạng
thái cảm xúc, trình độ văn hóa, tuổi tác, quan điểm tưởng, giá trị . trong “tướng về hưu” thật khó để nhân vật
tôi thực hiện được chức ng của mình nếu như nhân vật không một điểm nhìn nhất định,có một vị trí dựa vào để
quan sát, cảm nhận, trần thuật, đánh giá các nhân vật sự kiện. thế, Nguyễn Huy Thiệp đã lựa chọn cho người
kể chuyện trong c phẩm của mình một điểm nhìn hết sức độc đáo, đa dạng, để lại trong lòng độc giả nhiều dấu ấn
về cách lấy điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm.
Sự độc đáo trong điểm nhìn trần thuật của “tướng về hưu” trươc hết được tạo nên bởi điểm nhìn bên trong của
người kể chuyện nhân vật tôi ( thuần- con trai tướng thuấn). Cách kể của con người hơi thiếu tự tin, thiếu quyết
đoán đó khiến dòng đời với những thác lũ tha hóa sự trơ khấc của cảm xúc dường như thêm phần bạo liệt. Cảm
giác bất lực dâng trào. Người kể như đứng bên ngoài những sóng gió mà kể lại, chỉ kín đáo suy ..Tác giả lấy điểm
nhìn từ nhân vật Thuần cho ta một cái nhìn vừa mới mẻ đồng thời cho ta một cái nhìn bao quát hơn bởi anh vừa
nhân vật trung tâm đồng thời cái nhìn khá xác đáng về các vấn đề đang diễn ra xung quanh “sự kiện” bố
anh-tướng Thuấn về hưu. Đồng thời còn cái nhìn sự đánh giá sắc đáng của chính c giả về cái hội lúc giao
thời đầy lố lăng, lúc mọi giá trị của đời sống tinh thần không được coi trọng. Còn điểm nhìn nào hợp hơn
điểm nhìn từ Thuần? Vừa người gần gũi với tướng Thuấn để biết những hành động, lời nói của ông trong cuộc
sống hàng ngày lại vừa xa lạ vốn hai cha con cũng ít gặp nhau. Sự gắn kết giữa 2 cha con chỉ huyết thống
không hơn. Nhân vật này tham gia vào tất cả các sự kiện, tất cả các mối quan hệ tạo sự xác thực cho thông tin, bao
quát câu chuyện n.
Nhưng nếu chỉ vậy chưa đủ để làm nên sức hấp dẫn của Tướng về hưu”, bởi tác phẩm không chỉ độc đáo
còn đa dạng trong điểm nhìn trần thuật. “Thế giới được miêu tả” được hiện lên không chỉ qua điểm nhìn của người
kể chuyện còn được hiện lên qua điểm nhìn của các nhân vật khác trong tác phẩm : Thủy (vợ Thuần), Thuấn,
ông Bổng, cậu khổng,….Điểm nhìn cũng được luôn phiên đổi khi đối thoại giữa các nhân vật, do vậy cái nhìn về
các nhân vật được hoàn thiện khách quan hơn. Đặc biệt, tác phẩm xuất hiện sự đối thoại giữa các điểm nhìn ( hai
điểm nhìn trái ngược nhau) đã tạo nên hiện tượng điểm nhìn nhiều chiều, từ đó tạo nên sự đa dạng trong tính cách
nhân vật cũng như những quan điểm khác nhau về con người trong hội giao thời. Qua điểm nhìn của người kể
chuyện cũng như của các nhân vật , tính cách, nhân ch các nhân vật hiện lên ràng
Nghệ thuật sử dụng đối thoại độc thoại: Những lời độc thoại như tự vấn, tra vấn hay những đối
thoại lệch hướng, không hồi đáp,... đều in đậm dấu ấn con người đơn.
Trong đó, hình tượng con người đơn trong sáng tác NHT được tổ chức khá thành công qua kỹ thuật tổ chức đối
thoại. Phổ biến là những đối thoại lẻ tẻ, rời rạc, không song hành từ 2 phía. Qua đối thoại của nhân vật người
đọc hình dung ra khá đầy đủ mối quan hệ hết sức lỏng lẻo giữa mọi người, từ đó, người đọc dần nhận ra tính cách,
tâm của nhân vật… => Đó sự đối thoại nửa vời, không nói hết những điều mình nghĩa, thể hiện thái độ
bất hợp tác
Trong những ngày Thuần ốm, đột nhiên ngồi dậy được đi lại lững thững ra vườn. Thuần bảo: Mừng rồi nhưng
Thuỷ không nói gì, chiều hôm ấy mang về chục mét vải trắng gọi thợ mộc. Thuần hỏi: Chuẩn bị à?, Thuỷ lại trả
lời: Không => ràng Thuỷ biết điều đang diễn ra sắp đến nhưng chị k nói ra. Những câu trả lời ấy thể
hiện thái độ từ chối đối thoại, k muốn chia sẻ đó mẹ của người đầu ấp tay gối với mình => Đối thoại làm
con ng ta phát điên muốn nổ tung, muốn phá huỷ nhịp điệu nhàm chán
1 kiểu đối thoại khác là: người nói ít để ý đến người nghe, k ai quan tâm đến ai, mỗi ng 1 dòng suy nghĩ. Trong
đoạn: Ông Chưởng bảo: Chúng tôi lỗi với gia đình. Thuần bảo: Không phải thế. Đời người mệnh. Ông
Chưởng bảo: Cụ nhà ra trận địa đòi lên chốt. Thuần bảo: Cháu hiểu rồi chú đừng k nữa. => Khiến người đọc
cảm giác rõ rệt về s lỏng lẻo trong mqh của các nhân vật. rất nhiều lời phát ngôn nhưng hầu như k
đối thoại, ch những lời nói song song đơn độc, 2 con ng k đối thoại như độc thoại với chính mình hoặc
theo đuổi dòng suy nghĩ riêng k quan tâm đến ng đang đối thoại với mình => Như vậy đâu còn đối
thoại, đâu còn nhịp cầu giữa người - người?
Kiểu đối thoại bằng cách sử dụng những t ch hành vi hồi đáp trực tiếp như: đáp, trả lời rất ít sử dụng dùng
những từ chỉ nh vi nói như: nói, bảo, hỏi => Kiểu đối thoại làm triệt tiêu sự gắn kết giữa các nhân vật, lời
thoại không còn đ con người hiểu hay thông cảm cho nhau
=> Đối thoại trong sáng tác của NHT nói chung trong Tướng về hưu nói riêng cho người đọc cảm giác 1
thế giới ngổn ngang sự vật, sự kiện nhưng rất ít liên hệ. Trong tg đó, con ng tồn tại bên nhau n những cá
thể xa lạ sự đối thoại đều rời rạc, cộc lốc, 1 chiều, hạn chế bộc lộ cảm xúc
=> Tạo nên hình ảnh 1 thế giới lạnh lùng, cảm - 1 thực trạng rạn vỡ, cô đơn.
Giọng điệu: Giọng đa thanh, đầy tính đối thoại: NHT bị trách là tàn nhẫn”, “lạnh lùng” với con người
nhưng trong tác phẩm của ông đâu chỉ 1 sắc giọng dửng dưng, cảm. Trái lại giọng khinh bạc, gai góc lẫn
đan xen với giọng trữ tình khi xót xa thương cảm, lắm khi tái buồn.
Đặc điểm hậu hiện đại được thể hiện nét qua giọng điệu của tác giả - nơi thể hiện thái độ, lập trường, tưởng,
đạo đức của nhà văn với hiện thực được tả. Giọng điệu của nhân vật giọng điệu của người trần thuật không
chỉ ý nghĩa tạo hình mà còn tính biểu hiện.
Giọng điệu của NHT trong TVH không chan chứa tình cảm như những nhà văn thuộc chủ nghĩa lãng mạn, cũng
không đạo mạo, rao giảng chân hoặc hùng hồn cắt nghĩa hiện thực như lời văn uyên huấn y ấn tượng bởi
giọng điệu âm sắc. Khiến người đọc cảm giác rờn rợn đến lạnh người lối viết gai góc, khinh bạc cùng cách
nói trần trụi, tàn nhẫn.
Thể hiện trước tiên giọng điệu người kể chuyện - nhân vật tham gia vào câu chuyện, nhưng anh ta quan sát
kể lại câu chuyện bằng giọng điệu hết sức bàng quan của người ngoài cuộc: ““Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ
Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho,
sau về dạy học. Ông nội tôi hai vợ. cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền.”
=> Mỗi người thân được giới thiệu qua 1 bản “lí lịch trích ngang”. Các câu được lặp lại theo kiểu cấu trúc
tạo cho đoạn văn tính đơn điệu, hầu hết thiếu tính từ, thán từ, từ.
nói về niềm vui hay nỗi buồn, kể cả nỗi đau mất mát, giọng văn của người kể chuyện đều không khác nhau: Cha
tôi buồn, Cha tôi đăm chiêu, Ông luống cuống kh sở, Cha tôi khóc,... => Thứ giọng “vô âm sắc”
NHT không dùng những tính từ đao to búa lớn, chỉ viết những lời ai cũng hiểu tạo nên cả 1 bầu không khí điên
đầu trong 1 thế giới không ai hiểu ai. Nói chuyện cha chết nhưng Thuần rất bình tĩnh, liên tục những câu ngắn
miêu tả nh động cấu trúc gần giống nhau. Ngay cả khi anh ta khóc cha cũng như 1 người o đó tách
khỏi anh ta, quan sát anh ta khóc bình luận: Tôi khóc, chưa bao gi tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc
như cha chết khóc ntn. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời của một người.
=> Người kể chuyện không ý định bộc lộ tâm trạng chỉ bình luận, triết lý về cuộc đời. Không biểu lộ
tình cảm, khách quan đó kiểu giọng điệu rất riêng của NHT, cho thấy cả 1 thế giới không có liên kết, nhợt
nhạt thiếu nh người
=> Chất giọng dửng dưng, cảm như phản chiếu 1 thực tại đáng buồn - nơi quan hệ giữa con ng lỏng lẻo,
tinh thần rệu đầy mất mát nghĩa
Kết cấu: Kết cấu phân mảnh phá vỡ lối kết cấu truyền thống trước đây, không chú trọng trình tự sự
kiện, được thể hiện qua nh thức biểu đạt của tác phẩm. mỗi đoạn đều hàm chứa những nội dung khác nhau
nếu tách mỗi đoạn ra riêng, người đọc vẫn thể hiểu nội dung đoạn đó.
“Tướng về u” ta thấy các câu chuyện rời rạc được kể bởi nhân vật “tôi”, chủ thể kể Thuấn, người giàu tình
cảm với cha song phần cả nể, bạc nhược với vợ => cách kể của con người hơi thiếu tự tin, thiếu quyết đoán. Cảm
giác bất lực dâng trào, người kể như đang bên ngoài song gió kể lại, chỉ kín đáo suy . Đây thi pháp giả định
đưa cái tôi thẩm mỹ, thành cái tôi chính kiến trong giọng điệu tân văn, song đưa người đọc tham gia thành 1 yếu tố
cấu thành của nghệ thuật, khi sự thật khách quan được bộc lộ: Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài
người quen những cảm xúc thời gian đã xóa nhòa, tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha
tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết ợng thứ cho ngòi bút
kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, sự bênh vực của tôi đối với cha mình.”
