Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà hay nhất | Văn mẫu lớp 12
Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân tổng hợp 14 mẫu cực hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết. Tài liệu được biên soạn nhằm giúp cho các em học sinh có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, rèn luyện kĩ năng viết văn ngày một tiến bộ hơn.
Preview text:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Tóm tắt 3 trùng vi thạch trận
Cảnh vượt thác qua ba trùng vi thạch trận: - Ở trùng vi thứ nhất:
● Sông Đà chia thành năm cửa trận (bốn cửa tử và một cửa sinh), cửa sinh được
ngụy trang nằm lập lờ bí hiểm phía tả ngạn.
● Vừa vào thạch trận sóng, nước, đá sông hò la vang dậy. Sóng nước đá trái, thúc
gối vào bụng, vào hông thuyền. Nước như một đô vật “túm thắt lưng ông đò
đòi vật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”.
● Bị trúng đòn, mắt người lái đò như thấy một cửa bể đom đóm nhưng cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. → Ông lái đò thật sự là một con
người lão luyện, luôn bình tĩnh, dũng cảm, biết nén mọi đau đớn để chiến thắng
đối chủ hiểm ác của mình.. - Ở trùng vi hai:
● Chiến thuật thay đổi: Thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch sang phía bờ
hữu ngạn nhằm đánh lừa con thuyền.
● Ông lái đò đã nắm chắt binh pháp của thần sông thần đá nên đã nắm chặt được
bờm sóng đúng luồng rồi ghì cương lái...mà phóng nhanh vào cửa sinh.
● Đám thuỷ quân định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông đã có cách
trị, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông chặt đôi ra để mở đường
tiến. → Một con người có nhiều kinh nghiệm, có hành động chuẩn xác, mau lẹ, quyết đoán. - Ở trùng vi thứ ba:
● Ít cửa nhưng đều là nguồn chết cả. Cửa sinh nằm giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
● Ông lái đò như một chỉ huy dạn dày kinh nghiệm: Cứ phóng thẳng thuyền,
chọc thủng cửa giữa mà vượt qua cổng đá. Thuyền như một mũi tên xuyên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết
thác. → Trình độ chèo thuyền lái đò vượt thác đã nâng lên thành nghệ thuật
chèo đò – “một tay lái ra hoa”.
⇒ Qua ba lần vượt trùng vi thạch trận, tác giả ca ngợi sự trí dũng tài hoa, ca ngợi tư
thế chiến thắng của con người trước thiên nhiên hung hãn, mà cụ thể là chính dòng
sông Đà nham hiểm thâm độc, hung bạo.
Dàn ý cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà Dàn ý số 1 I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về nhà văn Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà.
- Nguyễn Tuân đã khắc họa nên một cảnh tượng có một không hai - cảnh vượt thác
của người lái đò sông Đà. II. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm và cảnh vượt thác * Về tác phẩm:
- “Người lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc
trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
- Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng
bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà
văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
- Tác phẩm được in trong tập tùy bút sông Đà (1960). - Bố cục gồm ba phần:
● Phần 1 (từ đầu đến gậy đánh phèn): Sự dữ dội, hung bạo của sông Đà.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
● Phần 2 (tiếp đến dòng nước sông Đà): Cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng người lái đò.
● Phần 3 (còn lại): Vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà. * Về cảnh vượt thác:
- Cảnh vượt thác của ông lái đò nằm ở phần thứ hai: Cuộc sống của con người trên
sông Đà và hình tượng ông lái đò.
- “Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao tướng dữ quân tợn.
- Được Nguyễn Tuân gọi là cảnh tượng có một không hai, “xưa nay chưa từng có”.
2. Phân tích cảnh vượt thác * Ở trùng vi thứ nhất: - Con sông Đà:
● Thạch trận với bốn cửa sinh và một cửa tử.
● Nước thác reo hò làm thanh viện cho đá.
● Sóng thác đã đánh miếng đòn hiểm độc nhất bóp chặt lấy hạ bộ.
=> Không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp - Ông lái đò:
● Thạch trận dàn bày vừa xong thì con thuyền vụt tới.
● Mặt ông lái đò méo xệch đi.
● Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng.
=> Con thuyền thoát khỏi nguy hiểm. * Ở trùng vi thứ hai: - Con sông Đà:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
● Tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn
● Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá
=> Con sông Đà trở nên khôn ngoan hơn. - Ông lái đò:
● Nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá.
● Ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh.
=> Vượt qua hết cửa tử. * Ở trùng vi cuối cùng:
● Ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm
ngay giữa bọn đá hậu vệ.
● Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử.
=> Con sông ngày càng mưu mẹo muốn dồn người lái đò vào chỗ chết. - Ông lái đò:
● Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó.
● Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vào từ động
lái được lượn được.
=> Ông lái đò đã chiến thắng con sông hung dữ. * Nhận xét:
- Cảnh vượt thác đã thể hiện tài hoa của ông lái đò: Ông chính là hình tượng con
người lao động là biểu tượng cho trí dũng song toàn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
- Đây chính là một cảnh tượng có một không hai. 3. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ phong phú, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.
- Sử dụng nhiều động từ mạnh.
- Lối so sánh liên tưởng độc đáo. III. Kết bài
- Nguyễn Tuân thực sự đã xây dựng được một cảnh tượng đặc sắc “xưa nay chưa từng có”.
- Người lái đò sông Đà xứng đáng là một tác phẩm kiệt tác viết về người lao động vùng Tây Bắc. Dàn ý số 2
I. Tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút Người lái đò sông Đà và hình tượng ông lái đò:
● Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, có thể coi ông
là một định nghĩa về người nghệ sĩ. Nét nổi bật trong phong cách của ông là ở
chỗ luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa và thẩm mĩ, nhìn con người ở
phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa. Ông thường có cảm hứng mãnh liệt với cái cá
biệt, phi thường, dữ dội và tuyệt mĩ.
● Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960) của
Nguyễn Tuân. Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu
hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn,
xa xôi. Người lái đò sông Đà cho ta diện mạo của một Nguyễn Tuân khao khát
được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời này.
● Hình tượng người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác là hình tượng trung tâm của tác phẩm…
II. Vẻ đẹp hình tượng nhân vật người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
* Giới thiệu chân dung, lai lịch:
● Tên gọi, lai lịch: được gọi là người lái đò Lai Châu.
● Chân dung: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh
khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như
tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng
mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt
lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.
*Vẻ đẹp của người lái đò sông Đà trong quá trình vượt thác :
– Vẻ đẹp trí dũng: Khắc họa trong tương quan với hình ảnh sông Đà hung bạo, hùng
vĩ: Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức: một bên là
thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham
hiểm; một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong
tay chỉ là những chiếc cán chèo.
– Cuộc giao tranh với ba trùng vi thạch trận.
● Cuộc vượt thác lần một: Sông Đà hiện lên như một kẻ thù nham hiểm, xảo
quyệt. Trước sự hung hãn của bầy thạch tinh và sóng nước, ông lái đò kiên
cường bám trụ “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng
thẳng vào mình”. Trước đoàn quân liều mạng sóng nước xông vào (…), ông đò
“cố nén vết thương vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái, mặt méo bệch đi” nhưng vẫn
kiên cường vượt qua cuộc hỗn chiến, vẫn cầm lái chỉ huy “ngắn gọn mà tỉnh
táo” để phá tan trùng vi thạch trận thứ nhất.
● Cuộc vượt thác lần hai: Dưới cây bút tài hoa, phóng túng, con sông Đà tiếp tục
được dựng dậy như “kẻ thù số một” của con người với tâm địa còn độc ác và
xảo quyệt hơn. Ông lái đò “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn
vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật”.
⇒ Trước dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá, ông lái đò cùng chiếc
thuyền cưỡi trên dòng thác như cưỡi trên lưng hổ. Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải
nước xô ra, ông đò không hề nao núng mà tỉnh táo, linh hoạt thay đổi chiến thuật, ứng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
phó kịp thời “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt
đôi ra để mở đường tiến” để rồi “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”.
+ Cuộc vượt thác lần ba: Bị thua ông đò ở hai lần giao tranh trước, trong trùng vi thứ
ba, dòng thác càng trở nên điên cuồng, dữ dội. Chính giữa ranh giới của sự sống và cái
chết, người đọc càng thấy tài nghệ chèo đò vượt thác của ông lái thật tuyệt vời. Ông
cứ “phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa… vút qua cổng đá”, “vút, vút, cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được”… để rồi chiến thắng vinh quang.
Câu văn “thế là hết thác” như một tiếng thở phào nhẹ nhõm khi ông lái đã bỏ lại hết
những thác ghềnh ở phía sau lưng.
– Nguyên nhân chiến thắng:
● Thứ nhất, đó là chiến thắng của sự ngoan cường, lòng dũng cảm, ý chí quyết
tâm vượt qua những thử thách khốc liệt của cuộc sống.
● Thứ hai, đây là chiến thắng của tài trí con người, của sự am hiểu đến tường tận tính nết của sông Đà.
Tóm tắt 3 trùng vi thạch trận
Cảnh vượt thác qua ba trùng vi thạch trận: - Ở trùng vi thứ nhất:
• Sông Đà chia thành năm cửa trận (bốn cửa tử và một cửa sinh), cửa sinh được
ngụy trang nằm lập lờ bí hiểm phía tả ngạn.
• Vừa vào thạch trận sóng, nước, đá sông hò la vang dậy. Sóng nước đá trái, thúc
gối vào bụng, vào hông thuyền. Nước như một đô vật “túm thắt lưng ông đò
đòi vật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”.
• Bị trúng đòn, mắt người lái đò như thấy một cửa bể đom đóm nhưng cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái. → Ông lái đò thật sự là một con
người lão luyện, luôn bình tĩnh, dũng cảm, biết nén mọi đau đớn để chiến thắng
đối chủ hiểm ác của mình..
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Ở trùng vi hai:
• Chiến thuật thay đổi: Thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch sang phía bờ
hữu ngạn nhằm đánh lừa con thuyền.
• Ông lái đò đã nắm chắt binh pháp của thần sông thần đá nên đã nắm chặt được
bờm sóng đúng luồng rồi ghì cương lái...mà phóng nhanh vào cửa sinh.
• Đám thuỷ quân định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Nhưng ông đã có cách
trị, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông chặt đôi ra để mở đường
tiến. → Một con người có nhiều kinh nghiệm, có hành động chuẩn xác, mau lẹ, quyết đoán. - Ở trùng vi thứ ba:
• Ít cửa nhưng đều là nguồn chết cả. Cửa sinh nằm giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
• Ông lái đò như một chỉ huy dạn dày kinh nghiệm: Cứ phóng thẳng thuyền,
chọc thủng cửa giữa mà vượt qua cổng đá. Thuyền như một mũi tên xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết
thác. → Trình độ chèo thuyền lái đò vượt thác đã nâng lên thành nghệ thuật
chèo đò – “một tay lái ra hoa”.
⇒ Qua ba lần vượt trùng vi thạch trận, tác giả ca ngợi sự trí dũng tài hoa, ca ngợi tư
thế chiến thắng của con người trước thiên nhiên hung hãn, mà cụ thể là chính dòng
sông Đà nham hiểm thâm độc, hung bạo.
Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 1
Nhà thơ Chế Lan Viên từng thiết tha bày tỏ:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn”
Trong quá trình sáng tác, mỗi người nghệ sĩ đều có một không gian nghệ thuật để đi
về. Ấy vậy mà đến với Nguyễn Tuân, ta dường như có cả một tấm bản đồ của Việt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Nam trong những chuyến hành trình không mỏi. Trên hành trình khám phá thẩm mỹ
ấy, cảm quan thiên nhiên, đất nước thiết tha, mạnh mẽ hiếm có đã giúp Nguyễn Tuân
vẽ nên một “bản đồ Việt Nam” bằng ngôn từ thật đặc sắc. Đất nước như trải dài theo
mỗi bước chân của nhà văn. Từ Mũi Lũng Cú tột Bắc tới Huyện đảo nơi biển khơi.
Nghe Gió Than Uyên và Vẫn nghe tiếng dội Cà Mau ấy. Có Nhật ký lên Mèo, lại có
trang viết Về thăm đất lửa Quảng Trị. Cảnh vật hiện ra với vẻ đẹp hiền hoà, thơ mộng,
cùng với vẻ khắc nghiệt, dữ dội, có những nét hiện thực trần trụi và cả những nét mơ
màng, hư ảo. Ấn tượng nhất với bạn đọc có lẽ chính là mảnh đất Tây Bắc được tái
hiệu qua tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”. Đặc biệt, cuộc vượt thác đã được Nguyễn
Tuân tái hiện sinh động quan trích đoạn: “Tới cái thác rồi… Vậy là phá xong cái trùng
vi thạch trận vòng thứ nhất.” Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân
được thể hiện qua trích đoạn.
Ðời viết văn hơn nửa thế kỷ của Nguyễn Tuân là một quá trình lao động nghệ thuật
thật sự nghiêm túc. Về sau, khi đã ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không bao giờ tỏ
ra lơi lỏng, hời hợt; mà ngược lại, luôn nghiêm khắc với chính mình. Cách mạng
tháng Tám năm 1945 đã trở thành “trục bản lề” lịch sử để Nguyễn Tuân trở thành sự
lột xác kỳ diệu của bản thân. Sau cách mạng Nguyễn Tuân được thăng hoa bởi chất
men lãng mạn cách mạng, một nguồn cảm hứng sáng tạo mới, say mê và mãnh liệt.
Đầu năm 1958, Nguyễn Tuân đi thực tế - một chuyến đi dài hạn lên Tây Bắc. Chính
cuộc sống thực tế nơi đây đã trở thành nguồn sáng tác say mê, mãnh liệt khiến
Nguyễn Tuân viết tập tùy bút “Sông Đà” (1960) – “Người lái đò sông Đà” là một
trong số 15 bài tuỳ bút của tác phẩm này - một bản anh hùng ca bất hủ. Đoạn trích tái
hiện vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà với trùng vi thạch trận thứ nhất. Tuy nhiên, sự
nguy hiểm, dữ dội của con sông đã ko thể chiến thắng nổi sự mưu lược, tài trí của người lái đò.
Cá tính và mạnh mẽ, lối tự do phóng túng và sự ý thức sâu sắc về “cái tôi” cá nhân đã
khiến Nguyễn Tuân tìm đến nghệ thuật tùy bút như một điều tất yếu. Các sáng tác giai
đoạn sau cách mạng, Nguyễn Tuân chú ý nhiều đến khách quan, cái tôi đã hòa nhập
với cái ta, với nhân dân và chiến sĩ. Tác phẩm của ông đã phục vụ kịp thời công cuộc
chiến đấu và xây dựng Tổ quốc. Hình tượng sông Đà và người lái đò sông Đà chính là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
minh chứng rõ nét cho sự thay đổi ấy.Với trích đoạn tái hiện về cuộc vượt thác trên
sông Đà cụ thể khi con thuyền và người lái đò đối mặt với trùng vi thứ nhất. Người
đọc hình dung ra một tương quan lực lượng đối lập giữa thiên nhiên và con người.
Một bên là thiên nhiên với con sông Đà hung bạo, mang trong mình sức mạnh ghê
gớm của đá, nước cùng gào réo, lồng lộn nơi thác dữ. Nó có mục đích tàn bạo rằng
nhất định phải ăn chết cái thuyền, hạ gục người lái đò. Và con thuỷ quái ấy đã thể hiện
ra tính tính cách hiểm độc của mình bằng cách bày thạch trận với sự biến ảo khôn
lường của cách bố trí cửa sinh, cửa tử. Đối lập với thiên nhiên hùng vĩ, dữ tợn là một
người lái đò bình thường, không có phép màu hay sức mạnh phi thường trong tay. Chỉ
có con thuyền là chiến mã, mái chèo là thanh gươm, cùng với những người đồng hành
trên chuyến đò lao thẳng vào trận địa. [Nhận xét] Tương quan vốn dĩ không cân sức
để thấy rằng nếu đem sức lực mà đấu chọi thì phần thua chắc chắn sẽ về phía người lái
đò. Qua tương quan đó để khẳng định với bạn đọc về chiến thắng của người lái đò
không phải chỉ do sức mạnh thể chất mà còn do sức mạnh của trí tuệ và tâm hồn con
người. Từ đó khiến bạn đọc thấy được hình ảnh con người lao động đẹp lồng lộng
giữa trang viết tài hoa của Nguyễn Tuân.
Hình tượng sông Đà được xây dựng trên trang văn với bộ mặt của một loài thuỷ quái,
vừa hung dữ, tâm địa lại hiểm độc. Nơi thác nước hiểm nguy, dữ dội, sông Đà đã bày
binh, bố trận với mục đích chính nhằm dụ con thuyền vào, ăn chết con thuyền và
người lái đò đi ngang qua đây. Thạch trận được dàn bày với lực lượng tham gia chủ
yếu là đá và nước trên sông Đà. Đá trên sông không phải sự xuất hiện ngẫu nhiên,
cũng không còn là thiên nhiên vô tri mà được mô tả như những chiến binh hung tợn
và thiện chiến. Với diện mạo: cổ quái, “nhăn nhúm, méo mó”. Hành động của chúng
thể hiện sự ngỗ ngược, ra oai, liều lĩnh, hung hăng: “hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng
tên tuổi trước khi giao chiến”, “lùi lại thách thức cái thuyền”, “nhổm cả dậy” sẵn sàng
lôi thuyền vào tập đoàn cửa tử. Viết về đá trên sông Đà, ngôn ngữ của Nguyễn Tuân
linh hoạt vô cùng, ông thổi hồn cho những hòn đá vô tri, bất động để rồi ta thấy dưới
ngòi bút của Nguyễn Tuân, những hòn đá lại sống động như có một linh hồn, một khả
năng và sức mạnh của con người. Xem cách đá trên sông dàn bày thạch trận có thể
thấy vị trí của từng hòn đá giống như cá thể trong đội quân có kỉ luật. Mỗi hòn đã có
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
vai trò, nhiệm vụ riêng, những hòn đá tiền vệ - hậu vệ, có những hòn đá trấn cửa sinh
– giữ cửa tử, chia thành tướng đá, quân đá. Không thể phủ nhận sức mạnh cũng như
sự linh hoạt trong khả năng của những đá hòn, đá tảng nơi đây. Đó là khả năng quân
sự tuyệt vời: biết dàn thạch trận với sự bố trí đầy ảo diệu của cửa sinh và cửa tử. Có
thể thấy, cách mà Nguyễn Tuân miêu tả về những hòn đá trên sông Đà chính là cách
nhìn sự vật ở con người nghệ sĩ: Những hòn đá bây giờ không chỉ là chính nó mà biến
nó thành 1 hình tượng mới mẻ để kí thác cảm xúc, tư tưởng, quan niệm.
Sức mạnh của đá – cách sông Đà nghênh đón ông lái đò bắt đầu cuộc chiến: Ở trùng
vi thạch trận thứ nhất, đá được chi viện, cổ vũ bởi âm thanh của nước thác “reo hò làm
thanh viện”, đá và nước thác đã có sự phối hợp hết sức nhịp nhàng, ăn ý. Ở chi tiết
này, phép nhân hóa được sử dụng đắc địa để tạo nên cảm nhận hết sức sinh động về
cặp đôi đá – thác nước từ đó tạo ra ấn tượng về không khí, âm thanh náo động mở
màn cho cuộc chiến. Đá được miêu tả ở nhiều hình dáng và góc nhìn khác nhau: Hòn
thì trông bệ vệ, oai phong, lẫm liệt thể hiện thái độ hống hách, tự tin, thị uy khi
nghênh đón con thuyền bước vào cuộc chiến. Nguyễn Tuân đã tả chi tiết hình ảnh của
hai hòn đá được giao nhiệm vụ dụ con thuyền vào rất sinh động. Hòn trông nghiêng,
hất hàm hỏi con thuyền, đòi xưng tên tuổi giao chiến. Vẫn là biện pháp tu từ nhân hóa
kết hợp sinh động với nghệ thuật so sánh cho người đọc hình dung ra sự kiêu ngạo,
coi thường, xấc xược, thách thức, kẻ cả của đội quân đá nơi đây. Một hòn đá khác lùi
lại một chút có vẻ đề phòng, cẩn trọng, soi xét đối thủ sau đó thách thức cái thuyền
tiến gần. Có thể thấy, đá đang dùng chiêu khiêu khích, dụ con thuyền tiến sâu vào một
trận địa đã được bố trí sẵn. Chúng đã làm rất tốt nhiệm vụ được sông Đà đã giao cho.
Dựa vào các chi tiết, người cảm nhận sự chuẩn bị công phu, có thống nhất, đầy mưu
mẹo, gian xảo của đá. Với những câu văn ngắn, ngắt nhịp linh hoạt kết hợp với so
sánh, nhân hoá đã làm nên thứ ngôn ngữ giàu chất tạo hình khiến cho độc giả hình
dung một cách sinh động màn khởi đầu của cuộc chiến với những chi tiết sắc nét, chân
thực, thú vị trong hình ảnh, thái độ của đá đón ông lái đò. Chỉ bằng những câu chữ
được đặt để trên trang giấy, Nguyễn Tuân đã giúp người đọc có thể tưởng tượng hình
ảnh cuộc chiến như đang diễn ra trước mắt mình.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Sức mạnh của sóng nước: Không chỉ nhìn thấy, bạn đọc còn được nghe thấy âm thanh
của sóng nước đang hò la vang dậy, vang trời thanh la não bạt. Tác giả đã sử dụng
nghệ thuật nhân hóa để tái hiện âm thanh của trận chiến. Đó là âm thanh nước cổ vũ
cho đá với mục đích uy hiếp tinh thần của người lái đò, cũng đồng thời là một đòn tấn
công trong bài binh bố trận của sông Đà. Sự xuất hiện của âm thanh làm tăng thêm sự
hung hãn, dữ dội của dòng nước. Sự kết hợp giữa sức mạnh của đá, nước càng gây
nên thách thức, khó khăn của ông lái đò.
