Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc hay chọn lọc nhất | Văn mẫu 12
Bức tranh tứ bình Việt Bắc đã vẽ ra với sự hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc. Qua 22 bài văn mẫu bức tranh tứ bình Việt Bắc dưới đây các bạn lớp 12 có nhiều gợi ý tham khảo, nắm vững cách sử dụng từ ngữ và cấu trúc câu một cách sáng tạo.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Dàn ý phân tích bức tranh tứ bình I. Mở bài:
Thơ Tố Hữu dễ đến với mọi tấm lòng, không chỉ vì nội dung mà còn do giọng thơ tâm
tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc. Điều này được bộc
lộ khá rõ trong phần đầu bài thơ Việt Bắc. II. Thân bài:
* Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết của Tố Hữu trong Việt Bắc:
- Bài thơ nói đến nghĩa tình cách mạng nhưng thi sĩ lại dùng giọng của tình thương,
lời của người yêu để trò chuyện, giãi bày tâm sự. Cả bài thơ được viết theo lối đối đáp
giao duyên của nam nữ trong ca dao, dân ca, và phần đầu này cũng thế - nó là lời giãi
bày tâm sự giữa người đi (người về xuôi) với người ở lại là đồng bào Việt Bắc. Mười
lăm năm cách mạng thành mười lăm năm ấy tha mặn nồng, người đi người ở thành
mình - ta, ta - mình quấn quýt bên nhau trong một mối ân tình sâu nặng.
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn.
- Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết ấy tạo nên âm hưởng trữ tình sâu đậm của
khúc hát ân tình cách mạng Việt Bắc, từ khúc hát dạo đầu Mình về mình có nhớ ta...
đến những lời nhắn gửi, giãi bày Mình đi có nhớ những ngày - Mình về rừng núi nhớ
ai... Ta đi ta nhớ những ngày - Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi..., đến những nỗi nhớ da diết sâu nặng:
Nhớ gì như nhớ người yêu,
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương.
Nhớ từng bản khói cùng sương,
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
…..Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Dịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô.
* Nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc trong Việt Bắc
- Thể thơ: Trong phần đầu (cũng như cả bài thơ), Tố Hữu đã sử dụng thể thơ dân tộc,
đó là thể thơ lục bát. Thi sĩ đã nhuần nhuyễn thể thơ này và có những biến hoá, sáng
tạo cho phù hợp với nội dung, tình ý câu thơ. Có câu tha thiết sâu lắng như bốn câu
mở đầu, có câu nhẹ nhàng thơ mộng (Nhớ gì như nhớ người yêu...) lại có đoạn hùng
tráng như một khúc anh hùng ca (Những đường Việt Bắc của ta... Đèn pha bật sáng như ngày mai lên)
- Kết cấu: Kết cấu theo lối đối đáp giao duyên của nam nữ trong ca dao dân ca là kết
cấu mang đậm tính dân tộc. Nhờ hình thức kết cấu này mà bài thơ có thể đi suốt một
trăm năm mươi câu lục bát không bị nhàm chán.
- Hình ảnh: Tố Hữu có tài sử dụng hình ảnh dân tộc một cách tự nhiên và sáng tạo
trong bài thơ: Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn; mưa nguồn suối lũ; bước chân
nát đá (sáng tạo từ câu ca dao: trông cho chân cứng đá mềm) . Có những hình ảnh chắt
lọc từ cuộc sống thực cũng đậm tính dân tộc: miếng cơm chấm muối, mối thù nặng
vai; hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son và đặc biệt là tình đậm đà của tình giai cấp:
Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
- Ngôn ngữ: Tính dân tộc được thể hiện rõ nhất trong cặp đại từ nhân xưng ta - mình,
mình - ta quấn quýt với nhau và đại từ phiếm chỉ ai. Đây là một sáng độc đáo và cũng
là một thành công trong ngôn ngữ thơ ca của Tố Hữu. nhạc điệu: Trong bài thơ là
nhạc điệu dân tộc với thể thơ lục bát nhịp nhàng, thiết, ngọt ngào, sâu lắng nhưng biến
hoá, sáng tạo, không có đơn điệu (có hùng tráng như cảnh "Việt Bắc ra quân", trang
nghiêm như cảnh buổi họp trung ương, chính phủ...) III. Kết bài:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân của Tố
Hữu đã góp phần quan trọng vào thành công của bài thơ Việt Bắc, cho nó nhanh
chóng đến với người đọc và vẫn sống mãi trong lòng nhân ta từ khi ra đời cho đến hôm nay.
Dàn ý bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc a) Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Tố Hữu: là một nhà thơ lớn, một nhà thơ trữ tình chính trị, thơ
ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.
- Giới thiệu bài thơ Việt Bắc: là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu tổng kết về cuộc kháng
chiến anh hùng của dân tộc, là lời tri ân sâu nặng về tình nghĩa cách mạng.
- Bức tranh tứ bình được xem là những vần thơ tuyệt bút trong bài thơ Việt Bắc.
b) Thân bài: Phân tích bức tranh tứ bình thiên nhiên Việt Bắc
* Khái quát chung về bài thơ Việt Bắc
- Hoàn cảnh sáng tác: nhân sự kiện chiến dịch Điện Biên phủ thắng lợi, Trung ương
Đảng và Chính phủ rời chiến khu từ Việt Bắc đến thủ đô, Tố Hữu đã viết bài thơ này.
- Những câu thơ trong bức tranh tứ bình là lời của người ra đi gửi đến người ở lại.
- Hai câu thơ đầu của đoạn thơ là lời ướm hỏi của người ra đi băn khoăn về tình cảm ở
lại với mình để từ đó giãi bày tâm tư, nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
* Luận điểm 1: Bức tranh mùa đông
- “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”: sử dụng bút pháp chấm phá: nổi bật trên nền xanh
rộng lớn của núi rừng là màu đỏ của hoa chuối (màu đỏ hoa chuối gợi liên tưởng đến
hình ảnh ngọn đuốc xua đi cái lạnh của của núi rừng mùa đông) và màu vàng của những đốm nắng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
- “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”: hình ảnh tia nắng ánh lên từ con dao gài thắt
lưng gợi dáng vẻ khỏe khoắn, lớn lao của người lao động, với tâm thế làm chủ thiên nhiên, cuộc sống.
* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân
- “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”: màu trắng tinh khôi của hoa mơ tràn ngập không
gian núi rừng, thiên nhiên tràn đầy nhựa sống khi xuân về.
- Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn: “Nhớ người đan
nón chuốt từng sợi giang”, “chuốt từng sợi giang”: hành động chăm chút, tỉ mỉ với
từng thành quả lao động của mình.
* Luận điểm 3: Bức tranh mùa hạ
- “Ve kêu rừng phách đổ vàng”: toàn bộ khung cảnh thiên nhiên như đột ngột chuyển
sang sắc vàng qua động từ “đổ”
+ Có thể liên tưởng màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, đầy sức sống
+ Cũng có thể chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa.
- “Nhớ cô em gái hái măng một mình”: “cô em gái” - cách gọi thể hiện sự trân trọng,
yêu thương của tác giả với con người Việt Bắc, hình ảnh cô gái hái măng một mình
thể hiện sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó của con người Việt Bắc.
* Luận điểm 4: Bức tranh mùa thu
- “Rừng thu trăng rọi hòa bình”: ánh trăng nhẹ nhàng chiếu sáng núi rừng Việt Bắc, đó
là ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui và tự do.
- Con người say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành, có tấm lòng thủy chung, nặng ân tình. * Đánh giá chung:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
- Nêu cảm nhận chung về bức tranh tứ bình: Nghệ thuật tứ bình tạo sự cân đối hài hòa
và có tác dụng khắc họa toàn diện vẻ đẹp của đối tượng, bốn bức tranh trên tôn lên giá
trị của nhau, không thể tách riêng, chúng là bức tranh tuyệt sắc có sự hòa quyện giữa
con người và thiên nhiên. c) Kết bài
- Khái quát lại những nét nghệ thuật đặc sắc và phong cách thơ Tố Hữu: tính dân tộc
đậm đà (thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp trong văn học dân gian, ngôn ngữ giản dị,
hình ảnh thơ gần gũi, giọng thơ thiết tha.)
- Tổng kết giá trị nội dung toàn bài thơ: là khúc hùng ca và khúc tình ca về cách mạng,
về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.
Dàn ý phân tích bức tranh tứ bình I/ Mở bài
– Có thể nói “Việt Bắc” là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như
khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp.
– Bên cạnh bức tranh đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, hay tình cảm
của người lính cách mạng thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp II/ Thân bài: * Nhận xét chung:
Đoạn thơ là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, rất hoàn hảo. Ở đó
có sự hòa quyện giữa cảnh và người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ cách mạng nhiệt huyết.
Mười câu thơ đặc sắc trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả tâm tình của
người cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã gắn bó với bao tình cảm máu thịt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc 1/ Hai câu đầu:
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi:
Ta về, mình có nhớ ta
Nhưng thực ra, câu hỏi trong hai câu thơ này đơn giản chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm
cái cớ để giải bày nỗi lòng của mình:
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Câu thơ dường như có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng (6/8)
như một lời ru ngọt ngào của mẹ và bà năm nào, một câu hát không chỉ diễn tả tâm
trạng tha thiết của nhân vật trữ tình. Là lời ca ngợi về thiên nhiên và con người Việt
Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì
tươi đẹp, tươi tắn nhất. Trong thơ xưa bút hát lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con
người rất phổ biến, việc đối xứng con người với thiên nhiên cũng là một cách để nói
lên vẻ đẹp của con người. 2/ Tám câu thơ sau: – Nhận xét:
Bốn câu thơ lục bát còn lại trong đoạn thơ là một bức tranh liên hoàn về con người và
thiên nhiên Việt Bắc. Và ở đây nhiều người đánh giá là một bộ tứ bình (xuân, hạ, thu,
đông). Nhà thơ đã kế thừa nghệ thuật hội hoạ cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả
bức tranh thiên nhiên. Mỗi một câu thơ như đã khắc hoạ một bức tranh cụ thể nhưng
cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn: – Bức tranh thứ nhất:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn thiên nhiên Việt Bắc. Trên cái nền xanh bạt
ngàn của núi rừng đại ngàn, nổi bật lên hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi. Bởi thế, thiên
nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh, thật là một nét tài tình
của Tố Hữu thể hiện trong thơ. Nghệ thuật điểm xuyết của tác giả còn trở lên độc đáo
hơn: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp
nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có
sức sống, sự chuyển động. – Bức tranh thứ hai
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Khác hẳn với bức tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời
gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:
Ngày xuân mở nở trắng rừng
Cách điệp âm (mơ/nở; trắng/rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra
một không gian vừa rộng lớn nhẹ nhàng và thanh thoát. Ở bức tranh thơ thứ nhất,
nghệ thuật miêu tả của tác giả độc đáo ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng
(hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại
hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.
Trên cái nền không gian rộng lớn và háo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt động có vẻ tỉ mỉ:
…Người đan nón chuốt từng sợi giang.
Đó là hình ảnh thực. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh người đan nón chỉ là
một điểm gợi nhớ. Câu thơ như gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Đó là hình ảnh đặc trưng dễ nhận thấy của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều
người, nó có thể nhỏ nhặt, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó
lại là hình ảnh khắc sâu trong tâm khảm. – Bức tranh thứ ba
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Câu thơ mở đầu bằng âm thanh tiếng ve như giúp người đọc cảm nhận được đã có
bước biến chuyển về thời gian sang hè. Ý thơ trong câu tơ như vừa có âm thanh rộn
ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc sinh động ấy
tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên.
Hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quyện, cùng tôn vinh lẫn nhau. Đan hòa
với nhau mà làm nổi bật lên cho nhau. Và chính sự hài hoà đó đã tạo nên chất thơ ân
tình của Tố Hữu. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trưng với những nét
sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực tại. – Bức tranh thứ tư
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian “ rung thu”. Đến
đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên: Rừng xanh => không gian Ngày xuân => thời gian
Ve kêu => âm thanh (thời gian)
Ứng với mỗi câu thơ đặc sắc và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa
đông, mùa xuân, mùa hạ). Không ngoại lệ câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ bức tranh thu là bức tranh cuối của bộ tứ bình
cũng là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở
nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông, rộng lớn nhưng hề không lạnh lẽo.
“Trăng rọi hòa bình” là hình ảnh vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy,
lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có niềm tin, tự do. Và trong cuộc sống đó còn có cả
tình nghĩa thủy chung khi đã có tự do thì ta vẫn không quên những ngày gian khó. – Đánh giá:
Bức tranh tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được tạo dệt dưới ánh sáng của
hoài niệm da diết khôn nguôi. Thông thường, người ta chỉ nhớ những gì mang ấn
tượng nhất của quá khứ và thời gian càng lùi xa thì ấn tượng ấy càng trở nên tươi đẹp,
huyền ảo hơn và rõ nét hơn. III/ Kết bài
– Việt Bắc được xem là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa,
uyên bác của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi ca. Sự tài hoa
ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ cách mạng.
– Đoạn thơ tả cảnh 4 mùa trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt
Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại
trong một điệu tâm hồn đắm say.
Bức tranh tứ bình trong Việt Bắc siêu hay - Mẫu 1
Nhà thơ Xuân Diệu từng nhận định: “Với Việt Bắc, hồn thơ cũng như nghề thơ Tố
Hữu chín rộ,… không phải là một cây bút trong tay Tố Hữu nữa mà là nhiều ngọn bút
nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người”. Thật vậy, tác phẩm là sự kết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp tả tình, tả cảnh, tả người cùng các chất liệu dân gian
quen thuộc. Những yếu tố ấy thể hiện rõ ràng hơn cả trong bức tranh tứ bình về cảnh
sắc thiên nhiên và con người nơi mảnh đất Việt Bắc thân thương:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ ai đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Nói đến Việt Bắc là nhắc đến nguồn cội của kháng chiến, nhắc đến một mảnh đất tuy
“hắt hiu lau xám” nhưng “đậm đà lòng son”, dẫu gian khổ, nghèo khó mà vẫn nghĩa
tình và thủy chung. Mười lăm năm “thiết tha mặn nồng” nơi mảnh đất trung du này đã
để lại cho cả người cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc bao nhiêu kỉ niệm. Rồi
đến khi đất nước giành được độc lập vào năm 1954, họ phải chia tay nhau, người cán
bộ kháng chiến phải về xuôi tiếp tục nhiệm vụ xây dựng đất nước. Trong lúc tiễn đưa,
người đi kẻ ở, cõi lòng họ không khỏi xao xuyến, bồi hồi nỗi nhớ thương. Đó cũng là
hoàn cảnh mà tác phẩm được ra đời. Bằng lời thơ giản dị, giọng thơ tâm tình, tha thiết,
Tố Hữu đã gửi nỗi nhớ về Việt Bắc trong từng áng thơ trữ tình của mình. Việt Bắc
vừa là khúc tình ca, vừa là khúc hùng ca về cách mạng, kháng chiến và về con người,
thiên nhiên. Có thể nói, bức tranh tứ bình chính là điểm sáng cho tác phẩm, thể hiện
một vẻ đẹp gắn bó hài hòa, mật thiết giữa cảnh và người.
Mở đầu là lời ướm hỏi của người về xuôi dành cho người ở lại – một câu hỏi thiết tha, trìu mến:
“Ta về, mình có nhớ ta”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Điệp từ “ta về” kết hợp với câu hỏi tu từ được sử dụng gợi ra một nỗi băn khoăn rằng:
Rồi đây ta về, liệu mình có nhung nhớ ? Cách xưng hô “ta – mình” làm người đọc liên
tưởng đến cách xưng hô quen thuộc trong ca dao, dân ca: “Ta về mình có nhớ ta/ Ta
về ta nhớ hàm răng mình cười”. Và không chờ đợi lời hồi đáp, “ta” đã giãi bày ngay
lòng mình: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Sự hòa hợp giữa con người và thiên
nhiên thể hiện qua hình ảnh đẹp “hoa cùng người”. Hoa và người kết hợp với nhau,
lúc lại tô điểm lên cho vẻ đẹp của đối phương, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Phải
chăng người đi chẳng nỡ rời xa mảnh đất Việt Bắc bởi vì hình ảnh “hoa cùng người” quá đỗi xao xuyến?
Người cán bộ kháng chiến về thị thành mà lòng chưa nguôi ngoai nỗi nhớ miền
ngược: nhớ hoa, nhớ cảnh, nhớ cả con người nơi đây. Tám câu thơ tiếp theo chính là
cảnh sắc thiên nhiên Việt Bắc bốn mùa xoay chuyển từ đông, xuân sang hạ, thu với
màu sắc tươi tắn và âm thanh sống động, rộn ràng. Mỗi mùa ở Việt Bắc được tác giả
Tố Hữu nhắc đến với những hình ảnh rất riêng biệt và khởi đầu cho bức tranh bốn
mùa là khung cảnh mùa đông nơi núi rừng:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng”
Điểm xuyết trên nền xanh của rừng là màu đỏ của hoa chuối. Trông từ xa xa, giữa một
mảnh rừng xanh ngắt, sự xuất hiện của bông hoa chuối nổi bật hơn cả, vừa rạng rỡ,
sáng ngời, lại vừa lạ mắt, độc đáo. Người ta thường nhắc đến mùa đông, đặc biệt hơn
là mùa đông miền cao với cái lạnh giá buốt, cái rét căm căm thấu da thấu thịt. Thế
nhưng, màu đỏ của hoa chuối như màu của bó đuốc thắp lên xua tan cái buốt lạnh của
những ngày mưa phùn gió bấc. Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc từ đó trở nên ấp, tiềm
ẩn một sức sống mới, sẵn sàng bừng nở vào mùa xuân. Bức tranh mùa đông được vẽ
ra sống động mà chỉ cần một câu thơ kết hợp giữa đường nét và màu sắc vừa đối lập,
vừa hài hòa, vừa cổ điện lại hiện đại.
Trên nền khung cảnh mùa đông, chúng ta bắt nét đẹp khỏe khoắn của đồng bào Việt
Bắc. Hình ảnh hoán dụ “dao gài thắt lưng” trên đèo cao ngập tràn nắng vàng không
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
chỉ ai khác hơn là con người của miền sơn cước. Con dao ở thắt lưng còn là vật bất ly
thân của những người dân nơi đây; họ bao giờ cũng mang theo nó để phát quang, vượt
chướng ngại và đề phòng thú dữ. Không miêu tả cử chỉ hay nét mặt mà Tố Hữu chọn
miêu tả ánh nắng phản chiếu lại từ vật dụng quen thuộc của con người miền núi. Dẫu
chỉ là một chi tiết nhỏ, nhưng người đọc vẫn thấy được vẻ đẹp sáng ngời, tự tin của
đồng bào Việt Bắc. Họ, trong tư thế lao động khỏe khoắn, hiên ngang, vượt lên trên
mọi khó khăn, gian khổ, làm chủ cuộc sống, làm chủ thiên nhiên.
Nếu bức tranh mùa đông rực rỡ, ấm áp với gam màu đỏ và xanh thì bức tranh mùa
xuân lại nên thơ, nhẹ nhàng, trong trẻo với màu trắng của hoa mơ – một loài hoa đặc
trưng cho mùa xuân Việt Bắc:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Trong tác phẩm “Theo chân Bác”, Tố Hữu cũng từng nhắc đến sắc trắng hoa mơ nở
đầy một rừng nơi biên giới: “Ôi sáng xuân nay xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa
mơ”. Hay trong “Gái xuân”, nhà thơ Nguyễn Bính cũng viết: “Xuân đến, hoa mơ, hoa
mận nở”. Cả không gian núi rừng như bùng lên sức sống mơn mởn, bừng sáng bởi
màu sắc của loài hoa này. Chính động từ “nở” đã làm cho sắc trắng như thêm sinh
động hơn, như đang cựa quậy, bật tung ra khỏi nụ hoa.
