




Preview text:
Đề bài: Phân tích ca dao “Khăn thương nhớ ai”
Trong nền văn học dân gian Việt Nam, các tác phẩm ca dao dân ca là một trong những thể loại
độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Không biết từ bao giờ,
các tác phẩm ca dao dân ca ấy cứ thế đi vào cuộc sống của nhân dân lao động, trở thành nguồn
sống, là nơi giãi bày, ca thán những nỗi vất vả, khổ cực hay gửi gắm niềm hi vọng, những xúc
cảm đặc biệt về một tình yêu trong sáng, thuần khiết của con người. Bên cạnh những câu ca than
thân, oán phận là lời ca thán về cuộc đời bạc bẽo, với nhiều vất vả đắng cay vẫn còn tồn tại
những câu ca với tình yêu thương ngập tràn, là sự gắn kết nghĩa tình thủy chung. Đặc biệt hơn
hết chính là đề tài nỗi nhớ trong ca dao. Cái nỗi nhớ nỗi thương đầy da diết của những cặp đôi
dành cho nhau đã trở thành một nỗi nhớ đầy quen thuộc đối với những người lao động nơi đây.
Khi thì nghẹn ngùng, bẽn lẽn, khi thì làm con người ta muốn cháy hết mình trong thứ xúc cảm
mãng liệt của tình yêu. Và nỗi nhớ của cô gái trong bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” như một
khúc nhạc da diết trầm bổng réo rắt đến nao lòng, là nỗi nhớ thường trực, tạo nên một màu sắc
đặc trưng cho chủ đề nỗi nhớ tình yêu trong ca dao.
“ Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt Đèn thương nhớ ai Mà đèn không tắt Mắt thương nhớ ai Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề”
Ca dao là thể loại trữ tình dân gian đặc sắc, được truyền miệng dưới dạng câu hát không theo
một nhịp điệu nhất định. Ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có
giai điệu, chương khúc. Ca dao mang vẻ đẹp tâm hồn của người lao động Việt Nam qua nhiều
thế hệ. Những câu ca thường xoay quanh chủ đề than thân, oán phận hay có nội dung châm biếm
những thói hư tật xấu, những hạng người kém cỏi không ý chí một cách đầy sâu cay, tế nhị.
Trong đó, nổi bật nhất phải kể những “tiếng hát yêu thương, tình nghĩa” trong ca dao. Ca dao là
nơi kết tinh vẻ đẹp tâm hồn con người lao động Việt Nam giàu tình cảm, yêu thương, gắn bó,
thủy chung, ân tình. Chính những tình cảm đáng quý ấy của nhân dân lao động đã hình thành nên
những bài ca dao tràn ngập những xúc cảm chân thành, hạnh phúc. Những câu ca đi vào cuộc
sống của người bình dân, dạy cho những đứa trẻ biết đến thứ tình cảm yêu thương, tình nghĩa,
dạy cho những người trưởng thành sống trọn vẹn trong tình thương để phần nào xua đi những
nỗi lo cực nhọc. Có thể thấy thể loại ca dao yêu thương tình nghĩa này đã trở thành một trong
những thể loại không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân lao động Việt Nam và
chính thể loại ấy đã góp phần không nhỏ vào kho tàng đồ sộ của những câu ca.
Bài ca dao “Khăn thương nhớ ai” là những nỗi nhớ đầy da diết, nhớ đến ngẩn ngơ, thẫn thờ của
người con gái dành cho chàng trai mà mình thầm thương mến trộm. Nỗi nhớ ấy cứ thường trực,
đeo bám cõi lòng của người con gái không buông rời. Để rồi chính sự thay đổi trong cảm xúc đã
biến nỗi nhớ thành một nỗi lo, một nỗi lo, phập phồng, thấp thỏm về đích đến tốt đẹp của cả hai.