=> Phần giới thiệu để biết các nhân vật trong gia đình. Sau đó chuyện gia đình trước khi tướng Thuấn về hưu,
chuyện sau khi tưởng Thuấn về hưu, chuyện bắt gặp cảnh những mẩu thai nhi trong nồi cám chó, chuyện mẹ chết
rồi làm đám ma cuối cùng chuyện tướng Thuấn chết. Các tình huống được tạo ra để thấy được những điều tác
giả muốn gửi gắm, những dụng ý sâu sắc, đôi khi có thể đảo lên không ảnh hưởng đến mạch truyện. Ta thể
bắt gặp điều này trong các truyện: Chảy đi sông ơi; Con gái thủy thần, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết…Điều
này không hề gặp trong các truyện trước tác phẩm này.
Ngôn ngữ: Nguyễn Huy Thiệp sử dụng ngôn ngữ đối thoại hết sức ngắn gọn, chỉ đủ nêu thông tin,
mang đậm nh liệt với những câu đơn như: “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn
họ lớn, số lượng trai đinh lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi hai
vợ. cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vậy ông nội tôi phải tục huyền. hai làm nghề nhuộm vải…”.
Cách viết câu văn như vậy nếu xét về tính chất nghề nghiệp của nhân vật làm nghề kỹ thì lại phù hợp với tính
cách của anh, tức câu văn ngắn gọn, ý, không hề chau chuốt đôi chỗ diễn đạt phần vụng về. Bởi đây,
NHT đang hoá thân vào nhận vật cần linh hoạt cách diễn đạt để đúng với tính cách của nhân vật.
Nhiều rào cản ngôn ngữ được gỡ bỏ như miêu tả sự thực, nhiều khi là cực thực tràn vào văn chương: lời hát của
mấy anh chàng phù rể:
Ừ... ê... cái con quay
Ta đi lang thang khắp miền giang hồ
Tìm nơi nào tiền
Tiền ơi, mau vào túi ta
Ừ... ê... cái con rù...
=> Những câu văn sắc lạnh, dửng dưng như thế mặt khắp tác phẩm, tạo ra một giọng điệu lạnh lùng,
khách quan, cho bạn đọc tự phán đoán câu chuyện, nhà văn không định hướng, không phán xét bất cứ điều
gì, đó cũng tinh thần hậu hiện đại nâng người đọc lên vị trí cao hơn.
=> Ngôn ngữ ngắn gọn, nhiều từ tục, kết cấu phân mảnh, cảm thức hậu hiện đại đơn, lạc hoài, hoài nghi,
đa điểm nhìn.... lối viết hàm súc, thâm ý, thuộc cấu trúc ẩn dụ, chủ yếu dùng trong thơ, mở ra nhiều ngả:
làm huyễn ảo, mông lung ý nghĩa, khai thông nhiều đẳng độ tiếp thu, bắt buộc người đọc phải duy, tham
dự. Về phía tâm linh, ngôn ngữ sắc gọn biểu tình với cái ác, cái xấu, khiến cái ác ác thêm, cái xấu xấu thêm;
do đó tác dụng dội nước lạnh vào tri thức, xát muối vào lương tâm độc giả.
=> Các nhà văn VN đã mang 1 tâm thức mới trong sáng tạo NT, không còn phỏng viết theo hiện thực
như trước đây, đề cao tính cấu, tính trò giơi, giễu nhại, giải thiêng trong sáng tạo, chối bỏ thức cơ
bản nhất của chủ nghĩa hiện thực truyền thống “nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình”
VI. Đóng góp của tác phẩm:
Trong giai đoạn sau giải phóng năm 1975, nền kinh tế thị trường phát triển, đồng tiền làm tha hóa đi phần “người”
của con người, như phần lớn nhân vật trong tác phẩm. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thẳng thắn vạch trần mặt đen tối
đó của hội đương thời, phơi bày tường tận sự đốn mạt đó để thức tỉnh vực dậy phần “người” của hội.
Trong thời đại hiện nay, c phẩm vẫn còn những giá trị hiện thực to lớn cho đến ngày nay cơm - áo - gạo - tiền
vẫn luôn vấn đề hiện hữu trong đời sống con người, bộc lộ những mặt tối của con người một cách dễ dàng như
khơi dậy lòng tham, sự tâm, ích kỷ,... bị áp lực hội vật chất tha hóa. Tác phẩm bức tranh hiện thực về
quá khứ, về vấn đề nhức nhối trong mọi thời đại đóng góp không nhỏ trong vai trò đánh thức lương tâm con
người.
Trong lĩnh vực nghệ thuật, bi kịch nhân trong truyện ngắn “Tướng về hưu” một đóng góp to lớn cho mảng bi
kịch trong văn học Việt Nam - văn học đương đại, phác họa bi kịch nhân của một vị tướng về hưu, một nhân
gắn liền với một hoàn cảnh đặc biệt; một dấu ấn sâu đậm trong dòng văn học bi kịch yếu tố cốt lõi.
“Tướng về hưu” một truyện ngắn mang dấu n được đánh giá cao nhất của nhà Văn Nguyễn Huy Thiệp, tác
phẩm có đóng góp lớn cho văn học Việt Nam nói chung nền văn học đương đại nói riêng. Những giá trị của tác
phẩm không chỉ mang đến sự cảm thán trước bi kịch đau lòng của hội còn đem đến sự khơi dậy, thức tỉnh về
lương tâm con người, củng cố sự thiện lương trong cuộc sống đầy cám dỗ vật chất hiện nay.
VII. Kết lun
Văn học không tự sinh ra cũng chẳng tự gầy dựng giá trị. Tất cả những tiếng cười hoan hỉ hay khổ hạnh khốc liệt
trong đời văn, đời chữ đều phản ánh chân thực thời đại sinh ra. Thực tế, văn chương không phải tấm áo ngôn
từ, càng không phải cường điệu hóa nỗi đau trở thành ám ảnh bất biến. n chương chỉ tái hiện lại vẻ đẹp của
giọt nước mắt bằng cung cách khiêu gợi nhất trong đó vẫn chứa đựng giá trị bất chuyển. đóa hoa tỏa hương
êm dịu cho cuộc sống đầy rẫy đớn đau của con người.
Tướng Về Hưu không phải là một truyện ngắn bình thường, theo nghĩa truyện ngắn, sự đọng của một
trường thiên trải ba kiếp người, hai thế hệ chồng chất những tương phản đớn đau, những đốn mạt hèn mọn, những
nhầm lẫn, ngộ nhận, đơn, bất hạnh, trách nhiệm tổ chức... giữa người với người, giữa những thể với
nhau, mỗi cá thể ấy lại một thành viên của hội chúng ta đang sống. Ðấy mới điểm kinh hoàng có thể làm
loạn thần những tâm hồn "lành mạnh" nhất.
Hầu như mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều một h khảo sát bệnh những vấn đề lớn của
hội hiện hành, liệt khai những vi khuẩn phá hoại, giải phẫu ung nhọt. Tất cả khởi nguồn từ ngôn ngữ, bằng
ngôn ngữ. (Thuỵ Khuê - Nguyễn Huy Thiệp: sự bất nhân trong nhân tính)
Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp đã khắc họa thân phận con người trong hội sau chiến tranh, khi những
giá trị chuẩn mực đạo đã thay đổi theo sức mạnh của nền kinh tế thị trường.
Trong thế giới của Tướng v hưu, các nhân vật không hiện lên với sự tươi ng giản đơn, ta chẳng thể nào phân biệt
một cách rạch ròi ai mới thực sự người tốt đâu kẻ xấu. Thay o đó, nhà văn đã dùng ngòi bút đọng
sắc lạnh để đẽo gọt tỉ mỉ từng dáng vẻ phức tạp cùng trăm mối mâu thuẫn ngổn ngang trong từng nhân vật. Ta
không thể phủ nhận một ức mà đó người ta đã tìm ra mình đẹp nhất ta cần kính trọng ức của thế hệ đó.
Nhưng dòng sống của con người gồm hôm qua, hôm nay ngày mai, tức con người không thể dứt ra cũng
không thể do thứ hôm qua đẹp quá chìm đắm mãi đó.
Từ bi kịch của một vị tướng đã về hưu khi phải đối diện với sự biến đổi đầy khắc nghiệt của cái hội bên ngoài
quân đội sẽ mở ra một thế giới đa diện chúng ta lẽ chưa từng biết đến. thể nói, ngòi bút của ông thể
thẳng thắn vạch trần cái xấu, cái ác bằng một giọng văn dửng ng tàn nhẫn nhưng trái tim nhà văn chưa bao giờ
thôi đau đớn trước những điều trông thấy. Tác giả của Tướng về u đã đi đến tận cùng trong việc phơi bày sự đốn
mạt của con người để thức tỉnh lương m hội.

Preview text:

TƯỚNG VỀ HƯU CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
Các vấn đề: 1. Ýthứchệ
2. Tâm lý cô độc (liên hệ với câu chuyện của nhân vật bị trầm cảm sau khi về hưu
trong Đại dương đen), lạc lõng trong cuộc sống phức tạp, bộn bề 3. Khủng hoảng hiện sinh
4. Bi kịch của những người lính trở về sau chiến tranh => Bóng ma chiến tranh hằn
sâu trong tâm thức => Ông Thuấn là sản phẩm của chiến tranh - đồng hành với hệ
ý thức là tư duy chiến tranh
5. Nếp sống thực dụng của nền kinh tế thị trường
6. Sức mạnh đồng tiền chi phối con người
7. Sự mất kết nối trong gia đình
8. Cảm thức hậu hiện đại cô đơn I. Đặt vấn đề:
★ Đã có một thời đại, văn chương mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, từng câu văn nặng về
ca ngợi những phẩm chất cao cả của những con người thuộc về cộng đồng nhân dân ta và dân tộc ta.
● Ở mỗi tác phẩm đều tồn tại một lằn ranh phân tuyến “địch-ta” với lăng kính đánh giá cuộc đời vô cùng giản đơn
rằng thế giới của địch thì luôn xấu xa, tiêu cực còn cộng đồng người của ta thì phổ biến với nhiều mặt tốt đẹp, lạc
quan, hy vọng và lòng quyết tâm sắt đá giành lại độc lập tự do. Nói cách khác, khi ấy văn học trở thành công cụ để
minh họa cho lý tưởng Đảng, niềm tin dân tộc và cổ vũ không khí chiến đấu.
● Thế rồi, chiến tranh kết thúc, phe địch, tượng trưng cho cái xấu đã bị diệt trừ, phe chính nghĩa là quân ta toàn
thắng, nhân dân mang niềm háo hức và vui sướng bước vào nền hòa bình trong cõi lòng ngập tràn hy vọng về những
ngày tháng mới tươi sáng.