Miêu tả những đòn đánh linh hoạt, biến hóa, đa dạng của nước kết hợp với đá: Trong
trùng vi thạch trận đầu tiên, sóng nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo. Chúng nó đã
dùng chiêu thức đánh hội đồng, tước vũ khí của ông lái đò. Sau đó liên tiếp là những
miếng đòn được tung ra: đá trái, thúc gối vào bụng, hông thuyền. Những miếng đòn
ấy đều là đánh vào chỗ quan trọng, điểm yếu của thể khiến con thuyền bị lệch hướng
hoặc bị lật ngửa. Cũng có lúc, nó thay đổi chiến thuật đội cả thuyền lên tức là đánh từ
đáy thuyền bằng sức mạnh của dòng nước. Rồi nhanh chóng chuyển sang đòn đánh
trực diện, dồn sức để tấn công và hạ gục đối thủ bằng cách tùm thắt lưng ông đò đòi
lật ngửa. Không dừng lại ở đó, luồng nước đánh vào hạ bộ của ông lái đò – đây là đòn
đánh hiểm độc và mang tính quyết định. Chúng đã quyết định tấn công vào chỗ hiểm
của người lái đò và rõ ràng nó đã phát huy tác dụng: đòn đánh này khiến người lái đò
bị hoa mắt, chịu đau đớn. Biện pháp so sánh ví von cảm giác đau đớn của ông đò
giống như bị cả bể đom đóm rừng châm lửa vào đầu sóng khiến người lái đò mất
phương hướng. Có thể thấy, nước và đá đã không từ một thủ đoạn, một đòn đánh nào,
kể ngón đòn rất hiểm độc để triệt tiêu đối thủ. Thông qua những chi tiết miêu tả sinh
động, phép nhân hóa, so sánh, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, người đọc có thể hình
dung được mức độ tàn độc, mưu mô, thủ đoạn, ghê gớm, hung bạo của thạch trận sông
Đà trong sự kết hợp của đá, nước.Những đòn đánh chí mạng không chỉ nhằm thể hiện
sức mạnh của thạch trận mà còn nhằm tước đoạt sinh mạng của ông lái đò.
Bước vào thạch trận, về phía người lái đò - một ông lão 70 tuổi với dáng hình của một
con người sinh ra từ sóng nước Đà giang đã chọn tâm thế chủ động. Điều đó được thể
hiện qua động từ “vụt” với chi tiết: “Thạch trận dàn bài vừa xong thì cái thuyền vụt
tới.” Đó là một hành động nhanh, dứt khoát thể hiện rằng con người đã bước vào cuộc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
chiến sinh từ với đá, nước sông Đà bằng thái độ chủ động và dường như ông lái đò đã
biết trước điều gì đang chờ đợi mình. Bên cạnh một tư thế, tâm thế chủ động, tự tin
còn là tinh thần dũng cảm, kiên cường của ông lái đò. Trước những thanh âm vang
dậy và những miếng đòn hiểm độc của sóng nước Đà giang, “Ông đò hai tay giữ mái
chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình.” Hành động: giữ mái
chèo thể hiện sự nỗ lực và quyết tâm. Khi sóng nước ùa vào với mục đích bẻ gãy, hai
bàn tay của ông lái đò đã ko rời cái mái chèo bởi ông hiểu rằng mái chèo chính vũ khí
duy nhất giúp ông đưa con thuyền ra khỏi trận địa 3 vòng của sông Đà. Hình ảnh con
người lao động vững vàng trước những làn sóng tấn công thẳng vào mình đã khiến
người đọc có thể tưởng tượng được cái dáng đứng thẳng, 2 bàn tay nắm mái chèo và
gương mặt quyết tâm của người lái đò trước một đòn đánh mạnh. Khi chúng tung ra
miếng đòn hiểm độc nhất khiến cho ông lái đò bị thương, ông lái đò đã “cố nén vết
thương, kẹp chặt cuống lái”, mặc dù mặt ông đang méo bệch. Sự kết hợp của ngôn
ngữ giàu tính tạo hình và nghệ thuật so sánh đã cho người đọc hình dung ra nỗi đau
trên gương mặt của ông lái đò khi phải đối diện với các đòn đánh hiểm của sóng nước
sông Đà từ đó ta thấy rõ hình ảnh người lao động kiên cường ngay cả khi đau đớn.
Trước sức mạnh tàn bạo của thiên nhiên, sức mạnh ý chí của con người không hề bị
lay chuyển thậm chí còn trở nên mạnh mẽ hơn. Cuộc vượt thác chính là cuộc chiến
ngang tài ngang sức giữa thiên nhiên và con người. Thiên nhiên có rộng lớn, hùng vĩ
đến đâu thì hình ảnh con người không hề nhỏ bé, bị khuất phục mà trở nên ngang tàng,
uy dũng. Lúc bấy giờ, tiếng hỗn chiến được tăng thêm mãi với hình ảnh của đá thác
hung hăng, cuồng bạo, khiêu khích. Trước điều đó, bạn đọc nghe thấy tiếng chỉ huy
ngắn gọn, tỉnh táo của người cầm lái. Thanh âm ấy giống như khẳng định nơi người
đọc về sự bình tĩnh, dứt khoát, điềm tĩnh, lý trí của người lái đò. Để rồi, kết quả của
vòng trận thứ nhất: được tác giả thông báo rất ngắn gọn “phá xong”. Đây là cách
thông báo cũng đã thể thái độ điềm nhiên, bình tĩnh của con người trước thắng lợi đầu
tiên. Có thể thấy, trong cuộc chiến không cân sức: tài trí, dũng cảm, ý chí, tinh thần
chủ động của người lái đò đã chiến thắng sự hiểm độc, hung bạo. mưu mô, xảo trá của thạch trận sông Đà.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Tuân luôn giữ quan niệm: “Ở đâu có lao
động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân
dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người
khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay... Cũng cùng 1 vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có
sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như
nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí
của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp.” Có
thể thấy, với quan niệm sáng tạo này, Nguyễn Tuân đã tinh tế sử dụng những từ ngữ
chính xác, vừa có giá trị gợi hình vừa mang giá trị biểu cảm cao. Đó là thứ ngôn ngữ
gợi lên những liên tưởng, tưởng tượng thú vị, độc đáo, gợi lên những rung cảm thẩm
mĩ, đập mạnh vào mọi giác quan của bạn đọc. Ông dùng những từ ngữ miêu tả hình
ảnh sống động về những hòn đá như nhăn nhúm, méo mó. Bên cạnh đó là những động
từ hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”, “lùi lại thách thức
cái thuyền”, “nhổm cả dậy”, “hò la”, “đánh khuýp quật vu hồi”, “ùa vào” giúp người
đọc hình dung ra được rõ ràng về sự hùng vĩ, hung bạo, tâm địa hiểm độc của dòng
sông này. Bên cạnh đó còn là những từ ngữ miêu tả ông lái đò với tâm thế chủ động,
thể hiện sự dũng cảm, mưu trí, sẵn sàng đối diện và vượt qua đau đớn: “vụt tới”, “cố
nén vết thương”, “kẹp chặt cuống lái” “ mặt méo bệch”. Với “Người lái đò sông Đà”,
Nguyễn Tuân dường như mang đến một màu vị mới cho ngôn từ, khiến cho người đọc
cảm thấy rất hứng thú, muốn dành nhiều thời gian hơn để nghiền ngẫm về những từ
ngữ độc đáo ấy. Có thể thấy, mỗi chữ Nguyễn Tuân đặt lên trang văn của mình là cả
một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng. Ông lựa chọn ngôn từ một
cách trau chuốt, tỉ mỉ để làm nên những trang viết ấn tượng với độc giả, chính điều đó
đã làm nên sự tài hoa của người nghệ sĩ trong việc sử dụng từ ngữ của mình, đúng như
nhà thơ người Nga Maia - cốp – xki có viết:
“Phải phí tốn nghìn cân quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi
Nhưng chữ ấy làm cho rung động
Triệu trái tim trong hàng triệu năm dài.”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Thông qua trùng vi thứ nhất trong cuộc chiến giữa ông lái đò và dòng sông Đà, chúng
ta thấy được sự ngợi ca, ngưỡng mộ của nhà văn dành cho vẻ đẹp của con người lao
động trên sông Đà. Đó là sự tôn vinh người lao động bằng việc lấy sự hung bạo của
dòng sông làm yếu tố nền tảng để khắc chạm hình ảnh uy dũng, kiên cường của con
người. Nhà văn phát hiện được cái phi thường trong những con người lao động bình
thường. Ông lái đò gợi nhớ tới hình ảnh ông lão đánh cá Xantiago trong cuộc đối đầu
với con cá kiếm trong “Ông già và biển cả” với lời gửi gắm thông điệp cao cả đến con
người: “Trước biển đời mênh mông, con người như một lữ khách cô độc, già nua và
yếu ớt. Nhưng không phải vì điều đó mà người ta từ bỏ ước mơ, đánh mất chính mình,
mà phải dùng tất cả sức lực chống chọi với những bão táp cuộc đời để hiên ngang
đứng dậy và khẳng định vị thế của mình trong chính vùng biển của mình.” Và bên
cạnh đó còn là một chân lý bất hữu: “Con người có thể bị hủy diệt chứ không thể bị
đánh bại”. Để làm nên được thành công ấy, Nguyễn Tuân đã vận dụng linh hoạt nghệ
thuật nhân hóa, so sánh sinh động, câu văn biến hóa linh hoạt và giàu chất tạo hình.
Bên cạnh đó còn là sự kết hợp của kiến thức quân sự, thể thao khiến cuộc chiến giữa
con người – thiên nhiên được hình dung gần gũi, sống động, chân thực. Giọng điệu
câu văn thay đổi linh hoạt: khi hồi hộp căng thẳng, khi dồn dập, khi thì điềm tĩnh để
làm nên một cuộc vượt thác ấn tượng trong lòng bạn đọc. GS Phong Lê từng phát biểu:
"Chặng đường sau 1960 cho đến khi Nguyễn Tuân qua đời, năm 1987 vẫn là một hành
trình liên tục, không ngừng nghỉ, không nản mỏi, không đứt quãng trên hai trục Đi và
Viết, với khởi đầu là Sông Đà (1960). Sông Đà góp một giai điệu ấm áp và hào sảng
đó vào một thời khó quên trong lịch sử văn học thế kỷ 20, đó là vẻ đẹp của thiên nhiên
qua một bút pháp rất tạo hình. Như vậy là qua Sông Đà, từ Sông Đà, Nguyễn Tuân
đang có một đà say về cuộc sống mới".
Qua việc phân tích đoạn trích trên, mỗi bạn đọc dường như đang thấy rõ khung cảnh
cuộc vượt thác ở trùng vi thứ nhất diễn ra gay cấn, với đầy thử thách cho ông lái đò.