Vẫn trên nền khung cảnh mùa xuân ấy, người về xuôi nhớ đến bóng dáng của những
đồng bào Việt Bắc. Cảnh xuân xinh đẹp hơn bởi lẽ có thêm sự xuất hiện của con
người trong tư thế lao động: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh
“chuốt từng sợi giang” gợi lên vẻ đẹp khéo léo, tài hoa cùng cả sự kiên nhẫn trong lúc
lao động, mà cụ thể là trong lúc làm ra những chiếc nón của người dân mảnh đất Việt Bắc.
Cảnh vật trong bức tranh lại chuyển sang một mùa mới – mùa hè. Mùa hạ hiện về
trong nỗi nhớ của người về xuôi trong sắc vàng rực rỡ, trong tiếng ve kêu rộn rã:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Từ “đổ vàng” dùng tại đây thật tinh và chính xác, diễn tả được sự chuyển đổi sắc màu
đột ngột từ màu trắng hoa mơ sang màu vàng của rừng thông. Ta nhớ đến ý thơ trong
“Thơ duyên” của Xuân Diệu cũng từng gợi ra sự chuyển đổi sắc màu lúc thu về: “Đổ
trời xanh ngọc qua muôn lá/Thu đến nơi nơi động tiếng huyền.” Những ngày cuối
xuân, rừng cây hãy còn màu xanh bạt ngàn. Nhưng khi tiếng ve ngân vang, gọi hạ,
từng nụ hoa e ấp trong kẽ lá lại đồng loạt trổ vàng. “Tiếng ve” đặt cạnh “phách đổ
vàng” tạo ra một hiện tượng nhân quả khá thú vị: Ta ngỡ tiếng ve như bát màu sóng
sánh, vàng rực đổ qua muôn lá muôn cây của núi rừng, biến chúng trở nên lấp lánh chói mắt.
Giữa “rừng phách đổ vàng” thấp thoáng hình ảnh cô thiếu nữ miền sơn cước cần mẫn,
chịu thương chịu khó “hái măng một mình” để góp một phần sức lao động nuôi quân,
phục vụ sản xuất, phục vụ kháng chiến. Hai chữ “một mình” gợi một vẻ đẹp thầm lặng
trong lao động không chỉ của riêng cô mà còn của tất cả người dân Việt Bắc.
Một lần nữa, cảnh lại chuyển đổi khi thu về. Bộ bốn bức tranh kết thúc bằng bức tranh
thu với rừng thu cao rộng và trăng thu thanh bình:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Ánh trăng thu huyền ảo, trong trẻo rọi xuống chiến khu Việt Bắc khiến ta hình dung ra
một cảnh tượng hết sức yên ả, thanh bình và nên thơ. Mùa thu cũng là thời điểm cuộc
kháng chiến chống Pháp kéo dài hơn trăm năm của đất nước Việt Nam. Trong các
phẩm được ra đời vào giai đoạn kháng chiến, trăng chiến khu đã làm bạn với rất nhiều
nhà thơ. Ví dụ như vầng trăng trong thơ của Bác: “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
(Cảnh khuya) hay “Rằm xuân lồng lộng trăng soi” (Rằm tháng Giêng) Nhưng, ánh
trăng hôm nay không còn như trước, đây là ánh sáng soi rọi cuộc sống mới tự do, độc
lập, thanh bình của con người. Trong những đêm trăng thu yên ả ấy lại xuất hiện
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
“tiếng hát ân tình thủy chung” ghi lòng tạc dạ người ra đi. Tiếng hát thể hiện vẻ đẹp
tâm hồn lạc quan, yêu đời, nếp sống ân tình, thủy chung của người dân miền núi.
Đoạn thơ đã miêu tả được trọn vẹn vẻ đẹp của cảnh và người nơi chiến khu Việt Bắc
dẫu chỉ bằng những đường nét, màu sắc đơn giản: cảnh mùa đông rực rỡ, tiềm tàng
sức sống; mùa xuân trong trẻo, nên thơ; hạ về tươi tắn và thu đến thanh bình. Cũng vì
đó, nhà phê bình Hoài Thanh đã nói về những vần thơ miêu tả thiên nhiên của Tố Hữu
“có thể so sánh với bất kì đoạn miêu tả thiên nhiên nào trong thơ ca cổ điển. Nhà thơ
Tố Hữu tài tình ở chỗ, mỗi câu thơ tả cảnh của ông lại kèm theo tả các hoạt động của
con người. Đồng thời khắc họa bức tranh thiên nhiên vừa khắc họa cả vẻ đẹp của con
người. Không phải là tư thế hùng dũng, oai nghiêm, khí thế ngập trời, con người Việt
Bắc trong nỗi nhớ gần gũi, bình dị, hiện lên qua những công việc giản đơn, đời
thường: đi làm nương rẫy, đan nón, hái măng… Họ ẩn chứa bao vẻ đẹp, phẩm chất
quý giá như cần cù, siêng năng, kiên nhẫn, chịu thương chịu khó, tài hoa tỉ mỉ trong
công việc, thủy chung trong nghĩa tình. Bức tranh bốn mùa còn thể hiện tình cảm gắn
bó sâu nặng của tác giả, của người cán bộ kháng chiến với mảnh đất Việt Bắc. Mảnh
đất này trở thành một phần trong con người họ, hóa thành máu thịt của họ, thành tâm
hồn của họ như nhà thơ Chế Lan Viên viết: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”.
Bức tranh tứ bình là sự kết hợp của nhiều nghệ thuật mang đậm tính dân tộc. Tố Hữu
sử dụng thể thơ lục bát, lối xưng hô “mình – ta” tạo nên âm điệu trữ tình ngọt ngào,
đằm thắm, mang đậm phong vị ca dao. Điệp từ “nhớ” tạo cho đoạn thơ trở thành một
điệp khúc nhớ thương da diết. Hình ảnh dành riêng cho mỗi mùa không mang tính ước
lệ mà ngược lại gần gũi, gắn liền với cảnh và người dân Việt Bắc. Ngôn ngữ giản dị,
trong sáng, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh cùng nhạc điệu đã góp phần làm nên cái hay
cho đoạn thơ. Kết cấu đoạn thơ cân đối, hài hòa với 4 cặp câu trong đó xen kẽ một câu
tả cảnh kèm một câu tả người đã tô đậm mối quan hệ gắn bó giữa hai đối tượng.
Người làm đẹp cho cảnh, cảnh làm nền cho người. Thông thường trật tự các mùa
thường bắt đầu từ mùa xuân, kết thúc bởi mùa đông. Thế nhưng, trật tự tả cảnh ở đây
lại từ đông sang xuân rồi hạ, đến thu. Mục đích của nhà thơ là tô đậm được ấn tượng
về mùa thu chiến thắng, mùa thu hòa bình lúc bấy giờ của đất nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Với những nét chấm phá, màu sắc tươi sáng, hình ảnh giàu tính biểu tượng, đặc trưng,
Tố Hữu đã thành công tạo nên khung cảnh thiên nhiên, con người Việt Bắc hết sức
sống động. Có thể nói, đây là một trong những đoạn thơ đặc sắc nhất, tài hoa nhất
thấm đẫm tinh thần dân tộc trong bài “Việt Bắc”. Nó góp phần làm cho bài thơ xứng
đáng là viên ngọc sáng long lanh trong kho tàng văn học hiện đại Việt Nam. Để tổng
kết lại, tôi xin trích ra đây một nhận xét của tác giả Nguyễn Đăng Mạnh về giá trị của
tác phẩm: “Sức hấp dẫn mạnh nhất của thơ Tố Hữu đối với công chúng đông đảo là tính dân
tộc, tính truyền thống đậm đà và nhuần nhuyễn”.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 2
Ngoài là một nhà thơ xuất sắc ,Tố Hữu còn là một người chiến sĩ cách mạng hết lòng
vì đất nước. Bởi vậy thơ ông luôn toát lên ý chí cách mạng và tinh thần dân tộc sâu
sắc mang đậm khí thế hào hùng nhưng cũng ngọt ngọt ngào phong vị trữ tình sâu lắng.
Việt Bắc là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu. Bài thơ vừa là khúc
hùng ca về cuộc kháng chiến vừa là khúc tình ca mang đầy màu sắc khi miêu tả thiên
nhiên và con người vùng núi mà nổi bật nhất là đoạn thơ khắc họa bức tranh bốn mùa tuyệt đẹp. “ Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh, dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.
Tố Hữu viết bài thơ này vào tháng 10 năm 1954 sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết
thúc thắng lợi miền Bắc được giải phóng trở lại và tiếp tục cuộc sống mới. Những
người chiến sĩ cách mạng sau bao năm tháng chiến đấu gian khổ từ căn cứ miền núi
trở về lại miền xuôi. Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về lại
thủ đô. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lớn của đất nước có vai trò như là một áng văn
tổng kết lại mười năm năm kháng chiến gian khổ mà đầy tình nghĩa ấm áp của người
dân miền núi giản dị hiền hậu. Bên cạnh những câu thơ mang đậm khí thế hào hùng
ghi lại cuộc kháng chiến bài thơ còn có những đoạn thơ thấm đẫm chất trữ tình dạt
dào tình cảm thắm thiết. Cho nên ngoài miêu tả cuộc cách mạng Tố Hữu còn miêu tả
cuộc sống và thiên nhiên Việt Bắc nơi ông và đồng đội gắn bó như ruột thịt. Nhớ về
miền núi là nhớ về con người và thiên nhiên đầy màu sắc tươi đẹp. Bằng thể thơ lục
bát truyền thống tác giả đã vẽ lên hình ảnh Việt Bắc qua bốn mùa trong năm tạo thành
bức tranh tứ bình tuyệt đẹp và hoàn thiện. Cũng giống như những đoạn thơ khác phần
mởầu là lời đối đáp mình- ta quen thuộc trong ca dao, nó như lời mở đầu của đưa đẩy
trong các cuộc hát giao duyên: “Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người.”
Người trở về vừa ướm hỏi vừa khẳng định tình cảm của mình với người ở lại. Dù
không còn gắn bó nhưng vẫn luôn nhớ về nơi này với những gì đẹp nhất “những hoa
cùng người”. Hoa là thứ đẹp nhất của thiên nhiên đất trời. Và mỗi con người ở đây
cũng như những bó hoa tươi đẹp toát lên ở tâm hồn và phẩm chất, họ luôn nồng hậu,
tình nghĩa. Người và hoa hiện diện trong nỗi nhớ của người đi. Nhớ đến hoa là nhớ
đến người và nhớ đến người là luôn xuất hiện sắc hoa tươi tắn. Nhờ thế chủ mà chủ đề
của đoạn thơ đã được giới thiệu một cách rất tự nhiên đó là hoa và con người Việt Bắc
những câu thơ tiếp theo đã lần lượt vẽ lên rõ ràng hình ảnh đó:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Nói đến miền núi Việt Bắc là nói đến sự bạt ngàn của những cánh rừng nơi con người
và thiên nhiên chung sống hài hòa gắn bó. Vậy nên gam màu chủ đạo của bức tranh
đầu tiên này là một màu xanh tươi mát bất tận của các loại cây rừng nó gợi ra hình ảnh
một xứ sở êm đềm, lặng lẽ và càng yên tĩnh hơn trong mùa đông giá rét. Thời tiết lạnh
lẽo nhưng trên cái nền xanh mênh mông đó nổi bật lên một gam màu tươi tắn rực rỡ
đó là màu đỏ của những bông hoa chuối rừng. Bông hoa chuối đỏ tươi với thân tròn,
đầu thuôn nhọn về phía trước như những ngọn đốt cháy rực. Hoa chuối là một loài hoa
quen thuộc và tác giả không miêu tả nhiều về nó chỉ với hai chữ “đỏ tươi” nhưng cũng
đã gợi lên sự rực rỡ lạ thường làm không gian xanh ngát trở nên sáng hơn, rất đẹp khi
có điểm nhấn cực kỳ ấn tượng đó. Đồng thời khung cảnh núi rừng lại được tô điểm
thêm bởi tia nắng ở câu tiếp theo “ Đèo cao nắng ánh” càng làm cho không khí vốn
trầm mặc đơn điệu trở nên tươi tắn và sinh động hơn rất nhiều trên nền cảnh thiên
nhiên ấy hình ảnh con người xuất hiện:
“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Vùng miền núi với những ngọn đồi cao thấp tạo nên địa hình hiểm trở đặc trưng cho
nơi đây. Người dân Việt Bắc lao động ở đó, đứng trên những ngọn đồi cao làm công
việc thường ngày. Dù trời vào đông nhưng trên núi vẫn có nắng dịu nhẹ ấm áp. Những
tia nắng chiếu xuống ngọn đồi, chiếu cả vào chiếc dao làm rừng tạo nên ánh sáng chói
lóa như có thêm một mặt trời thứ hai. Ánh nắng mặt trời lấp lánh đi theo con người
lao động không chỉ gợi lên sự lung linh mà hình ảnh này còn thể hiện một tư thế tự
tin, vững chãi của người làm chủ núi rừng bạt ngàn rộng lớn. Tố Hữu mô tả con người
trong tư thế ấy không chỉ ở mỗi bài thơ này, trong bài Lên Tây Bắc tác giả cũng viết:
“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo.”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Những dãy núi, ngọn đồi kỳ vĩ nối tiếp nhau với địa hình hiểm trở khó đi, nhưng
những con người vẫn lao động không ngại gian khổ đã gắn bó với núi rừng và làm chủ
nơi bạt ngàn kỳ vĩ đó. Hình ảnh con người vẫn hiện lên thật đẹp nổi bật với ánh sáng
của sự hy vọng và vươn lên. Tố Hữu đã rất tài tình khi viết lên câu thơ này song song
cùng màu đỏ tươi của bông hoa chuối là con người khỏe khoắn sáng lên ánh dao phản
chiếu mặt trời chói lóa. Ở bức tranh thứ hai cảnh vật lại mang một vẻ đẹp khác:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Sau màu xanh ngắt ngút ngàn của núi rừng là màu trắng tinh khiết của hoa mơ. Chữ
“trắng rừng” khiến cả khu rừng như bừng sáng lên phải nói rằng đây là một hình ảnh
có sức ám ảnh lớn đối với Tố Hữu nó không chỉ nói lên màu trắng của hoa mơ mà còn
như thể hiện sự trong sáng mới mẻ của cuộc sống mới sau này vậy. Trong bài Theo
chân Bác Tố Hữu cũng nói đến sắc trắng của rừng mơ
“ Ôi Sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới ngói nở hoa
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”.
Mùa xuân ở miền núi mang đặc trưng bởi sắc trắng của những chùm hoa mơ rừng. Đó
là màu trắng tinh khôi trong trẻo thanh khiết của đất trời ngày xuân mới bắt, đầu một
năm mới. Trên nền trắng tinh khôi đó hiện lên hình ảnh con người trong công việc
thầm lặng mà đầy tính nghệ thật :
“ Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.
Người miền núi không chỉ đi làm nương rẫy mà họ còn làm những việc thủ công đòi
hỏi sự khéo léo, bền bỉ. Hai chữ “chuốt từng” như miêu tả một hành động vô cùng tỉ
mỉ và cẩn thận. Con người Việt Bắc không chỉ khỏe mạnh cần cù mà còn rất tài hoa.
Hai bức tranh đầu tiên đã vẽ lên hình ảnh con người và thiên nhiên trong hai mùa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
đông và xuân với đường nét, màu sắc và ánh sáng đến bức tranh tiếp theo đã xuất hiện âm thanh:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Âm thanh rộn rã của tiếng ve trong mùa hè đã làm tưng bừng rộn rã cả không gian núi
rừng. Trời nắng gắt, tiếng ve càng làm cho không gian sao động, tác giả sử dụng động
từ “đổ” thật độc đáo và gợi hình như có sự phản ứng theo dây chuyền. Âm thanh rộn
rã của tiếng ve đã làm những rừng phách chuyển màu vàng. Từ “đổ” là một động từ
mạnh diễn tả trạng thái nhanh và bất ngờ. Đây là một hình ảnh kỳ lạ và đặc biệt ở
những cánh rừng phách Việt Bắc: trong những ngày cuối cùng của mùa xuân những
cây phách vẫn có màu xanh, nụ hoa vẫn giấu kín trong những kẽ lá nhưng khi tiếng ve
đầu tiên của mùa hạ cất lên chúng đột ngột nở rộ những chùm hoa vàng rực. Cả rừng
cây cởi bỏ bộ áo trắng tinh khiết của hoa mơ vào mùa xuân để khoác lên mình tấm áo
vàng rực rỡ trong mùa hè sôi động gay gắt. Trên nền tràn ngập màu sắc ấy lại là hình
ảnh rất bình dị của con người: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Giữa sự sôi động
rực rỡ của cảnh vật trong mùa hè là sự kiên nhẫn thầm lặng của một người con gái
một mình hái những búp măng rừng. Hình ảnh đó toát lên dáng điệu chịu thương chịu
khó giàu đức hi sinh. Ta thấy được cả sự cảm thương kín đáo của tác giả qua câu thơ.
Bộ tranh tứ bình kết thúc bằng bức tranh mùa thu trong đêm. Cả ba bức tranh trước
đều miêu tả cảnh ngày, riêng bức tranh cuối này lại được miêu tả vào ban đêm. Phải
chăng mùa thu là mùa mà vầng trăng tròn và sáng nhất.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Khu rừng trong đêm âm u tĩnh mịch mà lấp lánh sáng ngời bởi ánh trăng và đó chính
là hình ảnh của sự tự do. Ánh trăng sáng tươi đẹp trên nền bầu trời hòa bình của dân
tộc. Trong đêm trăng tươi đẹp những con người Việt bắt cất lên câu hát ngọt ngào đó
là câu hát giao duyên đằm thắm vui tươi. Nhớ về con người là nhớ về hình dáng lao
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
động và cả tiếng hát của họ. Âm thanh đó không chỉ làm xao xuyến tâm hồn mà nó
còn có một sức ám ảnh khôn nguôi.
Bằng những câu thơ lục bát nhẹ nhàng với cách sử dụng từ ngữ linh hoạt đầy tài hoa,
Tố Hữu đã vẽ lên bức tranh tứ bình tuyệt đẹp về con người và thiên nhiên nơi rừng núi
hoang sơ mà tươi đẹp Việt Bắc. Đoạn thơ mang nét cổ điển của thi ca truyền thống khi
miêu tả cảnh thiên nhiên thành bộ tranh tứ bình tuyệt đẹp và trọn vẹn nhưng cũng
mang màu sắc vô cùng tươi mới hiện đại bởi trong bức tranh đó luôn có hình ảnh con
người đang xen một cách hài hòa. Con người nổi bật trên nền thiên nhiên, làm chủ thể
cho vẻ đẹp. Việt Bắc vì thế được miêu tả hoàn thiện trong bốn mùa mỗi mùa đều
mang màu sắc và hoạt động riêng của con người nhưng đều đẹp và thơ mộng.
Mười câu thơ trên chính là đoạn thơ tiêu biểu nhất trong tác phẩm Việt Bắc một bài
thơ dài và ý nghĩa. Phải có một tài năng đặc biệt, một tấm lòng yêu đời yêu người tha
thiết Tố Hữu mới có thể viết lên những câu thơ hay đến như vậy.
