lOMoARcPSD| 61685031
Câu hỏi Luật Hình Sự
1. Tại sao nói: “Tính nguy hiểm cho XH dấu hiệu bản, quan trọng
nhất,quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm”.
Khái niệm:
- Tính nguy hiểm cho XH là một đặc điểm của hành vi khách quan của
TP – gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho QHXH được LHS bảo vệ.
- Tội phạm hành vi khách quan tính nguy hiểm cho XH, lỗi, được
quy định trong LHS, do chủ thể NLTNHS thực hiện phải chịu
hình phạt.
- Các dấu hiệu của TP bao gồm:
+ Tính nguy hiểm cho XH.
+ Tính được quy định trong LHS.
+ Tính có lỗi.
+ Tính do người có NLTNHS thực hiện.
+ Tính phải chịu hình phạt.
Tính nguy hiểm cho XH dấu hiệu bản, quan trọng nhất, quyết định
những dấu hiệu khác của TP:
- Tính nguy hiểm cho XH dấu hiệu về nội dung của TP => quy định
dấu hiệu về hình thức của TP (tính được quy định trong LHS).
- Tính nguy hiểm cho XH bao gồm:
+ Tính gây thiệt hại về khách quan => bị coi là TP và phải trả giá bằng
việc chịu hình phạt tương xứng với mức độ tính chất gây thiệt hại
=> quy định tính phải chịu hình phạt.
+ Tính lỗi về chủ quan => lựa chọn hành vi gây thiệt hại trong khi
có đủ điều kiện lựa chọn hành vi khác không gây thiệt hại =>
- Tính nguy hiểm cho XH phải do người NTTNHS mới thể nhận
thức điều khiển hành vi gây thiệt hại đến cùng => quy định luôn tính
do người có NLTNHS thực hiện.
Ví dụ chứng minh:
Tội phạm tội giết người là hành vi có tính nguy hiểm cho XH và dấu hiệu
này là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất và quyết định các dấu hiệu còn lại
của TP bởi vì:
- phản ánh được tính có lỗi: bất cứ hành vi giết người nào cũng luôn
dạng lỗi cố ý. Ngoài việc lựa chọn hành vi gây thiệt hại về tính mạng
trong khi có đủ điều kiện khác để thực hiện hành vi không gây thiệt hại
thì chủ thể còn nhận thức được tính chất nguy hiểm cho XH của hành
vi, thấy trước được hậu quả thiệt hại xảy ra mong muốn/ ý thức
để mặc cho hậu quả xảy ra.
- Hành vi giết người tính được quy định trong LHS dấu hiệu hình
thức quan trọng. Tội giết người được quy định tại điều 123 với CSPL
là CTTP tội giết người.
lOMoARcPSD| 61685031
- Tội phạm giết người nhất định phát sinh tính phải chịu hình phạt. Tính
mạng giá, thiêng liêng bất khả xâm phạm, được PL bảo h
“không ai được tước đi mạng sống của người khác” nếu làm điều PL
cấm thì phải chịu cưỡng chế của nhà nước thông qua các hình phạt như
tử hình, chung thân, phạt tù…
2. Tại sao nói “Tất cả các dấu hiệu của CTTP đều tính bắt buộc khi xác
địnhTP”.
Khái niệm:
- CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung tính đặc trưng cho TP cụ
thể được quy định trong LHS.
- Những dấu hiệu có trong các CTTP là:
+ Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố mặt khách quan của TP. +
Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của TP.
+ Dấu hiệu năng lực TNHS thuộc yếu tố chủ thẻ của TP.
+ Các dấu hiệu khác như: khách thể, đối tượng tác động, mục đích,…
Tất cả các dấu hiệu của CTTP đều có tính bắt buộc khi xác định TP là bởi
vì:
- Các dấu hiệu đó của CTTP đều hướng tới mục đích chủ yếu tả tội
phạm. Hơn nữa khi tính đặc trưng sẽ sở cẩn thiết để phân
biệt TP với các loại VP thông thường, phân biệt TP này với TP khác.
Điều này góp phần xác định đúng người, đúng tội, đúng PL.
- Các dấu hiệu của CTTP đều là những dấu hiệu phản ánh nội dung các
yếu tố của TP. Một TP luôn được tạo thành bởi 4 yếu tố khách thể,
mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của TP. Nếu các dấu hiệu của
CTTP không xuất hiện đầy đủ thì không phản ánh hết nội dung các yếu
tố của TP, do vậy khó xác định được TPxảy ra nguy cơ bỏ lọt TP.
- Hơn nữa, tất cả các dấu hiệu của CTTP đều là những dấu hiệu đã được
quy định trong LHS. Nếu không thỏa mãn yêu cầu “bắt buộc” phải
trong CTTP đều thể dẫn đến tình trạng TNHS không đúng hoặc bỏ
lọt TP không truy cứu TNHS.
Ví dụ chứng minh:
CTTP khoản 1 - điều 134 3 dấu hiệu bản hành vi “gây thương
tích, gây tổn hại”, lỗi “cố ý”, hậu quả thiệt hại “tỷ lệ tổn thương” , chủ thể
“người nào” tính bắt buộc xác định TP tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- tả đúng TP, phân biệt rõ ràng giữa tội phạm này với TP khác chẳng
hạn TP “tội ý gây thương ch hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác”.
Các dấu hiệu này đều thuộc về các yếu tố tạo thành 1 TP:
+ Dấu hiệu hành vi “gây tổn hại, gây thương tích” thuộc về yếu tố mặt
khách quan của TP.
+ Dấu hiệu lỗi “vô ý’ thuộc về yếu tố mặt chủ quan của TP.
lOMoARcPSD| 61685031
+ Dấu hiệu “người nào” thuộc về yếu tố chủ thể của TP.
+ Dấu hiệu hậu quả thiệt hại “tỉ lệ tổn thương thể” thuộc về yếu tố
mặt khách quan của TP phản ánh được đối tượng tác động của yếu
tố khách thể của TP.
TP là thể thống nhất của các yếu tố và dấu hiệu này.
3. Tại sao nói “CTTP được coi sở pháp của TNHS, điều kiện cần vàđủ
của TNHS”:
Khái niệm:
- CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung tính đặc trưng cho TP cụ
thể được quy định trong LHS.
- Cơ sở pháp nền tảng từ những định nghĩa trong pháp luật đthể
củng cố những quy định, quy tắc trong tổ chức; trong những mối quan
hệ hoặc trong bất kỳ một hoạt động nào để thể hướng đến mục tiêu
đảm bảo thống nhất một quy tắc xử sự chung.
- TNHS là trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất do NN áp dụng đối với
các chủ thể đã thực hiện hành vi PT và có thể gánh chịu hình phạt.