Nhưng cuối cùng, bằng sự dũng cảm, tài trí của mình, ông đò đã vượt qua được trùng
vi thạch trận đầu tiên một cách ngoạn mục. Điều đó càng thể hiện rõ tài năng nghệ
thuật của Nguyễn Tuân. Có thể thấy, gần 50 năm hoạt động văn học liên tục, bằng
ngòi bút tài năng của mình Nguyễn Tuân đã có những đóng góp to lớn, có một vị trí
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam... Sự ra đi của Nguyễn Tuân đã để lại một
khoảng trống lớn khó mà bù đắp nổi trên văn đàn về cá tính, nhân cách, bút pháp và
phong cách. Cuộc đời Nguyễn Tuân là một minh chứng, một định nghĩa sống về ý
thức và tài năng của nghề văn. “Sự tồn tại và sức sống của các tác phẩm của Nguyễn
Tuân chứng tỏ nó không chỉ "Vang bóng một thời" mà có thể nói là vang bóng mãi mãi”.
Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 2
Mỗi một vùng đất mà chúng ta đi qua đều để lại trong ta những dấu ấn riêng biệt bởi
nó mang những nét đặc trưng về văn hóa, lịch sử, địa lí của từng vùng. Đến với Tây
Bắc xa xôi cùng làn sương khói mờ ảo Nguyễn Tuân cũng không khỏi bị ấn tượng với
thiên nhiên, cảnh vật nơi đây. Có lẽ vì thế mà hình ảnh dòng sông Đà rẽ theo một lối
riêng với một cá tính riêng biệt đã trở thành ngọn nguồn cho cảm hứng thi ca của nhà
văn. Giữa thiên nhiên hùng vĩ ấy đã khiến cho con người trở nên bé nhỏ hơn bao giờ
hết. Qua cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân đã ngợi ca vẻ
đẹp bình dị của con người lao động khi chiến đấu với sự hung bạo, dữ dội của thiên nhiên.
Nguyễn Tuân (1910 - 1988) là người tài hoa, uyên bác, thích khám phá vẻ đẹp của
thiên nhiên và con người ở mọi miền đất nước. Ông là nhà văn có phong cách nghệ
thuật ngông ngạo, khác người, ông luôn tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng "thứ
vàng mười đã qua thử lửa" ở tâm hồn người lao động. "Người lái đò sông Đà" được
rút từ tập tùy bút "Sông Đà", là "thứ vàng mười đã qua thử lửa" mà Nguyễn Tuân đã
khám phá ra khi đến với Tây Bắc thơ mộng và hùng vĩ.
Cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" được Nguyễn Tuân ví là cảnh "xưa nay
chưa từng có" bởi đây là cuộc chiến dữ dội giữa thiên rộng lớn với con người bé nhỏ.
Nguyễn Tuân đã chú ý tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ bởi với ông nét tài hoa nghệ sĩ của
con người không chỉ thể hiện trong việc sáng tạo nghệ thuật mà còn ở nhiều lĩnh vực,
hoạt động khác nữa. Cảnh vượt thác được tái hiện ở ba trùng vi thạch trận với những
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
thử thách nghiệt ngã khác nhau đã đề cao sự gan dạ, trí, dũng của ông lái đò khi vượt
qua cả ba trùng vi thạch trận an toàn.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất là sự đối mặt giữa thiên nhiên và ông lái đò. Nguyễn
Tuân đã lấy thác đá để diễn tả sự hùng vĩ của sông Đà giống như các nhà văn thường
dùng lửa để tả nước. Đá bờ sông dựng vách thành nhưng lại hẹp đến mức "chẹt như
một cái yết hầu" khiến cho con nai, con hổ cũng có thể nhảy vọt từ bờ này qua bờ kia
sông. Cách sử dụng từ ngữ sáng tạo của nhà văn giúp cho người đọc có thể hình dung
rõ khung cảnh nơi đây hung hiểm, đáng sợ biết nhường nào. Gần đến con thác "sóng
bọt trắng xóa cả một chân trời" và chúng sẵn sàng nhổm dậy để vồ lấy con thuyền.
Chúng như những sinh thể có khối óc để bày binh bố trận, cản trở sự di chuyển của
con thuyền. Những hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền
phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Ông lái đò được đặt vào một tình huống đầy
cam go, "hai tay giữ chặt mái chèo", hiên ngang như một tướng soái phóng thẳng vào
đối phương. Ông lái đò một mình chiến đấu với dòng sông hung bạo như trận đồ bát
quái, nó chỉ trực chờ cơ hội để giết chết ông lái đò.
Cuộc chiến giáp lá cà giữa ông lái đò và dòng sông diễn ra với sóng nước dữ dội, hò la,
"đá trái", "thúc gối" vào bụng, vào hông con thuyền, bám lấy thuyền như đô vật, nó
tung ra những đòn hiểm độc nhất để "bóp chặt lấy bộ hạ người lái đò". Ông lái đà kiên
cường, vượt qua sông, nước, thác đá "cố nén vết thương", "mặt méo bệch đi", "đánh
đòn tỉa, đòn âm vào chỗ hiểm", cố gắng giữ tỉnh táo để vật lộn với sóng thác và vượt
qua thạch trận ở vòng thứ nhất an toàn. Ông đã nén chịu nỗi đau về thể xác do cuộc
vật lộn với sóng thác gây nên để cố giữ tỉnh táo, giữ vững nghị lực trí tuệ để vật lộn
với sóng thác, vượt qua thạch trận ở vòng thứ nhất.
Sang đến trùng vi thạch trận thứ hai, khó khăn lại nối tiếp khó khăn đòi hỏi chí cam
trường và sự khéo léo của người lái đò thì mới có thể vượt qua được. Ở vòng này tăng
thêm nhiều cửa tử và chỉ có một cửa sinh để đánh lừa con thuyền rơi vào hố đen. Bằng
sự am hiểu về tính nết của dòng sông và quy luật phục kích của đá nước, ông lái đò đã
thay đổi chiến lược ở vòng vây thứ hai. Ông lái đò bình tĩnh vượt qua các cửa tử và
những dòng thác hùm beo. Ông nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá nên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
không một phút nghỉ tay ông đò đã phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai, ông "ghì
cương bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh" khiến cho thằng
đá tướng "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".
Trùng vi thạch trận thứ ba còn đáng sợ hơn cả vì nó ít cửa hơn khi bên phải bên trái
đều là luồng chết. Thiên nhiên ngày càng dữ dằn như tranh đấu với con người để
khẳng định sự sống. Ông lái đò đã chiến thắng bằng những động tác mạnh mẽ, dứt
khoát, ông khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về
đích an toàn. Ở vòng vây thứ ba, ông "phóng thẳng con thuyền, chọc thủng cửa giữa"
rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép" một cách nhanh chóng. Ông lái đò mang
dáng vẻ của người anh hùng nhưng lãng mạn trong cuộc thủy chiến, ông đặt mình vào
thử thách là sự đối mặt thản nhiên rất đỗi đời thường vì chẳng có ai bàn thêm lời nào
về cuộc chiến vừa qua.
Cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" đã ngợi ca kỳ tích của ông lái đò trong
thế đối lập với thiên nhiên. Ông lái đò mang dáng vẻ của người anh hùng thầm lặng
trong cuộc chiến với thiên nhiên dữ dội, qua đó ta thấy được sự tài hoa, uyên bác của
ngòi bút Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp của ông lái đò chính là vẻ đẹp của con người trong
thời đại mới vì với Nguyễn Tuân thì "người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu
mà còn có ngay trong cuộc sống đời thường". Tác giả đã sử dụng nghệ thuật miêu tả
giàu chất tạo hình cùng hàng loạt các động từ để khẳng định vẻ đẹp của ông lái đò
trước trận chiến gay cấn với dòng sông Đà.
Qua cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân đã khẳng định được
"thứ vàng mười đã qua thử lửa" của núi rừng Tây Bắc. Sông Đà mang vẻ đẹp hùng vĩ
dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng trữ tình đã trở thành nguồn cảm hứng để nhà văn
có thể lột tả cảnh vượt thác của ông lái đò một cách hấp dẫn như vậy.
Phân tích 3 trùng vi thạch trận - Mẫu 3
“Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao
tướng dữ quân tợn. Bằng một quan niệm độc đáo về cái đẹp, đi cùng ngòi bút tài hoa,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà – một hình
tượng nghệ thuật độc đáo hấp dẫn.
Hình tượng Người lái đò mang vẻ đẹp của người lao động, vừa rắn rỏi, vừa rất điêu
luyện với nghề của mình. Ông lái đò được khắc họa đậm nét qua ngoại hình và tính
cách. Mặc dù ông tuổi đã ngoài 70, nhưng thân hình ông vẫn rất rắn chắc như người
con đích thực của vùng sông nước hùng vĩ: ngực ông đầy những củ nâu – thương tích
trên chiến trường Sông Đà mà Nguyễn Tuân ưu ái gọi đó là “huân chương lao động
siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông
cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh. Tất cả là 1 vẻ đẹp của con
người lao động gắn bó lâu năm với vùng sông nước mênh mông.
Không chỉ mang nét đẹp sương gió ở ngoại hình, người lái đò còn nổi bật bởi tính
cách và trí thông minh. Đối với ông, sông Đà như một thiên anh hùng ca và ông thuộc
lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần đá.
Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn thuộc
về con người trí dũng và tài hoa ấy.
Chỉ với ba trùng vi thạch trận, người lái đò sông Đà như người nghệ sĩ đang biểu diễn
bằng tất cả sức lực và tài năng. Trận thủy chiến với con sông Đà là cuộc đấu trí giữa
con người và thiên nhiên một cách ngoạn mục.
Ở trùng vi thạch trận đầu tiên, thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận
địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện;
những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái
thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến
gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức…
người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, đầy kịch tính.
Sự khôn ngoan của thác đá sông Đà khiến người đọc phải trầm trồ: chúng không chỉ
đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó
chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài
thủy quái, sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có
lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu
tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của
thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,… Bị tấn công bất ngờ nhưng người
lái đò vẫn bình tĩnh, điều này càng làm ta thêm thán phục sự dũng cảm và chuyên
nghiệp của người lái đò. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi
sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại
chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật
ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh
miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người
lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm
rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó
là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm
ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh
đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò.
Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi
chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà
thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự
thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế
trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai
này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu
ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông
đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã
“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và
đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng
luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển
mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền
vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi
chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt động từ được huy
động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông lái đò:
nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu trí của mình, ông lái đò
đã vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn
ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc
với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi
này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, nguồn sống thì lại nằm ngay
giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa”
làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó
lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn
ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút
qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng.
Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy
động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh,
lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã
giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta
có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong
nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc
hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh, ông lái đò là một con người phi thường, tài hoa.
Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Ông chính là hình tượng
đẹp đẽ của con người lao động Việt Nam. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang!
Hình tượng người lái đò qua 3 trùng vi thạch Trận - Mẫu 4
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm
đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa.
Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả
những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của
mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường
sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác
đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối
phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một:
"Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc
thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào
đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào
trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này
Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông.
Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái
thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn..."
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận
địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám
lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời
thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị
chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn
cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng
sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. "Phá xong cái trùng vi
thạch trận thứ nhất", người lái đò "phá luôn vòng vây thứ hai". Ông lái đò đã nắm
chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn, bên phải bên trái
đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động "tấn công": Cứ phóng thẳng thuyền,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài,
cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước,
vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người
lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường
như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng,
người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải
chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản
dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành
đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm
mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất
vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài
hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không
cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên
quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh
vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình
tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở
đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh,
thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những
khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào
cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải
nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận
mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của
ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác.
Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo
xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang
đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng
chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ
quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai
nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình.
Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng
chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác,
nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ. Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải
chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 5
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con Tàu
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Tây Bắc đã được xem như một mảnh đất hứa cho văn chương nghệ thuật, bởi vùng
núi ấy không chỉ để lại nhiều ân tình mà còn khiến cho các nhà văn, nhà thơ có được
những nguồn cảm hứng bất tận. Nếu như Nguyễn Huy Tưởng đã có cho mình cuốn
tiểu thuyết "Bốn năm sau", Tô Hoài ghi dấu ấn với VCAP, Nguyễn Khải viết nên
"Mùa lạc" thì Nguyễn Tuân lại thăng hoa trên mảnh đất này với tập "Tùy bút Sông
Đà" mà linh hồn là bài kí "Người lái đò Sông Đà". Thưởng thức bài kí, người đọc
không khỏi ấn tượng với vẻ đẹp của một chiến binh sông nước đã vượt bao trùng vi
thạch trận như một người nghệ sĩ tài hoa trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Vẻ đẹp
của hình tượng nghệ thuật ấy đã được ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Tuân khắc họa
sống động, chân thực qua cảnh vượt thác có một không hai: "..."
"Nếu Xuân Diệu xem tình yêu là tôn giáo thì Nguyễn Tuân xem cái đẹp như là tôn
giáo của mình" (Gs Trần Đình Sử) Thật vậy, Nguyễn Tuân là một người nghệ sĩ tài
hoa, suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông sáng tác nhiều thể loại, song thành công nhất vẫn là
thể tùy bút. "Người lái đò sông đà" trích trong tập tùy bút "Sông Đà", xuất bản năm
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
1960, là kết quả của chuyến đi thực tế đến miền Tây Bắc năm 1958 của Nguyễn Tuân,
ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi đây.
Bằng ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mĩ về cái đẹp, Nguyễn Tuân đã xây dựng
thành công hình tượng ông lái đò, một hình tượng nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn.
Hình ảnh người lái đò được nhà văn xây dựng qua công việc lao động thường nhật.
Nguyễn Tuân không đặt cho nhân vật của mình một cái tên cụ thể, mà lấy nghề nghiệp
để gọi, từ đây có thể thấy nhà văn không chỉ nói đến người lái đò mà còn hướng tới
những con người lao động khác ở Tây Bắc nói riêng, và khắp mọi miền tổ quốc nói
chung, những con người sống rất âm thầm, giản dị nhưng mỗi ngày đều không ngừng
cống hiến cho đất nước. Hình ảnh ông lái đò hiện lên với một vẻ ngoài in hằn mùi
sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông "tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh
ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà,
nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó.." đặc biệt trên ngực ông có nhiều
"củ nâu" đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà
Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là "những huân chương lao động siêu hạng".
Ông lái đò không phải là người an phận ngược lại ông thích đương đầu với hiểm
nguy, khó khăn, với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những
ghềnh thác khó nhằn của con sông Đà. Dù tuổi đã cao, nhưng ông luôn mang một tâm
hồn trẻ khỏe, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, can trường, niềm tin yêu cuộc sống, cùng
sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông nghiễm nhiên
trở thành niềm đam mê bất diệt, là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của
ông. sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc
lòng, đồng thời nắm vững "binh pháp của thần sông thần núi", như một vị tướng tài
vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử "biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng", lại cũng
như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go của
mà ông đã theo đuổi gần hết đời người. Chỉ bằng những nét khắc họa như vậy, hình
ảnh ông lái đò của Nguyễn Tuân đã để lại một dấu ấn sâu sắc, ấn tượng trong lòng độc giả.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Đoạn trích về cuộc vượt thác đã tập trung khắc họa hình tượng ông lái đò tài hoa, trí
dũng trong trận thủy chiến qua ba trùng vi thạch trận trên sông đà. Trước hết, ở trùng
vi đầu tiên, đối diện với trận địa được dàn bày sẵn của sông Đà, người lái đò đã quả
cảm nghênh chiến. Trận địa ấy gồm bốn cửa tử, duy nhất một cửa sinh nằm lập lờ bên
phía tả ngạn. Ở đây nước phối hợp với đã reo hò làm thanh viện, bọn đã thì giống như
những hình nhân bặm trợn, chúng "bệ vệ, oai phong, lẫm liệt, một hòn ấy trông như
đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái
thuyền có giỏi thì tiến gần vào." Bằng các từ ngữ: Reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt,
thách thức.. người đọc đã cảm nhận được không khí trận chiến gay cấn, hồi hộp và
đầy kịch tính. Đó chính là biệt tài phù thủy ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà rất khôn ngoan, chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà
còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó cũng đã dùng âm thanh của thác
ghềnh để khiêu khích "giọng gằn mà chế nhạo", có lúc lại "rống lên như tiếng của một
ngàn con trâu mộng". Còn giờ đây, chúng lại nhờ "nước thác làm thanh viện cho đá".
Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò
với những đòn thế vô cùng hiểm hóc, lại có sự chuẩn bị công phu. sông Đà cậy thế
quân đông tướng mạnh nên đã "ùa vào mà bẻ gãy cán chèo", chúng "liều mạng vào sát
nách mà đá trái", "thúc gối vào bụng và hông thuyền", có lúc "đội cả thuyền lên". Một
loạt động từ được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm
người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên.
Bị tấn công bất ngờ với không ít chiêu trò nhưng người lái đò vẫn không hề nao núng,
ngược lại, ông bình tĩnh chiến đấu với trận địa sông Đà. Với chiến thuật phòng ngự để
dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, "ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng". Đây là kinh nghiệm quý báu trên chiến trường sông nước, bởi giữ được
thăng bằng cho thuyền thì mới đi được vào đúng luồng nước. Lúc này sông Đà lại
chuyển thế đánh mới, nó bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật "túm lấy thắt lưng ông lái
đò đòi lật ngửa mình ra." Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển
thế đánh miếng đòn hiểm độc nhất "cả cái luồn nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ
bộ người lái đò." Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như "một cửa bể đom
đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng". Đòn đau khiến ông đò "mặt méo bệch
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
đi". Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn
đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ "đánh hồi
lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm" gợi lên đòn tấn công dồn dập, quyết
hành hạ người lái đò, khiến ông phải bỏ cuộc. Nhưng ông đò nén đau, bằng kinh
nghiệm dạn dày và sự can trường, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy
sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn
gọn, đầy bản lĩnh của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng
mộ và cảm phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.
Nếu như ở trùng vi thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ
sông Đà thì ở đoạn tiếp theo, nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông
Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Ở trùng
vi thứ hai ngày, dường như sau khi bị người lái đò hạ gục, sông Đà càng thêm hung
bạo hơn. Nó tăng cường một "tập đoạn cửa tử" gồm vô số cửa tử chực chờ mai phục
hòng đón lõng, bắt chết chiếc thuyền trong khi cửa sinh thì bố trí lệch qua bờ hữu
ngạn, cố gắng triệt được thoát của ông đò. Sông Đà tiếp tục dùng thanh thế của mình
để tung ra đội quân hùng hậu: "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông
đá". Cách so sánh liên tưởng độc đáo, ví dòng thác như một loài thú dữ, mang sức
mạnh ghê gớm, đáng phải dè chừng. Dòng sông trở thành "sông đá" khiến dòng chảy
như càng tăng thêm vẻ bạo liệt, cuồng nộ.
So với trùng vi thứ nhất thì trùng vi này khó khăn hơn, nhưng không vì thế mà trấn áp
được tinh thần của ông lái đò. Với kinh nghiệm mười năm trên chiến trường sông
nước, ông lái đã "nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, thuộc quy luật phục kích
của lũ đá". Ông đò cũng tự triết lý với mình "cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng
như là cưỡi hổ", vì thế "không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ
hai và đổi luôn chiến thuật." Ở trận này, ông lái đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, "nắm chắc được cái bờm sóng
đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng". Sông Đà lúc
này như ngựa bất kham nhưng ông đò vẫn cố gắng chế ngự, rồi bất ngờ ông tăng tốc
"phóng nhanh", "lái miết về phía cửa đá" với tốc độ di chuyển mau lẹ, nhịp độ dồn
dập, tinh thần sung sức, không hề lưỡng lự mà tận dụng tốt thời gian có hạn. Nhưng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
sông Đà cũng không phải dạng vừa, nó xua "bốn năm bọn thủy quân bên bờ trái xô ra
định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử". Ông đò đã cảnh giác sẵn và biết được trận
địa mai phục nên "đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo", "đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra
để mở đường tiến". Hàng loạt động từ được huy động như một đội quân ngôn ngữ
hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: Nắm, ghì, phỏng, lái, tránh, ráo, đè,
chặt.. Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy, ông đò đã vượt qua hết các cửa tử. Một
trùng vi với bao nhiêu cạm bẫy mà chỉ với vài ngón đòn, ông lái đò đã đánh sập vòng
vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt "tiu nghỉu, xanh lè
thất vọng". Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp trí dũng song toàn của người lái đò thăng hoa
trên mặt trận vượt thác, mà thấp thoáng trong sự chủ động, hiên ngang ấy, ta dường
như thấy được vẻ đẹp hào hùng của vị Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa thần nhổ tre đánh giặc.
Trùng vi thứ ba là cơ hội cuối để Sông Đà thử thách tài nghệ của ông lái đò, là hiệp
đấu cuối cùng giữa hai bên lực lượng. Trùng vi này ít cửa hơn mà bên trái bên phải
đều là luồng chết cả, luồng sống thì nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận
chiến này sông Đà đã dùng thế "trên đe dưới búa" làm cho người lái đò phải đối mặt
với thế "tiến thoái lưỡng nan", nhưng "trong cái khó lại ló cái khôn", ông lái đò đã
biến chiếc thuyền sâu bơi chèo thành một mũi tên, còn ông giống như một cung thủ.
Trận này phải dùng chiến thuật "đánh nhanh thắng nhanh". Ông đã nhanh chóng
"phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh
khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết
thác". Một loạt các động từ lại được sử dụng để miêu tả cách đánh của ông đò:
"Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được.." phối hợp phép
điệp "cánh mở, cánh khép", "cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng", âm thanh "vút
vút" tạo nên sự thần tốc trong cách đánh. Cuối cùng cách đánh nhanh thắng nhanh đã
giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả đúng như Phan Huy Đông đã
từng nhận định, "Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một
tài năng, một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ". Đến đây, người lái đò
đã khiến nhà văn, khiến người đọc và có lẽ là cả đội quân đá trên sông Đà phải hoàn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
toàn tâm phục khẩu phục. Ông đã bộc lộ hết tài năng của mình, thể hiện một trình độ
chèo lái điêu luyện, dạn dày, siêu phàm như đua tài cùng tạo hóa. Ông thực sự là một
tay lái ra hoa, một nghệ sĩ chèo đò vượt thác, thậm chí làm xiếc trên con thuyền. Vượt
qua ba cửa ải mà chỉ cần sơ sẩy là phải trả giá bằng tính mạng, lái đò chính là hiện
thân của người lao động đã đổ biết bao mồ hôi nước mắt, vật lộn với thiên nhiên để giành lại sự sống.
Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay cấn, ta cứ cảm tưởng mình vừa coi một bộ
phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây, mà ông lái đò chính là nhân
vật chính. Với lối dựng cảnh đặc sắc, giàu giá trị tạo hình, cách kể chuyện kịch tích,
các phép liên tưởng tưởng tượng độc đáo, đầy bất ngờ và thú vị, các biện pháp tu từ so
sánh, nhân hóa, điệp ngữ, sử dụng ngôn ngữ ở nhiều lĩnh vực kiến thức như điện ảnh,
võ thuật, thể thao, NT đã làm nổi bật hình ảnh một người lái đò với sức mạnh, trí
thông minh và lòng quả cảm đã xuất sắc chế ngự con sông đà hung bạo, hiểm ác.
Cuộc chiến đấu giữa ông lái đò và con sông Đà chính là tiêu biểu cho cuộc chiến giữa
thiên nhiên dữ dội và con người kiên cường, hiên ngang. Ngôn ngữ sống động, biến
hóa phong phú, những câu văn co duỗi nhịp nhàng, giàu hình ảnh và sắc thái, mà nói
như nhà thơ Phạm Tiến Duật là những câu nói "tỉa tót mà vẫn mạch lạc". Có thể thấy,
NT là một nhà văn sẵn sàng đua tài với tạo hóa, mà gặp cảnh vượt thác ngoạn mục, li
kì, ngòi bút ông được dịp thăng hoa với nghệ thuật, phô bày tất cả những gì đặc sắc nhất.
Đoạn trích như tạc một bức phù điêu sống động về người lái đò – "chất vàng mười"
đích thực giữa thiên nhiên điệp trùng. Ca ngợi người lái đò chính là ca người vẻ đẹp
của con người lao động Tây Bắc. Qua hình tượng nhân vật trong tác phẩm có thể hình
dung trên các miền đất thiên nhiên hung dữ có hàng nghìn hàng vạn những con người
quả cảm và nghệ sỹ như người lái đò dòng sông cuối trời Tây Bắc, họ vẫn luôn hiện
diện thầm lặng và chiến đấu trên khắp mọi vùng đất tổ quốc Việt Nam. Đó cũng là
những con người đối mặt với thiên nhiên hung dữ, tận dụng sức mạnh thiên nhiên làm
lên cuộc sống và tham gia chiến đấu chống kẻ thù ở miền Nam, như Dì Tư béo, Ông
lão bán rắn, Phường săn cá sấu trong "Đất rừng phương Nam" của Đoàn Giỏi hay
Chín Kiên, ông Sáu già trong "Rừng U Minh" của Nguyễn Văn Bổng.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Huy-gô đã từng nói: "Bình thường là cái chết của nghệ thuật". Có lẽ đó là điều mà
Nguyễn Tuân sợ nhất. Con người ấy luôn muốn đề cao bản ngã của mình, "không để
mình giống ai và cũng không ai bắt chước được mình" (Phan Cự Đệ). Với tùy bút
Người lái đò sông Đà và việc khắc họa chân thực, sống động cảnh vượt thác, NT vượt
qua được quy luật nghiệt ngã của sự sáng tạo nghệ thuật, vượt lên trên cái bình thường
để cho hình tượng ông lái đò cùng con sông Đà hùng vĩ mãi mãi bất tử trong lòng
người yêu văn. Nguyễn Tuân thực sự là một tài năng lớn, là một nhân cách lớn mà
như Nguyễn Minh Châu đã từng ngợi ca: "Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ."
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 6
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn
Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tùy bút này, Nguyễn Tuân tự coi mình là
người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng
mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó
với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng
mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Điều đó được khắc hoạ thật ấn
tượng mang cảm giác thật mãnh liệt qua cảnh vượt thác “có một không hai”.
Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên bờ sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là
máu thịt của quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương
và thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.
Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò đã 70
tuổi, cái tuổi của buổi xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã
nghỉ đôi chục năm. Ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt «ông có thân hình quắc
thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ tráng quá ». Những nét ngoại hình ấy vì
đâu mà có, phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn của công việc đã in đậm trên
ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh
khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng
nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái
bến xa nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, dấu tích tì sào của
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà Nguyễn Tuân
đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Ông lái đò đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên
ông nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá
nơi ải nước, để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt
ngã để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào vị thần Thủy Tinh
trong thần thoại VN, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là con
người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của người lao động mới
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có
lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân
đưa nhân vật của mình vào trong hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất
ấy được bộc lộ, nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn
gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên
quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết
người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo
và tâm địa của kẻ thù số một.
Vẻ đẹp trí dũng, tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu
với đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã
trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông,
hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này,
mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ
lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho lũ đá nơi ải nước
như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình tấn công con
người bất cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Mặt hòn đá nào trông
cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này.
Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau: hòn thì ngỗ
ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh
lùng, hung ác và giữ tợn.
Người đọc như đang chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa
chiến đấu mà mỗi vị trí và nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng. Sông Đà đã
giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng
hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn
độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có
bọn đá tiền vệ, hậu vệ, đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung
tợn và dữ dội, quyết liệt của con sông Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ : Có hai hòn
cánh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất đang đóng vai trò dụ cái
thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì nước sóng luồng
mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Nhưng con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua
nên tuyến thứ ba là các boongke chìm và pháo đài đá nổi là phải đánh tan con thuyền.
Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn
đánh hiểm độc : khuýp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc : đá trái, thúc gối, đội
thuyền, túm thắt lưng, bóp chặt hạ bộ người lái đò…rồi liên tiếp các đòn trùng điệp :
đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…
Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng,
dữ tợn và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn
lên vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sông coi như một hình ảnh làm nền cho
người lái đò hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự
sống trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng, lấy bóng mà lộ được hình.
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận
địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như muốn bẻ gãy cán chèo, vũ
khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như một kẻ liều mạng, không
do dự mà xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và
hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền
như đô vật túm thắt lưng đang lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
bạt, ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái
con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết
thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh
hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có đến
sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái.
“Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”. Trong trận đánh người lái đò đã
hiện lên thật gan dạ, dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây
thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Biết ở vòng vây
thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa
sinh lại bố trí lệch qua bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với
đá, sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật
liên tưởng độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà
là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy tác giả đã ví
thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử với người lái đò.
Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng
mà lướt thì cũng như nắm được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi
ông đò ghì cương lái của con thuyền, chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà
lái miết một đường vào cửa Sinh. Nhưng con sông thật nham hiểm bởi nó không để
chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát. Luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá
đang mai phục. Không chỉ có thế, một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ
chờ con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt
từng đứa một, đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, chặt đôi ra
để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và chỉ nghe
bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi
bật của ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với thác nước sông Đà.
Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng
với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc,
phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong cuộc
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả
sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ
trong nghề lái đò của mình. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là
luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc
thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa
trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, một
mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn
hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước sông Đà mà nó như
đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi
nước. Còn người lái đò như một tiên ông với phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền
vút vút xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó là tuyệt tài của một
tay lái nở hoa. Thế là kết thúc.
Nổi bật trong trang văn của Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương
diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu trước CMT8 -1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào lớp nhà
nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong
cuộc sống hàng ngày của người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh,
không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh
hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm
của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua
ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 7
Có quan điểm cho rằng: “Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. Khi đọc
tùy bút “Người lái đò sông Đà” chắc hẳn người đọc sẽ cảm thấy ấn tượng với cảnh
vượt thác được nhà văn gọi là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo về vẻ
đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng
đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây
dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Tác phẩm được in trong tập tùy bút sông Đà (1960). Truyện gồm ba phần chính: Phần
một (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội, hung bạo của sông Đà. Phần hai
(tiếp đến dòng nước sông Đà) là cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng người
lái đò. Phần cuối cùng là vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà.
Bằng sự tài hoa và uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai
về con sông miền Tây Bắc vừa hung bạo vừa trữ tình. Và nổi lên trên thác dữ là vẻ
đẹp của một chiến binh miền sông nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch
trận như một người nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Cảnh vượt thác của ông
lái đò nằm ở phần thứ hai trong “Người lái đò sông Đà”. Cảnh vượt thác là cảnh tượng
người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao tướng dữ quân tợn được Nguyễn
Tuân khắc họa một cách sáng tạo và đầy hấp dẫn.
Bằng ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mỹ về cái đẹp - Nguyễn Tuân đã xây dựng
thành công hình tượng người lái đò sông Đà - một hình tượng nghệ thuật độc đáo hấp
dẫn. Ông lái đò năm nay, tuổi ngoài 70 nhưng thân hình rắn chắc như một bức tượng
cẩm thạch: ngực ông đầy những củ nâu - thương tích của những lần vượt thác mà
Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”. Tay ông lêu nghêu như cái
sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng
thác trước ghềnh. Ông lái đò không chỉ được khắc họa qua ngoại hình mà còn qua tài
năng, tính cách. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca và thuộc lòng sông Đà,
thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần đá.
Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu
tiên. Ở trùng vi thạch trận này - thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là
“trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh”. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh
viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi
cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì
tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách
thức… người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp,
kịch tính. Đó chính là tài năng của bậc thầy phù thuỷ ngôn ngữ như Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà rất khôn ngoan. Chúng không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác
khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm
thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh
phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân
đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá
trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt
động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu tả cách đánh của sông Đà làm người
đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,…
Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để
dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm
lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay
xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở
bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên,
tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau
khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm
nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại.
Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên
cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình
tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà
thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự
thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế
trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai
này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.
So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao
núng. Với kinh nghiệm nhiều năm chinh chiến trên chiến trường sông nước, người lái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích
của lũ đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng
như là cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ
hai và đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng
đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di
chuyển mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu
chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà
rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ
được huy động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của
ông đò: nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt… Chính nhờ sự mưu trí và tài năng
ấy ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài
ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải
thua cuộc với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông
Đà quả thật là Trí Dũng song toàn.
Đến trùng vi cuối cùng, sông Đà còn một cơ hội cuối cùng để chiến thắng được người
lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết, luồng sống
thì lại nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế
“trên đe dưới búa” làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”
nhưng vào “cái khó lại ló cái khôn” - ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo
thành một mũi tên còn ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc
thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa
trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa
xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại
được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng,
xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách
đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường.
Qua phân tích trên, người đọc như được mở rộng tầm mắt trước tài năng miêu tả tài
tình của nhà văn Nguyễn Tuân. Cảnh tượng vượt thác vốn bình thường của những
người lái đò đã trở thành một cảnh chiến trận “xưa nay chưa từng có”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 8
Nguyễn Đình Thi gọi “Nguyễn Tuân là người suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”. Quả
vậy, khi đọc “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ ấn tượng bởi tài hoa của ông lái
đò, nhất là khi đọc đến cảnh vượt thác - một cảnh tượng có một không hai.