Phân tích Việt Bắc bức tranh tứ bình - Mẫu 3
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là
một nhà thơ với suy nghĩ tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, và thơ ông gắn liền với
cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với nhân dân sâu sắc, vì vậy mà trong các tác phẩm
của ông luôn gần gũi với người dân. Ông đã để lại một sự nghiệp văn chương phong
phú, và giàu giá trị với phong các trữ tình và chính trị sâu sắc đậm đà những bản sắc
dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc ta có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng
trong mười câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con
người nơi Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Việt Bắc đã được Tố Hữu sáng tác vào đầu tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và
chính quyền từ Việt Bắc quay về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là cán bộ sống gắn
bó với Việt Bắc nhiều năm, nay cùng từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được
viết trong buổi chia tay đầy lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc
chính là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên
núi rừng cao đẹp mộng mơ.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Mở đầu của đoạn thơ là câu hỏi tu từ nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình
cảm, nhấn mạnh với nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là những lời
hỏi đáp của ta tức là của người cán bộ kháng chiến đã về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta
những người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc đã để bộc lộ tâm trạng của mình
là dù có ở những nơi xa xôi, dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với chiến khu
Việt Bắc. Chữ “ta” , “nhớ” được điệp đi và điệp lại thể hiện lòng thủy chung son sắc.
Nỗi nhớ đã hướng về “những hoa cùng người” hướng về thiên nhiên, với núi rừng và
con người Việt Bắc. “Hoa” là sự kết tinh của nơi hương sắc, còn “người” là kết tinh
với đời sống xã hội. Xét cho đến cùng, “người ta là hoa của đất”. Hoa và người được
đặt cạnh nhau lại càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả những không gian
núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.
Những câu thơ tiếp theo đã tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu.
Cảnh và người đã hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có
một câu thơ thật bát tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng tạo thành một bức
tranh tứ bình ngập tràn ánh sáng, màu sắc, và đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Mở đầu cho một bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa đông. Chúng ta vẫn luôn
thắc mắc là rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên đó là
Xuân, Hạ, Thu, Đông lại là mùa Đông trước đã có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài
thơ này là vào đầu tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh
mùa đông Việt Bắc cũng tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông trước.
Nhớ về nơi mùa đông Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, và âm u
mà nhớ đến những ngày mùa đông rực rỡ, nắng vàng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi
rừng Việt Bắc đã làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh “hoa chuối đỏ
tươi” là hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như những
ngọn đuốc, đã đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh
lẽo của núi rừng ở nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm đã tô điểm thêm nét đẹp
đặc trưng của mùa đông Việt Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, đã ẩn hiện lên
hình ảnh người nông dân đi lao động leo lên đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình
ảnh khỏe khoắn của những người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử
dụng nghệ thuật đảo ngữ, đó là ông không dùng “ánh nắng” là một danh từ mà lại
dùng “nắng ánh” – một động từ, nhằm làm cho những hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.
Kết thúc mùa đông lạnh Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa xuân ấm áp vui hơn:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Hình ảnh những bông hoa “mơ nở trắng rừng” là loài hoa đặc trưng của mùa xuân nơi
núi rừng Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng có màu không phải màu trắng điểm
như trong bài Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du “cành lê trắng điểm một vài bông
hoa”. Đó là màu trắng tinh khiết, và tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và
đằng sau mùa xuân tinh khiết, và nhẹ nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ đã nhớ đến những
người đan nón. Hình ảnh “người chuốt từng sợi giang” cũng đã làm nổi bật đức tính
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa của con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang
nõn nà và để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể
thiếu của người dân ở nơi đây và đó cũng có thể là thức quà tặng mà tác giả dành cho
những người mà họ yêu thương.
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Khi âm thanh của những tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè.
Rừng phách đột ngột đổ vàng và đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có
cảm giác khi tiếng ve vang lên thì cùng những lá cây của cây phách từ lá màu xanh
chuyển sang màu ả vàng. Cả không gian Việt Bắc cũng như được nhuộm sắc vàng rực
rỡ và thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình
ảnh những cô em hái măng. Ở đó, toát lên được sự cần mẫn, và cần cù siêng năng,
chăm chỉ. Măng là thứ rau nuôi sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng
có một mình cho thấy được sự yên tĩnh và thư thái. Câu thơ đã làm cho ta liên tưởng đến câu thơ:
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Nếu đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, và mùa hè là hoa
phách vàng. Vậy còn mùa thu thơ mộng là hoa gì, Mùa thu còn không có hoa mà mùa
thu cũng có người mà con người là loài hoa đẹp nhất: “Người ta là hoa của đất”.
Khác với nền văn học thời trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên
làm tiêu chuẩn cho cái đẹp thì đây nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu
chuẩn cho những cái đẹp. Điều này được thể hiện rất rõ bởi ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Nếu câu thơ lục câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có là “tiếng hát ân tình”.
Cặp đôi “trăng – nhạc” góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh và lãng mạn. Đất nước ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
lúc ấy đang trong những thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở những câu thơ của Tố
Hữu ta chỉ thấy được sự bình yên, hòa bình, và êm ả và ân tình thủy chung.
Đoạn thơ đã dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và con
người. Kẻ ở người về thì “ta nhớ mình” và “mình nhớ ta”. Tình cảm vô cùng tha thiết,
thiêng liêng, và biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua những ân tình thủy
chung cách mạng giữa Việt Bắc với những con người về xuôi vẫn luôn thủy chung
son sắc, và in đậm trong lòng người.
Tóm lại, với 10 câu thơ trên, Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh, vói câu bát tả
người. Và sự hài hòa ấy tạo nên một trong những bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, đầy màu
sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được là tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng
Việt Bắc và sự thủy chung luôn son sắc với những con người chất phát và hiền hòa
nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của tác giả Tố Hữu với Việt Bắc. Và ở mỗi bản thân
chúng ta, cũng cần phải biết đến những địa danh của nơi Đất Nước mình, yêu mến và
luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kỳ của nó. Điều quan trọng hơn hết, là chúng ta cần ghi
nhớ công ơn to lớn của chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta
có được một đất nước thật yên bình và xinh đẹp như ngày hôm nay.
Bức tranh tứ bình Việt Bắc - Mẫu 4
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng.
Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó,
không thể không nhắc đến tác giả Tố Hữu - một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt
Nam, với hình ảnh người lính anh dũng cùng tình cảm gắn bó sâu nặng với đồng bào
Việt Bắc, ông đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn khác vô cùng trữ tình về người
chiến sĩ trong thời chiến thông qua bài thơ Việt Bắc. Nổi bật trong bài thơ là những
hồi ức của người ra đi về bức tranh tứ bình Việt Bắc:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Mười câu thơ là hình ảnh đan xen giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc trong tâm
trí của người ra đi. Mở đầu, người ra đi khẳng định tình cảm của mình dành cho những người ở lại:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời.
Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ "bát
cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng
Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con
người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người
quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc
đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.
Sau khi khẳng định nỗi nhớ của mình dành cho thiên nhiên và con người Việt Bắc,
người ra đi cụ thể hóa nỗi nhớ ấy qua từng mùa trong năm, mở đầu là mùa đông:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ
tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như
những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối
lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi" – gam màu nóng của
bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc
trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu
hắt vốn có của núi rừng. Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người
của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy. Trước thiên nhiên bao la, con người
dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la
và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Kết thúc mùa đông, mùa xuân hiện ra với vẻ tinh khôi:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa
mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "Trắng rừng" được viết theo phép
đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc,
màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng
bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Mùa xuân càng trở nên
tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt từng
sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ "chuốt" và
hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo
léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ mạnh "đổ" diễn tả
sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn
dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở
nên óng vàng ra. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển
sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần
mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái
măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu
hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần
gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu thương chịu
khó của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Khép lại bức tranh tứ bình là mùa thu thanh bình, êm ả:
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi
sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Bức tranh mùa thu Việt Bắc
đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng
hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa
của tình yêu quê hương đất nước.
Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca
và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người
kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ
được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc,
ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người
đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu
và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc bức tranh tứ bình - Mẫu 5
Pauxtôpxki đã từng nói “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở
đường đến với cái đẹp”. Quả đúng như thế, trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã mở
đường đến với cái đẹp của bộ tranh tứ bình và cũng là mở đường đi tới tình yêu quê hương đất nước:
Ta về mình có nhớ ta …
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt
Nam. Mỗi thời kỳ lịch sử đi qua, Tố Hữu đều để lại dấu ấn riêng mang đậm hồn thơ
trữ tình chính trị: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa… Trong đó, “Việt
Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. Bài thơ
được làm vào tháng 10.1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ cùng cán bộ chiến sĩ
rời chiến khu để về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Lấy cảm hứng từ không khí của buổi
chia tay lịch sử ấy, Tố Hữu đã xúc động viết nên bài thơ này. Đoạn thơ ta sắp phân
tích sau đây là đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc với cảnh đẹp bốn mùa Xuân – Hạ Thu – Đông.
Hai câu thơ mở đầu mang cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ
nhung không nguôi về Việt Bắc:
Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ bâng khuâng thấm vào hồn người và cảnh
vật. Vẫn là cách xưng hô “Ta – Mình” ngọt ngào trong ca dao gợi nhiều cảm xúc.
“Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. Điệp từ “ta” được nhắc lại bốn lần cùng với
từ “hoa” là âm “a” (âm mở) khiến cho dòng cảm xúc của người đi như bỗng trở nên
mênh mang sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”.
“Hoa” là vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc còn “người” là vẻ đẹp của con người lao
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
động Việt Bắc. Bốn cặp câu tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến
người. Hoa và người đều hài hòa trong những câu thơ đầy lãng mạn, trẻ trung của hồn
thơ Tố Hữu. Nói “nhớ những hoa cùng người” phải chăng là nỗi nhớ trong nỗi niềm
bâng khuâng, da diết cứ tuôn chảy khắp thiên nhiên, núi rừng chiến khu.
Bức tranh mùa đông mở ra thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đầy sức sống:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc vào tháng 10.1954, khi ấy miền Bắc nước ta đang vào
mùa đông. Cho nên, mùa Đông là mùa trong hiện tại, cũng là mùa mở ra bộ tranh tứ
bình. Cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ mùa đông là mùa bắt đầu trong đoạn thơ này là vì
Tố Hữu lấy cảm hứng từ thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông.
Nhắc đến mùa đông người ta thường nghĩ đến cảnh rét mướt, lụi tàn, lòng người thì cô
đơn, tiết trời thì u ám. Nhưng đến với mùa đông trong thơ Tố Hữu thì ngược lại, thiên
nhiên ở đây lại giàu sức sống và ấm áp. Hai màu sắc đối lập mà hài hòa “xanh” – “đỏ
tươi” mang đến bao cảm xúc. Màu xanh là màu của sự sống, màu của cánh rừng mùa
đông tươi tốt chứ không hề tàn lụi. Hoa chuối “đỏ tươi” nở rộ lung linh dưới ánh mặt
trời. Trong gam màu hội họa, màu đỏ là gam màu nóng, cho nên, chính nó cũng đã
xua đi gam màu lạnh lẽo của rừng xanh mang đến sự ấm áp cho bức tranh thiên nhiên.
Bức tranh màu đông càng sống động hơn bởi sự xuất hiện của con người, ấy là con
người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất lương thực cung cấp
cho kháng chiến. Con người tỏa sáng trong từng câu chữ “Đèo cao nắng ánh dao gài
thắt lưng”.. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình
rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu
thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh.
Con người như một điểm hội tụ của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một
vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm
lĩnh núi rừng, tự do, làm chủ lao động, làm chủ tình thế với đôi cánh tay như hai cánh bay lên:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
“Núi rừng đây là của chúng ta
Trời xanh đây là của chúng ta” (Nguyễn Đình Thi).
Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi. Có thể nói, giữa hoang sơ tráng
lệ, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn
của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Bức tranh mùa xuân lan tỏa và bừng sáng một sức sống hoang dại và mãnh liệt của hoa mơ:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Nếu như phương Nam nắng gió nổi tiếng với sắc vàng của hoa Mai, Hà Nội với màu
đỏ của hoa đào thì Việt Bắc có đặc trưng riêng bởi màu trắng của hoa mơ. Bao trùm
lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở
khắp rừng. Động từ “nở” nằm ở giữa câu làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề
nhựa sống. Nở trắng cả thời gian “ngày xuân”, nở trắng cả không gian “trắng rừng”.
Như vậy là màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng
cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Đây không
phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón Bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Dưới bóng hoa mơ dịu mát, thấp thoáng hình ảnh con người lao động với hoạt động
“chuốt từng sợi giang”. Người Việt Bắc đẹp tự nhiên trong những công việc hằng
ngày, đó là công việc đan nón bằng thủ công, một nghề truyền thống của Việt Bắc. Từ
“chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay và phẩm chất của con người lao động:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất
tần tảo của con người Việt Bắc tạo nên nét đáng yêu của con người làm chủ nơi đây.
Bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ
điển vừa mang những đường nét hiện đại:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Câu thơ thứ nhất có hai hình ảnh: tiếng ve và hoa phách. Tiếng ve là đặc trưng của
mùa hạ. Hoa phách là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Những ngày cuối xuân, cả rừng
phách còn là màu xanh bạt ngàn, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi bản đàn ve
vừa dạo khúc đầu tiên của mùa hè thì những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, cả
rừng phách lai láng sắc vàng. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài
niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Đặc biệt, câu thơ tựa như
một bức sơn mài càng ngắm càng đẹp, càng ngắm càng say mê. Tranh mùa hè mà cứ
cảm tưởng như màu vàng trong tranh của những danh họa phương Tây vẽ về mùa thu.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần
mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”.
Trong thơ xưa, người phụ nữ miền sơn cước thường xuất hiện với những thân phận
đau buồn hay sự cô đơn, hiu hắt:
Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi!
Chẳng trả lời tôi lấy một lời
Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi (Nguyễn Bính)
Trong thơ Tố Hữu, người em xuất hiện rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương.
Hai chữ “một mình” mà vẫn không gợi lên cái cô đơn hiu hắt bởi cô đang làm bạn với
thiên nhiên tươi đẹp, đang làm chủ lao động, làm chủ tự do. Hình ảnh thơ cũng gợi lên
được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
cảm thông, trân trọng của tác giả. Ba chữ “măng – một – mình” đi liền với nhau tạo
nên nhạc tính làm giọng thơ trở nên da diết bâng khuâng. Người đi rồi mà dường như
hồn còn lạc giữa bạt ngàn hoa phách. Và dường như, nhớ em, anh không chỉ nhớ trong
quá khứ, trong hiện tại mà còn nhớ em trong cả tương lai nữa, vì mai về rồi lại thương
em lẻ loi đơn chiếc một mình.
Khép lại bộ tranh tứ bình là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã bạn để lại
âm vang nghĩa tình kháng chiến:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Có ai đó đã nói rằng: núi rừng Việt Bắc nhiều sắc hoa nhưng có loài hoa lạ “Hoa
trăng”. Trăng đẹp nhất là trăng mùa thu. Có lẽ chính vì vậy mà bức tranh thiên nhiên
và con người càng trở nên gần gũi, thân thương hơn bao giờ hết. Chữ “rọi” rất hay, nó
diễn tả được ánh trăng tràn ngập cả không gian bao la. Đó là ánh trăng của tự do, của
hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc.
Giữa bao la ánh trăng vàng dịu mát ấy lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo
của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là
tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng:
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: thể thơ lục bát
với âm điệu nhẹ nhàng tình cảm, mang phong vị ca dao, dân ca đậm hồn dân tộc. Cách
miêu tả giàu hình ảnh, sử dụng nhiều động từ và hình ảnh giàu tính biểu cảm. Phối
màu sống động. Điệp từ nhớ biến hóa linh hoạt để lại trong lòng bao dư vị khó quên:
nhớ ta – ta nhớ những hoa cùng người; nhớ người đan nón – nhớ cô em gái – nhớ ai
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
tiếng hát. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ giàu tính tạo hình về thiên nhiên và con
người Việt Bắc, mở rộng hơn nữa, đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng trong
tâm hồn của nhà thơ cách mạng – Tố Hữu.
Vâng! Bộ tranh tứ bình Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng
gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất
nước. Nói về lòng yêu nước, nhà văn I-li-a Ê-ren-bua của nước Nga từng nói: Dòng
suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển.
Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Đọc bộ tranh tứ
bình của Việt Bắc lại càng yêu thương thấm thía hơn cảnh đẹp của quê hương đất
nước mình trên khắp mọi nẻo đường quê. Yêu quê hương nào đâu chỉ là yêu văn hóa,
yêu con người, yêu tiếng mẹ đẻ mà yêu quê hương, yêu đất nước mình còn là vì
những cảnh trí thiên nhiên tươi đẹp ấy. Tố Hữu đã mang vào tận tâm hồn ta vẻ đẹp
thiên nhiên bốn mùa tươi đẹp cho ta yêu những điều bình dị, thân thiết, gắn bó trong
cuộc sống hằng ngày. Thiên nhiên đất nước ta thật đẹp thật hào hùng mà cũng thật
lãng mạn biết bao. Đó là Lũng Cú đến mũi Cà Mau với chiều dài đất nước từ cực Bắc
đến cực Nam, từ Tây sang Đông. Nơi có biết bao danh thắng thiên nhiên mà nhân dân
đã góp công sức tạo thành. Những sông suối thiên nhiên chảy vào dòng sông thi ca lấp
lánh bao vần thơ đẹp: sông Hương, sông Thu Bồn, sông Đà Rằng, sông Hồng “tiếng
hát bốn ngàn năm”. Những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái… do tình yêu thủy
chung của con người tạo nên. Cho đến cả những người dân bình dị cũng góp tuổi góp
tên mình dựng xây nên “tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”.
Trong không gian sinh tồn ấy, con người Việt Nam đã sinh sống và làm việc, cùng
yêu thương, đoàn kết, chia bùi sẻ ngọt, cùng chống lại bao kẻ thù hung bạo để bảo vệ
độc lập dân tộc. Con người Việt Nam thật đáng tự hào, họ là những con người “sống
giản dị, chết bình tâm”. Thời chiến tranh quyết xông pha trận mạc, cái chết có hề chi
dù “trăm thân phơi ngoài nội cỏ, ngàn xác này gói trong da ngựa”. Thời bình, họ “cần
cù làm lụng”, “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”. Đó là vẻ đẹp của lối sống yêu
chuộng hòa bình, coi trọng danh dự, phẩm giá con người.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Ngày nay, sống trong thời bình nhưng chúng ta cũng không ngừng nâng cao cảnh giác
trước những diễn biến hết sức phức tạp của khu vực và thế giới, nhất là cuộc chạy đua
vũ trang toàn cầu. Một cuộc chiến có thể xảy ra. Hơn bao giờ hết, mỗi bạn trẻ cần tích
cực học tập để có kiến thức, nâng cao lòng yêu nước và quyết tâm bảo vệ quê hương
nếu xảy ra biến cố. Nên nhớ rằng: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một,
sông có thể cạn, đá có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” (Hồ Chí
Minh). Hãy yêu đất nước mình từ con đường đi học đến nhành cây, ngọn cỏ, từng
giọng nói thầy cô đến ánh mắt mẹ cha âu yếm nhìn ta mỗi buổi về nhà.
Xin cảm ơn nhà thơ Tố Hữu đã mang đến cho ta những vần thơ đẹp về thiên nhiên
nhiên và con người Việt Bắc mà cũng là cảnh trí, con người Việt Nam. Vẻ đẹp của bộ
tranh tứ bình ấy giúp ta cảm nhận thấm thía hơn tình yêu thiên nhiên của tác giả và
cũng giúp chúng ta ngộ ra được tình yêu đất nước nào đâu phải ở đâu xa, yêu những
điều bình dị quanh ta cũng là yêu đất nước, quê hương. Vâng! Hãy yêu quê hương, đất nước mình, vì:
"Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người" (Đỗ Trung Quân).