CTTP được coi sở pháp của TNHS, điều kiện cần đủ của
TNHS:
- CTTP được coi là cơ sở pháp lý của TNHS:
+ CTTP tập hợp những dấu hiệu hướng đến tả TP TP luôn
tính phải chịunh phạt => CTTP trực tiếp quy định hình phạt – là hậu
quả pháp lý nghiêm khắc nhất mà NN định ra => CSPL cho TNHS.
+ CTTP có những dấu hiệu mang tính đặc trưng để nhằm phân biệt tội
phạm với các VP thông thường khác (tội phạm phải chịu TNHS còn các
VP sẽ chịu những TNPL phi HS => CS xác định TNHS); phân biệt giữa
TP này với TP khác và giữa tăng nặng giảm nhẹ (sẽ phải chịu những
hình phạt khác nhau => CS phân hóa TNHS).
- CTTP là điều kiện cần và đủ của TNHS:
+ Tất cả những dấu hiệu của CTTP đều là điều kiện cần để xác dịnh TP.
+ Nhiều TP CTTP đòi hỏi có thêm một số dấu hiệu đặc trưng khác
mới đủ điều kiện để được coi là TP.
- phải dựa vào những dấu hiệu của CTTP để nhận định hành vi phải
TP hay không người thực hiện hành vi phải chịu TNHS hay
không. Nếu hành vi có đủ các dấu hiệu của CTTP thì có nghĩa hành vi
đó hành vi PT được quy định trong LHS và người thực hiện phải chịu
TNHS.
dụ: CTTP tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 134) CSPL của TNHS, điều kiện cần đủ của
TNHS. CTTP3 dấu hiệu cơ bản “cố ý”, “gây thương tích, gây tổn hại”,
“ tỷ lệ tổn thương”:
lOMoARcPSD| 61685031
- Phân biệt tội này với tội ý… hoặc tội cố ý…trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh => TNHS của 2 loại tội này cũng khác nhau với nh
phạt khác nhau => vừa xác định TNHS vừa phân hóa TNHS.
- Nếu không có đủ 3 dấu hiệu này thì chỉ có xuất hiện vi phạm dân sự (vi
phạm giá trị nhân thân) vấn đề TNHS không được đặt ra không
đủ phản ánh tính chất nguy hiểm cho XH.
4. Tại sao nói: “CTTP được coi là CSPL của việc định tội danh”. Khái niệm:
- CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung tính đặc trưng cho TP cụ
thể được quy định trong LHS.
- Cơ sở pháp nền tảng từ những định nghĩa trong pháp luật đthể
củng cố những quy định, quy tắc trong tổ chức; trong những mối quan
hệ hoặc trong bất kỳ một hoạt động nào để thể hướng đến mục tiêu
đảm bảo thống nhất một quy tắc xử sự chung.
- Định tội danh việc xác định hành vi đã thực hiện phạm tội cụ th
trong LHS.
CTTP được coi là CSPL của việc định tội danh là bởi:
- Việc xác định tội danh là quá trình xác định hành vi thỏa mãn các dấu
hiệu của CTTP trong CTTP:
+ Định tội CS cần thiết để truy cứu TNHS người PT cũng nPNTM
trong những trường hợp nhất định.
+ Trong BLHS từng TP được quy định đều tội danh muốn định
tội danh cho hành vi cụ thể thì phải căn cứ vào CTTP đã được quy định.
- Nếu các tình tiết của hành vi PT phù hợp với các dấu hiệu của CTTP
được quy định trong BLHS thì hành vi được định theo tội danh đó.
- Nhờ các dấu hiệu tính đặc trưng trong CTTP bản cho phép
chúng ta phân biệt TP với các VP thông thường, TP này với TP khác, từ
đó việc định tội danh cũng dễ dàng hơn, tránh HS hóa, nghiêm trọng
hóa các VP thông thường.
dụ chứng minh: CTTP tội tàng trữ trái phép chất ma túy CSPL của
việc định tội danh với 2 dấu hiệu cơ bản là hành vi “tàng trữ trái phép chất
ma túy” và mục đích PT “không nhằm mua bán, vận chuyển, sản xuất trái
phép chất ma túy”.
- Nếu các tình tiết của hành vi PT thỏa mãn các dấu hiệu của CTTP trên
thì hành vi đó mặc nhiên được gọi theo tội danh “tàng trữ trái phép chất
ma túy”.
Hơn nữa, khi các tình tiết ca hành vi PT chỉ thỏa mãn 1 phần, chưa đủ
các dấu hiệu của CTTP thì việc định tội danh cũng khác đi. Như trên ví
dụ, chỉ cần thay đổi từ dấu hiệu hành vi “tàng trữ” sang hành vi “vận
chuyển” mục đích PT thành “không nhằm sản xuất, mua bán, tàng
trữ trái phép chất ma túy” thì hành vi PT đã bị xác định theo tội danh
“vận chuyển trái phép chất ma túy” chứ không phải “tàng trữ trái phép
chất ma túy nữa”.
lOMoARcPSD| 61685031
5. Tại sao CTTP được coi là CSPL để định khung hình phạt.
Khái niệm:
- CTTP tổng hợp các dấu hiệu chung tính đặc trưng của TP cụ thể
được quy định trong LHS.
- Cơ sở pháp nền tảng từ những định nghĩa trong pháp luật đthể
củng cố những quy định, quy tắc trong tổ chức; trong những mối quan
hệ hoặc trong bất kỳ một hoạt động nào để thể hướng đến mục tiêu
đảm bảo thống nhất một quy tắc xử sự chung.
- Định khung hình phạt việc xác định hành vi PT đã thỏa mãn CTTP
bản thuộc khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ không
thuộc khung nào.
CTTP là cơ sở pháp lí để định khung hình phạt là bởi vì:
- Nếu các tình tiết của hành vi PT phù hợp với dấu hiệu định khung hình
phạt tăng nặng/giảm nhẹ thì khung hình phạt được áp dụng khung
hình phạt có dấu hiệu định khung hình phạt đó.
Trong những TH như vậy, CTTP tăng nặng cũng như CTTP giảm nhẹ
là CSPL để xác định khung hình phạt.
- Nếu hành vi PT không tình tiết nào phù hợp với dấu hiệu định khung
hình phạt tăng nặng/giảm nhẹ thì khung hình phạt được áp dụng
khung hình phạt cơ bản.
Trong TH như vậy, CTTPbản tuy là CSPL để định tội danh nhưng
đồng thời là CSPL để định khung hình phạt.
dụ: CTTP tội hiếp dâm là sđể định khung hình phạt với các dấu
hiệu từ cơ bản như hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực,…” và hành
vi “giao cấu, thực hiện hành vi quan hệ tình dục” cho đến tăng nặng như
dấu hiệu hậu quả “làm nạn nhân có thai”:
- Nếu các tình tiết của hành vi PT chỉ dừng lại đến ở các dấu hiệu cơ bản
như trên của CTTP thì khung hình phạt được áp dụng khung hình
phạt cơ bản (bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm).