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến
Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng
bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà
văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Tác phẩm được in trong tập tùy bút sông Đà (1960).
Văn bản trong sách giáo khoa gồm có ba phần. Phần một (từ đầu đến gậy đánh phèn)
miêu tả sự dữ dội, hung bạo của sông Đà. Phần hai (tiếp đến dòng nước sông Đà) là
cuộc sống con người trên sông Đà, hình tượng người lái đò. Phần cuối cùng là vẻ hiền
hòa, trữ tình của sông Đà. Và cảnh vượt thác nằm ở phần thứ hai của tác phẩm với ba
trùng vi chiến trận nối tiếp nhau làm nổi bật rõ tài năng của ông lái đò.
Không khí chiến trận đã xuất hiện ngay từ câu văn mở đầu: “Tiếng nước thác nghe
như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng
vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu
da cháy bùng bùng…”. Ở vòng thứ nhất, con sông Đà bố trí thạch trận với “bốn cửa
tử, một cửa sinh”. Mặt hòn đá nào trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm
méo mó”. Khi “thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt tới”. Câu
văn đã cho thấy được một tâm thế sẵn sàng đương đầu với chiến trận của ông lái đò.
Nhưng thác đá sông Đà rất khôn ngoan, nó không đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn
đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác
khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm
thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh
phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân
đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá
trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Bị tấn
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
công nhưng ông lái đò không hề nao núng hay hoảng sợ. Ông đã đề ra chiến thuật
phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo. Chính vì vậy “ông đò hai tay giữ mái
chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử
dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông
đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái
luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Dính phải miếng đòn
hiểm, mắt ông hoa lên, còn “mặt méo bệch đi”. Nhưng ông lái đò vẫn nén đau, giọng
ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Trong vòng đấu thứ hai, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, “bố trí cửa sinh lệch về
phía hữu ngạn” nhằm lừa con thuyền rơi vào cửa tử. Nguyễn Tuân còn phải bình luận
về chiến trận lúc bấy giờ: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi
hổ”. Nhưng với kinh nghiệm nhiều năm vượt thác, ông lái đò đã không mắc bẫy. “Ông
lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của
lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Như một vị huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, ở trận
này ông lái đò quyết định đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông
“nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng
nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ. Nhưng đúng là một đối thủ đáng gờm,
con sông Đà đáp trả chẳng hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ
trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn còn nhớ mặt kẻ thù quen
thuộc, ông lái đò “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để
mở đường tiến”. Cuối cùng, những cửa tử đã bị bỏ lại hết phía sau, chỉ nghe thấy tiếng
thác đá không ngừng khiêu khích.
Cao trào nhất là ở vòng cuối cùng, lúc này con Sông Đà với tinh thần không còn gì để
mất đã quyết định tung ra mọi món đòn hiểm nhất của mình. Ở vòng này ít cửa hơn
nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá
hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho
người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó lại ló cái
khôn” - ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn ông giống
như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. “Thuyền như
một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn
được. Thế là hết thác”. Vậy là cuối cùng, ông lái đò đã chiến thắng trước con sông đà hung dữ.
Đoạn văn cảnh vượt thác được Nguyễn Tuân miêu tả thật tài tình với ngôn ngữ giàu
hình ảnh. Nhà văn đã biến cuộc vượt thác trở thành một cuộc chiến đầy gay cấn và
khốc liệt khiến cho người đọc cảm thấy hồi hộp khi đọc. Đặc biệt với việc sử dụng
nhiều động từ mạnh để diễn tả sự cuồng nộ của con sông Đà. Mật độ động từ dày đặc
diễn tả nhiều hành động liên tiếp dồn dập, mạnh mẽ khiến người đọc như nghẹt thở để
rồi thở phào nhẹ nhõm khi kết thúc.
Tóm lại, cảnh vượt thác của ông lái đò chính là một cảnh tượng độc đáo, hấp dẫn
người đọc đến từng câu từng chữ. Nguyễn Tuân đã thành công khi khắc họa cảnh
tượng độc đáo này để làm nổi bật nên sự tài hoa của người lái đò sông Đà.
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 9
Nguyễn Tuân là một người đam mê “chủ nghĩa xê dịch”. Trên hành trình tìm đến
vùng cao Tây Bắc, ông đã cho ra đời tùy bút Sông Đà, trong đó nổi bật lên chính là
“Người lái đò sông Đà”. Khi đọc tác phẩm này, có lẽ không người đọc nào quên được
cảnh vượt thác của ông lái đò - một cảnh tượng độc nhất vô nhị.
Người lái đò sông Đà được in trong tập tùy bút Sông Đà (1960). Tác phẩm gồm ba
phần chính: Phần một (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội, hung bạo của
sông Đà. Phần hai (tiếp đến dòng nước sông Đà) là cuộc sống con người trên sông Đà,
hình tượng người lái đò. Phần cuối cùng là vẻ hiền hòa, trữ tình của sông Đà. Cuộc
vượt thác có một không hai nằm ở phần hai của tác phẩm nhằm tô đậm chất tài hoa
của ông lái đò. Đối với Nguyễn Tuân lúc này, người nghệ sĩ chính là những con người
lao động bình dị nhưng lại có chất nghệ sĩ trong chính nghề nghiệp của mình. Và cảnh
tượng ông lái đò vượt qua con thác đã thể hiện thành công điều đó.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Thác đá sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ
có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy
chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Quả vậy, trong vòng thứ nhất, con sông Đà bố trí
chiến trận với “bốn cửa tử, một cửa sinh”. Nhà văn còn miêu tả: “Mặt hòn đá nào
trông cũng “ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó”. Đối chọi với thác đá là
“thạch trận dàn bày vừa xong thì cũng là lúc con thuyền vụt tới”. Câu văn đã cho thấy
được một tâm thế sẵn sàng đương đầu với chiến trận của ông lái đò. Nhưng thác đá
sông Đà rất khôn ngoan, nó không đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả
nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích
“giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho
đá”. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái
đò với những đòn thế vô cùng hiểm hóc: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh
trên sông đá”. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có
lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Bị tấn công nhưng ông lái đò không hề nao núng hay
hoảng sợ. Ông đã đề ra chiến thuật phòng ngự để giữ sức cho vòng đấu tiếp theo.
Chính vì vậy “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà
lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật
ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh
miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người
lái đò”. Dính phải miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, còn “mặt méo bệch đi”. Nhưng
ông lái đò vẫn nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi
chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Ở vòng vây thứ hai, sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, “bố trí cửa sinh lệch về phía
hữu ngạn” nhằm lừa con thuyền rơi vào cửa tử. Nguyễn Tuân còn phải bình luận về
chiến trận lúc bấy giờ: “Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”.
Đối diện với thế trận mới, ông lái đò không tỏ ra nao núng. Người lái đò với kinh
nghiệm hơn mười năm vượt thác tràn đầy tự tin. “Ông lái đã nắm chắc binh pháp của
thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở
này”. Như một vị huấn luyện viên giàu kinh nghiệm, ở trận này ông lái đò quyết định
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Ông “nắm chắc được cái bờm
sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ
di chuyển mau lẹ. Nhưng đúng là một đối thủ đáng gờm, con sông Đà đáp trả chẳng
hề thua kém. “Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu
thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn còn nhớ mặt kẻ thù quen thuộc, ông lái đò “tránh
mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối
cùng, những cửa tử đã bị bỏ lại hết phía sau, chỉ nghe thấy tiếng thác đá không ngừng khiêu khích.
Đến vòng trận cuối cùng, con sông Đà tung ra đòn quyết định. Ở vòng này ít cửa hơn
nhưng bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại nằm ngay giữa bọn đá
hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm cho
người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”. Dù vậy, vị thuyền trưởng ấy
vẫn vững vàng chỉ huy sáu bơi “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa”, chọc thủng
hàng phòng ngự của quân địch. Lúc này đây con thuyền “như một mũi tên tre xuyên
nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được. Thế là hết thác”. Kết
thúc trận thủy chiến với phần thắng nghiêng về ông lái đò. Khi đọc đến người đọc như
được thở phào nhẹ nhõm vì chiến thắng của người lái đò sông Đà.
Để có thể khắc họa một cách sinh động cảnh vượt thác của Nguyễn Tuân đã sử dụng
tài năng của một bậc thầy ngôn từ với việc kết hợp những từ ngữ chuyên môn thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau: văn chương, thể thao, quân sự, võ thuật… Cùng với đó là
việc sử dụng nhiều động từ mạnh để miêu tả sự hung bạo của con sông cũng như tài năng của ông lái đò.
Cảnh vượt thác trong “Người lái đò sông Đà” đã trở thành một cảnh tượng “xưa nay
chưa từng có” góp phần tô đậm chất tài hoa nghệ sĩ của người lái đò sông Đà. Còn
Nguyễn Tuân đích thực là một nhà văn của cái đẹp.
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 10
Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu thật có lí khi cho rằng:
“Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Nguyễn Tuân luôn tìm mọi cách
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
để kiếm tìm và phát hiện cái mới lạ, độc đáo “xưa nay chưa từng có” trong hành trình
sáng tạo. Tuỳ bút Người lái đò Sông Đà là kết quả của hành trình bền bỉ và sáng tạo
về vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Bằng sự tài hoa, uyên bác,
Nguyễn Tuân đã khắc hoạ một dấu ấn không thể mờ phai về con sông miền Tây Bắc
vừa hung bạo vừa trữ tình và nổi lên trên thác dữ là vẻ đẹp của một chiến binh sông
nước với “tay lái ra hoa” đã vượt bao trùng vi thạch trận như một người nghệ sĩ trên
mặt trận vượt thác leo ghềnh. Điều đó được khắc hoạ thật ấn tượng mang cảm giác
thật mãnh liệt qua cảnh tượng cuộc vượt thác có một không hai trong Người lái đò sông Đà.
Cảnh tượng cuộc vượt thác sông Đà là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi
thạch trận với bao tướng dữ quân tợn. “Xưa nay chưa từng có” cảnh tượng hiếm gặp,
trước sau chưa có. Thực chất của ý kiến là bàn đến tài nghệ vượt thác của ông lái đò
và tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân.
Bằng ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mỹ về cái đẹp – Nguyễn Tuân đã xây dựng
thành công hình tượng người lái đò sông Đà – một hình tượng nghệ thuật độc đáo hấp
dẫn. Ông khách sông Đà tuổi ngoài 70 nhưng thân hình rắn chắc như một bức tượng
cẩm thạch: ngực ông đầy những củ nâu – thương tích trên chiến trường Sông Đà mà
Nguyễn Tuân gọi đó là “huân chương lao động siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái
sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng
thác trước ghềnh. Miêu tả người lái đò như vậy – Nguyễn Tuân đã phần nào khắc họa
được vẻ đẹp của con người lao động gắn bó với chiến trường sông nước.
Hình tượng người lao động không chỉ khắc họa qua ngoại hình mà còn được khắc họa
qua tính cách và trí thông minh. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca và
thuộc lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần
đá. Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn
thuộc về con người Trí Dũng và Tài Hoa.