Cảm nhận bức tranh tứ bình Việt Bắc - Mẫu 6
Với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, những áng thơ văn Tố Hữu để để lại
trong lòng người đọc nhiều xúc cảm lắng sâu. “Việt Bắc” là một bài thơ nổi tiếng tác
giả viết năm 1954. Cảm xúc, hình ảnh, nghĩ suy trong tác phẩm mà nhà thơ gửi tới
người đọc khiến cho ta càng thêm yêu mến và trân quý tâm hồn, tài năng Tố Hữu. Bức
tranh tứ bình trong bài cũng là một nét đặc sắc đã lưu lại trong tâm trí người đọc nhiều ấn tượng.
Nỗi thơ thiết tha bồi hồi ấy đọng lại trong bức tranh tứ bình về con người và cảnh vật
thiên nhiên Tây Bắc, trước hết đó là sự phác họa những nét cảnh mùa đông:
“Ta về, mình có nhớ ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Một mùa đông rực rỡ và ấm nồng nơi núi rừng Tây Bắc đã được nhà thơ phác họa một
cách sinh động. Đó là mùa đất trời nơi đây tràn ngập sắc “đỏ”, “tươi” rực rỡ của hoa
chuối rừng trên nền xanh trầm tĩnh của cỏ cây rừng lá, của ánh nắng ấm áp lửng lơ,
tràn ngập khắp không gian khoáng đạt. Trên cái nền thơ mộng ấy, con người Việt Bắc
xuất hiện với vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế lao động: “dao gài thắt lưng”. Hai từ
“nắng ánh” khiến lời thơ Tố Hữu như bừng sáng, góp phần làm nổi bật hơn vẻ đẹp của
con người trong lao động, những con người đang trong tư thế vươn lên đỉnh đèo. Mùa
đông trong thơ xưa thường diễn tả cái tiêu điều, hiu quạnh, những cơn gió lạnh và một
bầu không khí man mác buồn. Đông Hồ từng viết:
“Em nhớ: một sáng ngày mùa đông
Gió bấc ào ào tiếng hãi hùng
Theo khe cửa sổ gió thổi rú
Chỉ nghe tiếng gió mà lạnh lùng”
Hay như nhà thơ Ngô Chi Lan từng bày tỏ:
“Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng
Giải buồn chén rượu lúc sầu đông
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa
Gió phẩy mùa băng giải mặt sông”
Cái buồn, cái sầu ấy ta lại không bắt gặp ở mùa đông trong thơ Tố Hữu. Nhà thơ viết
về mùa đông Tây Bắc lại thắm tươi và nồng ấm sắc màu, sức sống. Con người trong
cảnh sắc ấy khỏe khoắn và chủ động.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Đó là cặp câu thơ lục bát tiếp theo nhà thơ miêu tả về thiên nhiên và con người Việt
Bắc khi xuân về. Sự dịu dàng, trong trẻo, tinh khôi của sắc trắng hoa mơ “nở trắng
rừng” đã làm lòng người đọc biết bao xao xuyến. Trên nền cảnh ấy, con người hiện ra
trong công việc của cuộc sống giản dị đời thường. Động từ “chuốt” đã tinh tế làm toát
lên vẻ tài hoa, cần mẫn, khéo léo của con người lao động nơi đây. Sự thanh tao thơ
mộng của đất trời, sự giản dị, khéo léo của con người cùng hòa điệu làm ý thơ Tố Hữu
càng thêm nổi bật và ấn tượng.
Nhà thơ Bàng Bá Lân từng bày tỏ cảm nghĩ của mình qua những dòng thơ trong “Trưa hè”:
“Trời lơ lửng cao vút không buông gió
Đồng cỏ cào khô cánh lượt hồng
Êm đềm sóng lụa trên trên lúa
Nhạc ngựa đường xa lắc tiếng đồng
Quán cũ nằm lười trên sóng nắng
Bà hàng thừa khách ngủ thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm
Đứng lặng trong mây một cánh diều”
Mùa hè với Bàng Bá Lân là vậy, bình yêu mà và cùng đáng nhớ. Còn với Tố Hữu, mùa hè Việt Bắc là:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Sắc màu tươi sáng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve được nhà thơ tái
hiện chân thực. Từ “đổ” trong câu thơ được xem như nhãn tự bộc lộ trọn vẹn ý nghĩ
của nhà thơ. Phải chăng, nhà thơ đang muốn nói đến sự tương quan kỳ diệu của thanh
âm và màu sắc đã khiến cho cảnh vật nơi đây như có linh hồn, có sự giao cảm mạnh
mẽ. Người Việt Bắc hiện ra trong một vẻ gì đó thật lặng lẽ nhưng vẫn rất hiền hòa như
một điểm nhấn lắng sâu giữa không khí sôi động của thiên nhiên đất trời mùa hạ.
Được nhắc đến cuối cùng, nhưng cách thể hiện của nhà thơ về mùa thu vẫn khiến
người đọc không khỏi ấn tượng và lưu luyến. Một Việt Bắc trong trẻo. Một Việt Bắc
thanh tịnh dưới ánh trăng. Đó là những gì ta cảm nhận được qua hai câu thơ:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Trên cái nền hiền hòa của thiên nhiên ấy con người hiện ra với vẻ thắm thiết ân tình
trong tiếng hát thân thương cũng là tiếng lòng thủy chung Cách mạng đượm tình sâu nghĩa thẳm.
Để có thể phác họa nên bức tranh tứ bình của cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt
Bắc sống động như vậy, nhà thơ đã vận dụng khéo léo đồng thời bút pháp cổ điển và
hiện đại. Sự tinh tế và tài hoa ấy đã góp phần giúp cho bức tranh tứ bình trong “Việt
Bắc” có một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc bao thế hệ, góp phần làm đa dạng hơn
những bài thơ, áng văn viết về “bức tranh tứ bình”.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 7
Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du
nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình - nơi đã in sâu bao kỷ niệm của một thời kỳ cách
mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi.
Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta - mình"
của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết "Khi ta ở đất chỉ là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa
yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với
người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được. "Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật
nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của
thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi
Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió
ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ
thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui
tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là
đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân - hạ - thu - đông.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ: "Ta về mình có nhớ ta
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta", câu thơ thứ hai là tự trả lời,
điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng
ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những
ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng", mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng
yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc.
Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng
son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái
nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc
cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu
tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những
ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong
thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ
tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như
những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối
lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của
bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc
trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu
hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè
chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ
giữa màu xanh của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên
núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến "Đèo
cao nắng ánh dao gài thắt lưng" . Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng
trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy
một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở
ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của
nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng
đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất - "đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh
đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do "Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là
của chúng ta". Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và
nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh
hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của
cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa
mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". "Trắng rừng" được viết theo phép
đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc,
màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng
bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức sống
mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về
màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
"Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"
Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với
hoạt động "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng
ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần
mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần
tảo của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ
mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ
vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm
ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng
hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có
biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả
sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy
được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây
phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần
mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái
măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu
hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần
gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi
sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa
thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
"Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về"
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng
hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây
cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng
và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người
đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của
Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt
Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên
gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung
quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 8
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu của phong trào thơ ca Việt Nam trong
kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tác phẩm của ông như một vũ khí nhằm
chống lại quân xâm lược, động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân.
Bài thơ "Việt Bắc" được tác giả viết trong những ngày tác giả đóng quân ở vùng Việt
Bắc. Bài thơ thể hiện tình quân dân gắn bó, thiết tha sâu sắc, khi chia tay kẻ ở người đi
biết bao lưu luyến, lúc chia tay được tác giả viết lên thành những vần thơ nhiều cảm
xúc, nghẹn ngào tâm tư tình cảm.
Xuyên suốt trong bài thơ là những dòng tâm sự, thể hiện tình cảm giữa mình và ta,
giữa quân và dân chứa chan, sâu sắc. Tác giả Tố Hữu là người đã tham gia trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Nên những vần thơ của ông vô cùng giản dị, mộc
mạc gần gũi, khi đọc bài thơ lên ta có thể cảm nhận được sự thiêng liêng, nặng trĩu
tâm tư trong tình cảm của người chiến sĩ
Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát truyền thống gần gũi, với người nghe.
Trong bài thơ nghệ thuật so sánh, ẩn dụ được tác giả Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt tài
tình thể hiện sự tinh tế trong phong cách ngôn ngữ của tác giả. Đặc biệt bài thơ còn
xúc động lòng người khi tác giả phác họa lên một bức tranh tứ bình về thiên nhiên con
người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp. Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
"Ta" và "mình" thể hiện tình quân dân, nhưng với ngôn ngữ mộc mạc, thể hiện sự gắn
bó như người thân trong một gia đình, như những người bạn tri kỷ lâu năm. Nay phải
cách xa biết bao tâm sự, bao nhiêu lưu luyến không nỡ rời đi
Tác giả Tố Hữu đã vô cùng khôn khéo khi dẫn dắt người đọc tới những cảnh đẹp vô
cùng nên thơ lãng mạn của núi rừng Việt Bắc, vẽ lên một mùa đông ấm áp, nhưng
ngập tràn tình yêu thương, niềm tin của những con người phúc hậu nơi đây.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Thiên nhiên Việt Bắc mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ, bởi vẻ đẹp rất trữ tình của
núi rừng Tây Bắc. Những bông hoa chuối đỏ tươi nở lên giữa mùa đông lạnh giá làm
cho khung cảnh thiên nhiên tuy lạnh giá nhưng vô cùng sinh động, ấm áp lòng người
bởi sắc đỏ của hoa chuối rừng chính nét quyến rũ rất riêng của núi rừng Việt Bắc.
Hình ảnh người con gái đi hái măng, lấy nấm với con dao sắc nhọn là vũ khí phòng
thân, công cụ làm việc thể hiện sự sinh động của con người trong công việc thường nhật của mình
Đồng thời ánh nắng mùa đông là cho không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, không
phải là màu u ám, ảm đạm mà chúng ta thường thấy trong những bài thơ khác miêu tả
về mùa đông. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn đẹp, vẫn sinh động hấp dẫn lòng người hơn bao giờ hết.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Trong hai câu thơ này tác giả đã linh hoạt chuyển đổi thời gian từ mùa đông sang mùa
xuân. Từ hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi sang sắc hoa mơ trắng trong tinh khiết, thể
hiện không khí mùa xuân đang ngập tràn trên mảnh đất Tây Bắc.
Hoa mơ chính là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới, bởi loại hoa này thường chỉ ra
vào mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai. Hình ảnh một rừng hoa mơ trắng thơm
ngát quyến rũ, làm say đắm lòng người được gợi mở trong câu thơ làm cho người đọc
ngây ngất trước cảnh đẹp của thiên nhiên nơi đây. Hình ảnh người con gái chuốt từng
sợi giang để làm dây gói bánh chưng, bánh tét, làm nón lá khiến cho không khí mùa
xuân càng gần gũi ấm áp hơn bất kỳ lúc nào
Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng luôn gắn liền với những con người nơi đây. Khi
tác giả Tố Hữu nhớ về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc tác giả luôn nhớ về những con
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
người, những hoạt động của con người nơi đây thể hiện tình cảm sâu đậm của tác giả
với mảnh đất gắn bó suốt 15 năm.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Sang mùa hè tiếng ve kêu là dấu hiệu của mùa hè đã đến. Mùa hè là mùa sôi động, nó
khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông, sự tinh khôi của màu xuân, khi mùa hè tới rừng
núi Việt Bắc râm ran tiếng ve kêu, màu vàng của hổ phách kết hợp với tiếng ve khiến
cho thiên nhiên nơi đây. Tiếng ve đã phá vỡ sự tĩnh lặng, thể hiện sự chuyển biến thời gian mạnh mẽ.
Bức tranh thiên nhiên về mùa hè của núi rừng Việt Bắc sáng rực màu vàng của hổ
phách, huyên náo tiếng ve kêu. Ở mỗi bức tranh tác giả luôn kết hợp thiên nhiên với
bóng dáng con người, thể hiện sự kết hợp khôn khéo giữa con người và thiên nhiên nơi đây.
Giữa không gian bao la của núi rừng Việt Bắc tác giả đã khôn khéo kết hợp thiên
nhiên có hình ảnh người con gái hái măng rừng, một hành động quen thuộc, gần gũi
nhưng được Tố Hữu vẽ lên thật dịu dàng, nên thơ.
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Bắc thật dịu dàng, nên thơ trữ tình hình ảnh ánh
trăng hòa bình, sáng trong nên thơ thể hiện sự tròn đầy, chung thủy trước sau như một
của người dân nơi đây với cách mạng, với những chiến sĩ anh dũng đã hy sinh thân
mình để bảo vệ dân tộc, bảo vệ mảnh đất thân yêu này.
Qua đoạn thơ này ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn
ngữ cũng như trong quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình thiên nhiên,
con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 9
Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng
chiến, ta không thể không nhắc đến Tố Hữu với một giọng thơ đầy tính chiến đấu, đầy
lý tưởng, một phong cách thơ trữ tình chính trị. Tuy nhiên, trong những bài thơ ấy vẫn
chất chứa những hình ảnh đậm chất trữ tình, giàu chất thơ, mượt mà và tươi sáng. Bức
tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc chính là minh chứng tiêu biểu: "Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa trong đó một nỗi nhớ
nhung da diết cùng tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng và người cán bộ nói chung dành cho Việt Bắc: "Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người"
Hai câu thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại thế nào và tự
bộc lộ tấm lòng của mình. Điệp ngữ "ta về" mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
nỗi niềm của người từ giã. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh "hoa cùng người", phải
chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh tạo nên nét
hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào nhau, khi tách biệt để
tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếp sau hình ảnh hoa và người là bức tranh bốn mùa Việt
Bắc được vẽ ra hết sức chân thật cùng những màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đeo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện ra đầu tiên.
Tác giả khắc họa mùa đông trước có lẽ bởi vì khi người cách mạng đến đây cũng vào
mùa đông của đất nước và cũng chính thời điểm ấy sau mười lăm năm, người cách
mạng cũng từ biệt Việt Bắc - cái nôi cách mạng Việt Nam.
Giữa cái nền xanh tươi của rừng thẳm nổi bật hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi,
làm cho núi rừng không lạnh lẽo hoang vu mà trở nên ấm áp lạ thường. Những bông
hoa chuối ẩn trong sương như những ngọn đuốc hồng soi sáng chặng đường mà ta
từng bắt gặp trong bài thơ Tây Tiến: "Mường lát hoa về trong đêm hơi". Cái "đỏ tươi"
của hoa chuối như xóa nhòa đi sự lạnh lẽo cô độc của mùa đông lạnh lẽo của núi rừng,
như chất chứa, tiềm ẩn sức sống của đất trời. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài
hòa trong cách diễn đạt khiến mùa đông nơi đây mang hơi hướng của mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi:
"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Giữa thiên nhiên ấy, nét đẹp của con người Tây Bắc hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:
"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Người Việt Bắc đi rừng bao giờ cũng gài một con dao ở thắt lưng để phát quang
những chướng ngại và đề phòng thú dữ. Ở đây tác giả không miêu tả gương mặt hay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
thần thái mà miêu tả ánh sáng phản chiếu nơi lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt
trời chiếu xuống làm cho con dao lấy lánh ánh sáng tạo nên hình ảnh con người thật
đẹp không thể nào quên, tưởng chừng con người chính là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa
lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa "đèo cao, nắng ánh", ở vị trí trung tâm
giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên cả không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên
nhiên, làm chủ đất nước với hình ảnh kì vĩ, lớn lao.
Đông qua rồi xuân. Mùa xuân Việt Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Nhắc đến mùa xuân, người ta lại nhắc đến thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá vì
thế tràn đầy sức sống, đâm chồi, nảy lộc xanh non. Ngày xuân của Việt Bắc được Tổ
Hữu nhìn với cái nhìn rất độc đáo: "mơ nở trắng rừng". Nghệ thuật đảo ngữ "trắng
rừng" sử dụng từ "trắng" với vai trò động từ chứ không còn là tính từ chỉ màu sắc.
Thêm vào đó, động từ "nở" như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá
rừng, tạo nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên
thanh khiết hơn, trữ tình hơn.
Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn,
dịu dàng: "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc
hàng ngày. Động từ "chuối" kết hợp với trợ từ "từng" đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ
mỉ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con
người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.
Mùa hè đến, tiếng ve rộn rã vang lên khắp núi rừng:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Tưởng chừng chỉ cần tiếng ve ngân lên
đã làm tiết trời đột ngột chuyển từ xuân sang hè. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ
"Một tiếng chim kêu sáng cả rừng" của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà
gợi lên cả sự vận động của thời gian, của cuộc sống. Và trên cái nền vàng của rừng
phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho bức tranh thêm nên thơ, trữ tình.
Đó là hình ảnh: "cô em gái hái măng một mình", hái măng một mình nhưng không hề
cô đơn mà lại toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó. Câu thơ mang
nỗi niềm cảm thông và cảm kích người Việt Bắc, mà người đi không bao giờ quên
được những tình cảm chân thành ấy.
Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh núi rừng Việt Bắc
trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy,
những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt
Bắc, là tiếng hát của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát "ân
tình" khép lại bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và
cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa về tình yêu Tổ quốc.
Nếu câu lục nói về cảnh thì câu bát lại nói về người. Cái đẹp của bài thơ là sự hòa
quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Phong cảnh Việt Bắc đẹp, nên thơ, trữ
tình giàu sức sống như cái nền để làm nổi bật hình ảnh những con người Việt Bắc thật
đáng yêu, cần cù, giàu tình nghĩa, thủy chung, son sắt.
Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự
hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một
bức tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo
trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại
nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 10
"Việt Bắc" - bài thơ lục bát mang tầm vóc một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc
dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng
Thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ, Tố Hữu nói lên một cách thiết tha mặn nồng mối tình
Việt Bắc, mối tình cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ 10 câu dưới đây trích từ câu 43 đến câu 52 trong bài thơ "Việt Bắc" nói lên
bao nỗi nhớ vô cùng thắm thiết thủy chung đối với Việt Bắc: "Ta về mình có nhớ ta, …
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Hai câu thơ đầu là lời hỏi - đáp của "ta", của người cán bộ kháng chiến về xuôi, ta hỏi
mình "có nhớ ta". Dù về xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt
Bắc: "Ta về, ta nhớ những hoa cùng người". Chữ "ta", chữ "nhớ" được điệp lại thể
hiện một tấm lòng thủy chung son sắt. Nỗi nhớ ấy hướng về "những hoa cùng người",
hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc thân yêu: "Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người".
Hai chữ "mình - ta" xuất hiện ở tần số cao trong bài thơ, cũng như ở trong hai câu thơ
này đã thể hiện một cách rất đẹp tình cảm lứa đôi hòa quyện trong mối tình Việt Bắc,
đồng thời làm cho giọng thơ trở nên thiết tha bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở
nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.
Tám câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát nói lên một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh sắc,
một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hè, thu.
Nhớ mùa đông nhớ màu "xanh" của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu "đỏ tươi" của hoa
chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Nhớ người đi nương đi rẫy "dao gài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
thắt lưng" trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao "nắng ánh...". Con dao
của người đi nương rẫy phản quang "nắng ánh" rất gợi cảm:
"Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng".
Màu "xanh" của rừng, màu "đỏ tươi" của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của "nắng ánh"
từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt
của thiên nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ
cuộc đời trong kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn phát hiện về sức mạnh tinh
thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người
lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên "đèo cao" ngập nắng và lộng gió. Đoàn dân
công đi chiến dịch thì "bước chân nát đá muôn tàn lửa bay". Người chiến sĩ ra trận
mang theo sức mạnh vô địch của thời đại mới:
"Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo". ("Lên Tây Bắc")
Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ "nở trắng rừng". Chữ "trắng" là tính từ chỉ
màu sắc được chuyển từ loại thành bổ ngữ "nở trắng rừng", gợi lên một thế giới hoa
mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết mênh mông và bao
la. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ trong lòng ta câu thơ của Nguyễn Du tả
một nét xuân thơ mộng, trinh bạch trong "Truyện Kiều":
"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
Nhớ "mơ nở trắng rừng", nhớ người thợ thủ công đan nón "chuốt rừng sợi giang".