- Nếu hành vi PT tình tiết gây hậu quả “làm nạn nhân thai” dấu
hiệu định khung tăng nặng thì khung hình phạt được áp dụng là khung
hình phạt tăng nặng (phạt tù từ 07 đến 15 năm).
6. Phân tích cơ chế (cách thức) hành vi PT gây thiệt hại cho khách thể của TP.
Khái niệm:
- chế (cách thức) khái niệm dùng để chỉ 1 phương thức, quy luật
vận hành của 1 hthống hay bất cứ một sự vật hiện tượng, một quy luật
hay quá trình nào đó trong tự nhiên, XH.
- Khách thể của ti phạm là QHXH được LHS bảo vệ và bị TP xâm hại.
- Cơ chế gây thiệt hại cho khách thể được hiểu là cách để làm cho khách
thể bị TP xâm hại diễn ra như thế nào?
Cơ chế (cách thức) hành vi PT gây thiệt hại cho khách thể của TP:
lOMoARcPSD| 61685031
- Hành vi PT xâm hại khách thể của TP thông qua sự tác động đến bộ
phận cụ thể của QHXH. Bộ phận của QHXH bị tác động như vậy được
gọi là ĐTTĐ của TP.
- Sự gây thiệt hại cho khách thể của TP hình thức cụ thể nào cũng
luôn luôn diễn ra trên CS hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của
ĐTTĐ.
- Các bộ phận của khách thể của TP có thể bị tác động là:
+ Chủ thể của QHXH: con người với giá trị nhân thân tính mạng, sức
khỏe, tinh thần, thể chất, trí tuệ.
+ Đối tượng vật chất – khách thể của QHXH: tài sản, của cải, vật chất,
+ Hoạt động bình thường của chủ thể - nội dung của QHXH: hoạt động
làm việc, giao lưu, học tập,…
- Bất cứ TP nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của ĐTTĐ cụ
thể. Sự làm biến đổi tình trạng này là phương thức gây thiệt hại cho
QHXH.
dụ: A đã cướp tài sản của B, hành vi PT của A đã cách thức gây thiệt
hại cho khách thể của TP. Hành vi của A bao gồm hành vi “dùng lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực” và hành vi “chiếm đoạt TS”:
- Hành vi “dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng lực” thực tế đã tác động 1
hoặc nhiều bộ phận của khách thể của TP, đây chính giá trị nhân
thân của nạn nhân (sức khỏe, tính mạng, tinh thần). Hành vi này làm
biến đổi tình trạng của nạn nhân từ sức khỏe bình thường sang trạng
thái bị thương, từ tâm trạng ổn định sang hoảng loạn,…
- Hành vi “chiếm đoạt TS” cũng tác động tới bộ phận quan trọng của
khách thể của TP đó chính đối tượng vật chất. Hành vi này thể làm
biến đổi tình trạng sở hữu của người này sang người khác 1 cách vô căn
cứ, từ trạng thái nguyên vẹn sang trạng thái hư hỏng,…
7. Tại sao nói: “Việc nghiên cứu nhân thân người PT ý nghĩa đối với việc
định tội danh”.
Khái niệm:
- Nhân thân người PT trong LHS là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt
của người PTý nghĩa đối với việc giải quyết vấn đề TNHS của họ. -
Những đặc điểm đó thể về nghề nghiệp, lịch pháp, ý thức
PL, thái độ làm việc, thái độ trong QH với những người khác, hoàn cảnh
gia đình…
Định tội danh việc xác định hành vi đã thực hiện phạm tội cụ thể
trong LHS.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người PT đối với việc định tội
danh:
- Nhân thân người PT tuy không phải là yếu tố CTTP nhưng nhiều CTTP
những dấu hiệu đặc trưng phản ánh đặc điểm nào đó thuộc về nhân
lOMoARcPSD| 61685031
thân của người PT. Chỉ khi thỏa mãn những dấu hiệu đặc trưng này thì
mới được coiTPxác định được tội danh. VD: Người đặc điểm
liên quan đến chức vụ, quyền hạn mới thể thực hiện được hành vi
chiếm đoạt tài sản mình trách nhiệm quản lý thì người đó được
xem là đã PT và có tội danh “tham ô tài sản”.
- Bên cạnh đặc điểm nhân thân được phản ánh bằng 1 số dấu hiệu đặc
trưng trong CTTP, đặc điểm nhân thân người PT còn được quy định đ
giới hạn phạm vi đối tượng cần thiết phải bị truy cứu TNHS khi thực
hiện hành vi nhất định. Đây cũng một khía cạnh, yếu tcho quá trình
định tội danh.
VD: CTTP tội dâm ô đối với trẻ em giới hạn phạm vi chủ thể của tội
này phải là người thành niên; chỉ được coi là tôi danh “dâm ô” khi thỏa
mãn đặc điểm nhân thân về độ tuổi, ý thức PL. Sự giới hạn phạm vi chủ
thể ở đây chủ yếu là xuất phát từ chính sách hình sự của Nhà nước khi
nghiên cứu nhân thân người PT.
- Trong những CTTP đã mở rộng phạm vi phải chịu TNHS, việc tả
đặc điểm xấu về nhân thân của chủ thcủa TP dấu hiệu để thay thế
cho dấu hiệu khác, góp phần cho việc định tội danh.
VD: Trong CTTP tội trộm cắp TS, đặc điểm xấu về nhân thân của chủ
thể (đã bi xphạt HC về hành vi chiếm đoạt TS hoặc đã bị kết án vtội
chiếm đoạt TS) đã được mô tả để có thể thay thế cho dấu hiệu mức độ
giá trị TS trộm cắp được, từ đó tiến hành việc định tội.
8. Tại sao nói “Việc nghiên cứu nhân thân người PT ý nghĩa đối với việc định
khung hình phạt” Khái niệm:
- Nhân thân người PT tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người
PT có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định TNHS của họ.
- Định khung hình phạt việc xác định hành vi PT đã thỏa mãn CTTP
bản thuộc khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ không
thuộc khung nào.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người PT đối với việc định khung
hình phạt:
- Đó là những TP CTTP cơ bản hoặc CTTP tăng nặng hay giảm nhẹ
của những tội này dấu hiệu phản ánh đặc diểm nào đó thuộc về nhân
thân người PT.
lOMoARcPSD| 61685031
- Nếu các tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân người PT, phù hợp
với dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng thì khung hình phạt
được áp dụng là khung hình phạt có dấu hiệu định khung hình phạt
đó.
- Nếu các tình tiết giảm nhẹ thuộc về nhân thân người PT, phù hợp
với dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ thì khung hình phạt
được áp dụng là khung hình phạt có dấu hiệu định khung hình phạt
đó
Trong những TH như vậy, tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ thuộc về
nhân thân người PT góp phần xác định khung hình phạt.