● Hòa theo không khí chiến thắng, nền văn học nước nhà tiếp tục phát triển theo quán tính của sự minh họa được
nhắc đến ở trên nhưng trong lúc đó, có những nhà văn đã tỉnh dậy khỏi hào quang của cuộc chiến để trở về với đời
sống hiện thực và nhận ra những thay đổi thầm lặng nhưng đáng cảnh báo đang dần làm mai một nhân cách con
người trong xã hội đương thời.
● Nguyễn Minh Châu là “một trong những người mở đường tinh anh và tài năngcho việc thay đổi tư duy
khác thác hiện thực này và Nguyễn Huy Thiệp đã tiếp bước con đường mà nhà văn của Bức tranh hay Chiếc thuyền ngoài xa chỉ ra.
Tác phẩm văn học là nơi tác giả bày tỏ những quan điểm, suy nghĩ về cuộc sống và phản ánh những tâm
tư tình cảm của con người, trong đó có bi kịch, ngoài bi kịch do hoàn cảnh mang lại còn có bi kịch do chính bản
thân con người tạo ra - bi kịch cá nhân.
Văn học Việt Nam sau giai đoạn chuyển mình từ trung đại sang hiện đại, thoát khỏi khuôn khổ kết thúc
tác phẩm có hậu và giá trị của bi kịch được đảm bảo trọn vẹn nhất, nổi bật là bi kịch của những người lính trở về
sau chiến tranh vào thời điểm chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường.
Nhận thấy vấn đề bi kịch cá nhân đặc biệt ấy, nhóm tiến hành chọn chủ đề “Bi kịch cá nhân con
người” được thể hiện trong truyện ngắn “Tướng về hưu” của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, một nhà văn đương đại
Việt Nam với nhiều góc nhìn mới lạ, táo bạo.
Nhóm tiếp cận tác phẩm để tìm ra và tiến hành phân tích những bi kịch cá nhân của con người, đưa ra
những luận điểm và kết luận về vấn đề này. Trong giai đoạn hòa bình hiện nay, bi kịch của con người không chỉ
là những khủng hoảng hiện sinh mà còn là những đấu tranh bên trong mỗi cá nhân, nhóm có nguyện vọng đưa
bi kịch cá nhân con người trong tác phẩm đến đời sống nhằm chứng minh giá trị của tác phẩm và thúc đẩy mỗi
người tìm ra vấn đề của chính mình.
II. Giới thiệu tác giả
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ông là nhà văn đương đại
Việt Nam nổi tiếng trong các thể loại kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết với những góc nhìn mới, táo bạo.
● Trong nhiều sáng tác của ông, nông thôn và những người lao động để lại nhiều dấu ấn đậm nét, do thuở nhỏ
ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Những ký ức ngày thơ bé ấy đã hằn sâu trong trí nhớ
của nhà văn và sau này, chúng trở thành những chất liệu hiện thực đắt giá để ông sáng tạo nên các tác phẩm nghệ thuật của mình.
● Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa Sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Đó là lý do vì sao ta bắt gặp rất nhiều
các tác phẩm nổi tiếng của nhà văn được lấy cảm hứng từ những câu chuyện lịch sử, tiêu biểu như là bộ ba Kiếm
sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết với sự xuất hiện của vua Gia Long hay Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam Chút thoáng Xuân Hương.
● Nhà văn bộc lộ sức sáng tạo dồi dào của mình ở nhiều lĩnh vực từ viết văn xuôi đến sáng tạo kịch bản và thậm
chí là ra mắt tiểu luận văn chương. Thế nhưng thể loại văn học mà Nguyễn Huy Thiệp để lại dấu ấn cá nhân đậm
nét nhất chính là truyện ngắn. Sự nghiệp văn chương của ông bắt đầu khá muộn với các truyện ngắn đăng trên
báo Văn nghệ. Vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về các tác phẩm của ông.
○ Cũng từ đó, ông xây dựng cho mình sở trường viết truyện ngắn, mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và văn
học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê và những người lao động.
Ngoài ra, Nguyễn Huy Thiệp còn viết nhiều kịch, tiêu biểu là Xuân hồng, Còn lại tình yêu, Gia đình,. . và nhiều thơ
(tuy chưa xuất bản tập thơ nào nhưng thơ xuất hiện khá nhiều trong tác phẩm của ông).
● Nguyễn Huy Thiệp không né tránh mà nhìn thẳng vào mặt trái của hiện thực phơi bày tất cả ung nhọt
của xã hội, sự mai một của những giá trị tinh thần bằng những câu văn ngắn, tốc độ nhanh ngữ pháp đơn giản.
○ Các câu văn trong truyện ngắn của ông đa số là câu đơn, tạo nên nhiều khoảng trắng và biến thiên truyện
thành những mảnh vụn vỡ tưởng chừng như rời rạc nhưng thực chất sau những khoảng trắng ấy là nhiều ẩn dụ đầy ám ảnh.
○ Nổi bật trong các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là một giọng văn cô đọng, khách quan và có phần sắc
lạnh. Nhà văn thường viết những cái kết mở và thậm chí ở một số truyện ngắn, ông còn xây dựng nhiều kết cục
khác nhau cho một nhân vật.
○ Bằng lối trần thuật ấy, thế giới nhân vật và nội dung câu chuyện luôn hiện ra một cách trung thực trước mắt
người đọc, độc giả không bị chi phối bởi thiên kiến của người sáng tác mà được tự do nhìn nhận tác phẩm từ góc độ của mình.
○ Mở ra với muôn vàn khả năng và sự biến thiên lạ kỳ, các tác phẩm của ông luôn khiến ta phải suy tư về các
nhân vật, trăn trở trước những mặt tối của đời sống và thậm chí là trở ngược vào bên trong mà tự vấn chính mình.
● Nguyễn Huy Thiệp từ lâu đã không còn chỉ là một cái tên. Bởi vì, ông đã thành một cột mốc văn đàn, trước
vốn không có, sau chẳng dễ tìm. Nhà văn được giới mộ điệu gọi là “vua truyện ngắn”, hiện tượng của văn học
thời kỳ đổi mới mà sau ấy rất nhiều năm người ta vẫn chưa tìm được một hiện tượng thứ hai.
● Biết bao người đã gối đầu giường, đã ghi ra giấy, đã mến mộ chữ nghĩa của Nguyễn Huy Thiệp. Những lớp chữ
tầng tầng thi pháp, biến hóa khôn cùng nhưng cũng rất đỗi đời thường, chao chát và mặn hơn muối. Văn
chương Nguyễn Huy Thiệp luôn mang theo góc nhìn và số phận, đôi khi thật đến phũ phàng, khắc nghiệt, đôi khi lại
tình, thơ như sâu thoát xác thành bướm, như hoa nở từ đất cằn. => “Mỗi công dân có một dạng vân tay. Mỗi nghệ
sĩ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ không trộn lẫn” (Lê Đạt)
● Sau tiểu thuyết Vong bướm, Nguyễn Huy Thiệp đã quyết định dừng hẳn sự nghiệp sáng tác ở tuổi 65.
● Ông từng được nhận Huân chương Văn học Nghệ thuật Pháp (2007), giải thưởng Premio Nonino, Italy (2008).
III. Sơ lược về tác phẩm “Tướng về hưu” 1. Hoàn cảnh:
● Truyện ngắn “Tướng về hưu” của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được in lần đầu tiên vào năm 1987 trên tuần
báo Văn Nghệ số 20 của Hội Nhà văn Việt Nam. Trước đó, năm 1986, ông đã ra mắt vài truyện in trên báo Văn
Nghệ, với “Tướng về hưu” năm 1987, ông đã có vị trí xác lập trong văn đàn Việt Nam nói chung và dòng văn học
đương đại nói riêng.
=> Chính Tướng về hưu với góc nhìn văn chương “độc nhất vô nhị” vào thời điểm đó đã đưa Nguyễn Huy
Thiệp thành “của hiếm”, được xếp vào vị trí không phải ai cũng có được và được xem như 1 truyện ngắn
đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác. Nó không những góp phần định hình phong cách của anh mà còn mở ra 1
thời kỳ mới cho nền văn học VN, đoạn tuyệt với quá khứ, viết nên “. .lời ai điếu cho 1 thời văn nghệ minh
hoạ” và đưa văn chương trở về đúng với bản chất của nó. Ngay từ những trang truyện ngắn, Tướng về hưu
đã đầy tính tự sự về thời cuộc, nhịp điệu cuộc sống đương thời chan chát vào nhau và nặng trĩu thông điệp.
VH vốn là tấm gương phản ánh đời sống vì thế mà thời nào văn ấy. Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, hòa
bình lập lại, con người trở về với cuộc sống đời thường, cái đời thường phồn tạp, muôn vẻ lẫn lộn tốt xấu, trắng đen,
bi hài,…, ý thức cá nhân với nhu cầu của con người đã thức tỉnh trở lại. Các giá trị tinh thần tinh thần trước đây bền
vững là thế thì lúc này đã không còn thích hợp và vì thế đã lung lay rạn nứt.
Trong Đọc lại tướng về hưu của Đặng Văn Sinh: Người ta thi nhau nói về hiện tượng NHT, nhất là khi anh
in Tướng về hưu, Nguyễn Khải kêu lên rằng: “Nó đã viết đến thế này thì mình còn gì để viết nữa đây?”
2. Tóm tắt truyện: Tướng về hưu mang dung lượng 1 cuốn tiểu thuyết được tác giả “nén” lại trong 20 trang nên
khiến nó tiềm tàng 1 nội lực có khả năng công phá như 1 “quả bom” nghệ thuật, mang đến cho ng đọc những nhận
thức không giống nhau, thậm chí trái ngược nhau.