"Chuốt" nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng mảnh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ
mỉ mới có thể "chuốt từng sợi giang" để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ
kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có "ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của
đồng bào Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc thật đáng nhớ:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang".
Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu
vàng của rừng phách, là nhớ cô thiếu nữ đi "hái măng một mình" giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình".
Một chữ "đổ" tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống "đổ" xuống thúc giục ngày hè trôi
nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng chữ "đổ"
chuyển cảm giác tương tự: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá..." (Thơ duyên - 1938).
Câu thơ "Nhớ cô em gái hái măng một mình" là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh
điệu. Có vần lưng: "Gái" vần với "hái". Có điệp âm qua các phụ âm "m": "măng - một
- mình". Đây là những vần thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật
đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. "Cô em gái hái măng một mình" vẫn không cảm
thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, hái măng để góp phần "nuôi quân"
phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.
Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung".
Trăng xưa "vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân". Trăng Việt Bắc trong thơ Bác
Hồ là "trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa". Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng
trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng "rọi" qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi
màu "hòa bình" nên thơ. "Ai" là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, "nhớ ai" là nhớ về tất cả,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hy sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.
Đoạn thơ trên đây dào dạt tình thương mến. Nỗi thiết tha bồi hồi như thấm sâu vào
cảnh vật và lòng người, kẻ ở người về, mình nhớ ta, ta nhớ mình. Tình cảm ấy vô
cùng sâu nặng biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng sẽ qua đi, những tiếng hát ân
tình thủy chung ấy mãi mãi như một dấu son đỏ thắm in đậm trong lòng người.
Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở
đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng
10 - 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng - Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc
qua bốn mùa: đông - xuân - hè - thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp
riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của
hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trắng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc
trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không
phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em
gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những
phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ
cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân
tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.
Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ
được nói đến trong "Việt Bắc" cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp
trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển
và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.
Hình tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với
những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong
tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: "Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay..."
Thơ đích thực "là ảnh, là nhân ảnh..., từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô
hình bao la" (Nguyễn Tuân). Đoạn thơ trên đây gợi lên trong lòng ta tình mến yêu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Việt Bắc, tự hào về đất nước và con người Việt Nam. Đoạn thơ "nhịp mãi lên một tấm
lòng sứ điệp", để ta thương, ta nhớ về mối tình Việt Bắc, mối tình kháng chiến.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 11
Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ
với tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn
gắn bó với dân sâu sắc. Vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân
dân. Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị với phong các trữ
tình - chính trị sâu sắc đậm đà bản sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc. Có thể nói,
kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về
xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình. "Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"
Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính quyền từ
Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ sống gắn bó
với Việt Bắc nhiều năm, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
buổi chia tay lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là những ấn
tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp. "Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm,
nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta của
người cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta. Người cách mạng về xuôi
hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở nơi xa xôi , dù có xa cách
nhưng lòng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ "ta" và "nhớ" được điệp đi điệp lại thể
hiện lòng thủy chung son sắc. Nỗi nhớ hướng về "những hoa cùng người" hướng về
thiên nhiên , núi rừng và con người Việt Bắc. "Hoa" là sự kết tinh của hương sắc, còn
"người" là kết tinh của đời sống xã hội. Xét cho cùng, "người ta là hoa của đất". Hoa
và người được đặt cạnh nhau càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không
gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.
Những câu thơ tiếp theo tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu.
Cảnh và người hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một
câu thơ bát tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng riêng tạo thành một bức
tranh tứ bình ngập tràn ánh sáng , màu sắc , đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Mở đầu cho bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa Đông. Chúng ta vẫn luôn thắc
mắc rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên là Xuân, Hạ,
Thu, Đông lại là mùa Đông trước. có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là
vào tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông việt
bắc tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông trước.
Nhớ về mùa đông Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, âm u. Tố Hữu
nhớ đến những ngày màu đông rực rỡ, nắng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Bắc. nó giống như màu nên làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh "hoa
chuối đỏ tươi" - hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống
như ngọn đuốc, đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối,
lạnh lẽo của núi rừng nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm. Tô điểm thêm nét
đẹp đặc trưng của mùa Đông Việt Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, ẩn hiện lên
hình ảnh người nông dân lao động leo lên đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình ảnh
khỏe khoắn của người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ
thuật đảo ngữ, ông không dùng "ánh nắng" là một danh từ mà lại dùng "nắng ánh" -
một động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.
Kết thúc mùa đông lạnh giá, Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa Xuân ấm áp vui hơn
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Mùa xuân - hình ảnh bông hoa "mơ nở trắng rừng" là loài hoa đặc trưng của mùa xuân
nơi Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng. Màu không phải màu trăngs điểm như
trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du "cành lê trắng điểm một vài bông hoa". Đó là
màu trắng tinh khiết, tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa
xuân tinh khiết, nhẹ nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ nhớ đến những người đan nón. Hình
ảnh "người chuốt từng sợi giang" đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài
hoa của những con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà để đan thành
những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể thiếu của người dân nơi
đây và đó cũng có thể là thức quà tặng dành cho những người mà họ yêu thương.
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Khi âm thanh của tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng
phách đột ngột đổ vàng. Đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác
khi tiếng ve vang lên thì những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu
vàng. Cả không gian Việt Bắc như được nhuộm sắc vàng rực rỡ. Thời gian mang đến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình ảnh cô em hái măng . Ở
đó, toát lên được sự cần mẫn, cần cù siêng năng , chăm chỉ . Măng là thứ rau để nuôi
sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng một mình cho thấy được sự yên
tĩnh, thư thái. Câu thơ làm ta liên tưởng đến câu:
"Trám bùi để rụng, măng mai để già"
Nếu như đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, mùa hè là hoa
phách vàng. Vậy còn mùa thu là hoa gì? Mùa thu không có hoa mà mùa thu có người.
mà con người là loài hoa đẹp nhất. "Người ta là hoa của đất".
Khác với nền văn học trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm
tiêu chuẩn cho cái đẹp thì nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho
cái đẹp. Điều này được thể hiện rất rõ ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung"
Nếu câu thơ lục là câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có "tiếng hát ân tình".
Cặp đôi "trăng - nhạc" góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh, lãng mạn. Đất nước ta lúc
ấy đang trong thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở nhwunxg câu thơ của Tố Hữu ta
chỉ thấy được sự bình yên, hòa bình, êm ả và ân tình thủy chung
Đoạn thơ dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và người.
Kẻ ở người về thì "ta nhớ mình" "mình nhớ ta". Tình cảm ấy vô cùng tha thiết, thiêng
liêng, biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua nhưng ân tình thủy chung cách
mạng giữa Việt Bắc với con người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, in đậm trong lòng người.
Tóm lại, với 10 câu thơ , Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh , câu bát tả người,
Và sự hài hòa ấy tạo nên một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp , đầy màu sắc. Qua đó, Tố
Hữu bộc bạch được tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy
chung son sắc với những con người chất phát, hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào
của Tố Hữu với Việt Bắc . Và ở mỗi bản thân chúng ta, cần phải biết đến những địa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
danh của Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kỳ của nó. Điều
quan trọng hơn hết, chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của những chiến sĩ đã hi sinh
ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta có được một đất nước yên bình , xinh đẹp như ngày hôm nay.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 12
“Ôi! Nỗi nhớ, có bao giờ thế!”. Nỗi nhớ đi qua thời gian, vượt qua không gian. Nỗi
nhớ thấm sâu lòng người…Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt,da diết trong tâm hồn người chiến
sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu - nơi đã từng nuôi nấng mình
trong những ngày kháng chiến gian lao…. Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ
xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”:
mình có nhớ ta không? Riêng ta, ta vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình cảm
đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một,tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những
gì? Việt Bắc có gì để mà nhớ, để mà thương? Câu thơ đã trình bày rất rõ?
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
“Ta về, ta nhớ những hoa cùng người"
Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm
mát”. Trong bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên, giản dị, chân chất,
mộc mạc mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với
nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.
Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết
chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng.
Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng
vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có
ve kêu và có “ rừng phách đổ vàng”. Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi
màu vàng dìu dìu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ:
xanh, đỏ, vàng, trắng… Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc.
Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh
sinh động. Trong đó,những gam màu được sử dụng một cách hài hoà tự nhiên càng tô
thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi,
vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô
tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng vàng rực rỡ
và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi… Núi rừng Việt Bắc như một sinh thể
đang biến đổi trong từng khoảnh khắc….
Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trở nên hài hoà, nắng ấm, sinh động
hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người. Con người đang lồng vào thiên nhiên,
như một đoá hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp
với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hoà. Đây là
những con người lao động, gắn bó, hăng say với công việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”,
người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang
lên giữa đêm rừng núi xôn xao… Hình ảnh con người là nét đẹp của thiên nhiên thêm
rực rỡ. Chính họ đã thắp sáng thiên nhiên, làm cho thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ
đẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó họ đối xử với nhau bằng
tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thuỷ chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi
chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc… Những con người Việt
Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.
Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm
tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.”
Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế! Ta, mình làm sao có thể quên
nhau được. Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi
ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui
sống và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên
nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ
vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân
người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại….
Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài.Lời thơ giản dị mà
trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người
Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân
ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 13
Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng nhắc đến mảnh đất trung du
nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách
mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa lòng ta sao khỏi xuyến xao
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi "Ta –
mình" của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết "Khi ta ở chỉ là
nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt
nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga với
cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được. "Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật
nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng của
thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954 khi
Trung ương Đảng và Chính phủ Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã "Thủ đô gió
ngàn" về với "Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình". Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ
thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui
tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là
đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.
Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc "Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người"
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ "mình có nhớ ta" câu thơ thứ hai là tự trả lời
điệp từ "ta" lặp lại bốn lần cùng với âm "a" là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng
ngân xa tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những
ngày tháng gian khổ "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng" mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng
yêu của "hoa cùng người". Ở đây hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc,
còn người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son.
Hoa và người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét
riêng biệt độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho
đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa nhớ cảnh câu tám
dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những
ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong
thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng là màu hoa chuối đỏ
tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới bông hoa như những
bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét màu sắc vừa đối lập vừa
hài hòa vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu "đỏ tươi" – gam màu nóng của bông chuối
nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi
sáng ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có
của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Từ liên tưởng ấy ta thấy mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè
chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ
giữa màu xanh của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên
núi làm nương phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến "Đèo
cao nắng ánh dao gài thắt lưng". Trước thiên nhiên bao la con người dường như càng
trở nên kỳ vĩ hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy
một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở
ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của
nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng
đã xuất hiện ở một vị trí một tư thế đẹp nhất - "đèo cao". Con người đang chiếm lĩnh
đỉnh cao chiếm lĩnh núi rừng tự do "Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là
của chúng ta". Đây là tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng
giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang, con người ấy đã trở thành linh hồn của
bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của
cỏ cây hoa lá của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt Bắc cũng vậy:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng trong trẻo tinh khiết của hoa
mơ nở khắp rừng: "Ngày xuân mơ nở trắng rừng". Cụm từ "trắng rừng" được viết theo
phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu
sắc màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá và làm bừng sáng cả khu
rừng bởi sắc trắng mơ màng bâng khuâng dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức
sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu
viết về màu trắng ấy năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với
hoạt động "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng
ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần
mẫn tỉ mẩn khéo léo tài hoa nhanh nhẹn chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo
của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ "đổ" là động từ
mạnh diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng
cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia
nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài
niệm nên lung linh ánh sáng màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài
trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận
động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả
thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả
sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy là hình ảnh cô gái áo chàm cần
mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: "Nhớ cô em gái hái
măng một mình". Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn hiu hắt
như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình thơ mộng gần gũi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương
của cô gái. Đằng sau đó ẩn chứa biết bao niềm cảm thông trân trọng của tác giả.
Thu sang khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Không gian bao la tràn ngập ánh trăng đó là ánh trăng của tự do của hòa bình rọi sáng
niềm vui lên từng núi rừng từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy
ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
y tin thắng trận liên khu báo về
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng
hát trong trẻo của đồng bào dân tộc là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây
cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.
Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng
và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát "ân tình thủy chung" gợi cho người về và cả người
đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị vừa cổ điển vừa hiện đại đoạn thơ trên của Tố
Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt
Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau làm cho bức tranh trở nên gần
gũi thân quen sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung
quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 14
Tố Hữu được xem là “lá cờ đầu” trong phong trào thơ Cách mạng Việt Nam với
những tác phẩm lưu mãi với thời gian. Thơ ông viết về chính trị nhưng không khô
khan, mà ngược lại, dễ đi sâu vào lòng người bởi tình cảm và giọng văn trữ tình
truyền cảm. “Việt Bắc” được sáng tác trong hoàn cảnh chia ly tiễn biệt giữa quân và
dân tại căn cứ địa Việt Bắc sau kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được xem như lời
tâm tình chan chứa nỗi niềm của Tố Hữu đối với mảnh đất anh hùng này. Đặc biệt
người đọc chắc hẳn sẽ không quên bức tranh tứ bình bằng thơ tuyệt đẹp trong “Việt Bắc”.
Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố
Hữu dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian
khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con
người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là
người “nặng” tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ lục bát nhuần nhuyễn như vậy.
Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của
núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được
chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của “xứ Tiên” này.
Khổ thơ được mào đầu bằng câu đối đáp nhẹ nhàng giữa “ta” – “mình”: Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Thật khéo léo và tinh tế khi Tố Hữu truyền đạt tình cảm một cách kín đáo như thế này.
Ngôn ngữ gần gũi, cách diễn tả nhẹ nhàng cũng đã khiến người đọc thấy rất thấm. Tố
Hữu hỏi “người” nhưng thực ra là hỏi “mình” và câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi.
Lời mào đầu sâu sắc này sẽ dẫn người đọc lần lượt khám phá nét đặc trưng của núi
rừng Việt Bắc trải dọc theo 4 mùa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 15
Dẫn dắt người đọc cùng tham quan cảnh tiên nơi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một bức
tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy tin yêu:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Người đọc ngẩn ngơ trước mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc với vẻ đẹp đặc trưng của
nó. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua thơ Tố Hữu, cảnh sắc không buồn,
không trầm lắng, mà người lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”.
Màu đỏ của hoa chuối chính là nét điểm xuyết, là ánh sáng làm bừng lên khung cảnh
rừng núi mùa đông Việt Bắc. Đây được xem là nghệ thuật chấm phá rất đắc điệu của
Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh nắng hiếm hoi của
mùa đông hắt vào con dao mang theo bên người của người dân nơi đây bất chợt giúp
người đọc thấu được đời sống sinh hoạt và lao động của họ. Màu đỏ của hoa chuối
quyện với màu vàng của nắng trên đèo cao đã tạo thành một bức tranh mùa đông rạng rỡ, đầy hi vọng.
Bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên thật trữ tình, thơ mộng như tiên cảnh:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân nơi
núi rừng thật hiền hòa, dịu êm, ấm áp. Màu trắng của mơ gợi lên một bức tranh nên
thơ trên cái nền dịu nhẹ của màu sắc. Hoa mơ được xem là loài hoa báo hiệu mùa
xuân ở Tây bắc, cứ vào độ xuân thì, chúng ta sẽ bắt gặp trên những con đường màu
sắc ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan nón” với động tác
“chuốt từng sợi giang” thật gần gũi. Động từ “chuốt” được dùng rất khéo và tinh tế
khi diễn tả về hành động chuốt giang mềm mại, tỉ mỉ của người đan nón. Phải thật sâu
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
sắc và am hiểu thì Tố Hữu mới nhận ra được điều này. Chữ “chuốt” như thổi hồn vào
bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp thiên nhiên và con người.
Bức tranh mùa hè sôi động dưới ngòi bút của Tố Hữu:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Tiếng ve kêu vàng giữa “rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh.
Màu vàng của rừng phách là đặc trưng báo hiệu mùa hè về trên xứ sở vùng cao. Tiếng
ve như xé tan sự yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Từ “đổ” dùng
rất đắc điệu, là động từ mạnh, diễn tả sự chuyển biến quyết liệt, lôi cuốn của màu sắc.
Bức tranh mùa hè chợt bừng sáng, đầy sức sống với màu vàng rực của rừng phách. Ở
mỗi bức tranh thiên nhiên, người đọc đều thấy thấp thoáng bóng dáng con người. Có
thể nói đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối tâm giao giữa thiên nhiên
và con người. Giữa núi bao la, thấp thoáng bóng dáng “cô gái hái măng” tuyệt đẹp đã
khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.
Và cuối cùng chính là bức tranh mùa thu nhẹ nhàng:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Mùa thu về trên Tây Bắc với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên dường như
rất ưu ái cho mùa thu xứ bắc với sự tròn đầy, viên mãn của ánh trăng. Không phải là
ánh trăng bình thường, mà trăng nơi đây là trăng của hòa bình, ánh trăng tri kỉ rọi
chiếu những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng ấy đã mang đến vẻ đẹp
riêng của mùa thu Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân tình và thủy chung.
Thật vậy với 4 cặp thơ lục bát ngắn gọn, 4 mùa của thiên nhiên Việt Bắc được gợi tả
sắc nét, tràn đầy sức sống. Tác giả thật tài tình, khéo léo, vốn hiểu biết rộng cũng như
tình cảm sâu nặng đối với mảnh đất này mới có thể thổi hồn vào thơ. Bức tranh tứ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
bình này sẽ khiến cho người đọc thêm yêu, thêm hiểu hơn cảnh vật và con người nơi đây.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 16
Tố Hữu là một trong số những gương mặt tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Thơ ông là đỉnh cao của khuynh hướng trữ tình - chính trị, mang đậm khuynh hướng
sử thi, cảm hứng lãng mạn và tinh thần dân tộc. Và có thể nói, Việt Bắc là một trong
số những sáng tác tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ Tố Hữu. "Việt Bắc" là khúc anh
hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về kháng chiến và về con người. Và có
lẽ, những ai đã đọc Việt Bắc sẽ không thể nào quên được vẻ đẹp của bức tranh tứ bình
trong bài thơ - vẻ đẹp với sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Mở đầu đoạn thơ miêu tả bức tranh tứ bình trong "Việt Bắc" là một câu hỏi tu từ - một
câu hỏi để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng khôn nguôi:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Với hình thức câu hỏi tu từ, ngắt nhịp chẵn cùng việc sử dụng điệp từ "ta" tác giả như
muốn nhấn mạnh nỗi nhớ, cùng tấm lòng thủy chung son sắt của mình. Nỗi nhớ ấy,
tấm lòng ấy gửi đến "hoa cùng người". Cách nói tách đôi "hoa" và "người" giúp người
đọc nhận thấy sự kết hợp hài hòa, đan xen vào nhau giữa "hoa" - thiên nhiên Việt Bắc
với "người" - những người dân Việt Bắc, những người tham gia vào cuộc kháng chiến
trường kì, gian khổ của dân tộc.
Những nét vẽ đầu tiên cho bức tranh tứ bình trong bài thơ là khung cảnh mùa đông
đẹp đẽ, tràn đầy sức sống nơi núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Hình ảnh thiên nhiên gợi ấn tượng đậm nét với bạn đọc về khung cảnh thiên nhiên
Việt Bắc vào đông với một màu xanh bạt ngàn, vô tận ánh ngời lên sức sống mãnh liệt
của thiên nhiên, cảnh vật nơi đây. Và để rồi, trên cái nền xanh ấy là sự điểm xuyết
màu đỏ rực rỡ của những bông hoa chuối rừng. Hai gam màu ấy quyện hòa vào nhau
dưới ánh nắng vàng làm cho bức tranh thêm sinh động ấm áp. Trên cái nền thiên nhiên
vào đông ấy, hình ảnh con người hiện lên thật khỏe khoắn, mạnh mẽ và đầy chủ động
"dao gài thắt lưng". Con người ở đây được đặt trong không gian thiên nhiên rộng lớn,
bao la, kì vĩ song vẫn nổi bật lên một cách vững chãi, sánh ngang với tầm vóc thiên nhiên.