- Nếu nhân thân người PT tình tiết nào không phù hợp với dấu hiệu
định khung hình phạt tăng nặng/giảm nhẹ thì khung hình phạt được
áp dụng là khung hình phạt cơ bản.
Trong TH như vậy, nhân thân người PT vẫn trở thành cơ sở cho việc
định khung hình phạt.
dụ: Chẳng hạn điều 353, BLHS năm 2015 quy định “tội tham ô tài
sản”. CTTP tội tham ô TS dấu hiệu phản ánh đặc điểm bản của
nhân thân người PT là “phải giữ chức vụ, quyền hạn”.
- Nếu nhân thân người PT dấu hiệu trên không thuộc vào khung
tăng nặng/giảm nhẹ thì khung hình phạt được áp dụng khung hình
phạt cơ bản (phạt tù từ 02 năm đến 07 năm).
- Nếu nhân thân người PT dấu hiệu trên thuộc khung hình phạt tăng
nặng thì khung hình phạt được áp dụng là khung tăng nặng (bị cấm
đảm nhiệm chức v nhất định từ 01 năm đến 05 năm).
9. Tại sao người hành vi chuẩn bị PT được quy định tại một trong các điều
theo quy định tại khoản 2 điều 14 BLHS phải chịu TNHS?
Khái niệm:
- Chuẩn bị PThành vi tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện TP
chưa thực hiện được TP nguyên nhân ngoài ý muốn của người
PT.
- TNHS là trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất do NN áp dụng đối
với các chủ thể đã thực hiện hành vi PT thể phải gánh chịu
hình phạt.
Người hành vi chuẩn bị PT được quy định tại một trong các điều
theo quy định tại khoản 2 điều 14 BLHS phải chịu TNHS là bởi vì:
- Tuy CBPT là TH chưa thực hiện TP nhưng với tính chất hành vi
tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện TP, hành vi CBPT hợp
thành thể thống nhất với hành vi thực hiện TP.
- Việc thực hiện TPthể xảy ra hay không và xảy ra như thế nào,
ràng có sự phụ thuộc nhất định vào hành vi CBPT. Do vậy, hành vi
CB đã có tính nguy hiểm cho XH.
lOMoARcPSD| 61685031
Nói cách khác, trong quá trình tạo tiền đề, điều kiện vật chất hay tinh
thần cho việc thực hiện TP, chủ thể đã thực hiện hành vi PT nào
CTTP khác phản ánh và phải chịu TNHS cho phần hành vi đó.
- Hơn nữa, việc phải dừng lại không thực hiện được TP là do nguyên
nhân ngoài ý muốn, còn người ý định PT vẫn mong muốn thực
hiện TP đến cùng. Có nghĩa là việc không thực hiện tiếp hành vi PT
do trở ngại khách quan chi phối chkhông phải do động lực bên
trong. Khi bị dừng lại, người PT đã bị ngăn cản, dù muốn thực hiện
TP thì cũng không thực hiện được nữa.
Dấu hiệu này vừa phản ánh được tính nguy hiểm cho XH vừa phản ánh
được tính có lỗi và đương nhiên phải chịu TNHS.
Ví dụ: Do tư thù cá nhân, A đã mua khẩu súng lục để về trả thù và giết
chết B. Nhưng trong lúc đợi B tại điểm hẹn, A đã bị Công An nghi ngờ
tiến hành khám xét, sau đó bị bắt giữ. Như vậy, A đã chuẩn bị PT
giết người và vẫn phải chịu TNHS bởi vì:
- A dừng lại không thực hiện tội định phạm do nguyên nhân ngoài ý
muốn (bị CA bắt giữ) nhưng vẫn mong muốn thực hiện tội giết người
đến cùng => TNHS đương nhiên đặt ra đối với TH chuẩn bị PT
tính chất nguy hiểm cho XH này.
- Hơn nữa, để CBPT giết người của A thì A đã thực hiện TP tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt khí quan dụng, phương tiện kỹ quân sự A đã hành vi
mua và giữ khẩu súng lục.
TNHS nhất định đặt ra cho hành vi mua, tàng trữ, sử dụng súng của
A.
10. Tại sao BLHS Việt Nam quy định: “Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm”.
Khái niệm:
- TYNCCDVPTtự mình không thực hiện hành vi PT đến cùng, tuy
không có gì ngăn cản.
- Miễn TNHS việc xem xét bỏ qua trách nhiệm pháp do NN áp
dụng đối với các chủ thể đã thực hiện hành vi PT không phải gánh
chịu hình phạt.
Người TYNCCDVPT được miễn TNHS về tội định phạm là bởi vì:
- Xét về mặt chủ quan: người PT đã hoàn toàn tự nguyện từ bỏ hẳn ý
định PT của mình, không còn mong muốn thực hiện TP “đến cùng”
như ở TH PT chưa hoàn thành.
- Xét về mặt khách quan: hành vi đã thực hiện của người
TYNCCDVPT chưa có tính nguy hiểm đầy đủ của TP muốn thực hiện
vì chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của CTTP.
lOMoARcPSD| 61685031
- Trong sthống nhất giữa mặt KQ CQ, hành vi đã thực hiện của
người TYNCCDVPT được coi như đã mất tính nguy hiểm của TP
muốn thực hiện.
- Quy định động lực thúc đẩy người đã thực hiện TP dừng lại để
được hưởng sự khoan hồng của NN => biện pháp pháp nhằm
hạn chế những thiệt hại thể gây ra cho các QHXH được LHS bảo
vệ.
dụ: chủ thể tội cướp TS trong khi đang thực hiện TP đã TYNCCDVPT
sẽ được miễn TNHS về tội cướp TS (Điều 124) nhưng người đó phải chịu
TNHS vtội cố ý gây thương tích (Điều 134) nếu hành vi đã thực hiện
(trước khi dừng lại) thỏa mãn các dấu hiệu của tội này:
Người TYNCCDVPT tội cướp TS sẽ được miễn TNHS về tội định phạm:
- Hoàn toàn tbỏ ý định PT, không còn mong muốn thực hiện TP đến
cùng có thể vì lo sợ, hối hận,…
- Hành vi đã thực hiện của người TYNCCDVPT chưa thỏa mãn hết các
dấu hiệu của CTTP: mới chỉ thực hiện hành vi (dùng lực, đe dọa
dùng vũ lực,…) và dừng lại trước hành vi “chiếm đoạt TS” nên sẽ gây
thiệt hại về giá trị nhân thân chứ chưa phải là giá trị TS.
Tính nguy hiểm cho XH theo đó cũng không quá nghiêm trọng.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61685031 Câu hỏi Luật Hình Sự
1. Tại sao nói: “Tính nguy hiểm cho XH là dấu hiệu cơ bản, quan trọng
nhất,quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm”. • Khái niệm:
- Tính nguy hiểm cho XH là một đặc điểm của hành vi khách quan của
TP – gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho QHXH được LHS bảo vệ.