“Tướng về hưu” được viết như những dòng nhật ký của anh Thuần ghi lại chuyển biến gia đình sau khi người
cha làm tướng - ông Thuấn, quay về nhà sau hơn 50 năm phục vụ cách mạng và chiến đấu cho độc lập tự do. Vị
tướng về hưu trở nên lạc lõng, cô đơn giữa chính gia đình của mình, giữa xã hội mà nền kinh tế thị trường vừa
chuyển đổi, những biểu hiện chạy theo vật chất một cách tha hóa, mất tình người của những người xung quanh lần
lượt đả kích vào lý tưởng của ông. “Tướng về hưu” đã viết nên nỗi lòng của nhiều hoàn cảnh tương tự như ông
Thuấn, phơi bày những góc tối của xã hội đương thời và tái hiện lại cuộc đời của một vị tướng chỉ vỏn vẹn trong 15
phần truyện. Mỗi chương truyện qua đi là sự nối tiếp của những nứt vỡ để bộc lộ dáng hình cô đơn của con người,
tô đậm sự lạc lõng và mất kết nối cũng như làm nổi lên niềm trăn trở về khoảng cách giữa chiến tranh và hòa bình. 3. Nhân vật
★ Thế giới nhân vật trong Tướng về hưu ẩn chứa tâm thức hậu hiện đại trong nhà văn NHT. Phần lớn các nhân
vật đều cô đơn về tinh thần, tâm lý, thậm chí là ý thức hệ. Những ng sống trong ngôi nhà ấy đều có 1 thế giới
riêng k hoà nhập vào cs chung mặc dù đời sống vật chất của họ ở mức ổn định. Từ đó dẫn tới hệ quả, dù có
mqh ruột thịt nhưng họ lại nhìn nhau như những kẻ xa lạ, những mâu thuẫn đơn thuần được tích tụ qua thời
gian tạo nên sự trầm uất, buộc mỗi cá thể phải tự chịu đựng, khiến các mqh và cách ứng xử trở nên gượng gạo,
khiên cưỡng và giả dối
★ Gia đình của Thuần có lẽ là 1 định nghĩa của NHT về hình mẫu gia đình hiện đại, “ sống theo lối mới, suy nghĩ
độc lập; nhìn nhận vấn đề xã hội tương đối giản dị và đó cũng là nguyên nhân dấn đến những mâu thuẫn ngầm trong
gia đình. Gia đình ấy như một xã hội thu nhỏ, có cả người làm kinh doanh, người trí thức, tướng quân đội, người
làm thuê và những thành phần bất hảo của xã hội, xung đột của họ cũng chính là xung đột của giai cấp trong xã hội
thời đổi mới. => Con người từ điểm nhìn lí tưởng hóa được đặt vào điểm nhìn thế sự.
NHT làm chấn động dư luận khi ông nhìn con người như 1 bản thể tự nhiên. Nhân cách con người không
chỉ là kết quả của lí trí, mà còn có sự tham gia của vô thức, tiềm thức, tâm linh. NHT có thể cực đoan khi quá
nhấn mạnh vào phần bản năng tăm tối của con người nhưng ít nhất ông đã đề xuất được 1 tư tưởng độc đáo về
con người chống lại cái nhìn duy ý chí hoặc ảo tưởng “ phong thánh” cho con người.
Nhìn chân dung người lính ở 1 hoàn cảnh, góc độ khác:
+ Không phải ngẫu nhiên ông đặt tên cho tác phẩm của mình là “TVH” : “tướng” là niềm tin, là sự cai trị, là 1 trật
tự nào đó được sắp đặt dưới 1 quyền lực thực sự. Và bây giờ cái điều đó không tồn tại thì đồng nghĩa với việc
niềm tin con người đã bị mất đi, mà khi chỗ dựa đó mất đi thì trong thế giới đó con người trở nên đê tiện đi, sống
đến tận cùng cái ích kỉ của mình. Và thế giới đó đã thể hiện 1 phần những gì mà cuộc sống hiện đại đang diễn ra.
+ Nhân vật trong hàng loạt truyện ngắn của ông đều được ông phơi bày bộ mặt đê tiện, thực dụng và tàn nhẫn:
* Ông Thuấn: con trưởng họ Nguyễn, từ nhỏ sống dưới sự cay nghiệt của mẹ ghẻ. Lớn lên, ông lấy vợ nhưng đây
là cuộc hôn nhân không có tình yêu. Sau đó, ông đi lính biền biệt nhiều năm, sống với súng đạn, chiến tranh. Năm
70 tuổi, ông về hưu, là niềm tự hào của cả họ vì giữ chức Thiếu tướng
* Thuần - Con trai ông Thuấn: 37 tuổi, làm kỹ sư ở Viện Vật lý. Tự nhận là khá cổ hủ, đầy bất trắc và thô vụng
* Thuỷ - vợ của Thuần: làm bác sĩ ở bv sản công việc là nạo phá thai. Có học thức, sống theo lối mới, lo liệu việc
kinh tế va dạy dỗ con cái
* Ông Cơ và cô Lài - đứa con gái gàn dở: Nhà bị cháy, được Thuỷ mang về nhà cưu mang và cho làm giúp việc
* Ông Bổng: anh em cùng cha khác mẹ với ông Thuấn
* Thằng Tuân: con trai ông Bổng, làm nghề đánh xe bò. Vừa lấy vợ 2 tên Kim Chi - làm nghề nuôi dạy trẻ
★ Trong “TVH” đồng tiền trong xã hội hiện đại đã rửa trôi những nét nhân cách con người, làm con người
tha hóa, bất chấp tất cả để sống: Tướng Thuấn đau khổ khi nhận thấy sự băng hoại nhân cách của con dâu, sự
nhu nhược không chấp nhận được của con trai mình.
* Thủy là bác sĩ ở bệnh viện sản => lấy nhau thai, bào thai non để nấu cháo cho chó becgie ăn. “Vợ tôi là bác sĩ ở
bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hằng ngày các rau thai bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về…. Cha tôi
dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu”. Đáp lại điều đó, Thủy lại tỉnh táo 1 cách
hãi hùng: “Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?!”. Khi mẹ chồng sắp chết, chồng cô định đổ sâm cho bà
nhưng cô lại tiếc rẻ: “Đừng đổ sâm, khổ cho mẹ" => khiến chồng cô òa khóc. Trong đám tang mẹ lại chỉ lo làm bao
nhiêu mâm cho “sát”. => Đồng tiền làm con người đê tiện và mất hết tính người
* Ông Bổng: cũng là nhân vật khá đặc biệt khiến người đọc liên tưởng đến Chí Phèo “ghê gớm, to như hộ pháp,
ăn nói văng mạng”. Ông mang tư tưởng của người bình dân, xem thường quân trí thức “Quân trí thức khốn nạn!
Rẻ dân lao động!” nhưng vẫn không ngại ngùng đi vay tiền hay lợi dụng khi tang ma làm lợi riêng cho mình.
Cũng có những nỗi đau riêng: “Thế là chị thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ
đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người". Lần đầu tiên, cái ông chú đánh xe bò, lỗ
mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phi nhân bất nghĩa hóa thành đứa trẻ ngay trước mắt tôi.” => Giọt nước mắt của
ông cũng như của Chí Phèo, giọt nước mắt khao khát làm người lương thiện nhưng trong xã hội khó khăn
này, không có cái danh phận của con nhà tướng, không có tiền bạc của người làm kinh doanh hay ít nhất là
học thức của người trí thức thì những người bình dân không đủ sống bằng sự lương thiện của mình.
* Nhân vật “ tôi”: đê hèn, nhu nhược. Mọi chuyện kinh tế trong nhà đều giao cho vợ. Khi biết mình bị cắm sừng
nhưng vẫn chấp nhận mà không 1 chút phản ứng lại: “Cha đi ngủ đi, để ý làm gì.”
* Trong đám tang bà cụ, ngoài ông Thuấn và đứa con trai chỉ có cô Lài dở người và ông Bổng “ lỗ mãng, táo tợn” là
khóc thật tình, còn con dâu và đứa cháu chẳng rơi 1 giọt nước mắt mà chỉ lo những tính toán cỗ bàn. Đúng như
NMC nói: Con người đang chung sống cả rồng phượng lẫn rắn rết.”
Vẻ đẹp của thiên lương con người trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp hầu như tập trung ở hai kiểu
người
: nhân vật thiểu năng và nhân vật nữ. Người thiểu năng là người không bình thường, khuyết tật về thể chất
hay hạn chế về trí tuệ. Thói đời xưa nay vẫn nhìn kiểu người này bằng cặp mắt hoặc thương hại hoặc khinh
khi. Nguyễn Huy Thiệp thì khác, đối với bọn “dốt nát có học” hay “bọn Nho giả tập tọng văn chương” ông tỏ ra
coi thường nhưng lại dành cho những người không may này một sự cảm thông vô hạn. Quan trọng hơn, ông nhìn
thấy ở họ vẻ đẹp sáng ngời của nhân cách con người. Cô Lài trong “ Tướng về hưu” dù gàn dở, ngờ nghệch
nhưng tình cảm đối với mọi người, hành động trong cuộc sống lại hết sức trong sáng và chân thực. IV.Phân tích
1. Cá nhân con người với lý tưởng bình đẳng và nếp sống thực dụng của nền kinh tế thị trường
★ Trong thế giới của Tướng về hưu, các nhân vật không hiện lên với sự tươi sáng giản đơn, ta chẳng thể nào phân
biệt một cách rạch ròi ai mới thực sự là người tốt và đâu là kẻ xấu. Thay vào đó, nhà văn đã dùng ngòi bút cô đọng
và sắc lạnh để đẽo gọt tỉ mỉ từng dáng vẻ phức tạp cùng trăm mối mâu thuẫn ngổn ngang trong từng nhân vật.
○ Tướng Thuấn - một người đàn ông trải qua tuổi thơ nhiều cay đắng, phải nằm trong guồng quay của cuộc chiến
tranh không biết hồi kết. Những ngày còn trong quân ngũ, ông không được về nhà nhiều “Khi lớn lên, tôi chẳng biết
gì về cha mình cả. Tôi chắc mẹ tôi hiểu về cha tôi cũng ít. Cả đời cha tôi gắn với súng đạn, chiến tranh. Tôi đi làm,

lấy vợ, sinh con. Mẹ tôi già đi. Cha tôi vẫn đi biền biệt. Thỉnh thoảng cha tôi cũng ghé về nhà, nhưng những lần về
đều ngắn. Cả những bức thư cha tôi gửi về cũng ngắn, dầu rằng dưới những dòng chữ, tôi biết ở đấy ẩn chứa nhiều
tình thương cùng với âu lo”
.
=> Chiến tranh đã tạo nên những vết thương hữu hình và cả vô hình cho tất cả những ai bị cuốn vào cuộc
chiến đó. Thời chiến đã làm con người ta phải đối mặt với nhiều điều nghiệt ngã mà người ta chỉ có thể vượt
qua nó bằng sức mạnh của lý tưởng chiến đấu.
★ Nhưng đến khi hoà bình, ông lại phải đối mặt với một thử thách mới, đó chính là sự xung đột về giá trị giữa
quan điểm sống của ông và mọi người xung quanh. Ông mới về hưu, chưa bắt kịp nhịp điệu của môi trường ngoài
quân đội, vẫn mang tư tưởng bình quân, ai cũng như ai và giúp đỡ người khác giống như những ngày ông còn trong
quân ngũ. “Cha tôi cho mỗi người trong nhà bốn mét vải lính. Ông Cơ và cả cô Lài cũng thế. Tôi cười: “Cha bình
quân! ” Cha tôi bảo: “Đấy là lẽ sống”. Vợ tôi bảo: “Cả nhà đồng phục thì thành doanh trại”. Mọi người cười ồ”.
Hay lúc ông nói chuyện với hai cháu nội của mình cũng vậy “Cha tôi bảo: “Các cháu có sách gì mang cho ông
đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo: “Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo: “Thế thì không có”.
=> Con người trong kháng chiến là con người của tập thể, của cộng đồng. Họ sống, cống hiến và chinh chiến
cho lý tưởng chung của thời đại, hoà làm một với lịch sử dân tộc. Nhưng trong bối cảnh mới của nền kinh tế
thị trường, người ta sống thiêng về vật chất hơn và đồng tiền trở thành thước đo cho mọi chuẩn mực, họ
không quan tâm đến những giá trị thiêng về tình cảm bên trong nữa.