Không chỉ là khung cảnh Việt Bắc vào đông mà hình ảnh vào xuân của thiên nhiên
Việt Bắc cũng được tác giả miêu tả một cách sinh động, độc đáo:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Có thể nói, sắc trắng của hoa đào, hoa mận đã trở thành nét đặc trưng riêng của thiên
nhiên Tây Bắc mỗi độ xuân về và ở đây, tác giả Tố Hữu đã thể hiện rõ điều đó. Đó là
một bức tranh mùa xuân viên mãn và tràn đầy sức sống với sắc trắng của rừng mơ tinh
khôi, trẻ trung, thơ mộng. Cái đẹp, cái quyến rũ của thiên nhiên dường như được tăng
lên bội phần bởi chính cảm xúc trầm trồ, ngưỡng mộ của tác giả qua cách sử dụng từ
"trắng rừng". Trên cái nền xao xuyến ấy của thiên nhiên, hình ảnh con người hiện lên
thật lặng lẽ. Từng động tác "chuốt từng sợi giang" vừa gợi sự cẩn trọng, tỉ mỉ vừa gợi
sự khéo léo, tài hoa của những người lao động Việt Bắc. Dường như, bao nhiêu yêu
thương, bao nhiêu ân tình được người lao động gửi trọn vào trong đấy.
Nếu như bức tranh mùa xuân được tác giả vẽ lên bằng màu sắc của thiên nhiên Việt
Bắc thì bức tranh mùa hè được tác giả gợi nên từ cả màu sắc lẫn âm thanh:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Thiên nhiên có sự quyện hòa giữa sắc vàng của phách và âm thanh của tiếng ve để rồi
như rộn lên những cảm xúc yêu mến, xốn xao khi phải chia li. Âm thanh và màu sắc
cộng hưởng vào nhau, dường như, tiếng ve đã đánh thức màu sắc để tạo nên sự
chuyển động mau lẹ "rừng phách đổ vàng". Chữ "đổ" được tác giả sử dụng thật tinh
tế, gợi nên sự căng tròn, tràn trề và cả nguồn sống rạo rực. Trong cảnh sắc ấy, con
người vẫn âm thầm "một mình" chăm chỉ "hái măng". Đó chính là hình ảnh người lao
động chịu thương, chịu khó lặng thầm cống hiến cho đất nước, cho kháng chiến.
Hình ảnh kết thúc bức tranh tứ bình trong Việt Bắc đó chính là bức tranh về mùa thu - mùa thu hòa bình:
Mùa thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ trong vẻ êm đềm, thơ mộng với ánh trăng
tỏa sáng, chiếu rọi khắp núi rừng. "Trăng rọi hòa bình" là hình ảnh gợi tới ngày mai
tươi sáng. Có thể nói, đây là một hình ảnh thơ được tạo nên bởi sự hòa quyện giữa
cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng lịch sử. Và để rồi, trong không khí ấy, con người
hiện lên không phải bởi gương mặt, hình dáng mà bởi tiếng hát, với nét đẹp tâm hồn
từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam: ân tình, thủy chung, lạc quan và luôn tin vào một ngày mai tươi sáng.
Tóm lại, bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc hiện lên thật đẹp, thật sinh động bởi
nó có sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Đồng thời, qua đó, chúng
ta thấy được tài năng của Tố Hữu trong việc sử dụng ngôn ngữ, lựa chọn hình ảnh và
tấm lòng ân tình, thủy chung của ông đối với quê hương cách mạng Việt Bắc.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 17
Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho
những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ - là biểu hiện của những tình cảm
sâu sắc, là ước mơ cao đẹp con người luôn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phá của những tình cảm mãnh liệt.
Ta tìm đến với một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta
cũng đồng cảm với họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu ở từng lời thơ, câu chữ vả cả
cái tôi tài tình, giọng điệu tài hoa hay cả đến sự sáng tạo bậc thầy. Trong số những thi
sĩ từng mến yêu thì Tố Hữu là một nhà thơ như thế.
Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ Tố Hữu
là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Thơ ông mang tính
chất trữ tình chính trị sâu sắc và giàu tính dân tộc, là biểu hiện của những lẽ sống lớn,
tình cảm lớn, niềm vui lớn. Chính vì vậy mà đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu người
đọc có thể thấy được những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Nói về các tác
phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc.
“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết
thúc thắng lợi. Đây là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc
trở về Hà Nội. Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người
cán bộ với nhân dân Việt Bắc sau thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó cùng nhau trải qua mọi gian khổ.
Trong bài thơ tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp lối hát
đối đáp như ca dao dân ca để tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người
chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hòa quyện thắm thiết giữa cảnh
với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong
lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình trong bức tranh tứ bình: Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca
kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử tháng 10 năm l954,
những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy,
bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ
mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác
Hồ, với đất nước và nhân dân-tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta
vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình
thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Bàn về thơ, Chenier đã từng nói: Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới
là thi sĩ. Một bài thơ có giá trị, ấy là khi nó bao quát và thể hiện được tư tưởng cảm
xúc của người nghệ sĩ, ấy là khi nó viết lên bằng những dòng thơ, những câu thơ chân
thành, sâu lắng, tất cả đều bắt nguồn từ thẳm sâu trái tim người viết. Nằm trong quy
luật ấy, những năm đầu thế kỷ XX, những nhà thơ Mới đương thời ảnh hưởng mạnh
mẽ thơ ca lãng mạn phương Tây, của Rimbaud, Verlaine…thì Tố Hữu lặng lẽ tìm về
với những vần thơ lục bát của dân tộc. Chính điều này đã tạo nên một thi sĩ Tố Hữu
riêng biệt, độc đáo, chính trị mà rất trữ tình.
Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố
Hữu dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian
khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là
người “nặng nợ” ân tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ lục
bát nhuần nhuyễn như vậy. Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức
tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố
Hữu. Người đọc sẽ được chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của núi rừng này.
Hai câu thơ mở đầu mang đến cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ
nhung không nguôi về Việt Bắc: Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào hồn người và cảnh
vật-“ta về mình có nhớ ta”. Đây là câu hỏi ngọt ngào phảng phất hương vị của tình
yêu. Hỏi đấy nhưng là hỏi để bộc lộ cảm xúc, hỏi để rồi lại bồi hồi xao xuyến phút
chia xa. Vẫn là cách xưng hô “mình-ta” ngọt ngào gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ người
đi, “mình” chỉ người ở lại. “Ta-mình” còn gợi bao lời nồng nàn của ca dao tình yêu
lứa đôi: “Mình về ta chẳng cho về-Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ” hay “Mình về mình
nhớ ta chăng-Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”.
Nét đặc sắc của Tố Hữu là ở chỗ, viết về sự kiện lịch sử, về chuyện chính trị nhưng
không hề khô khan, cứng nhắc. Đó là nhờ nhà thơ đã vận dụng sáng tạo hai đại từ
nhân xưng “mình-ta” cũng như sử dụng sáng tạo thể thơ lục bát nhuần nhuyễn trong
điệu lối đối đáp trữ tình. Chuyện chia tay của nhân dân và cách mạng đã được lãng
mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau vì nghĩa vụ cách
mạng. Lời thơ vì thế trở nên dạt dào hương vị trữ tình, chuyện cách dễ dàng đi vào
lòng người, gây nhung nhớ, chạm đến trái tim.
Câu thơ thứ hai như một lời khẳng định: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Hai
câu thơ đầy ắp những “ta”, “mình”, những “mình nhớ”, “ta nhớ” kết hợp điệp từ “ta”
với âm “a” (âm mở) khiến cho nỗi nhớ như vang vọng, mênh mang, sâu lắng hơn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”. “Hoa” là ẩn dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc.
“Hoa” cũng là cách nói hoán dụ cho ta cảm nhận: Trong tâm hồn người ra đi thì ký ức
còn lại là những ký ức rất đẹp. Còn “Người” là vẻ đẹp của con người lao động nơi
đây. Chữ “cùng” trong “nhớ những hoa cùng người” rất sáng tạo. Nó gợi lên nỗi nhớ
lắng sâu da diết. Nỗi nhớ cùng lúc đồng hiện hoa và người. Nhớ hoa thì trong hoa lấp
lánh bóng người, mà nhớ người thì trên khuôn mặt người lấp lánh bóng hoa. Có lẽ vì
vậy mà bốn cặp lục bát tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến người.
Hoa và người đan cài vào nhau dệt nên bộ tứ bình lộng lẫy.
Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho
những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ là biểu hiện của những tình cảm sâu
sắc, là ước mơ cao đẹp mà con người luôn muốn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của
tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phát của những
tình cảm mãnh liệt. Ta tìm đến một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người
nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu trong
từng lời thơ con chữ. Bởi “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” thì “Việt
Bắc” của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp.
Bài thơ đi vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, khắc họa
sâu sắc nỗi niềm của những người con dời “thủ đô kháng chiến”, thâm tâm đầy ắp kỷ
niệm nhớ thương. Trong tâm trạng kẻ ở-người đi, hình bóng của núi rừng, con người
Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Để hôm nay,
những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc màu, âm thanh tươi rói hơi
thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm của tình người lan toả.
Mở đầu bộ tứ bình là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống. Vẻ đẹp của thiên nhiên
núi rừng Việt Bắc được đan cài, hòa quyện vào vẻ đẹp của con người Việt Bắc trong
lao động và sản xuất. Trong đoạn thơ, cứ 1 câu lục tả cảnh là một câu bát tả người,
thiên nhiên và con người đã hòa nhập, tỏa sáng bức tranh thơ.Tố Hữu đã khéo léo vận
dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca gói trọn bốn mùa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Xuân-Hạ-Thu-Đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hòa nhất. Mỗi bức tranh gồm
hai mảng: Một mảng xa, một mảng gần. Mỗi bức đều có sự gắn bó giữa thiên nhiên
với con người, sự gắn bó trong nỗi nhớ những hoa cùng người của nhà thơ:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những
ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Núi rừng Việt Bắc bao trùm
một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già-màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống. Nét
son của bức tranh núi rừng ở đây là có sự điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát
bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng
mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức
tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái
màu “đỏ tươi”-gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi
rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức
sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng.
Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương
Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè
chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ
giữa màu xanh của núi rừng.
Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp khỏe khoắn của người. “Nắng ánh dao gài thắt
lưng” là hình ảnh của người dân miền sơn cước. Cách hoán dụ không phải tình cờ
ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng, vật bất ly thân của người miền núi, nét đặc trưng
của cuộc sống Việt Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật
trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông mang trong mình nét
hiên ngang hùng vĩ của núi rừng. Hình ảnh “dao gài thắt lưng” là vẻ đẹp của con
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
người trong tư thế đang đứng trên đỉnh đèo, ánh sáng mặt trời chói vào lưỡi dao lóe
sáng. Đây là vẻ đẹp của sự vững chãi, tự tin, làm chủ núi rừng của con người Việt
Bắc-họ đang cố gắng sản xuất nhiều lúa gạo hơn nữa cho cuộc kháng chiến.
Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở
đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất.
Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang
ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như
một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp
nhất-“đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do “Núi
rừng đây là của chúng ta/Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy
kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh
mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Có thể nói rằng: Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc
và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ-Đặng Thai Mai. Bởi thế thơ chính
trị đã được thơ Tố Hữu đưa lên đến độ rất đỗi trữ tình, song hành với những biến cố,
sự kiện trọng đại của dân tộc. Sự kết hợp sáng tạo ấy rất nhẹ nhàng, sâu lắng, tinh tế,
cứ thế thấm vào lòng người bằng ý, bằng tình, bằng cảm xúc của 15 năm gắn bó nghĩa tình.
Với người nghệ sĩ thì thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng
hay những giọt nước mắt cay đắng. Thơ là cây đàn muôn điệu gảy lên những cung bậc
cảm xúc của con người, là biểu hiện cho những tình cảm thầm kín, hồn nhiên nhất.
Như Tố Hữu từng nói: Bài thơ hay là bài thơ làm cho người ta không còn thấy câu
thơ, chỉ còn cảm thấy tình người, quên rằng nó là tiếng nói của ai, người ta chỉ còn
cảm thấy nó như tiếng ca cách lên từ lòng mình như là của mình vậy. Thơ ca chính là
sự kết tinh giữa chữ tình và cái tài của thi nhân. Tình chính là tâm sơ còn cái tài lại là
cái cách biểu đạt qua từng con chữ. Để có thể chạm vào vào trái tim người đọc thì mỗi
tác phẩm không chỉ mang theo tâm tình, nỗi lòng, tình yêu của tác giả.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Chưa hết ngỡ ngàng bởi bức tranh mùa đông đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, người
đọc lại đắm mình trong bức tranh xuân đang bừng sáng sức sống hoang dại, mãnh liệt
của thiên nhiên mùa xuân ở Việt Bắc.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Cùng với sự chuyển mùa là sự chuyển màu trong bức tranh, đông qua, xuân lại tới.
Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm
loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy. Bao
trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ
nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Cụm từ “trắng rừng” được viết theo
phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu
sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu
rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức
sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống.
Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng
đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ. (“Theo chân Bác”)
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng
(“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”)
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan tỏa khắp
núi rừng Việt Bắc. Giữa nền trắng hoa mơ nổi bật “người đan nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ
thể đến từng chi tiết “chuốt từng sợi giang”. Dường như đối với Tố Hữu bao nhiêu sợi
giang là bấy nhiêu sợi nhớ. Nỗi nhớ cứ liên tiếp, đan xen vào nhau và kéo dài suốt bốn
mùa trong năm. Trong tả cảnh không có một âm vang nào của núi rừng nhưng vẻ đẹp
của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người.
Trong nốt ngân vang trong trẻo, tràn sức sống đó, mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn
nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”.
Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ
đã nói lên được bàn tay của con người lao động: Cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa,
nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.
Dường như bao nhiêu yêu thương, đợi chờ, mong ngóng họ đang gửi vào sợi nhớ, sợi
thương để dệt nên những vành nón nghĩa tình gửi ra cho cán bộ, dân công ngoài mặt trận.
Hai câu thơ mùa xuân khơi dậy những cảm xúc thẩm mỹ tuyệt đẹp trong hoài niệm
dìu dặt, nhắc người cán bộ bịn rịn về xuôi. Ai đó đã nói rằng: “Thơ hay phải có dư vị
văn chương”. Trong những năm dài sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có
lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy “dư vị” của nó.
Khi xưa, phải chăng Beethoven đã viết bản nhạc bằng những xúc cảm tinh tế mà mãnh
liệt nhất ngay khi nhìn thấy cảnh sống của cha con cô gái mù. Còn Tố Hữu cũng đã
từng khẳng định: “Thơ là chuyện đồng điệu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, là tiếng nói
đồng chí”. Phải chăng nỗi nhớ, sự gắn bó keo sơn, máu thịt suốt 15 năm kháng chiến
đã hòa quyện thành lời, thành thơ rưng rưng trong Việt Bắc.
Sau vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc ở mùa xuân là bức tranh mùa hạ
Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang
những đường nét hiện đại:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Câu thơ thứ nhất là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của mùa hè với hai ấn tượng: Tiếng
ve và phách đổ vàng. Tiếng ve là đặc trưng của mùa hạ; còn phách đổ vàng là đặc
trưng của mùa hè Việt Bắc. Chữ “đổ” được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó làm hiện
lên đồng thời cùng lúc hai hoạt động. Hoạt động của âm thanh và hoạt động của sắc
màu. Dường như khi tiếng ve vừa đổ xuống thì cũng là lúc cả cánh rừng phách đồng
loạt chuyển sang màu vàng.
Tiếng ve lan đến đâu, sắc vàng dậy lên đến đó. Ý thơ gợi nhớ một câu thơ của
Khương Hữu Dụng: “một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Đó là nghệ thuật dùng âm
thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy, cảnh thực
mà vô cùng huyền ảo. Nghệ thuật ấy vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa
diễn tả tài tình và chính xác khoảnh khắc hè sang. Bức tranh mùa hè vì thế mà hiện lên
tươi tắn, thơ mộng, dịu mát chứ không hề chói chang như trong thơ ca cổ kim. Động
từ “đổ” được Tố Hữu dùng rất tinh tế và chính xác để diễn tả sự chuyển biến mau lẹ của sắc màu.
Cũng giống như từ “đổ” trong câu thơ của Xuân Diệu: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”.
Hiện lên giữa nền thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần
mẫn đi hái búp măng rừng: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hai chữ “một mình”
giàu sức gợi. Nó vừa gợi lên dáng vẻ con người lao động cặm cụi, siêng năng, chịu
thương chịu khó; vừa gợi nhớ ca dao: “Trúc xinh trúc mọc đầu đình-em xinh em đứng
một mình cũng xinh”. Ý thơ ẩn chứa nỗi nhớ, niềm yêu, sự trân trọng của nhà thơ
dành cho người em gái thương yêu.
Chuyện cách mạng, chính trị qua các thể thơ, lối đối đáp “mình-ta” nó trở nên ngọt
ngào, trữ tình quá đỗi thực sự là một sự thành công lớn trong sáng tạo nghệ thuật của
Tố Hữu. Đúng như Xuân Diệu đã khẳng định: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến
trình độ là thơ rất đỗi trữ tình, vì vậy, Tố Hữu xứng đáng là thi sĩ của nhân dân, là “Lá
cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Người thợ làm bánh làm ra chiếc bánh thạch bằng một tình yêu với món bánh quê
nhà, người họa sĩ vẽ bức tranh mùa thu bằng cái hồn say đắm thiên nhiên đất nước.
Còn nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu “Việt Bắc” thơ bằng chính rung động của
mình trước cuộc chia tay, trước những hoài niệm của những năm tháng gian khổ, hào
hùng không thể nào quên với đồng bào Việt Bắc. Đó chính là cốt lõi của sức mạnh thơ
Tố Hữu trong những ngày nói với trái tim, nói với chính mình.
Khép lại bộ tranh tứ bình Việt Bắc là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã
bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền
ảo lung linh, dịu mát. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự
do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên rừng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng
từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:
Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về.
Không gian chuyển về đêm như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mĩ của núi rừng Việt Bắc.
Đêm thu và ánh trăng nhẹ nhàng như lan toả vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của
khu rừng dưới ánh trăng gợi lên sự huyền ảo, khung cảnh gợi hồn thơ. Nỗi nhớ cũng
mênh mang như ánh trăng trở thành “tiếng hát ân tình thuỷ chung”.
Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng
hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây
cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó
thiết tha mặn nồng. Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi
cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.
Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của
Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt
Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên
gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung
quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi. Nhà phê bình văn học Hoài
Thanh đã từng nhận xét: Những câu thơ Tố Hữu viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có
thể so sánh với bất kì đoạn thơ miêu tả thiên nhiên nào trong thơ cổ điển.
Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Câu chuyện
chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa
thành giống như cuộc chia tay của “ta” và “mình”, của anh-em, đôi lứa…Việt Bắc là
bài thơ có tính dân tộc đậm đà, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Bài thơ viết
bằng thể thơ lục bát, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, dễ ngâm, dễ hát, thấm đượm ở đề
tài, nội dung, hình thức nghệ thuật, đặc biệt là tình cảm của nhân vật trữ tình ở chiều sâu tư tưởng, cảm xúc.