- Tội phạm là hành vi khách quan có tính nguy hiểm cho XH, có lỗi, được
quy định trong LHS, do chủ thể có NLTNHS thực hiện và phải chịu hình phạt.
- Các dấu hiệu của TP bao gồm: + Tính nguy hiểm cho XH.
+ Tính được quy định trong LHS. + Tính có lỗi.
+ Tính do người có NLTNHS thực hiện.
+ Tính phải chịu hình phạt.
• Tính nguy hiểm cho XH là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định
những dấu hiệu khác của TP:
- Tính nguy hiểm cho XH là dấu hiệu về nội dung của TP => quy định
dấu hiệu về hình thức của TP (tính được quy định trong LHS).
- Tính nguy hiểm cho XH bao gồm:
+ Tính gây thiệt hại về khách quan => bị coi là TP và phải trả giá bằng
việc chịu hình phạt tương xứng với mức độ và tính chất gây thiệt hại
=> quy định tính phải chịu hình phạt.
+ Tính có lỗi về chủ quan => lựa chọn hành vi gây thiệt hại trong khi
có đủ điều kiện lựa chọn hành vi khác không gây thiệt hại =>
- Tính nguy hiểm cho XH phải do người có NTTNHS mới có thể nhận
thức và điều khiển hành vi gây thiệt hại đến cùng => quy định luôn tính
do người có NLTNHS thực hiện. • Ví dụ chứng minh:
Tội phạm tội giết người là hành vi có tính nguy hiểm cho XH và dấu hiệu
này là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất và quyết định các dấu hiệu còn lại của TP bởi vì:
- Nó phản ánh được tính có lỗi: bất cứ hành vi giết người nào cũng luôn
là dạng lỗi cố ý. Ngoài việc lựa chọn hành vi gây thiệt hại về tính mạng
trong khi có đủ điều kiện khác để thực hiện hành vi không gây thiệt hại
thì chủ thể còn nhận thức được tính chất nguy hiểm cho XH của hành
vi, thấy trước được hậu quả thiệt hại xảy ra và mong muốn/ có ý thức
để mặc cho hậu quả xảy ra.
- Hành vi giết người có tính được quy định trong LHS – dấu hiệu hình
thức quan trọng. Tội giết người được quy định tại điều 123 với CSPL
là CTTP tội giết người. lOMoAR cPSD| 61685031
- Tội phạm giết người nhất định phát sinh tính phải chịu hình phạt. Tính
mạng là vô giá, thiêng liêng và bất khả xâm phạm, được PL bảo hộ
“không ai được tước đi mạng sống của người khác” và nếu làm điều PL
cấm thì phải chịu cưỡng chế của nhà nước thông qua các hình phạt như
tử hình, chung thân, phạt tù…
2. Tại sao nói “Tất cả các dấu hiệu của CTTP đều có tính bắt buộc khi xác địnhTP”. • Khái niệm:
- CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho TP cụ
thể được quy định trong LHS.
- Những dấu hiệu có trong các CTTP là:
+ Dấu hiệu hành vi thuộc yếu tố mặt khách quan của TP. +
Dấu hiệu lỗi thuộc yếu tố mặt chủ quan của TP.
+ Dấu hiệu năng lực TNHS thuộc yếu tố chủ thẻ của TP.
+ Các dấu hiệu khác như: khách thể, đối tượng tác động, mục đích,…
• Tất cả các dấu hiệu của CTTP đều có tính bắt buộc khi xác định TP là bởi vì:
- Các dấu hiệu đó của CTTP đều hướng tới mục đích chủ yếu là mô tả tội
phạm. Hơn nữa khi nó có tính đặc trưng sẽ là cơ sở cẩn thiết để phân
biệt TP với các loại VP thông thường, phân biệt TP này với TP khác.
Điều này góp phần xác định đúng người, đúng tội, đúng PL.
- Các dấu hiệu của CTTP đều là những dấu hiệu phản ánh nội dung các
yếu tố của TP. Một TP luôn được tạo thành bởi 4 yếu tố là khách thể,
mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của TP. Nếu các dấu hiệu của
CTTP không xuất hiện đầy đủ thì không phản ánh hết nội dung các yếu
tố của TP, do vậy khó xác định được TP và xảy ra nguy cơ bỏ lọt TP.
- Hơn nữa, tất cả các dấu hiệu của CTTP đều là những dấu hiệu đã được
quy định trong LHS. Nếu không thỏa mãn yêu cầu “bắt buộc” phải có
trong CTTP đều có thể dẫn đến tình trạng TNHS không đúng hoặc bỏ
lọt TP không truy cứu TNHS. • Ví dụ chứng minh:
CTTP ở khoản 1 - điều 134 có 3 dấu hiệu cơ bản là hành vi “gây thương
tích, gây tổn hại”, lỗi “cố ý”, hậu quả thiệt hại “tỷ lệ tổn thương” , chủ thể
“người nào” có tính bắt buộc xác định TP tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
- Mô tả đúng TP, phân biệt rõ ràng giữa tội phạm này với TP khác chẳng
hạn TP “tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác”.
Các dấu hiệu này đều thuộc về các yếu tố tạo thành 1 TP:
+ Dấu hiệu hành vi “gây tổn hại, gây thương tích” thuộc về yếu tố mặt khách quan của TP.
+ Dấu hiệu lỗi “vô ý’’ thuộc về yếu tố mặt chủ quan của TP. lOMoAR cPSD| 61685031
+ Dấu hiệu “người nào” thuộc về yếu tố chủ thể của TP.
+ Dấu hiệu hậu quả thiệt hại “tỉ lệ tổn thương cơ thể” thuộc về yếu tố
mặt khách quan của TP và phản ánh được đối tượng tác động của yếu tố khách thể của TP.
 TP là thể thống nhất của các yếu tố và dấu hiệu này.
3. Tại sao nói “CTTP được coi là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện cần vàđủ của TNHS”: • Khái niệm:
- CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho TP cụ
thể được quy định trong LHS.
- Cơ sở pháp lý là nền tảng từ những định nghĩa trong pháp luật để có thể
củng cố những quy định, quy tắc trong tổ chức; trong những mối quan
hệ hoặc trong bất kỳ một hoạt động nào để có thể hướng đến mục tiêu
đảm bảo thống nhất một quy tắc xử sự chung.
- TNHS là trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất do NN áp dụng đối với
các chủ thể đã thực hiện hành vi PT và có thể gánh chịu hình phạt.
• CTTP được coi là cơ sở pháp lý của TNHS, là điều kiện cần và đủ của TNHS:
- CTTP được coi là cơ sở pháp lý của TNHS:
+ CTTP tập hợp những dấu hiệu hướng đến mô tả TP mà TP luôn có
tính phải chịu hình phạt => CTTP trực tiếp quy định hình phạt – là hậu
quả pháp lý nghiêm khắc nhất mà NN định ra => CSPL cho TNHS.