Và chính sự lo phiền, phấp phỏng ấy đã làm cho nỗi nhớ còn thêm chiều sâu, khiến nỗi nhớ có
thể làm lay tỉnh toàn bộ nhân cách con người. Từ đó khẳng định tình yêu trong sáng, mãnh liệt
của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ sống vô cùng tình nghĩa, thủy chung, một tấm
lòng son sắt, đáng ngưỡng mộ mến phục.
Người xưa thường gửi gắm nỗi nhớ người yêu của bản thân vào trong những hình ảnh quen
thuộc với cuộc sống lao động hằng ngày để nỗi nhớ ấy từ vô hình trở nên hữu hình, để người
nghe có thể cảm nhận được nỗi nhớ ấy vẫn luôn hiện hữu xung quanh chính nhân vật trữ tình.
Khi thì gửi gắm qua hình ảnh một ngọn núi: “Núi cao chi lắm núi ơi!/Núi che mặt trời, chẳng
thấy người thương” khi thì là hình ảnh ánh sao mờ trong màn đêm vô tận, con nhện một mình
buồn bã giăng tơ: “Buồn trông chênh chếch sao mai/Sao ơi, sao hỡi nhớ ai sao mờ/Buồn trông
con nhện giăng tơ/Nhện ơi nhện hỡi còn chờ mối ai?”,…. Mỗi một hình ảnh rất đỗi bình thường
đi vào ca dao ấy đã trở thành điểm tựa cho nỗi nhớ của nhân vật trữ tình. Và đến đây, trong bài
ca dao “Khăn thương nhớ ai”, người con gái ấy đã để nỗi nhớ của mình hiện lên qua hình ảnh chiếc khăn: “Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thương nhớ ai Khăn chùi nước mắt”
Hình ảnh chiếc khăn trong ca dao xưa vô cùng quen thuộc, nó thường gắn liền với hình ảnh
người con gái yêu kiều, mỏng manh vừa là biểu tượng cho số phận của những người phụ nữ
trong xã hội phong kiến: lênh đênh, chìm nổi không chốn về bến tựa: “Thân em như tấm lụa
đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Chiếc khăn tay hay chiếc khăn đội đầu trong các bài thơ
tình tựa như vật trao duyên, vật ước hẹn. Thay vì đính hẹn bằng những thứ vật chất xa hoa, các
chàng trai hay cô gái thường tặng cho đối phương một chiếc khăn thay cho nỗi niềm thương nhớ.
Và hình ảnh chiếc khăn hiện lên trong bài ca dao trên cũng vậy. Cách lặp lại sáu lần từ “khăn” ở
vị trí đầu câu thơ và láy lại ba lần câu “Khăn thương nhớ ai” như một điệp khúc tình ca, khắc
họa lên nỗi nhớ vô tận, triền miên mà da diết. Chiếc khăn tuy là vật, nhưng nó lại mang tâm tình
của con người với tâm trạng nhớ thương vô cùng, nỗi nhớ len lỏi theo không gian “khăn rơi
xuống đất” rồi “khăn vắt lên vai”, “khăn chùi nước mắt”. Và phải chăng chính sự chìm đắm của
nhân vật trữ tình trong nỗi nhớ ấy đã khiến mọi vật xung quanh hóa thẫn thờ. Chiếc khăn vắt hờ
hững trên đôi vai yêu kiều của người thiếu nữ, vô tình rơi xuống đất, người con gái cúi xuống
nhặt, nhìn thấy chiếc khăn mỏng manh, một mình cô độc nơi nền đất lạnh như vô tình thấy hình
ảnh mình trong đó để rồi trong vô thức, nàng phải thốt lên rằng “khăn thương nhớ ai”. Khăn
thương nhớ ai mà trông khăn sầu muộn đến vậy, khăn thương nhớ ai để rồi tự mình rơi xuống đất
lúc nào không hay. Hay chính cô gái thương nhớ ai đến hóa thẫn thờ, lo âu. Hình ảnh chiếc khăn
“chùi nước mắt” như chính nhân vật trữ tình đang cố gạt đi những nỗi nhớ nhung mà sao gạt
hoài không hết, nước mắt thì cứ rơi lã chã mà lòng người thì cứ nhớ nhung sầu muộn. Có thể nói
hình ảnh chiếc khăn lúc này đã trở thành một biểu tượng vô cùng đẹp đẽ đại diện cho nỗi nhớ
trong tình yêu. Nỗi nhớ ấy vừa nhẹ nhàng, đằm thắm, thiết tha vừa mãnh liệt dồi dào mang chút
nỗi sầu bi, buồn tủi không nói nên lời.