★ Sự trở về của ông có phần làm xáo trộn nếp sống của gia đình. Đầu tiên là khách khứa đến thăm nhiều. “Cha
tôi nghỉ hưu nhưng khách khứa nhiều. Điều đó làm tôi ngạc nhiên, thậm chí thích thú. Vợ tôi bảo: “Đừng mừng…

họ chỉ nhờ vả. Cha ạ, cha đừng làm gì quá sức”. Cha tôi cười: “Chẳng có gì đâu… cha chỉ viết thư” Nhưng đối với
cô con dâu thì điều đó không đơn giản.
○ Một cái nhìn tinh tế của đôi mắt thục dụng trong hiện thực cuộc sống mà người cha không kịp nhận ra. Có thể ở
nơi chiến trường ông đã đi qua những cuộc chiến tranh, con người và con người gắn kết nhau trong tình đồng đội, ít
có vụ lợi cá nhân. Nhưng khổ nỗi nơi chiến địa, người ta hy sinh, san sẻ cho nhau từ vật chất lẫn tinh thần, còn cuộc
sống xã hội thì khác hẳn.
○ Có thể ở nơi chiến trường ông đã đi qua những cuộc chiến tranh, con người và con người gắn kết nhau trong
tình đồng đội, ít có vụ lợi cá nhân. Nhưng khổ nỗi nơi chiến địa, người ta hy sinh, san sẻ cho nhau từ vật chất lẫn
tinh thần, còn cuộc sống xã hội thì khác hẳn. Chén cơm manh áo đời thường, sự ty tiện ích kỷ cá nhân. Con người
giành giật nhau trong đời sống kinh tế.
"Một tối, tôi đang đọc Sputnhich, cha tôi lặng lẽ đi vào. Ông bảo: "Cha muốn nói chuyện với con". Tôi pha cà
phê, cha tôi không uống. Ông hỏi: "Con có để ý công việc của Thủy không con? Cha cứ rờn rợn."

"Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá thai. Hàng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào
phích đá mang về. Ông Cơ nấu lên cho chó, cho lợn. Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua, chẳng quan
trọng gì. Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc.
Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc-giê: "Khốn nạn! Tao không cần sự giầu có này!" Ðàn chó sủa vang. Ông
bỏ lên nhà. Vợ tôi đi vào nói với ông Cơ: "Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết!" Ông Cơ bảo: "Cháu quên, cháu xin lỗi mợ."
Tháng mười hai, vợ tôi gọi người bán sạch đàn chó bẹc giê. Vợ tôi bảo: "Anh thôi hút thuốc Ga lăng đi. Năm
nay nhà mình hụt hai mươi bảy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn". (Tướng Về Hưu )
○ Cô Thuỷ là con người sống trong xã hội mới, có cái nhìn sắc sảo với mọi việc trong đời sống nhưng cô thực
dụng, tính toán chi li, cô chính là “sản phẩm” của đời sống mới đầy xô bồ, người ta luôn đặt tiền tài và lợi ích lên
đầu tiên. Và cũng chính cô đã làm tướng Thuấn rợn người bởi hành động đem thai nhi bị nạo, phá từ bệnh viện về nấu lên cho chó ăn.
○ Ðọc rồi, đọc lại, đọc kỹ, không chỉ có mình ông tướng thấy rờn rợn, mà chính chúng ta cũng thấy rợn, kẻ yếu
bóng vía có thể bị tẩu hỏa nhập ma. "Kỹ thuật" ấy phản ánh nghệ thuật hỗn hợp bất nhân và có nhân trong một con người.
○ Ông tướng, nhân từ và nhân hậu, sau 58 năm phục vụ tổ quốc, những tưởng "việc lớn trong đời đã làm xong" về
nghỉ. Ở nhà, ông thấy gì? Ông thấy thai nhi nấu lên cho chó lợn. Ông khóc. Người con dâu chuyên nghề phá thai:
một lần tội ác; trách người làm bằng một câu nói nhị hóa tội ác: "Sao không cho vào máy xát". Nhưng ngay sau đó,
nàng lại nhẹ nhàng: "Sao để ông biết?". Chút ân tình nhỏ nhoi này đã rửa tội cho nàng. Rồi sự toan tính chi li sau đó:
"Năm nay nhà mình hụt hai mươi bẩy nghìn, chi lạm mười tám nghìn, cộng là bốn mươi lăm nghìn" giải mã lối hành
sự rợn người của nàng. Trong khi đó người chồng bình thản ngồi đọc Sputnhich. Nguyễn Huy Thiệp vừa vẽ nên
thực trạng đen tối của xã hội, vừa lý giải tại sao có thực trạng đó bằng một lượng số chữ nghĩa cực tiểu; nhưng dòng
mực đen, đậm, đặc và độc của nó đã thấm vào tận não thùy người đọc, khiến chúng ta phải vật vã, phải tư duy.
★ Tính phản thẩm mỹ được nhấn mạnh qua những dòng viết như dòng ký ức vụn vặt nhưng gây choáng váng, từ
đó bộc lộ cái nhìn khắc nghiệt về cuộc đời đang trong giai đoạn chuyển giao
○ TVH đã thực sự chống lại các hình thức cổ điển của cái đẹp, của những quan niệm về sự hài hoà và cân xứng.
Trong đó, chữ "nhân" đã trở thành một hệ suy tưởng chung của nhân loại. Nhân tính là một ý thức trùng phức có hai
bản diện: bất nhân và có nhân mà bộ mặt thứ nhất thường được che đậy, lấp liếm tới chỗ phủ nhận và bộ mặt thứ nhì
được khuếch trương, phô bày như một nhãn hiệu cầu chứng về sự tự mãn của con người về con người.
○ Ở mỗi người, các cặp đối lập vẫn luôn tồn tại, không có nhân vật nào mang tính Thiện hay tính Ác hoàn toàn.
Tác giả muốn nhấn mạnh tức là trong con người dù có tốt đến mấy thì vẫn luôn có những cái xấu tồn tại sâu bên
trong. Cái xấu - cái tốt luôn tồn tại trong cùng 1 cá nhân và sẽ biểu hiện ra ngoài khi gặp hoàn cảnh thuận lợi. Như
nhân vật ông Bổng luôn tìm cách thu lợi về mình nhưng trong các chuyện gđ thì hết sức nhiệt tình, nhân vật Thuỷ
cũng nhận định: Lão ấy tốt nhưng nghèo.
=> Không con người nào hoàn hảo, được mặt này sẽ mất mặt kia. Do đó, NHT đã thực sự thành công khi
xây dựng những nhân vật giống với con người thật nhất - không giả dối, không che đậy nhưng rõ ràng và tường tận.
2. Đặc tính hậu hiện đại trong tác phẩm Tướng về hưu
Những biến đổi chung của thế giới thời hậu hiện đại gắn với trạng huống hậu hiện đại với 2 vấn đề trung tâm: hoàn
cảnh hậu hiện đại và tâm thức hậu hiện đại, trong đó, tâm thức hậu hiện đại là cái nền tảng. Tâm thức hậu hiện đại là
cái phát sinh trong lòng nhân loại, nó có thể khác nhau về biểu hiện đặc thù nhưng có trạng thái chung là gắn với
thân phận: thân phận dân tộc và thân phận cá nhân trong nỗi khắc khoải sinh tồn. Bùi Văn Nam Sơn đã nhận xét
rằng: khi xã hội loài người có sự biến chuyển nhanh chóng từ xã hội hiện đại sang xã hội hậu hiện đại, “tất yếu dẫn
đến sự khủng hoảng về “tâm trạng” và hình thành nên 1 tâm thức mới: tâm thức hậu - hiện đại.

Tâm thức hậu hiện đại được phát sinh và tiệm tiến trong lòng lịch sử dân tộc từ đầu thế kỷ XX và bắt đầu hiển lộ
sau 1975. Đến 1986, lịch sử VN thực sự đối diện với vô vàn các vấn đề nhân sinh mang tính dân tộc, tính toàn cầu
và hệ luỵ kéo dài đến về sau - những vấn nạn buộc phải hiểu, phải giải quyết để tồn tại và đi tới. Trong bối cảnh đó:
“tâm thức hậu hiện đại là 1 nỗ lực mới nhằm thức tỉnh trước những nguy cơ và cám dỗ để tiếp tục suy tưởng và
kiến tạo những hình thức mới, phù hợp hơn để “cứu vãn và bảo vệ những giá trị đích thực của Hiện đại: sự tự do và
sự khai phóng của cá nhân.”
Nhận xét về nhà văn Nguyễn Huy Thiệp trong bước đầu xây dựng diện mạo văn học hậu hiện đại Việt Nam, theo Lã
Nguyên và Cao Kim Lan: “nhà văn NHT, 1 trong những người đầu tiên thể hiện lối viết hậu hiện đại, đã sử dụng
rất nhiều chất liệu lịch sử và chất liệu dân gian trong các sáng tác của mình, nhưng dưới 1 cảm quan mới - cảm
quan HHĐ, với các thủ pháp tiêu biểu như nhại lịch sử, giải thiêng, siêu hư cấu sử ký, giả thể loại,. .”
NHT rất nhạy bén trong việc giải mã - mã văn hoá tư sản, Tướng về hưu đã thể hiện rất sinh động về con người thị
dân sặc mùi kim tiền sau 1975
Chủ nghĩa hậu hiện đại là hiện tượng văn hóa độc đáo và có ảnh hưởng rộng lớn đến nhiều lĩnh vực: triết học, mỹ
học, nghệ thuật thế kỉ XX. Trong văn học chủ nghĩa hậu hiện đại đem đến những sự đột phá ngoạn mục mà từ trước
đến giờ người ta chưa từng chứng kiến. Các cây bút từ nhiều nơi trên thế giới đã làm một cuộc cách mạng về quan
niệm, về cách viết, thực hiện cuộc phản công vào tất cả những gì lâu nay vẫn trói buộc hoạt động sáng tạo. Trào lưu
hậu hiện đại đã trở thành một trào lưu có ảnh hưởng lớn trên phạm vi toàn cầu. Ở Việt Nam, hậu hiện đại xuất hiện
như một khuynh hướng mà chúng ta có thể tìm thấy dấu vết hậu hiện đại trong thơ Nguyễn Thế Hoàng Linh, Trần
Dần, Vi Thùy Linh. . trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, trong tiểu thuyết của Bảo Ninh,
Phạm Thị Hoài, Thuận, Nguyễn Bình Phương. Trong giới hạn bài viết này, xin được phân tích một số đặc tính hậu
hiện đại trong một số tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp (Vàng lửa, Trương Chi, Kiếm sắc, Chút thoáng Xuân Hương, Tướng về hưu).
Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, những câu chuyện vô nghĩa của cuộc đời, sự bê tha, nhếch nhác của con
người, sự lạc loài của cái đẹp được đề cập đến. Tướng Thuấn trong Tướng về hưu là cái đẹp, nhưng đều lạc loài.