+ CTTP có những dấu hiệu mang tính đặc trưng để nhằm phân biệt tội
phạm với các VP thông thường khác (tội phạm phải chịu TNHS còn các
VP sẽ chịu những TNPL phi HS => CS xác định TNHS); phân biệt giữa
TP này với TP khác và giữa tăng nặng và giảm nhẹ (sẽ phải chịu những
hình phạt khác nhau => CS phân hóa TNHS).
- CTTP là điều kiện cần và đủ của TNHS:
+ Tất cả những dấu hiệu của CTTP đều là điều kiện cần để xác dịnh TP.
+ Nhiều TP có CTTP đòi hỏi có thêm một số dấu hiệu đặc trưng khác
mới đủ điều kiện để được coi là TP.
- Vì phải dựa vào những dấu hiệu của CTTP để nhận định hành vi có phải
là TP hay không và người thực hiện hành vi có phải chịu TNHS hay
không. Nếu hành vi có đủ các dấu hiệu của CTTP thì có nghĩa hành vi
đó là hành vi PT được quy định trong LHS và người thực hiện phải chịu TNHS.
• Ví dụ: CTTP tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 134) là CSPL của TNHS, là điều kiện cần và đủ của
TNHS. CTTP có 3 dấu hiệu cơ bản “cố ý”, “gây thương tích, gây tổn hại”,
“ tỷ lệ tổn thương”: lOMoAR cPSD| 61685031
- Phân biệt tội này với tội vô ý… hoặc tội cố ý…trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh => TNHS của 2 loại tội này cũng khác nhau với hình
phạt khác nhau => vừa xác định TNHS vừa phân hóa TNHS.
- Nếu không có đủ 3 dấu hiệu này thì chỉ có xuất hiện vi phạm dân sự (vi
phạm giá trị nhân thân) và vấn đề TNHS không được đặt ra vì không
đủ phản ánh tính chất nguy hiểm cho XH.
4. Tại sao nói: “CTTP được coi là CSPL của việc định tội danh”. Khái niệm:
- CTTP là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho TP cụ
thể được quy định trong LHS.
- Cơ sở pháp lý là nền tảng từ những định nghĩa trong pháp luật để có thể
củng cố những quy định, quy tắc trong tổ chức; trong những mối quan
hệ hoặc trong bất kỳ một hoạt động nào để có thể hướng đến mục tiêu
đảm bảo thống nhất một quy tắc xử sự chung.
- Định tội danh là việc xác định hành vi đã thực hiện phạm tội cụ thể trong LHS.
• CTTP được coi là CSPL của việc định tội danh là bởi:
- Việc xác định tội danh là quá trình xác định hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của CTTP trong CTTP:
+ Định tội là CS cần thiết để truy cứu TNHS người PT cũng như PNTM
trong những trường hợp nhất định.
+ Trong BLHS từng TP được quy định đều có tội danh và muốn định
tội danh cho hành vi cụ thể thì phải căn cứ vào CTTP đã được quy định.
- Nếu các tình tiết của hành vi PT phù hợp với các dấu hiệu của CTTP
được quy định trong BLHS thì hành vi được định theo tội danh đó.
- Nhờ có các dấu hiệu có tính đặc trưng trong CTTP cơ bản cho phép
chúng ta phân biệt TP với các VP thông thường, TP này với TP khác, từ
đó việc định tội danh cũng dễ dàng hơn, tránh HS hóa, nghiêm trọng
hóa các VP thông thường.
• Ví dụ chứng minh: CTTP tội tàng trữ trái phép chất ma túy là CSPL của
việc định tội danh với 2 dấu hiệu cơ bản là hành vi “tàng trữ trái phép chất
ma túy” và mục đích PT “không nhằm mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy”.
- Nếu các tình tiết của hành vi PT thỏa mãn các dấu hiệu của CTTP trên
thì hành vi đó mặc nhiên được gọi theo tội danh “tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Hơn nữa, khi các tình tiết của hành vi PT chỉ thỏa mãn 1 phần, chưa đủ
các dấu hiệu của CTTP thì việc định tội danh cũng khác đi. Như trên ví
dụ, chỉ cần thay đổi từ dấu hiệu hành vi “tàng trữ” sang hành vi “vận
chuyển” và mục đích PT thành “không nhằm sản xuất, mua bán, tàng
trữ trái phép chất ma túy” thì hành vi PT đã bị xác định theo tội danh
“vận chuyển trái phép chất ma túy” chứ không phải “tàng trữ trái phép chất ma túy nữa”. lOMoAR cPSD| 61685031
5. Tại sao CTTP được coi là CSPL để định khung hình phạt. • Khái niệm:
- CTTP là tổng hợp các dấu hiệu chung có tính đặc trưng của TP cụ thể
được quy định trong LHS.
- Cơ sở pháp lý là nền tảng từ những định nghĩa trong pháp luật để có thể
củng cố những quy định, quy tắc trong tổ chức; trong những mối quan
hệ hoặc trong bất kỳ một hoạt động nào để có thể hướng đến mục tiêu
đảm bảo thống nhất một quy tắc xử sự chung.
- Định khung hình phạt là việc xác định hành vi PT đã thỏa mãn CTTP
cơ bản có thuộc khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ không và thuộc khung nào.
• CTTP là cơ sở pháp lí để định khung hình phạt là bởi vì:
- Nếu các tình tiết của hành vi PT phù hợp với dấu hiệu định khung hình
phạt tăng nặng/giảm nhẹ thì khung hình phạt được áp dụng là khung
hình phạt có dấu hiệu định khung hình phạt đó.
 Trong những TH như vậy, CTTP tăng nặng cũng như CTTP giảm nhẹ
là CSPL để xác định khung hình phạt.
- Nếu hành vi PT không có tình tiết nào phù hợp với dấu hiệu định khung
hình phạt tăng nặng/giảm nhẹ thì khung hình phạt được áp dụng là khung hình phạt cơ bản.
 Trong TH như vậy, CTTP cơ bản tuy là CSPL để định tội danh nhưng
đồng thời là CSPL để định khung hình phạt.
• Ví dụ: CTTP tội hiếp dâm là cơ sở để định khung hình phạt với các dấu
hiệu từ cơ bản như hành vi “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực,…” và hành
vi “giao cấu, thực hiện hành vi quan hệ tình dục” cho đến tăng nặng như
dấu hiệu hậu quả “làm nạn nhân có thai”:
- Nếu các tình tiết của hành vi PT chỉ dừng lại đến ở các dấu hiệu cơ bản
như trên của CTTP thì khung hình phạt được áp dụng là khung hình
phạt cơ bản (bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm).