Kết thúc hình ảnh chiếc đèn, nỗi nhớ mong da diết của người con gái lại tiếp tục được gửi gắm
trọn vào trong những ngọn đèn:
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt”
Ngọn lửa tình vẫn luôn cháy âm ỉ trong trái tim người con gái, tựa như ánh đén kia luôn thắp
sáng. Ngọn đèn không tắt cũng như hình ảnh của chính người con gái đang thao thức bao đêm,
sau những giọt nước mắt trực trào là những nỗi niềm mong mỏi một người nào đó đang ở xa lắm,
xa đến nỗi tưởng chừng như không bao giờ có thể gặp lại và cô gái chỉ có thể tự gửi gắm những
nỗi nhớ vào những vật thể vô tri vô giác kia.
Người ta nói, mắt là cửa sổ của tâm hồn, từ đôi mắt là có thể ánh lên biết bao nhiêu lời muốn nói.
Với tâm trạng sầu muộn ấy, đôi mắt phản ánh lên nỗi nhớ từ tận sâu đáy tim:
“Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên”
Đôi mắt của cô gái trẻ tuy trong trẻo nhưng lại chứa đựng biết bao tâm tư tình cảm. Chỉ cần
nhắm đôi mắt ấy lại, hình ảnh người thương lại hiện ra, tuy xa mà gần, thực ảo hư vô khiến cho
tâm trí nào có thể ngủ yên.
Sự xuất hiện theo trình tự lần lượt của các hình ảnh chiếc khăn, ngọn đèn rồi đến con mắt đã tạo
nên một mạch cảm xúc biểu đạt một chủ đề thống nhất. Mắt phải khóc thì khăn mới có thể chùi.
Ngọn đèn sáng mãi trong màn đêm u tối làm bạn với đôi mắt ngủ không yên. Phải chăng sự liên
kết chặt chẽ giữa các hình ảnh ấy đang biểu lộ một nỗi nhớ theo chiều tăng tiến của nhân vật trữ
tình. Nỗi nhớ ấy mỗi lúc càng nồng nàn, da diết, nồng nàn da diết đến mức làm rung lên toàn bộ
thế giới tâm hồn, làm dậy sóng cõi lòng vốn đang bình yên của người con gái. Họ ôm trong mình
một nỗi tương tư mãnh liệt chẳng thể giãi bày, họ chìm đắm trong sự thương rồi lại nhớ đến thẫn
thờ khiến mọi vật xung quanh trở thành nơi gửi gắm nỗi lòng tâm sự, trở thành một chiếc gương
soi rọi cõi lòng để người con gái tỏ rõ trái tim của mình bên trong.