Tướng Thuấn về hưu nhưng không cách nào hòa nhập được với gia đình, trước cái chết của vợ, sự hờ hững của con
trai, xa lạ với đứa cháu gái và không thể chấp nhận được hành động của cô con dâu khi xay mảnh thai nhi cho chó,
ông đã chọn cách chết bên đồng đội. Ông thốt lên “Sao tôi cứ như lạc loài”. . Ông cùng đồng đội vào sinh ra tử để
bảo vệ đất nước, để đồng bào được sống hạnh phúc, mà nay trở về ông thấy những bào thai nhỏ xíu bị nấu cho chó
ông không chịu được. Trước đây khi còn là tướng, ở trong quân ngũ chỉ huy hàng nghìn quân, đưa ra bao quyết định
liên quan đến sinh tử ông Thuấn cũng không thấy khó khăn bằng việc chỉ đạo cái gia đình nhỏ bé của ông
Với cách kể ngắn gọn, khách quan đến mức dửng dưng, NHT đã dẫn độc giả vào mê cung của những sự kiện mà ở
đây, độc giả phải tự chắp nối, xâu chuỗi các chi tiết, tình huống lại với nhau và tự đi tìm các tầng nghĩa tư tưởng. Ở
đây, tác giả không hề biểu đạt sự tôn thờ 1 hình tượng nào mà mỗi nhân vật đều có đời sống riêng: +
Ông Thuấn sau bao năm lăn lộn ngoài chiến trường trở về với hàm thiếu tướng nhưng lại trở thành
người thừa trong gđ. Có thể thời chiến, ông Thuấn là anh hùng nhưng trong thời bình ông dường như là “gánh
nặng” cho gđ và xh và cái chết ngoài trận mạc là cái chết mang tính tất yếu => Hình tượng ông tướng Tuấn hiện
lên đúng là 1 con người của thời đại. +
Nếu xét chung phương diện này, nhân vật Thuỷ - con dâu ông Thuấn và là bác sĩ khoa sản, chuyên nạo
phá thai và đem nhau thai về cho chó ăn. Về mặt đạo đức, đây là nhân vật vô nhân tính. Nhưng xét về mặt xã hội, cô
là người luôn nắm bắt xu hướng của thời đại - thể hiện qua việc làm ăn kinh tế. +
Bản thân mỗi con người không hề đơn giản một chiều mà sâu kín, rối rắm, nhiều chiều kích. MiLan
Kundra nói: “Con người là hiển minh của lưỡng lự”. Bên trong mỗi bản thể nhỏ nhoi ấy bao giờ cũng tồn tại hai
mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện – ác, cao cả - thấp hèn, trong sáng – tăm tối, hạnh phúc – khổ đau… Con người có lúc
là thần thánh song cũng có lúc là quỷ dữ. Ai dám bảo một người lương thiện không có lúc suy nghĩ đê tiện? Ai dám
bảo một người độc ác lại không có lúc lấp lánh trong tâm hồn ánh sáng của thiên lương. Cho nên “ không nên chỉ
đơn giản phân loại con người theo hai khu vực rạch ròi: tốt và xấu”. Kiểu nhân vật đan xen giữa trắng và đen, thật
và giả ấy văn học gọi là nhân vật lưỡng diện. +
Nguyễn Huy Thiệp tỏ ra là người rất thành công trong việc xây dựng con người lưỡng diện. Ông len lỏi
vào những nẻo sâu kín nhất trong nội tâm nhân vật, nhìn thấy những biểu hiện dù nhỏ nhất lóe lên trong tâm hồn họ.
Ông Bổng trong “ Tướng về hưu” lỗ mãng, táo tợn là vậy mà bật khóc vì được gọi là người: “ Thế là chị thương em
nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người”.
=> Các nhân vật khác cũng không có ai được đẩy lên để trở thành điển hình cho tác phẩm. Tính không xác
định, sự tôn thờ tính không rõ ràng, bóng gió, “mê cung nghĩa”, mập mờ nghĩa,. . đã xuất hiện đồng loạt
trong cách nhân vật trong tác phẩm
Tinh thần hậu hiện đại hoài nghi với tất cả, hoài nghi cả lịch sử là điều chưa từng thấy trong văn học hiện đại. Lịch
sử được nhìn nhận từ nhiều góc độ, không còn là cái lịch sử “đáng tin” như chúng ta vẫn nghĩ trước đây, Nguyễn
Huy Thiệp đã tạo ra những “lịch sử giả”. Dựng lên lịch sử giả cũng có nghĩa là đi theo tiếng gọi của trò chơi – một
hình thức lại hóa nhằm tổ chức một thế giới nghệ thuật in đậm dấu ấn chủ thể sáng tạo mà những cây bút non tay
không bao giờ vươn tới được.
Trước đây, trong các tác phẩm thơ ca kháng chiến cách mạng, người ta thường miêu tả hình tượng người lính xông
pha ngoài mặt trận với tinh thần “thắng không kiêu, bại không nản”, sẵn sàng hy sinh vì độc lập hoà bình của dân
tộc. Người cầm bút hầu như chỉ được quyền hướng thượng, viết về cái hay, cái cao cả, cái tích cực. Họ bắt buộc
phải lờ đi phần xấu, phần khuyết tật trong con người (trừ cái xấu của địch). Khuynh hướng này được Hoàng Ngọc
Hiến dùng một chữ rất nhẹ nhàng là khuynh hướng sử thi.
Nguyễn Huy Thiệp là một trong những nhà văn tiên phong, ngược dòng nước chảy, giao thiệp với cái ác, nhận diện
và khảo sát chúng bằng kính hiển vi, không phải để tiêu diệt chúng vì văn chương chưa bao giờ điểm trang diện
mạo và cải hoán bụng dạ nhân loại. Nhưng biết chúng để "biết người biết ta", đừng bịt mắt, đừng đánh lừa mình,

đừng ảo ảnh, đừng sống một nửa. Chấm dứt tự mãn. Tác phẩm Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp lại là một
trang khác về những anh hùng kia. Ông không chọn cách kể lại cuộc đời binh nghiệp vinh quang và chói loà của
tướng Thuấn mà chọn thời điểm nhân vật đã về hưu trong thời bình, đối mặt với những đổi thay của xã hội và thời
đại, toan tính vì đồng tiền nhiều hơn là sống chết vì lẽ cao cả - độc lập dân tộc.
Điều này giống như một sự “giải thiêng” đối với các đại tự sự. Cái hậu hiện đại là vậy, nó thường nói đến những
mảnh vỡ trong hiện thực, những tiểu tự sự chứ không cần một sự tôn vinh, phá bỏ “sử thi” trong văn học trước đây.
Vị tướng hùng dũng trên chiến trường, trở về nhà không thể quen với lối sống ăn không ngồi rồi hưởng thụ, không
thể chịu đựng khi nhìn thấy ngón tay bé xíu của thai nhi, cũng không cách nào hòa nhập với các thành viên khác
trong gia đình. Chọn cái chết bằng súng đạn có lẽ ông được ra đi thanh thản hơn. Mặt trái sau ánh hào quang mà
Thiệp muốn đề cập đến của một vị tướng cũng như cái hiện thực lạnh lùng của đồng tiền, của lòng người. .
Thiên tiểu thuyết đã cho ta thấy được khoảng cách giữa đời sống hòa bình hậu chiến và sự văn minh, phát triển thực
sự của một quốc gia. Bi kịch lạc loài của vị tướng Thuấn cùng niềm cô đơn của nhân vật Thuần trong một xã hội
chạy theo lối sống vật chất, thực dụng mà bấy giờ người người cho là tiến bộ đã khiến ta nhận ra một sự thật. =>
Thành quả của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mấy chục năm qua chỉ mới là tiền đề cho sự phát triển chứ
không phải là điều kiện chín muồi để cải tạo xã hội cũ và xây dựng cuộc sống mới.
Để hoàn thành được mộng lớn của dân tộc, ta còn phải bắt tay vào giải quyết những vấn đề khó khăn và phức tạp
hơn rất nhiều, từ việc vứt bỏ cái lạc hậu trong quá khứ, loại trừ mầm mống của sự tha hóa mới nảy sinh đến đưa ra
những giải pháp thiết thực để đảm bảo an sinh xã hội và giúp đất nước đi lên một cách bền vững.
=> Đó là một hành trình rất dài và sẽ luôn tiếp diễn, nó đòi hỏi sự chung tay góp sức không những của những
thế hệ cha ông xưa mà còn là của lớp người trẻ ngày nay và mãi sau này nữa. Như Nguyễn Minh Châu trong
tiểu thuyết Miền cháy (1977): Xưa nay đất dưới chân những người vừa thắng giặc có bao giờ nở sẵn đầy hoa?
Mảnh đất vừa được giải phóng này như 1 lời thách đố, như một thứ chiến trường mới lập tức mở ra trên chính
vùng chiến trường cũ… Bước ra khỏi một cuộc chiến tranh cũng cần thiết phải có đầy đủ trí tuệ và nghị lực
như bước vào 1 cuộc chiến tranh.” V.Nghệ thuật
Điểm nhìn trần thuật: Sự đa dạng, chuyển đổi liên tục điểm nhìn trần thuật. Trong “Tướng về hưu”,
dù ngôi kể là ngôi thứ nhất “tôi”, nhưng qua sự đối thoại, chuyển lời liên tiếp giữa các nhân vật, điểm nhìn cũng
thay đổi liên tục: tôi, tướng Thuấn, ông Bổng, Thủy từ đó nhận ra tính cách các nhân vật.
Sự trần thuật từ nhiều điểm nhìn là bằng chứng quan trọng về đổi mới quan niệm văn xuôi. Điểm nhìn trần thuật do
người phán truyền chân lý đảm nhận. Tinh thần dân chủ hóa văn học bắt đầu từ chỗ thay quan hệ độc thoại, 1 chiều
thành quan hệ đối thoại 2 chiều. Độc giả không bị áp đặt chân lý mà được quyền bình đẳng với nhà văn trong hành trình tìm kiếm chân lý.
Người kể chỉ có thể kể được những điều họ cảm thấy, nghe thấy, nhìn thấy trong không gian, thời gian, trong trạng
thái cảm xúc, trình độ văn hóa, tuổi tác, quan điểm tư tưởng, giá trị . Và trong “tướng về hưu” thật khó để nhân vật
tôi thực hiện được chức năng của mình nếu như nhân vật không có một điểm nhìn nhất định,có một vị trí dựa vào để
quan sát, cảm nhận, trần thuật, đánh giá các nhân vật và sự kiện. Vì thế, Nguyễn Huy Thiệp đã lựa chọn cho người
kể chuyện trong tác phẩm của mình một điểm nhìn hết sức độc đáo, đa dạng, để lại trong lòng độc giả nhiều dấu ấn
về cách lấy điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm.