- Nếu hành vi PT có tình tiết gây hậu quả “làm nạn nhân có thai” – dấu
hiệu định khung tăng nặng thì khung hình phạt được áp dụng là khung
hình phạt tăng nặng (phạt tù từ 07 đến 15 năm).
6. Phân tích cơ chế (cách thức) hành vi PT gây thiệt hại cho khách thể của TP. Khái niệm:
- Cơ chế (cách thức) là khái niệm dùng để chỉ 1 phương thức, quy luật
vận hành của 1 hệ thống hay bất cứ một sự vật hiện tượng, một quy luật
hay quá trình nào đó trong tự nhiên, XH.
- Khách thể của tội phạm là QHXH được LHS bảo vệ và bị TP xâm hại.
- Cơ chế gây thiệt hại cho khách thể được hiểu là cách để làm cho khách
thể bị TP xâm hại diễn ra như thế nào?
• Cơ chế (cách thức) hành vi PT gây thiệt hại cho khách thể của TP: lOMoAR cPSD| 61685031
- Hành vi PT xâm hại khách thể của TP thông qua sự tác động đến bộ
phận cụ thể của QHXH. Bộ phận của QHXH bị tác động như vậy được gọi là ĐTTĐ của TP.
- Sự gây thiệt hại cho khách thể của TP dù ở hình thức cụ thể nào cũng
luôn luôn diễn ra trên CS hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của ĐTTĐ.
- Các bộ phận của khách thể của TP có thể bị tác động là:
+ Chủ thể của QHXH: con người với giá trị nhân thân là tính mạng, sức
khỏe, tinh thần, thể chất, trí tuệ.
+ Đối tượng vật chất – khách thể của QHXH: tài sản, của cải, vật chất, …
+ Hoạt động bình thường của chủ thể - nội dung của QHXH: hoạt động
làm việc, giao lưu, học tập,…
- Bất cứ TP nào cũng đều tác động làm biến đổi tình trạng của ĐTTĐ cụ
thể. Sự làm biến đổi tình trạng này là phương thức gây thiệt hại cho QHXH.
• Ví dụ: A đã cướp tài sản của B, hành vi PT của A đã có cách thức gây thiệt
hại cho khách thể của TP. Hành vi của A bao gồm hành vi “dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực” và hành vi “chiếm đoạt TS”:
- Hành vi “dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực” thực tế đã tác động 1
hoặc nhiều bộ phận của khách thể của TP, mà ở đây chính là giá trị nhân
thân của nạn nhân (sức khỏe, tính mạng, tinh thần). Hành vi này làm
biến đổi tình trạng của nạn nhân từ sức khỏe bình thường sang trạng
thái bị thương, từ tâm trạng ổn định sang hoảng loạn,…
- Hành vi “chiếm đoạt TS” cũng tác động tới bộ phận quan trọng của
khách thể của TP đó chính là đối tượng vật chất. Hành vi này có thể làm
biến đổi tình trạng sở hữu của người này sang người khác 1 cách vô căn
cứ, từ trạng thái nguyên vẹn sang trạng thái hư hỏng,…
7. Tại sao nói: “Việc nghiên cứu nhân thân người PT có ý nghĩa đối với việc định tội danh”. • Khái niệm:
- Nhân thân người PT trong LHS là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt
của người PT có ý nghĩa đối với việc giải quyết vấn đề TNHS của họ. -
Những đặc điểm đó có thể là về nghề nghiệp, lý lịch tư pháp, ý thức
PL, thái độ làm việc, thái độ trong QH với những người khác, hoàn cảnh gia đình…
Định tội danh là việc xác định hành vi đã thực hiện phạm tội cụ thể trong LHS.
• Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người PT đối với việc định tội danh:
- Nhân thân người PT tuy không phải là yếu tố CTTP nhưng nhiều CTTP
có những dấu hiệu đặc trưng phản ánh đặc điểm nào đó thuộc về nhân lOMoAR cPSD| 61685031
thân của người PT. Chỉ khi thỏa mãn những dấu hiệu đặc trưng này thì
mới được coi là TP và xác định được tội danh. VD: Người có đặc điểm
liên quan đến chức vụ, quyền hạn mới có thể thực hiện được hành vi
chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý thì người đó được
xem là đã PT và có tội danh “tham ô tài sản”.
- Bên cạnh đặc điểm nhân thân được phản ánh bằng 1 số dấu hiệu đặc
trưng trong CTTP, đặc điểm nhân thân người PT còn được quy định để
giới hạn phạm vi đối tượng cần thiết phải bị truy cứu TNHS khi thực
hiện hành vi nhất định. Đây cũng là một khía cạnh, yếu tố cho quá trình định tội danh.
VD: CTTP tội dâm ô đối với trẻ em giới hạn phạm vi chủ thể của tội
này phải là người thành niên; chỉ được coi là tôi danh “dâm ô” khi thỏa
mãn đặc điểm nhân thân về độ tuổi, ý thức PL. Sự giới hạn phạm vi chủ
thể ở đây chủ yếu là xuất phát từ chính sách hình sự của Nhà nước khi
nghiên cứu nhân thân người PT.
- Trong những CTTP đã mở rộng phạm vi phải chịu TNHS, việc mô tả
đặc điểm xấu về nhân thân của chủ thể của TP là dấu hiệu để thay thế
cho dấu hiệu khác, góp phần cho việc định tội danh.
VD: Trong CTTP tội trộm cắp TS, đặc điểm xấu về nhân thân của chủ
thể (đã bi xử phạt HC về hành vi chiếm đoạt TS hoặc đã bị kết án về tội
chiếm đoạt TS) đã được mô tả để có thể thay thế cho dấu hiệu mức độ
giá trị TS trộm cắp được, từ đó tiến hành việc định tội.
8. Tại sao nói “Việc nghiên cứu nhân thân người PT có ý nghĩa đối với việc định
khung hình phạt”  Khái niệm:
- Nhân thân người PT là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người
PT có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định TNHS của họ.
- Định khung hình phạt là việc xác định hành vi PT đã thỏa mãn CTTP
cơ bản có thuộc khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ không và thuộc khung nào.
• Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người PT đối với việc định khung hình phạt:
- Đó là những TP mà CTTP cơ bản hoặc CTTP tăng nặng hay giảm nhẹ
của những tội này có dấu hiệu phản ánh đặc diểm nào đó thuộc về nhân thân người PT. lOMoAR cPSD| 61685031
- Nếu các tình tiết tăng nặng thuộc về nhân thân người PT, phù hợp
với dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng thì khung hình phạt
được áp dụng là khung hình phạt có dấu hiệu định khung hình phạt đó.
- Nếu các tình tiết giảm nhẹ thuộc về nhân thân người PT, phù hợp
với dấu hiệu định khung hình phạt giảm nhẹ thì khung hình phạt
được áp dụng là khung hình phạt có dấu hiệu định khung hình phạt đó
 Trong những TH như vậy, tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ thuộc về
nhân thân người PT góp phần xác định khung hình phạt.