Hai dòng cuối của bài ca dao là một câu lục bát mênh mang nỗi niềm. Chưa dừng lại ở những nỗi
tương tư cồn cào đến da diết, những con sóng ưu phiền khác đang lao xao bủa đến làm cõi lòng
của người con gái lúc này càng thêm rối bời, thấp thỏm:
“Đêm nay em những ưu phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề”
Sự thay đổi từ thể thơ bốn chữ sang thể thơ lục bát đã tạo nên tính nghệ thuật đầy đặc sắc của các
tác giả dân gian từ đó biểu đạt tâm trạng của người con gái đằng sau sự thương nhớ đến ngu ngơ,
dại khờ. Nó là sự báo hiệu đầy tinh tế trong việc thay đổi cảm xúc của nhân vật trữ tình. Từ nỗi
nhớ đến bần thần người con gái ấy đã chuyển sang một nỗi lo, lo về tương lai của cả hai, lo về
đích đến của một tình yêu vốn nhiều sự trắc trở, trái ngang. Yêu nhau nhiều đến là vậy, luôn
dành cho những thứ tình cảm chân thật nhất nhưng dễ gì đến được với nhau, lấy được nhau. Bao
nhiêu chuyện phải bận lòng, bao nhiêu thứ có thể cản trở hạnh phúc. Biết bao nỗi nhớ cuộn trào
khiến cô gái ấy phải thốt lên rằng "Lo vì một nỗi không yên một bề" - chỉ một bề nhưng lại bề bề
nỗi lo, bởi bề ấy không chỉ thuộc về cô gái, mà thuộc về bề cô không thể làm chủ, không thể chi
phối được hạnh phúc của bản thân cũng như đích đến viên mãn của cả hai. Tình yêu trong xã hội
phong kiến là thứ tình yêu luôn gặp nhiều sự trắc trở, trái ngang. Tình yêu tha thiết chưa chắc đã
dẫn đến một cái kết viên mãn của hôn nhân. Họ có thể bị chia cắt bởi gia đình, chiến tranh hay
chính những quan niệm lạc hậu của nhân dân ta trong xã hội cũ. Và qua nỗi lo của cô gái ta
không chỉ thấy trong đó nỗi lo của những cặp đôi trong xã hội cũ mà như thấy nỗi lo của chính
mình bên trong ấy. Liệu rằng sau khi tìm thấy được hạnh phúc thực sự, ta có thể đưa nó đến một
kết thúc viên mãn, tốt đẹp hay chăng? Mặc dù vậy, bài ca dao vẫn là tiếng hát của một trái tim
khao khát yêu thương. . Điều đó khiến cho nỗi nhớ này không hề bi luỵ mà như một nét đẹp
trong tâm hồn đáng quý của các cô gái Việt ở làng quê xưa.
Bài ca dao vừa thể hiện tình yêu thủy chung mặn nồng của người con gái dành cho chàng trai
vừa khắc họa lên những trắc trở, lo âu, muộn phiền đằng sau sự nhớ sự thương da diết ấy. Và
phải chăng trong xã hội phong kiến, cái số phận của người con gái vốn dĩ bất hạnh, bị cầm tù bởi
những đắng cay, dày vò nay lại khó có thể tìm thấy được một hạnh phúc viên mãn. Đôi trai gái
đến với nhau bằng tình cảm chân thật của lứa đôi nhưng chính những rào cản vô hình trong xã
hội phong kiến đã cản trở con đường đi đến hạnh phúc của chính họ để rồi giờ đây những con
người ấy chỉ có thể một mình ôm một nỗi tương tư dài đằng đẵng theo thời gian. Dẫu vậy ta vẫn
cảm nhận được ở những con người ấy một trái tim khao khát yêu thương, một hi vọng mãnh liệt
về hôn nhân hạnh phúc. Trong cuộc sống lao động có thể còn những nỗi thấp thỏm lo âu nhưng
những người nông dân lao động, đặc biệt là những người phụ nữ với số phận trái ngang, đắng
cay, tủi nhục vẫn luôn nuôi dưỡng cho mình một niềm tin tốt đẹp, một niềm tin sáng rọi về cái
tương lai xa họ sẽ được sống trong một hạnh phúc viên mãn, như ý nguyện.