Sự độc đáo trong điểm nhìn trần thuật của “tướng về hưu” trươc hết được tạo nên bởi điểm nhìn bên trong của
người kể chuyện – nhân vật tôi ( thuần- con trai tướng thuấn). Cách kể của con người hơi thiếu tự tin, thiếu quyết
đoán đó khiến dòng đời với những thác lũ tha hóa và sự trơ khấc của cảm xúc dường như thêm phần bạo liệt. Cảm
giác bất lực dâng trào. Người kể như đứng bên ngoài những sóng gió mà kể lại, chỉ kín đáo suy tư. Tác giả lấy điểm
nhìn từ nhân vật Thuần cho ta một cái nhìn vừa mới mẻ đồng thời cho ta một cái nhìn bao quát hơn bởi anh vừa là
nhân vật trung tâm đồng thời có cái nhìn khá xác đáng về các vấn đề đang diễn ra xung quanh “sự kiện” bố
anh-tướng Thuấn về hưu. Đồng thời nó còn là cái nhìn sự đánh giá sắc đáng của chính tác giả về cái xã hội lúc giao
thời đầy lố lăng, lúc mà mọi giá trị của đời sống tinh thần không được coi trọng. Còn có điểm nhìn nào hợp lí hơn
điểm nhìn từ Thuần? Vừa là người gần gũi với tướng Thuấn để biết những hành động, lời nói của ông trong cuộc
sống hàng ngày lại vừa xa lạ vì vốn hai cha con cũng ít gặp nhau. Sự gắn kết giữa 2 cha con chỉ vì huyết thống
không hơn. Nhân vật này tham gia vào tất cả các sự kiện, tất cả các mối quan hệ tạo sự xác thực cho thông tin, bao quát câu chuyện hơn.
Nhưng nếu chỉ có vậy chưa đủ để làm nên sức hấp dẫn của “ Tướng về hưu”, bởi tác phẩm không chỉ độc đáo mà
còn đa dạng trong điểm nhìn trần thuật. “Thế giới được miêu tả” được hiện lên không chỉ qua điểm nhìn của người
kể chuyện mà còn được hiện lên qua điểm nhìn của các nhân vật khác trong tác phẩm : Thủy (vợ Thuần), Thuấn,
ông Bổng, cậu khổng,….Điểm nhìn cũng được luôn phiên đổi khi đối thoại giữa các nhân vật, do vậy cái nhìn về
các nhân vật được hoàn thiện và khách quan hơn. Đặc biệt, tác phẩm xuất hiện sự đối thoại giữa các điểm nhìn ( hai
điểm nhìn trái ngược nhau) đã tạo nên hiện tượng điểm nhìn nhiều chiều, từ đó tạo nên sự đa dạng trong tính cách
nhân vật cũng như những quan điểm khác nhau về con người trong xã hội giao thời. Qua điểm nhìn của người kể
chuyện cũng như của các nhân vật , tính cách, nhân cách các nhân vật hiện lên rõ ràng ★
Nghệ thuật sử dụng đối thoại và độc thoại: Những lời độc thoại như tự vấn, tra vấn hay những đối
thoại lệch hướng, không hồi đáp,. . đều in đậm dấu ấn con người cô đơn.
Trong đó, hình tượng con người cô đơn trong sáng tác NHT được tổ chức khá thành công qua kỹ thuật tổ chức đối
thoại. Phổ biến là những đối thoại lẻ tẻ, rời rạc, không song hành từ 2 phía. Qua đối thoại của nhân vật mà người
đọc hình dung ra khá đầy đủ mối quan hệ hết sức lỏng lẻo giữa mọi người, từ đó, người đọc dần nhận ra tính cách,
tâm lý của nhân vật… => Đó là sự đối thoại nửa vời, không nói hết những điều mình nghĩa, thể hiện thái độ bất hợp tác
Trong những ngày bà Thuần ốm, đột nhiên ngồi dậy được và đi lại lững thững ra vườn. Thuần bảo: Mừng rồi nhưng
Thuỷ không nói gì, chiều hôm ấy mang về chục mét vải trắng và gọi thợ mộc. Thuần hỏi: Chuẩn bị à?, Thuỷ lại trả
lời: Không => Rõ ràng Thuỷ biết điều gì đang diễn ra và sắp đến nhưng chị k nói ra. Những câu trả lời ấy thể
hiện thái độ từ chối đối thoại, k muốn chia sẻ dù đó là mẹ của người đầu ấp tay gối với mình => Đối thoại làm
con ng ta phát điên muốn nổ tung, muốn phá huỷ nhịp điệu nhàm chán
1 kiểu đối thoại khác là: người nói ít để ý đến người nghe, k ai quan tâm đến ai, mỗi ng 1 dòng suy nghĩ. Trong
đoạn: Ông Chưởng bảo: Chúng tôi có lỗi với gia đình. Thuần bảo: Không phải thế. Đời người có mệnh. Ông
Chưởng bảo: Cụ nhà ra trận địa đòi lên chốt. Thuần bảo: Cháu hiểu rồi chú đừng kể nữa.
=> Khiến người đọc có
cảm giác rõ rệt về sự lỏng lẻo trong mqh của các nhân vật. Có rất nhiều lời phát ngôn nhưng hầu như k có
đối thoại, chỉ là những lời nói song song đơn độc, 2 con ng k đối thoại mà như độc thoại với chính mình hoặc
theo đuổi dòng suy nghĩ riêng mà k quan tâm đến ng đang đối thoại với mình => Như vậy đâu còn là đối
thoại, đâu còn là nhịp cầu giữa người - người?
Kiểu đối thoại bằng cách sử dụng những từ chỉ hành vi hồi đáp trực tiếp như: đáp, trả lời rất ít sử dụng mà dùng
những từ chỉ hành vi nói như: nói, bảo, hỏi => Kiểu đối thoại làm triệt tiêu sự gắn kết giữa các nhân vật, lời
thoại không còn để con người hiểu hay thông cảm cho nhau
=> Đối thoại trong sáng tác của NHT nói chung và trong Tướng về hưu nói riêng cho người đọc cảm giác 1
thế giới ngổn ngang sự vật, sự kiện nhưng rất ít liên hệ. Trong tg đó, con ng tồn tại bên nhau như những cá
thể xa lạ vì sự đối thoại đều rời rạc, cộc lốc, 1 chiều, hạn chế bộc lộ cảm xúc
=> Tạo nên hình ảnh 1 thế giới lạnh lùng, vô cảm - 1 thực trạng rạn vỡ, cô đơn.
Giọng điệu: Giọng đa thanh, đầy tính đối thoại: NHT bị trách là “ tàn nhẫn”, “lạnh lùng” với con người
nhưng trong tác phẩm của ông đâu chỉ có 1 sắc giọng dửng dưng, vô cảm. Trái lại là giọng khinh bạc, gai góc lẫn
đan xen với giọng trữ tình khi xót xa thương cảm, lắm khi tê tái buồn.
Đặc điểm hậu hiện đại được thể hiện rõ nét qua giọng điệu của tác giả - nơi thể hiện thái độ, lập trường, tư tưởng,
đạo đức của nhà văn với hiện thực được mô tả. Giọng điệu của nhân vật và giọng điệu của người trần thuật không
chỉ có ý nghĩa tạo hình mà còn có tính biểu hiện.
Giọng điệu của NHT trong TVH không chan chứa tình cảm như những nhà văn thuộc chủ nghĩa lãng mạn, cũng
không đạo mạo, rao giảng chân lý hoặc hùng hồn cắt nghĩa hiện thực như lời văn uyên huấn mà gây ấn tượng bởi
giọng điệu vô âm sắc. Khiến người đọc có cảm giác rờn rợn đến lạnh người vì lối viết gai góc, khinh bạc cùng cách
nói trần trụi, tàn nhẫn.
Thể hiện trước tiên là ở giọng điệu người kể chuyện - nhân vật tham gia vào câu chuyện, nhưng anh ta quan sát và
kể lại câu chuyện bằng giọng điệu hết sức bàng quan của người ngoài cuộc: ““Cha tôi tên là Thuấn, con trưởng họ
Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho,
sau về dạy học. Ông nội tôi có hai vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông tôi phải tục huyền.”
=> Mỗi người thân được giới thiệu qua 1 bản “lí lịch trích ngang”. Các câu được lặp lại theo kiểu cấu trúc
tạo cho đoạn văn tính đơn điệu, hầu hết thiếu tính từ, thán từ, hư từ.
Dù nói về niềm vui hay nỗi buồn, kể cả nỗi đau mất mát, giọng văn của người kể chuyện đều không khác nhau: Cha
tôi buồn, Cha tôi đăm chiêu, Ông luống cuống khổ sở, Cha tôi khóc,. .
=> Thứ giọng “vô âm sắc”
NHT không dùng những tính từ đao to búa lớn, chỉ viết những lời ai cũng hiểu mà tạo nên cả 1 bầu không khí điên
đầu trong 1 thế giới không ai hiểu ai. Nói chuyện cha chết nhưng Thuần rất bình tĩnh, liên tục là những câu ngắn
miêu tả hành động và có cấu trúc gần giống nhau. Ngay cả khi anh ta khóc cha cũng như có 1 người nào đó tách
khỏi anh ta, quan sát anh ta khóc và bình luận: Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc
như cha chết là khóc ntn. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời của một người.
=> Người kể chuyện không có ý định bộc lộ tâm trạng mà chỉ bình luận, triết lý về cuộc đời. Không biểu lộ
tình cảm, khách quan đó là kiểu giọng điệu rất riêng của NHT, cho thấy cả 1 thế giới không có liên kết, nhợt
nhạt và thiếu tình người
=> Chất giọng dửng dưng, vô cảm như phản chiếu 1 thực tại đáng buồn - nơi quan hệ giữa con ng lỏng lẻo,
tinh thần rệu rã đầy mất mát và vô nghĩa
Kết cấu: Kết cấu phân mảnh phá vỡ lối kết cấu truyền thống trước đây, không chú trọng trình tự sự
kiện, được thể hiện rõ qua hình thức biểu đạt của tác phẩm. Ở mỗi đoạn đều hàm chứa những nội dung khác nhau và
nếu tách mỗi đoạn ra riêng, người đọc vẫn có thể hiểu nội dung đoạn đó.
Ở “Tướng về hưu” ta thấy các câu chuyện rời rạc được kể bởi nhân vật “tôi”, chủ thể kể là Thuấn, là người giàu tình
cảm với cha song có phần cả nể, bạc nhược với vợ => cách kể của con người hơi thiếu tự tin, thiếu quyết đoán. Cảm
giác bất lực dâng trào, người kể như đang bên ngoài song gió mà kể lại, chỉ kín đáo suy tư. Đây là thi pháp giả định
đưa cái tôi thẩm mỹ, thành cái tôi chính kiến trong giọng điệu tân văn, song đưa người đọc tham gia thành 1 yếu tố
cấu thành của nghệ thuật, khi sự thật khách quan được bộc lộ: “Khi viết những dòng này, tôi đã thức tỉnh trong vài
người quen những cảm xúc mà thời gian đã xóa nhòa, và tôi đã xâm phạm đến cõi yên tĩnh nấm mồ của chính cha
tôi. Tôi buộc lòng làm vậy, và xin người đọc nể nang những tình cảm đã thúc đẩy tôi viết mà lượng thứ cho ngòi bút
kém cỏi của tôi. Tình cảm này, tôi xin nói trước, là sự bênh vực của tôi đối với cha mình.”