“Việt Bắc” là khúc ân tình chung của những người cách mạng, của cả dân tộc qua
tiếng lòng của tác giả. Cái chung hòa trong cái riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung.
Tình cảm, kỉ niệm đã thành ân tình, tình nghĩa với đất nước, với nhân dân và cách
mạng. Thông qua nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc, tác giả khẳng định lòng biết ơn, lòng
thủy chung sắc son của người cán bộ kháng chiến đối với nghĩa tình sâu nặng của quê
hương và con người Việt Bắc.
Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du
nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình-nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách
mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao
bồi hồi. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/Khi ta đi
đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm
ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.
Dù dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi, bao đời người dâu bể, bao thế kỷ thăng
trầm, âm thầm cái công việc của nó là phủi bụi, xoá bỏ tất cả nhưng những gì là thơ, là
văn, là nghệ thuật sẽ còn sống mãi trong đó có những vần thơ của Tố Hữu mãi mãi trường tồn.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 18
Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng
chiến, ta không thể không nhắc đến Tố Hữu với một giọng thơ đầy tính chiến đấu, đầy
lý tưởng, một phong cách thơ trữ tình chính trị. Tuy nhiên, trong những bài thơ ấy vẫn
chất chứa những hình ảnh đậm chất trữ tình, giàu chất thơ, mượt mà và tươi sáng. Bức
tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc chính là minh chứng tiêu biểu:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa trong đó một nỗi nhớ
nhung da diết cùng tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng và người cán bộ nói chung dành cho Việt Bắc:
"Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người"
Hai câu thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại thế nào và tự
bộc lộ tấm lòng của mình. Điệp ngữ "ta về" mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những
nỗi niềm của người từ giã. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh "hoa cùng người", phải
chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh tạo nên nét
hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào nhau, khi tách biệt để
tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếp sau hình ảnh hoa và người là bức tranh bốn mùa Việt
Bắc được vẽ ra hết sức chân thật cùng những màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:
"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đeo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện ra đầu tiên.
Tác giả khắc họa mùa đông trước có lẽ bởi vì khi người cách mạng đến đây cũng vào
mùa đông của đất nước và cũng chính thời điểm ấy sau mười lăm năm, người cách
mạng cũng từ biệt Việt Bắc - cái nôi cách mạng Việt Nam.
Giữa cái nền xanh tươi của rừng thẳm nổi bật hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi,
làm cho núi rừng không lạnh lẽo hoang vu mà trở nên ấm áp lạ thường. Những bông
hoa chuối ẩn trong sương như những ngọn đuốc hồng soi sáng chặng đường mà ta
từng bắt gặp trong bài thơ Tây Tiến: "Mường lát hoa về trong đêm hơi". Cái "đỏ tươi"
của hoa chuối như xóa nhòa đi sự lạnh lẽo cô độc của mùa đông lạnh lẽo của núi rừng,
như chất chứa, tiềm ẩn sức sống của đất trời. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài
hòa trong cách diễn đạt khiến mùa đông nơi đây mang hơi hướng của mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi:
"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Giữa thiên nhiên ấy, nét đẹp của con người Tây Bắc hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:
"Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"
Người Việt Bắc đi rừng bao giờ cũng gài một con dao ở thắt lưng để phát quang
những chướng ngại và đề phòng thú dữ. Ở đây tác giả không miêu tả gương mặt hay
thần thái mà miêu tả ánh sáng phản chiếu nơi lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt
trời chiếu xuống làm cho con dao lấy lánh ánh sáng tạo nên hình ảnh con người thật
đẹp không thể nào quên, tưởng chừng con người chính là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa
lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa "đèo cao, nắng ánh", ở vị trí trung tâm
giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên cả không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên
nhiên, làm chủ đất nước với hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao.
Đông qua rồi xuân. Mùa xuân Việt Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:
"Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang"
Nhắc đến mùa xuân, người ta lại nhắc đến thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá vì
thế tràn đầy sức sống, đâm chồi, nảy lộc xanh non. Ngày xuân của Việt Bắc được Tổ
Hữu nhìn với cái nhìn rất độc đáo: "mơ nở trắng rừng". Nghệ thuật đảo ngữ "trắng
rừng" sử dụng từ "trắng" với vai trò động từ chứ không còn là tính từ chỉ màu sắc.
Thêm vào đó, động từ "nở" như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá
rừng, tạo nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên
thanh khiết hơn, trữ tình hơn.
Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn,
dịu dàng: "chuốt từng sợi giang". Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc
hàng ngày. Động từ "chuốt" kết hợp với trợ từ "từng" đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
mĩ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con
người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.
Mùa hè đến, tiếng ve rộn rã vang lên khắp núi rừng:
"Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình"
Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Tưởng chừng chỉ cần tiếng ve ngân lên
đã làm tiết trời đột ngột chuyển từ xuân sang hè. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ
"Một tiếng chim kêu sáng cả rừng" của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà
gợi lên cả sự vận động của thời gian, của cuộc sống. Và trên cái nền vàng của rừng
phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho bức tranh thêm nên thơ, trữ tình.
Đó là hình ảnh: "cô em gái hái măng một mình", hái măng một mình nhưng không hề
cô đơn mà lại toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó. Câu thơ mang
nỗi niềm cảm thông và cảm kích người Việt Bắc, mà người đi không bao giờ quên
được những tình cảm chân thành ấy.
Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh núi rừng Việt Bắc
trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy,
những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:
"Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"
Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt
Bắc, là tiếng hát của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát "ân
tình" khép lại bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và
cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa về tình yêu Tổ quốc.
Nếu câu lục nói về cảnh thì câu bát lại nói về người. Cái đẹp của bài thơ là sự hòa
quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Phong cảnh Việt Bắc đẹp, nên thơ, trữ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
tình giàu sức sống như cái nền để làm nổi bật hình ảnh những con người Việt Bắc thật
đáng yêu, cần cù, giàu tình nghĩa, thủy chung, son sắt.
Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự
hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một
bức tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo
trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại
nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 19
Tố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ
có phong cách riêng trong sáng tác. Tô Hữu có giọng thơ trữ tình đằm thắm, các sáng
tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch sử dân tộc.
“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, được sáng tác sau chiến thắng Điện Biên Phủ,
miền Bắc được hoàn toàn giải phóng . Những cơ quan Chính phủ rời Việt Bắc về thủ
đô Hà nội. Tố Hữu đã viết bài thơ để ôn lại một thời kì kháng chiến gian khổ và hào
hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân
Việt Bắc, đối với quê hương cách mạng. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn lớp 12 nằm
ở phần I của bài thơ Việt Bắc. Trong bề bộn của những kí ức và hoài niệm, bức tranh
sáng, đẹp về Việt Bắc hiện ra trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên của kỉ niệm: "Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Câu đầu đoạn thơ như là lời ướm hỏi đầy lưu luyến của người ra đi đối với người ở
lại. “Ta về mình có nhớ ta”. Câu trên là câu hỏi không cần câu trả lời, nó được nêu ra
như một cái cớ cho sự giãi bày tâm tình ở câu dưới : “Ta về ta nhớ những hoa cùng
người”. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, mà cái đẹp của Việt Bắc
lại không thể tách rời cái đẹp của con người Việt Bắc. Vì vậy, như một cặp song hành
đối xứng, hễ nhớ đến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện lên dáng người.
Tám câu thơ tiếp theo vẽ ra bức tranh tứ bình về bốn mùa ở Việt Bắc. Trong nền thơ
ca và văn học Việt Nam, bức tranh tứ bình xuất hiện không ít , như khung cảnh ”trông
bốn bề” trong “Chinh phụ ngâm” ( Đoàn Thị Điểm ) , đoạn ”buồn trông” trong “Kiều
ở Lầu Ngưng Bích” ( Nguyễn Du ) , hay ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của
con hổ trong “Nhớ rừng” ( Thế Lữ ). Thế nhưng, trong Việt Bắc, bức tranh bốn mùa
hiện lên với vẻ đẹp và sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông – Xuân – Hạ – Thu.
Bước vào khung cảnh mùa đông Việt Bắc, đôi mắt ta như bị choáng ngợp bởi sắc
xanh bạt ngàn của núi rừng. Đâu đó hình ảnh hoa chuối bập bùng như những bó đuốc
làm cho không gian trở nên ấm áp, xua tan đi vẻ lạnh lẽo, hoang vu vốn có của mùa
đông. Trong ánh nắng dàn trải khắp không gian, ta thấy ánh lên tia sáng từ chiếc dao
gài thắt lưng của một người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, nắng từ trên cao
chói xuống dao ở thắt lưng, lóe sáng, nó tạo ra một dáng vẻ vững chãi và khí thế của
người làm chủ núi rừng.
Chuyển sang mùa xuân, màu xanh của cỏ cây nhường chỗ cho màu trắng tinh khiết ,
mơ mộng của hoa mơ. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới
cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc "Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về …Im lặng, con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ” (-Theo chân Bác- Tố Hữu)
Trên nền không gian trong sáng, tinh khôi đó, hình ảnh người đan nón cần mẫn, cẩn
trọng chuốt từng sợi giang tạo cho ta cảm giác thật ấm áp và bình dị.
Mùa xuân đi qua, mùa hạ đến. Nhắm mắt và lắng tai nghe, ta sẽ cảm nhận được “nhạc
ve”. Tác giả muốn nói đến tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách vàng hay muốn nói
chính tiếng ve kêu kéo màu vàng bao trùm lên rừng hoa phách ? Đây có thể nói là câu
thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất của Tố Hữu. Đọc câu thơ lên ta có thế cảm nhận được
sự chuyển đổi từ thính giác sang thị giác trước khung cảnh thiên nhiên. Đặc biệt từ
“đổ” gợi cho ta sự chuyển màu mau lẹ từ sắc trắng sang vàng , bừng sáng cả núi rừng
Việt Bắc. Ta chợt nhớ Khương Hữu Dụng cũng có một câu thơ có cấu trúc tương tự :
“Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Nếu Khương Hữu Dụng nhờ vào tiếng chim để
khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên buổi bình minh thì Tố Hữu dựa vào tiếng ve đã kéo cả
một mùa hè ra khỏi lớp vỏ cũ kĩ.
Hè đến, hình ảnh con người cũng xuất hiện với dáng vẻ hoàn toàn khác. Nếu như hai
mùa trước, bóng dáng con người chỉ xuất hiện một cách gián tiếp và thấp thoáng thì
lần này, con người Việt Bắc hiện ra rõ nét và sinh động hơn rất nhiều, dưới hình ảnh
một người thiếu nữ đang chăm chỉ hái măng một mình.
Từ ” cô em gái” mà tác giả sử dụng cất lên như lời gọi tình tứ, thân quen, thể hiện tình
cảm chân thành , tha thiết.
Ta chợt nhận ra dù bất cứ mùa nào, con người Việt Bắc cũng hiện lên trong dáng vẻ
lao động cần mẫn. Như vậy, trong đôi mắt tác giả, vẻ đẹp của con người chân chính
gắn liền với vẻ đẹp lao động, chuyên cần.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Tạm biệt mùa hè với những gam màu rực rỡ, mùa thu đến mang một cảm giác nhẹ
nhàng, bình yên. Mùa thu với ánh trăng huyền ảo, trải dài khắp núi rừng làm ta liên tưởng đến câu thơ:
"Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
(-Cảnh khuya- Hồ Chí Minh)
Trong thơ của Bác của Bác có tiếng hát của thiên nhiên thì trong thơ của Tố Hữu cũng
có tiếng hát: tiếng hát của con người, tiếng hát giữa người ở và người đi. Có thể nói
đây là bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua trập trùng
núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vương vít bước chân người
đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn người đọc.
Đặc biệt điệp từ “nhớ" được lặp lại nhiều lần khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương da diết.
Bức tranh có buổi trưa đầy ánh nắng, có bầu trời đêm mát dịu ánh trăng. Mùa nào
cũng có nét đẹp, nét đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh thơ mộng. Nhờ đó mà bức
tranh theo kiểu bộ tứ bình của nghệ thuật truyền thống Đông phương đã đạt đến độ hài
hòa, cân xứng theo hai mảng xa và gần : mảng xà là thiên nhiên, mảng gần là con
người, thiên nhiên và con người quấn quýt nhau. Thiên nhiên làm nền cho con người,
con người thổi hồn mình vào cảnh thiên nhiên khiến thiên nhiên trở nên sống động và
đẹp hơn. Tất cả hòa quyện vào nhau trong nỗi nhớ về Việt Bắc của người ra đi. Cùng
với giọng điệu tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ trữ tình, chính trị đã tạo nên sức hấp dẫn
riêng của bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đó ta thấy được tình cảm sâu
sắc, tha thiết của Tố Hữu dành cho thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc, quê hương cách mạng.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 20
"Ôi! Nỗi nhớ, có bao giờ thế!". Nỗi nhớ đi qua thời gian, vượt qua không gian. Nỗi
nhớ thấm sâu lòng người. Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt, da diết trong tâm hồn người chiến
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu-nơi đã từng nuôi nấng mình
trong những ngày kháng chiến gian lao.
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ " nhớ" đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ
xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi, "nhắc
khéo":mình có nhớ ta không?Riêng ta, ta vẫn nhớ!Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình
cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người ra đi nhớ
những gì?Việt Bắc có gì để mà nhớ, để mà thương?Câu thơ đã trình bày rất rõ?
"Ta về, ta nhớ những hoa cùng người'
Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như " hoa". Nó tươi thắm, rực rỡ và "thơm
mát". Trong bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên, giản dị, chân chất,
mộc mạc mà cao đẹp vô cùng!Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với
nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết
chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng.
Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối "đỏ tươi" và ánh nắng
vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có
ve kêu và có " rừng phách đổ vàng". Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi
màu vàng dìu dìu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ:
xanh, đỏ, vàng, trắng. Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc. Tiếp
xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh
động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hoà tự nhiên càng tô
thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.
Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi,
vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô
tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa "mơ nở trắng rừng", trưa nắng vàng rực rỡ
và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi. Núi rừng Việt Bắc như một sinh thể đang
biến đổi trong từng khoảnh khắc.
Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trở nên hài hoà, nắng ấm, sinh động
hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người. con người đang lồng vào thiên nhiên,
như một đoá hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp
với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hoà. Đây là
những con người lao động, gắn bó, hăng say với công việc. Kẻ "dao gài thắt lưng",
người " đan nón", "cô em gái hái măng một mình" và tiếng hát ân tình của ai đó vang
lên giữa đêm rừng núi xôn xao. Hình ảnh con người là nét đẹp của thiên nhiên thêm
rực rỡ. Chính họ đã thắp sáng thiên nhiên, làm cho thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ
đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ
đẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. ở đó họ đối xử với nhau bằng
tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thuỷ chung "trước sau như một". Họ đã nuôi
chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc. Những con người Việt
Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm
tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:
"Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. "
Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế!Ta, mình làm sao có thể quên
nhau được. Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi
ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.
Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và
tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con
người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên
tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và
quấn quýt bên lòng kẻ ở lại.
Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài. Lời thơ giản dị mà
trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người
Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân
ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 21
Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của Tố Hữu và cũng là của thơ ca Việt Nam
thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp. Mượn lời đối đáp của một đôi bạn tình trong
phút chia tay, bài thơ thể hiện tình sâu nghĩa nặng của các dân tộc Việt Bắc đối với
cách mạng, với Đảng và Bác Hồ; đồng thời bộc lộ tình cảm mặn nồng thủy chung của
người cán bộ cách mạng, cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc mà nhà thơ gọi một
cách trân trọng là “quê hương cách mạng”. Rời Việt Bắc, bao nhiêu nỗi nhớ dâng đầy
trong lòng người ra đi. Người cán bộ cách mạng không quên dành một khoảng nhớ
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
thiết tha cho thiên nhiên và con người Việt Bắc. Nội dung ấy được thể hiện bằng năm
cặp thơ lục bát vừa mượt mà, đằm thắm, vừa êm ả như ca dao lại vừa trang trọng như
những vần thơ cổ điển:
Ta về, mình có nhớ ta ...........
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Đoạn thơ này thể hiện nỗi nhớ của người miền xuôi đối với quê hương cách mạng
nhưng nếu tách ra thì nó giống như một bài thơ hoàn chỉnh – bài thơ ca ngợi thiên
nhiên và con người Việt Bắc, mảnh đất đã từng gắn bó máu thịt với người cán bộ
miền xuôi. Những câu thơ tự nhiên như tuôn chảy từ trong lòng, không một chút dụng
công mà thiên nhiên Việt Bắc cũng như con người nơi đây hiện lên trên trang thơ đẹp
như một bộ tứ bình. Vì sao vậy? Có lẽ vì thi nhân đã bao nhiêu năm trời sống cùng
đồng bào Việt Bắc, mến thương từng hoạt động của họ, đã bao nhiêu mùa ngắm nhìn
phong cảnh, thuộc các mùa hoa của núi rừng. Nói cách khác,thiên nhiên và con người
Việt Bắc đã có chỗ đứng danh dự trong tâm hồn nhà thơ, làm nên máu thịt của thi sĩ
để lúc này, khi chia tay Việt Bắc, cảm xúc yêu thương đã đến độ chín ấy như tự nó
chảy trên trang giấy mà thành thơ vậy. Phải chăng đó là chân lí mà Chế Lan Viên đã
[từng khái quát: “Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”?
Đoạn thơ gồm năm cặp thơ lục bát thì cặp thơ đầu tiên giới thiệu chung về nội dung
và cảm xúc, vừa là lời thoại lại vừa là cái có đế tác giả bày tỏ lòng mình:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Cuộc chia tay giữa những người kháng chiến và Việt Bắc, giữa miền ngược và miền
xuôi đã trở thành cuộc chia tay giữa những người yêu nhau với lối hát giao duyên, với
cách xưng hô “mình” – “ta” thân thiết, trìu mến. Đây cũng chính là sự nổi tiếp giọng
điệu trữ tình thống nhất trong toàn bài. Cách điệp từ ” ta về” ở đâu cầu đã tạo ra một
sự đăng đối rat tinh tế. Câu trên là hồ người, câu dưới lại là giãi bày lòng mình với
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
một giọng điệu chân tình, ngọt ngào, tha thiết. Đặt câu hỏi trước khi giãi bày tâm sự,
tác giả Tố Hữu đà khiến cho tình cảm của kẻ ở người đi có quan hệ hai chiều và nhờ
đó mà quân quýt, khắng khít, khiến cho lòng người vương vấn nhiều hơn. Có lẽ đó
cũng là lý do khiến cho cách xưng hô “mình” — “ta” cứ trở đi trở lại trong hai dòng
thơ và chiếm tới một nửa dung lượng của câu thơ sáu chữ. Cùng với phong vị phảng
phất ca dao, câu thơ đã tạo ra một lối nói đưa đẩy mặn mà, thắm thiết. Nỗi nhớ về
những tháng ngày gắn bó với cảnh và người Việt Bắc cứ hiện dần lên trong tâm trí
người đi: nhớ trước nhất là “hoa cùng người”. Từ “cùng” được sử dụng không chỉ
biểu hiện sự phong phú của vẻ đẹp miền đất này mà còn gợi lên một cảm giác giao
hòa, đăng đối. Hoa và người cùng hòa quyện, cùng sóng đôi trong nỗi nhớ cũng như
cái đẹp thiên nhiên Việt Bắc không thể tách rời vẻ đẹp của con người nơi đây.