- Nếu nhân thân người PT có tình tiết nào không phù hợp với dấu hiệu
định khung hình phạt tăng nặng/giảm nhẹ thì khung hình phạt được
áp dụng là khung hình phạt cơ bản.
 Trong TH như vậy, nhân thân người PT vẫn trở thành cơ sở cho việc định khung hình phạt.
• Ví dụ: Chẳng hạn điều 353, BLHS năm 2015 quy định “tội tham ô tài
sản”. CTTP tội tham ô TS có dấu hiệu phản ánh đặc điểm cơ bản của
nhân thân người PT là “phải giữ chức vụ, quyền hạn”.
- Nếu nhân thân người PT có dấu hiệu trên không thuộc vào khung
tăng nặng/giảm nhẹ thì khung hình phạt được áp dụng là khung hình
phạt cơ bản (phạt tù từ 02 năm đến 07 năm).
- Nếu nhân thân người PT có dấu hiệu trên thuộc khung hình phạt tăng
nặng thì khung hình phạt được áp dụng là khung tăng nặng (bị cấm
đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm).
9. Tại sao người có hành vi chuẩn bị PT được quy định tại một trong các điều
theo quy định tại khoản 2 điều 14 BLHS phải chịu TNHS? • Khái niệm:
- Chuẩn bị PT là hành vi tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện TP
mà chưa thực hiện được TP vì nguyên nhân ngoài ý muốn của người PT.
- TNHS là trách nhiệm pháp lí nghiêm khắc nhất do NN áp dụng đối
với các chủ thể đã thực hiện hành vi PT và có thể phải gánh chịu hình phạt.
• Người có hành vi chuẩn bị PT được quy định tại một trong các điều
theo quy định tại khoản 2 điều 14 BLHS phải chịu TNHS là bởi vì:
- Tuy CBPT là TH chưa thực hiện TP nhưng với tính chất là hành vi
tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện TP, hành vi CBPT hợp
thành thể thống nhất với hành vi thực hiện TP.
- Việc thực hiện TP có thể xảy ra hay không và xảy ra như thế nào, rõ
ràng có sự phụ thuộc nhất định vào hành vi CBPT. Do vậy, hành vi
CB đã có tính nguy hiểm cho XH. lOMoAR cPSD| 61685031
Nói cách khác, trong quá trình tạo tiền đề, điều kiện vật chất hay tinh
thần cho việc thực hiện TP, chủ thể đã thực hiện hành vi PT nào mà
CTTP khác phản ánh và phải chịu TNHS cho phần hành vi đó.
- Hơn nữa, việc phải dừng lại không thực hiện được TP là do nguyên
nhân ngoài ý muốn, còn người có ý định PT vẫn mong muốn thực
hiện TP đến cùng. Có nghĩa là việc không thực hiện tiếp hành vi PT
do trở ngại khách quan chi phối chứ không phải do động lực bên
trong. Khi bị dừng lại, người PT đã bị ngăn cản, dù muốn thực hiện
TP thì cũng không thực hiện được nữa.
Dấu hiệu này vừa phản ánh được tính nguy hiểm cho XH vừa phản ánh
được tính có lỗi và đương nhiên phải chịu TNHS.
• Ví dụ: Do tư thù cá nhân, A đã mua khẩu súng lục để về trả thù và giết
chết B. Nhưng trong lúc đợi B tại điểm hẹn, A đã bị Công An nghi ngờ
và tiến hành khám xét, sau đó bị bắt giữ. Như vậy, A đã chuẩn bị PT
giết người và vẫn phải chịu TNHS bởi vì:
- A dừng lại không thực hiện tội định phạm do nguyên nhân ngoài ý
muốn (bị CA bắt giữ) nhưng vẫn mong muốn thực hiện tội giết người
đến cùng => TNHS đương nhiên đặt ra đối với TH chuẩn bị PT có
tính chất nguy hiểm cho XH này.
- Hơn nữa, để CBPT giết người của A thì A đã thực hiện TP tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vũ khí quan dụng, phương tiện kỹ quân sự vì A đã có hành vi
mua và giữ khẩu súng lục.
 TNHS nhất định đặt ra cho hành vi mua, tàng trữ, sử dụng súng của A.
10. Tại sao BLHS Việt Nam quy định: “Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc
phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm”. • Khái niệm:
- TYNCCDVPT là tự mình không thực hiện hành vi PT đến cùng, tuy không có gì ngăn cản.
- Miễn TNHS là việc xem xét bỏ qua trách nhiệm pháp lí do NN áp
dụng đối với các chủ thể đã thực hiện hành vi PT và không phải gánh chịu hình phạt.
• Người TYNCCDVPT được miễn TNHS về tội định phạm là bởi vì:
- Xét về mặt chủ quan: người PT đã hoàn toàn tự nguyện từ bỏ hẳn ý
định PT của mình, không còn mong muốn thực hiện TP “đến cùng”
như ở TH PT chưa hoàn thành.
- Xét về mặt khách quan: hành vi đã thực hiện của người
TYNCCDVPT chưa có tính nguy hiểm đầy đủ của TP muốn thực hiện
vì chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của CTTP. lOMoAR cPSD| 61685031
- Trong sự thống nhất giữa mặt KQ và CQ, hành vi đã thực hiện của
người TYNCCDVPT được coi như đã mất tính nguy hiểm của TP muốn thực hiện.
- Quy định là động lực thúc đẩy người đã thực hiện TP dừng lại để
được hưởng sự khoan hồng của NN => Là biện pháp pháp lí nhằm
hạn chế những thiệt hại có thể gây ra cho các QHXH được LHS bảo vệ.
 Ví dụ: chủ thể tội cướp TS trong khi đang thực hiện TP đã TYNCCDVPT
sẽ được miễn TNHS về tội cướp TS (Điều 124) nhưng người đó phải chịu
TNHS về tội cố ý gây thương tích (Điều 134) nếu hành vi đã thực hiện
(trước khi dừng lại) thỏa mãn các dấu hiệu của tội này:
Người TYNCCDVPT tội cướp TS sẽ được miễn TNHS về tội định phạm:
- Hoàn toàn từ bỏ ý định PT, không còn mong muốn thực hiện TP đến
cùng có thể vì lo sợ, hối hận,…
- Hành vi đã thực hiện của người TYNCCDVPT chưa thỏa mãn hết các
dấu hiệu của CTTP: mới chỉ thực hiện hành vi (dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực,…) và dừng lại trước hành vi “chiếm đoạt TS” nên sẽ gây
thiệt hại về giá trị nhân thân chứ chưa phải là giá trị TS.
 Tính nguy hiểm cho XH theo đó cũng không quá nghiêm trọng.