=> Phần giới thiệu để biết các nhân vật trong gia đình. Sau đó là chuyện gia đình trước khi tướng Thuấn về hưu,
chuyện sau khi tưởng Thuấn về hưu, chuyện bắt gặp cảnh những mẩu thai nhi trong nồi cám chó, chuyện bà mẹ chết
rồi làm đám ma và cuối cùng là chuyện tướng Thuấn chết. Các tình huống được tạo ra để thấy được những điều tác
giả muốn gửi gắm, những dụng ý sâu sắc, đôi khi có thể đảo lên mà không ảnh hưởng đến mạch truyện. Ta có thể
bắt gặp điều này trong các truyện: Chảy đi sông ơi; Con gái thủy thần, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết…Điều
này không hề gặp trong các truyện trước tác phẩm này. ★
Ngôn ngữ: Nguyễn Huy Thiệp sử dụng ngôn ngữ đối thoại hết sức ngắn gọn, chỉ đủ nêu thông tin,
mang đậm tính liệt kê với những câu đơn như: “Cha tôi tên Thuấn, con trưởng họ Nguyễn. Trong làng, họ Nguyễn
là họ lớn, số lượng trai đinh có lẽ chỉ thua họ Vũ. Ông nội tôi trước kia học Nho, sau về dạy học. Ông nội tôi có hai
vợ. Bà cả sinh được cha tôi ít ngày thì mất, vì vậy ông nội tôi phải tục huyền. Bà hai làm nghề nhuộm vải…”.
Cách viết câu văn như vậy nếu xét về tính chất nghề nghiệp của nhân vật làm nghề kỹ sư thì lại phù hợp với tính
cách của anh, tức là câu văn ngắn gọn, rõ ý, không hề chau chuốt và đôi chỗ diễn đạt có phần vụng về. Bởi ở đây,
NHT đang hoá thân vào nhận vật và cần linh hoạt cách diễn đạt để đúng với tính cách của nhân vật.
Nhiều rào cản ngôn ngữ được gỡ bỏ như miêu tả sự thực, nhiều khi là cực thực tràn vào văn chương: lời hát của mấy anh chàng phù rể:
Ừ. . ê. . cái con gà quay
Ta đi lang thang khắp miền giang hồ
Tìm nơi nào có tiền
Tiền ơi, mau vào túi ta
Ừ. . ê. . cái con gà rù. .

=> Những câu văn sắc lạnh, dửng dưng như thế có mặt khắp tác phẩm, tạo ra một giọng điệu lạnh lùng,
khách quan, cho bạn đọc tự phán đoán câu chuyện, nhà văn không định hướng, không phán xét bất cứ điều
gì, đó cũng là tinh thần hậu hiện đại nâng người đọc lên vị trí cao hơn.
=> Ngôn ngữ ngắn gọn, có nhiều từ tục, kết cấu phân mảnh, cảm thức hậu hiện đại cô đơn, lạc hoài, hoài nghi,
đa điểm nhìn. . lối viết hàm súc, thâm ý, thuộc cấu trúc ẩn dụ, chủ yếu dùng trong thơ, mở ra nhiều ngả:
làm huyễn ảo, mông lung ý nghĩa, khai thông nhiều đẳng độ tiếp thu, bắt buộc người đọc phải tư duy, tham
dự. Về phía tâm linh, ngôn ngữ sắc gọn biểu tình với cái ác, cái xấu, khiến cái ác ác thêm, cái xấu xấu thêm;
do đó có tác dụng dội nước lạnh vào tri thức, xát muối vào lương tâm độc giả.
=> Các nhà văn VN đã mang 1 tâm thức mới trong sáng tạo NT, không còn mô phỏng và viết theo hiện thực
như trước đây, mà đề cao tính hư cấu, tính trò giơi, giễu nhại, giải thiêng trong sáng tạo, chối bỏ mô thức cơ
bản nhất của chủ nghĩa hiện thực truyền thống là “nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình”
VI. Đóng góp của tác phẩm:
Trong giai đoạn sau giải phóng năm 1975, nền kinh tế thị trường phát triển, đồng tiền làm tha hóa đi phần “người”
của con người, như phần lớn nhân vật trong tác phẩm. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thẳng thắn vạch trần mặt đen tối
đó của xã hội đương thời, phơi bày tường tận sự đốn mạt đó để thức tỉnh và vực dậy phần “người” của xã hội.
Trong thời đại hiện nay, tác phẩm vẫn còn những giá trị hiện thực to lớn cho đến ngày nay vì cơm - áo - gạo - tiền
vẫn luôn là vấn đề hiện hữu trong đời sống con người, bộc lộ những mặt tối của con người một cách dễ dàng như
khơi dậy lòng tham, sự vô tâm, ích kỷ,. . bị áp lực xã hội và vật chất tha hóa. Tác phẩm là bức tranh hiện thực về
quá khứ, về vấn đề nhức nhối trong mọi thời đại và có đóng góp không nhỏ trong vai trò đánh thức lương tâm con người.
Trong lĩnh vực nghệ thuật, bi kịch cá nhân trong truyện ngắn “Tướng về hưu” là một đóng góp to lớn cho mảng bi
kịch trong văn học Việt Nam - văn học đương đại, phác họa bi kịch cá nhân của một vị tướng về hưu, một cá nhân
gắn liền với một hoàn cảnh đặc biệt; là một dấu ấn sâu đậm trong dòng văn học có bi kịch là yếu tố cốt lõi.
“Tướng về hưu” là một truyện ngắn mang dấu ấn và được đánh giá cao nhất của nhà Văn Nguyễn Huy Thiệp, tác
phẩm có đóng góp lớn cho văn học Việt Nam nói chung và nền văn học đương đại nói riêng. Những giá trị của tác
phẩm không chỉ mang đến sự cảm thán trước bi kịch đau lòng của xã hội mà còn đem đến sự khơi dậy, thức tỉnh về
lương tâm con người, củng cố sự thiện lương trong cuộc sống đầy cám dỗ vật chất hiện nay. VII. Kết luận
Văn học không tự sinh ra cũng chẳng tự gầy dựng giá trị. Tất cả những tiếng cười hoan hỉ hay khổ hạnh khốc liệt
trong đời văn, đời chữ đều là phản ánh chân thực thời đại nó sinh ra. Thực tế, văn chương không phải tấm áo ngôn
từ, càng không phải cường điệu hóa nỗi đau mà trở thành ám ảnh bất biến. Văn chương chỉ tái hiện lại vẻ đẹp của
giọt nước mắt bằng cung cách khiêu gợi nhất mà trong đó vẫn chứa đựng giá trị bất chuyển. Là đóa hoa tỏa hương
êm dịu cho cuộc sống đầy rẫy đớn đau của con người.
Tướng Về Hưu không phải là một truyện ngắn bình thường, theo nghĩa truyện ngắn, mà là sự cô đọng của một
trường thiên trải ba kiếp người, hai thế hệ chồng chất những tương phản đớn đau, những đốn mạt hèn mọn, những
nhầm lẫn, ngộ nhận, cô đơn, bất hạnh, vô trách nhiệm và vô tổ chức. . giữa người với người, giữa những cá thể với
nhau, và mỗi cá thể ấy lại là một thành viên của xã hội chúng ta đang sống. Ðấy mới là điểm kinh hoàng có thể làm
loạn thần những tâm hồn "lành mạnh" nhất.
Hầu như mỗi truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều là một hồ sơ khảo sát bệnh lý những vấn đề lớn của xã
hội hiện hành, liệt khai những vi khuẩn phá hoại, giải phẫu ung nhọt. Tất cả khởi nguồn từ ngôn ngữ, và bằng
ngôn ngữ. (Thuỵ Khuê - Nguyễn Huy Thiệp: sự bất nhân trong nhân tính)
Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp đã khắc họa thân phận con người trong xã hội sau chiến tranh, khi mà những
giá trị chuẩn mực đạo lý đã thay đổi theo sức mạnh của nền kinh tế thị trường.
Trong thế giới của Tướng về hưu, các nhân vật không hiện lên với sự tươi sáng giản đơn, ta chẳng thể nào phân biệt
một cách rạch ròi ai mới thực sự là người tốt và đâu là kẻ xấu. Thay vào đó, nhà văn đã dùng ngòi bút cô đọng và
sắc lạnh để đẽo gọt tỉ mỉ từng dáng vẻ phức tạp cùng trăm mối mâu thuẫn ngổn ngang trong từng nhân vật. Ta
không thể phủ nhận một ký ức mà ở đó người ta đã tìm ra mình đẹp nhất và ta cần kính trọng ký ức của thế hệ đó.
Nhưng dòng sống của con người gồm hôm qua, hôm nay và ngày mai, tức là con người không thể dứt ra và cũng
không thể vì lý do thứ hôm qua đẹp quá mà chìm đắm mãi ở đó.
Từ bi kịch của một vị tướng đã về hưu khi phải đối diện với sự biến đổi đầy khắc nghiệt của cái xã hội bên ngoài
quân đội sẽ mở ra một thế giới đa diện mà chúng ta có lẽ chưa từng biết đến. Có thể nói, ngòi bút của ông có thể
thẳng thắn vạch trần cái xấu, cái ác bằng một giọng văn dửng dưng và tàn nhẫn nhưng trái tim nhà văn chưa bao giờ
thôi đau đớn trước những điều trông thấy. Tác giả của Tướng về hưu đã đi đến tận cùng trong việc phơi bày sự đốn
mạt của con người để thức tỉnh lương tâm xã hội.
Document Outline

  • TƯỚNG VỀ HƯU CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
  • I.Đặt vấn đề:
  • II.Giới thiệu tác giả
  • III.Sơ lược về tác phẩm “Tướng về hưu”
  • => Chính Tướng về hưu với góc nhìn văn chương “độc
    • ●Trong Đọc lại tướng về hưu của Đặng Văn Sinh: Ngườ
  • 3.Nhân vật
  • ★ Nhìn chân dung người lính ở 1 hoàn cảnh, góc độ
  • IV.Phân tích
  • => Chiến tranh đã tạo nên những vết thương hữu hìn
  • => Con người trong kháng chiến là con người của tậ
  • => Không con người nào hoàn hảo, được mặt này sẽ m
  • => Các nhân vật khác cũng không có ai được đẩy lên
  • V.Nghệ thuật
  • => Đối thoại trong sáng tác của NHT nói chung và t
    • => Tạo nên hình ảnh 1 thế giới lạnh lùng, vô cảm -
  • => Mỗi người thân được giới thiệu qua 1 bản “lí lị
  • => Người kể chuyện không có ý định bộc lộ tâm trạn
  • VII.Kết luận