Bốn cặp lục bát tiếp theo thực sự là một bộ tranh tứ bình ngợi ca thiên nhiên và con
người Việt Bắc – một bộ tranh lộng lẫy những sắc màu và ánh sáng, được hiện lên qua
nỗi nhớ của tác giả. Đầu tiên là hình ảnh một cánh rừng xanh với hoa chuối đỏ, mà lại
đỏ tươi như những bó đuốc bập bùng cháy xua đi cái giá rét của mùa đông;
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi” Câu thơ miêu tả mùa đông nơi núi rừng Việt Bắc
nhưng không gợi lên cái lạnh lẽo, hoang vu, thê lương mà thể hiện ấn tượng về một
cuộc sống đang hồi sinh trên quê hương cách mạng. Mùa đông xuất hiện trong câu thơ
tươi tắn và ấm áp. Trên cái nền xanh mênh mông của núi rừng Việt Bắc bỗng tràn
ngập một gam màu rực rỡ, ấm nóng với hình ảnh của hoa chuối rừng. Nó giống như
những đốm lửa lớn mang một vẻ đẹp lạ kỳ, đầy ấn tượng. Như sự tiếp nối của thời
gian, đông qua thì xuân đến, hai câu tiếp theo, nhà thơ tiếp tục miêu tả mùa xuân Việt Bắc:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Tác giả giúp ta cảm nhận một màu trắng lung linh, tinh khiết làm bừng sáng cả không
gian, bừng sáng cả đất trời, bừng sáng cả bức tranh thơ. Tác giả tả cảnh mùa xuân
bằng màu trắng tinh khôi, một màu trắng choáng ngợp như dâng tràn sức sống mới mẻ
của mùa xuân đẹp đẽ, thơ mộng đen bâng khuâng. Nó khiến ta không thể không liên
tưởng đến màu trắng cùng trong trẻo như thế trong câu thơ của Nguyễn Du:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. (‘Truyện Kiều)
Có lẽ Tố Hữu rất tâm đắc với hình ảnh mơ nở trắng rừng này nên trong bài thơ Theo
chân Bác, nó lại xuất hiện một lần nữa:
Ôi sáng xuân nay xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ.
Sẽ thật thiếu sót nếu không miêu tả mùa hè Việt Bắc. Nơi đây có những vẻ đẹp, lãng
mạn, mộng mơ mà không nơi nào có. Đó chính là hình ảnh:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Ai đã từng đến Việt Bắc hẳn còn nhớ vẻ đẹp kì ảo của rừng phách. Những ngày cuối
xuân, rừng phách tràn ngập một màu xanh nhưng kì diệu thay, những nụ hoa vàng đã
núp mình trong những kẽ lá ,Khi hè sang , chúng nhất loạt trổ hoa. Chỉ vài ba ngày, cả
rừng phách như được nhuộm một sắc vàng kì ảo. Nhà thơ dùng chữ “đổ’ thật hay, với
từ này, màu vàng như một thứ nước nhuộm vàng cả mặt đất và chân trời, nó khiến ta
liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”. Nhưng cái
hay của câu thơ Tố Hữu là chỗ: Khi tiếng ve kêu thì rừng phách đổ vàng. Tố Hữu làm
ta liên tưởng đến mối quan hệ kì lạ giữa sắc màu và âm thanh . Ta có cảm giác bản
nhạc của mùa hè – ve kêu – đã tạo nên một sắc vàng kì ảo. Và dường như, sắc vàng
của rừng phách đã gọi dậy tiếng ve. Một sự tương giao kì lạ trong thiên nhiên. Chỉ
mấy câu thơ mà bạn đọc đã cảm nhận được nhiều sự chuyển biến: chuyển đổi về
không gian từ xanh sang vàng, chuyển đổi về thời gian từ xuân sang hạ, chuyển đổi về
cảm giác từ thính giác sang thị giác,…
Cuối cùng, sau những gam màu rực rỡ, tươi vui, Tố hữu đem đến cho người đọc cảm
giác mênh mông, êm ái qua màu vàng dịu mát của ánh trăng huyền diệu tỏa xuống
cánh rừng trong một đêm thu:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Điều kì diệu là rừng ấy , trăng ấy lại hiện lên trong nỗi nhớ nên nó càng lung linh, thơ
mộng. Trăng tròn vành vạnh trong đêm rằm tháng tám, tỏa sáng núi rừng, phủ lên cỏ
cây hoa lá màu trắng sữa tinh khiết. Bầu trời thu cao rộng, núi rừng trong sắc thu cũng
thật yên bình. Điều quan trọng là bầu trời rộng lớn và vầng trăng thu tròn trịa ấy đã để
thương, để nhớ trong lòng tác giả với những kỉ niệm thật lãng mạn, nên thơ nơi “Quê
hương cách mạng dựng nên Cộng hòa”.
Qua đoạn thơ như một bộ tranh tứ bình trên, ta thấy thiên nhiên Việt Bắc đâu có phải
là nơi xa xôi, hẻo lánh, hoang vu mà với Tố Hữu nó thật sự đẹp như một xứ mơ, như
xứ sở của truyện thần tiên mà cũng gần gũi, thân thương như ca dao, cổ tích.
Hình ảnh thiên nhiên đẹp như một xứ mơ ấy chính là cái nền để con người xuất hiện.
Bức tranh thiên nhiên không lạnh lẽo hoang vu mà trái lại rất ấm áp là bởi trên đó đã
xuất hiện những hình ảnh của con người Việt Bắc. Người Việt Bắc hiện lên trong thơ
Tố Hữu không gây cảm giác lạ như những chàng thợ săn, những ông mo, bà ké trong
những tiểu thuyết đường rừng trước năm 1945. Họ hiện lên trên trang thơ với vẻ đẹp
của người lao động cần cù, chịu khó. Đó là một tư thế hiên ngang trên đèo cao lộng gió và ánh sáng:
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Con người chính là trung tâm của bức tranh thiên nhiên với tư thế làm chủ đất trời, tự
do và phóng khoáng. Có cảm giác như trên vùng rẻo cao lồng lộng ấy, giữa một màu
xanh ngút ngàn của cây cỏ/ con người tỏa sáng như một mặt trời thứ hai giữa thiên
nhiên. Đọc câu thơ, trước mắt người đọc như hiện ra bức tranh sinh động về Việt Bắc
mà nổi bật trên đó là hình ảnh con người, những người dân lao động đang làm nương,
làm rẫy. Bóng dáng con người xuất hiện trong câu thơ thật độc đáo (không xuất hiện
trực tiếp mà qua ánh nắng phản chiếu từ “dao gài thắt lưng” – một công cụ lao động
quen thuộc của người Việt Bắc). Một câu thơ tám chữ có sự trầm bổng của thanh điệu:
mở đầu là vần bằng rồi lên cao dần ở chữ “nắng ánh” là vần trắc và rồi lại hạ thấp ờ
chữ “lưng” ở cuối dòng thơ. Có cảm giác như nhịp điệu câu thơ lên xuống chính là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
nhịp điệu đều đặn của những tấm lưng nhấp nhô lúc ẩn lúc hiện sau bóng cây, nhịp
điệu của lao động hòa lẫn với sự trùng điệp bất tận của núi đồi.
Cũng có khi con người xuất hiện trực tiếp qua dáng ngồi cần mẫn, chăm chú đan nón,
đẹp như một nghệ nhân:
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Như vậy, con người lao động Việt Bắc không chỉ có tư thế khỏe khoắn, khoáng đạt
mà còn ẩn chứa sự tài hoa, khéo léo trong đôi bàn tay chăm chỉ , chịu thương chịu khó
của mình. Chữ “chuốt” thật hay. Nó không chi thể hiện sự cần cù mà còn giúp ta cảm
nhận được cái đẹp nảy sinh từ đôi bàn tay ấy. Chữ “từng” gợi tả đức tính cần mẫn,
cách làm ti mỉ, công phu. Có khéo tay mới “chuốt từng sợi giang” mỏng và bóng để
đan thành những chiếc nón xinh xắn, một trong những sản phẩm thủ công mỹ nghệ
đặc trưng của Việt Bắc. Con người cần cù và tài hoa ấy thật đáng nhớ vì như Nguyễn Đình Thi từng ca ngợi:
Tay người như có phép tiên
Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ.
Hình ảnh con người Tây Bắc lại tiếp tục hiện ra qua câu thơ “Nhớ cô em gái hái măng
một mình”, một câu thơ hay ở vần điệu, sự hiệp vần “gái” – “hái” (vần lưng) và cách
điệp phụ âm đầu trong các từ “măng – một — mình” tạo cho câu thơ nhạc điệu riêng.
Cô gái Việt Bắc trẻ trung, xinh tươi, lạc quan yêu đời, đi hái măng giữa rừng vầu,
rừng nứa một mình trong khúc nhạc rừng, tuy chỉ có “một mình” mà chẳng cô đơn.
Con người ấy đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời. Giữa một không gian nghệ
thuật đầy màu sắc và âm thanh của suối rừng, cô gái Việt Bắc xuất hiện thật hồn nhiên
và đáng yêu lạ! Đến câu kết của đoạn thơ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”, ta
thấy hiện lên vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Bắc.” Ai” là đại từ phiếm chỉ gợi lên
bao hoài niệm, bâng khuâng. Tiếng hát ân tình thủy chung giữa “ta” và “mình”, giữa
“ta” với “ai” được thử thách trong cay đắng ngọt bùi, trong máu lửa “Mười lăm năm
ấy thiết tha mặn nồng” nên không bao giờ có thể quên được.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Đoạn thơ của Tố Hữu viết về thiên nhiên và con người Việt Bắc là đoạn thơ tràn đầy
tình cảm nhớ nhung và thương mến với niềm tự hào đối với Việt Bắc “Quê hương
cách mạng dựng nên Cộng hòa”, và chiến khu bất khả xâm phạm “Rừng che bộ đội,
rừng vây quân thù”. Có thể nói, Tố Hữu không chỉ ca ngợi Việt Bắc mà còn viết nên
những vần thơ đẹp nhất ca ngợi đất nước và con người Việt Nam trong lửa đạn.
Nguyễn Đình Thi nhận xét “những hình ảnh thơ này đã làm bừng sáng cả núi rừng
Việt Bắc, và nó dường như cũng làm xôn xao cả khoảng trời hồi tưởng của thi nhân và
người đọc”. Người lao động xuất hiện trên trang thơ Tô’ Hữu không phải là anh hùng,
những người làm nên chiến công phi thường trong kháng chiến. Trái lại, họ chỉ là
những người lao động bình thường với những vẻ đẹp gần gũi, đáng yêu. Viết về họ,
Tố Hữu bộc lộ lòng yêu thương thắm thiết và sự cảm phục sâu xa.
Bốn cặp câu lục bát còn là bức tranh tứ bình làm nên bộ tứ bình về bốn mùa trong
năm. Bốn cặp thơ lục bát này có cùng một kết câu: câu lục tả cảnh, câu bát tả người.
Cặp nọ nối tiếp cặp kia, mùa nọ nối tiếp mùa khia, hài hòa, cân xứng, nhịp nhàng như
bước đi của vũ trụ. Nó làm ta nhớ đến những đoạn thơ rất hay trong Chinh phụ ngâm,
Truyện Kiều hay bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Nó làm ta liên tưởng đến những bức
tranh tứ thời, tứ mùa, tứ quý, tứ linh; nói cách khác, nó làm cho đoạn thơ nhuốm màu
sắc cổ điển. Bình luận về bộ tranh tứ bình này của Tố Hữu nhà thơ Xuân Diệu khẳng
định “Không thua kém bất kì bộ tranh thơ nào trong văn chương phương Đông”.
Tuy nhuốm màu cổ điển nhưng bức tranh thơ này của Tố Hữu vẫn có những nét rất
hiện đại. Phủ lên bức tranh ấy không phải là cái màu trang trọng quý phái như tranh tứ
bình cổ điển mà trái lại, nó bình dị thậm chí vô cùng dân dã như một biểu tượng của
cái đẹp nhân dân. Các bộ tranh tứ bình thời cổ điển thường bắt đầu bằng mùa xuân và
khép lại bằng mùa đông như diễn tả nhịp đi đều đặn, tròn trịa của vũ trụ trong một
năm. Trái lại, bộ tranh của Tố Hữu bắt đầu từ mùa đông và kết thúc từ mùa thu — thời
điểm Tố Hữu viết bài thơ này. Phải chăng Tố Hữu muốn dùng nó như biểu tượng cho
bước đi của cách mạng từ mùa đông giá lạnh khó khăn đến mùa thu huy hoàng thắng
lợi? Cách viết ấy vừa có cái lí của logic tâm trạng lại vừa thoát khỏi những quy phạm
của văn chương cổ điển.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Đoạn thơ vẽ nên bức tranh về cảnh vật và con người Việt Bắc mà ai đã đọc dù chỉ một
lần sẽ không thể nào quên. Nó đem lại cho bài thơ Việt Bắc vốn ấm áp tình người có
thêm cái huy hoàng xanh tươi của núi rừng Việt Bắc. Nói cách khác, nó đã góp phần
hoàn chỉnh bức tranh Việt Bắc trong trái tim người ra đi. Đây là một đoạn thơ ngắn
mà lời thơ vừa bình dị, trang nhã vừa giản dị hàm súc. Cảnh vừa như thực lại vừa như
mơ, vừa như một cuộn phim lại vừa nhịp nhàng, thanh thoát như một bức tranh tả
cảnh. Nó đã bộc lộ nét tài hoa của “nhà thơ của cách mạng, của lí tưởng cộng sản”. Từ
những vấn đề của cuộc sống cách mạng và kháng chiến, Tố Hữu có thể viết những tứ
thơ nên nhạc, nên tình làm xôn xao tâm hồn bạn đọc và nói như Xuân Diệu “Tố Hữu
đã đưa thơ chính trị đạt đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”.
Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 22
Sống ân nghĩa, thủy chung chính là một lối sống văn hóa đẹp đẽ từ ngàn đời nay của
dân tộc ta. Nét đẹp đó đã được lưu giữ trong rất nhiều tác phẩm văn học khác nhau và
một trong số đó ta không thể không kể đến bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu: “Ta về mình có nhớ ta …
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Việt Bắc không đơn thuần chỉ là một địa danh, là một nơi để chiến đấu mà còn là nơi
chứa đựng đầy những kỉ niệm, đầy tình người tha thiết, sâu nặng. Bởi vậy, trong
khoảnh khắc chia tay bất cứ ai cũng bồi hồi xúc động, nhớ về những kỉ niệm đã qua.
Kỉ niệm đó là lớp học, là những ngày tháng liên hoan những năm kháng chiến và còn
một nỗi nhớ khác chính là về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
Thiên nhiên Việt Bắc trong bức tranh tứ bình hiện lên vô cùng cô đọng, hàm súc, đại
diện cho bốn mùa. Mùa đông là mùa đầu tiên xuất hiện trong bức tranh tứ bình:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
Khi đọc câu thơ lên, bất chợt trong lòng mỗi người sẽ không hình dung đến mùa đông
âm u, lạnh lẽo mà phải là mùa xuân ngập đầy sức sống, hay mùa hạ rực rỡ. Nhưng
không, đây lại chính là bức tranh thiên nhiên Việt Bắc vào mùa đông. Trên cái nền
xanh ngắt của rừng bạt ngàn là màu đỏ rực của hoa chuối. Cái ấm nóng rực rỡ dù nhỏ
nhưng dường như đã làm cả bức tranh bừng sáng, trỗi dậy sức sống tiềm tàng trong đó.
Bức tranh thứ hai chính là mùa xuân. Ở đây khung cảnh thiên nhiên mang cái thanh
khiết, dịu dàng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Câu thơ làm ta bất chợt nhớ đến
cảnh:“Ôi sáng xuân nay, Xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/ Bác về... im lặng.
Con chim hót/ thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”. Xuân sang hè đến rực rỡ, muôn màu
sắc và âm thanh. Là tiếng ve kêu rộn ràng, như một bản đàn chào đón mùa hè, cùng
với đó là sắc rực rỡ của “rừng phách đổ vàng”. Là tiếng ve làm cho rừng phách đổ
vàng hay bản thân nó vốn như vậy? Dù hiểu theo cách nào thì khung cảnh hiện lên
cũng thật rực rỡ và ấm áp.
Cuối cùng là bức tranh mùa thu:
Mùa thu trăng rọi hòa bình
Ánh trăng dìu dịu của mùa thu lan tỏa khắp không gian. Trong màu sắc ấy, không gian
ấy còn bừng lên khát vọng về một cuộc sống tự do, hòa bình. Dưới con mắt quan sát
tinh tường của Tố Hữu, mỗi mùa ở nơi đây thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ, thật đặc
biệt. Có lẽ phải gắn bó và tha thiết yêu lắm ông mới có thể nắm bắt trọn vẹn từng nét
đẹp tinh túy nhất của cảnh vật như vậy.
Đan xen ở mỗi bức tranh là hình ảnh của con người Việt Bắc. Ông không chỉ yêu quý,
trân trọng thiên nhiên nơi đây mà còn tha thiết, chân thành với con người Việt Bắc. Ở
mỗi đối tượng ông đều khám phá, nắm bắt được những vẻ đẹp khu biệt của họ. Là
hình ảnh người nông dân lên núi làm việc với lưỡi dao lấp lánh dưới ánh nắng của
mùa đông. Là bàn tay khéo léo của người đan nón thanh tĩnh “chuốt từng sợi giang”
vô cùng điêu luyện. Bức tranh càng trở nên thơ mộng hơn với “Cô em gái hái măng
một mình” ven suối bên tiếng ve kêu rộn rã. Và cuối cùng là tiếng hát tha thiết, trầm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
bổng vang vọng khắp không gian núi rừng Việt Bắc. Khúc hát vang lên cuối khổ thơ,
kết hợp với hình ảnh ánh trăng càng làm rõ hơn nữa khát khao hòa bình, độc lập trong lòng tác giả.
Khổ thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, bởi vậy bao trùm trong từng câu từng chữ là nhịp
điệu nhẹ nhàng, trầm bổng từng bước một dẫn con người ta vào quá khứ đẹp đẽ, ân
nghĩa, thủy chung. Nhịp điệu ấy cùng với thể thơ lục bát càng khiến cho nỗi nhớ trở
nên bâng khuâng, da diết hơn.
Khép lại khổ thơ, nỗi nhớ bâng khuâng tha thiết vẫn trải dài, vang vọng khắp không
gian. Nỗi nhớ ấy như một lời tri âm sâu nặng của tác giả đối với thiên nhiên và con
người nơi đây. Đồng thời với việc lựa chọn các hình ảnh bình dị, ngôn ngữ thơ trong
sáng dễ hiểu nhưng lại tạo nên một bức tranh tứ bình đặc sắc lại một lần nữa khẳng
định tài năng nghệ thuật của Tố Hữu.
Document Outline
- Dàn ý phân tích bức tranh tứ bình
- Dàn ý bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc
- Dàn ý phân tích bức tranh tứ bình
- Bức tranh tứ bình trong Việt Bắc siêu hay - Mẫu 1
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 2
- Ngoài là một nhà thơ xuất sắc ,Tố Hữu còn là một người chiến sĩ cách mạng hết lòng vì đất nước. Bởi vậy thơ ông luôn toát lên ý chí cách mạng và tinh thần dân tộc sâu sắc mang đậm khí thế hào hùng nhưng cũng ngọt ngọt ngào phong vị trữ tình sâu lắng. Việt Bắc là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu. Bài thơ vừa là khúc hùng ca về cuộc kháng chiến vừa là khúc tình ca mang đầy màu sắc khi miêu tả thiên nhiên và con người vùng núi mà nổi bật nhất là đoạn thơ khắc họa bức tranh bốn mùa tuyệt đẹp.
- Phân tích Việt Bắc bức tranh tứ bình - Mẫu 3
- Bức tranh tứ bình Việt Bắc - Mẫu 4
- Cảm nhận bức tranh tứ bình Việt Bắc - Mẫu 6
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 7
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 8
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 9
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 10
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 11
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 12
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 13
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 14
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 15
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 16
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 17
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 18
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 19
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 20
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 21
- Phân tích bức tranh tứ bình - Mẫu 22