Tuy nhiên, để những nỗi nhớ muộn phiền của nhân vật trữ tình hiện lên một cách cụ thể trong
từng câu ca ta không thể không nhắc đến đặc sắc nghệ thuật mà các tác giả dân gian đã xây dựng
nên trong bài ca dao. Cả một bài ca dao đều là những nỗi nhớ, tâm tình của một người con gái
không ngừng nhớ về người thương điều đó cho thấy đặc trưng về cái tôi trữ tình trong ca dao đã
hiện lên một cách vô cùng đậm đặc, rõ nét. Nhân vật trữ tình trong bài ca dao tuy không có diện
mạo, lời nói, hành động cụ thể nhưng lại vô cùng cụ thể trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách
cảm cách nghĩ từ đó thể hiện tâm hồn người, tấm lòng người. Ban đầu những cảm xúc ấy có thể
xuất phát từ cõi lòng của một người thiếu nữ nào đó và được kết tụ thành những lời ca nhưng trải
qua thời gian dài đằng đẵng, được lưu truyền trong dân gian bằng hình thức truyền miệng và sự
biến tấu của từng người, cái tôi trữ tình ấy đã trở thành hợp thể của nhiều cái tôi khác để rồi biến
nỗi nhớ ấy trở thành một nỗi nhớ chung, đại diện cho cả một tầng lớp những con người trong xã
hội phong kiến. Bên cạnh đó, cách đưa những hình ảnh quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hằng
ngày như “khăn”, “đèn”, “mắt” vào trong từng câu ca giúp người đọc người nghe vừa cảm
nhận nỗi nhớ ấy một cách vô cùng chân thật mà vô hình còn thấy hiện lên trong nỗi nhớ ấy cảm
giác quen thuộc của một không gian tuy nhỏ nhưng lại gắn liền với thời ấu thơ của biết bao
người như chiếc khăn, ánh sáng lay lắt của ngọn đèn trong màn đêm u tối hay ánh mắt thẫn thờ
của người mẹ vào mỗi cuối chiều ngóng chờ người cha trở về đằng sau những mái nhà tranh lấp
ló,… Tất cả, tất cả đã hiện lên với một sự thân thương quen thuộc đến kì lạ, khiến mỗi con
người, đặc biệt là những người con gái như thấy hình ảnh của bản thân mình hiện hữu trong từng
câu ca. Đặc biệt ở hai câu cuối, từ thể thơ bốn chữ các tác giả dân gian đã chuyển thành thể thơ
lục bát cho thấy sự tăng tiến trong cảm xúc, nỗi nhớ của nhân vật trữ tình. Nỗi nhớ ấy từ sự gửi
gắm qua những vật dụng quen thuộc hằng ngày bất chợt trở thành một nỗi lo, một nỗi lo vô hình
khiến tâm trạng của người con gái thay đổi. Chính sự thay đổi đặc sắc từ thể thơ này sang thể thơ
kia khiến cho tâm trạng của người đọc, người nghe cũng chuyển biến theo từng giai đoạn cảm
xúc của nhân vật trữ tình. Từ đó có thể thấy rằng đằng sau những bài ca dao chứa chan những
nỗi niềm, cảm xúc tuy giản đơn, chân thật nhưng lại được thể hiện qua những nghệ thuật vô cùng
tinh tế và sâu sắc. Nó cho thấy cái tài, cái hay của nhân dân từ đó giúp những lời ca lưu truyền
mãi mãi tới thế hệ sau này.
Tóm lại với nỗi nhớ triền miên, thấp thỏm, phập phổng của nhân vật trữ tình trong bài ca dao
“Khăn thương nhớ ai” đã vượt được chặng đường thời gian những mấy ngàn năm đến với chúng
ta trong những ngày hôm nay khi con người vẫn đang cần tình yêu, cần những nỗi thương nhớ
ngọt ngào và sâu lắng như thế. Nó không chỉ là những khát khao được sống trong tình yêu chân
thật, cháy bỏng và mãnh liệt của những người nông dân lao động trong xã hội cũ mà đã trở thành
một khát khao chung cho mọi thế hệ sống trong thời đại ngày nay. Nó xứng đáng là một trong
những viên ngọc thơ long lanh của người bình dân Việt Nam. Từ đó khẳng định giá trị sâu sắc
của thể loại ca dao yêu thương tình nghĩa nói riêng và kho tàng đồ sộ của ca dao Việt Nam nói chung.