Trí và dũng của ông lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa một cách đậm nét
với ba trùng vi thạch trận. Trận thủy chiến này có thể gọi là một cảnh tượng hiếm gặp
và khó lặp lại ở trên đời.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Ở đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân dồn hết bút lực vào miêu tả trùng vi thạch trận đầu
tiên. Ở trùng vi thạch trận này – thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là
trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh
viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi
cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì
tiến gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách
thức… người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp,
kịch tính. Đó chính là biệt tài phù thuỷ ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà được nhân hóa như những kẻ rất nham hiểm và khôn ngoan. Chúng
không chỉ đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến.
Trước đó chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”.
Còn giờ đây chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn
như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn thế vô
cùng hiểm hóc. Sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có
lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu
tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của
thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,…
Bị tấn công bất ngờ nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để
dưỡng sức cho những trùng vi sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên
khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm
lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay
xở, sông Đà lại chuyển thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở
bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.
Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa
xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái
méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm ông
khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn
tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn
lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả cuộc vượt thác ở thế trận một
chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông
khách sông Đà ở sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi
thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở
trùng vi thạch trận thứ hai này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh
bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.
So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông đò nao
núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã “nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá”. Ông đò
cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”, vì
thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn
chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh.
Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng
rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển mau lẹ.
Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập
đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa
thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt động từ được huy động như
một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò: nắm, ghì,
phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy ông đò vượt qua
hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò
đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc với bộ mặt
“tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó để thấy người khách sông Đà quả thật là Trí Dũng song toàn.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi
này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, nguồn sống thì lại nằm ngay
giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa”
làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn
ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút
qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng.
Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được.
“Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả
cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn
được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã giúp người lái
đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ
rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn
từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm
phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của
mình. Đoạn trích vì thế đã xây dựng được một “cảnh tượng có một không hai”.
Ý kiến trên là một ý kiến đúng. Ý kiến đã đánh giá thật sâu sắc đoạn trích và tài nghệ
có một không hai của người lái đò sông Đà. Ông là người lao động nhưng lại mang
cốt cách của một tâm hồn nghệ sĩ. Trong cuộc vượt thác leo ghềnh ông là một con
người phi thường, tài hoa. Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn.
Ông chính là hình tượng con người lao động là biểu tượng cho trí dũng song toàn
trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Chính ý kiến này cũng đã góp phần làm
sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung.
Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con
người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình
tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất
nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác của người khách sông Đà quả thật là phi thường,
xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 11
“Cảnh vượt thác” là cảnh tượng người lái đò vượt qua ba trùng vi thạch trận với bao
tướng dữ quân tợn. Bằng một quan niệm độc đáo về cái đẹp, đi cùng ngòi bút tài hoa,
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà – một hình
tượng nghệ thuật độc đáo hấp dẫn.
Hình tượng Người lái đò mang vẻ đẹp của người lao động, vừa rắn rỏi, vừa rất điêu
luyện với nghề của mình. Ông lái đò được khắc họa đậm nét qua ngoại hình và tính
cách. Mặc dù ông tuổi đã ngoài 70, nhưng thân hình ông vẫn rất rắn chắc như người
con đích thực của vùng sông nước hùng vĩ: ngực ông đầy những củ nâu – thương tích
trên chiến trường Sông Đà mà Nguyễn Tuân ưu ái gọi đó là “huân chương lao động
siêu hạng”, tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; nhỡn giới ông
cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh. Tất cả là 1 vẻ đẹp của con
người lao động gắn bó lâu năm với vùng sông nước mênh mông.
Không chỉ mang nét đẹp sương gió ở ngoại hình, người lái đò còn nổi bật bởi tính
cách và trí thông minh. Đối với ông, sông Đà như một thiên anh hùng ca và ông thuộc
lòng sông Đà, thuộc tất cả luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông thần đá.
Chính vì vậy trong trận thủy chiến đầy binh hùng tướng mạnh, phần thắng vẫn thuộc
về con người trí dũng và tài hoa ấy.
Chỉ với ba trùng vi thạch trận, người lái đò sông Đà như người nghệ sĩ đang biểu diễn
bằng tất cả sức lực và tài năng. Trận thủy chiến với con sông Đà là cuộc đấu trí giữa
con người và thiên nhiên một cách ngoạn mục.
Ở trùng vi thạch trận đầu tiên, thác đá sông Đà đã chuẩn bị dàn trận địa sẵn, đó là trận
địa với bốn cửa tử, một cửa sinh. Ở đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện;
những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái
thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến
gần vào. Bằng các từ ngữ: reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức…
người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng gay cấn hồi hộp, đầy kịch tính.
Sự khôn ngoan của thác đá sông Đà khiến người đọc phải trầm trồ: chúng không chỉ
đánh trên mặt trận giáp lá cà mà còn đánh bằng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đó
chúng đã dùng âm thanh của thác khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Còn giờ đây
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
chúng lại nhờ “nước thác làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như một loài
thủy quái, sông Đà cậy thế quân đông tướng mạnh nên đã “ùa vào mà bẻ gãy cán
chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có
lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ được Nguyễn Tuấn huy động để miêu
tả cách đánh của sông Đà làm người đọc không khỏi rùng mình trước sự hung bạo của
thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội,… Bị tấn công bất ngờ nhưng người
lái đò vẫn bình tĩnh, điều này càng làm ta thêm thán phục sự dũng cảm và chuyên
nghiệp của người lái đò. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi
sắp tới, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này sông Đà lại
chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật
ngửa mình ra”. Không để cho ông đò có cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thể đánh
miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người
lái đò”. Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm
rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó
là cái méo bệch vốn do cái lạnh của nước làm nhăn nheo lại thêm miếng đòn đau làm
ông khách sông Đà mặt như tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh
đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò.
Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, tỉnh táo, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi
chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn thứ nhất, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận một chiều từ sông Đà
thì ở đoạn văn tiếp theo nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà ở sự
thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế
trận phòng ngự, ông lái đò chuyển thế chủ động tấn công. Ở trùng vi thạch trận thứ hai
này, sông Đà tăng cường một “tập đoàn cửa tử” và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu
ngạn. So với trùng vi một thì trùng vi này khó khăn hơn. Nhưng không vì thế mà ông
đò nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, người lái đò đã
“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ
đá”. Ông đò cũng tự triết lý với mình “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như là
cưỡi hổ”, vì thế “không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và
đổi luôn chiến thuật”. Ở trận này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
nhanh. Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng
luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển
mau lẹ. Nhưng sông Đà cũng không phải dạng vừa. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền
vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác sẵn nên “đứa thì ông tránh mà rảo bơi
chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. hàng loạt động từ được huy
động như một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông lái đò:
nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt…Chính nhờ sự mưu trí của mình, ông lái đò
đã vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn
ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho bọn đá phải thua cuộc
với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”.
Ở trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi
này ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, nguồn sống thì lại nằm ngay
giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa”
làm cho người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan” nhưng vào “cái khó
lại ló cái khôn” – ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên còn
ông giống như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút
qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng.
Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái
được, lượn được. Thế là hết thác”. Một loạt các động từ lại được Nguyễn Tuân huy
động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh,
lái được, lượn được… sự thần tốc trong cách đánh và cách đánh nhanh thắng nhanh đã
giúp người lái đò vượt trùng vi đầy phi thường. Quả là “Đọc Người lái đò sông Đà, ta
có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong
nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc
hoàn toàn tâm phục, khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến mức nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình.
Trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh, ông lái đò là một con người phi thường, tài hoa.
Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Ông chính là hình tượng
đẹp đẽ của con người lao động Việt Nam. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang!
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 12
Vũ Ngọc Phan đã từng viết như thế này về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
“Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không
phải là thứ văn để người nông nổi thưởng thức.” Quả thực, ngòi bút tài hoa của người
nghệ sĩ ấy luôn hướng đến những gì là tuyệt mỹ nhất của cuộc đời. Tùy bút “Người lái
đò sông Đà” - những thước phim đẹp đẽ nhất về thiên nhiên hùng vĩ và con người tài
hoa. Đặc biệt, hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác ấy có lẽ chính là bức tranh
tuyệt mỹ nhất, một hình tượng đặc sắc nhất mà Nguyễn Tuân đã tạo nên. Chỉ qua đó
thôi cũng đủ để người đọc thấy được nét tài hoa trong ngòi bút của người nghệ sĩ
“suốt đời đi tìm cái đẹp ấy”.
Trước năm 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa của những
người nghệ sĩ, những vẻ đẹp mà người ta vẫn gọi là “vang bóng một thời” để bày tỏ sự
ngưỡng mộ và cả những nỗi niềm tiếc nuối. Sau năm 1945, quan niệm thẩm mĩ của
Nguyễn Tuân đã có những thay đổi, ông hướng ngòi bút của mình đến vẻ đẹp tài hoa
của những con người lao động bình thường trong cuộc sống đời thường. Tùy bút
“Người lái đò sông Đà” sáng tác năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây
Bắc để khám phá cảnh sắc thiên nhiên cũng như tìm kiếm “thứ vàng mười” trong cảnh
và con người nơi đây. Qua tùy bút, hình tượng người lái đò hiện lên đầy ấn tượng giữa
cái hung bạo của con sông Đà. Trong đó, ắt hẳn người đọc không thể quên khung cảnh
vượt thác đầy điêu luyện và tài hoa của ông lái đò, một cảnh tượng mà Nguyễn Tuân
gọi là có một không hai, “trước nay chưa từng có”.
Ông lái đò hiện lên là một ông lão đã 70 tuổi với ngoại hình thật đặc biệt: Tay ông lêu
nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một
cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn
giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
Nguyễn Tuân chỉ bằng vài nét cũng cũng đủ để để chạm khắc vào tiềm thức của bạn
đọc về một hình ảnh người lái đò gần gũi, một con người sinh ra và lao động trên sông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
nước, một con người suốt đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước của sông Đà để tồn
tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Giữa khung cảnh thiên nhiên sông Đà hùng
vĩ, đầy nguy hiểm và hung bạo ấy, Nguyễn Tuân đã tô đậm vẻ đẹp tài hoa trí dũng của
ông lái đò qua cuộc vượt thác đầy nguy hiểm, một trận chiến dữ dội giữa con người và
thiên nhiên. Người lái đò nhỏ bé cùng chiếc thuyền mỏng manh đối chọi với thiên
nhiên sông nước hung bạo, một cuộc chiến không cân sức nhưng con người trí dũng
ngoan cường, tỉnh táo, khôn ngoan, khéo léo đã có thể đưa con thuyền an toàn vượt
qua những trùng vi thạch trận trên dòng sông một cách đầy ngoạn mục.
Ở vòng vây thứ nhất, con sông Đà bày ra thạch trận với bốn cửa tử và một cửa sinh. Ở
đây nước phối hợp với đá reo hò làm thanh viện; những hòn đá bệ vệ, oai phong lẫm
liệt; một hòn ấy trông như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi
giao chiến và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Khi “thạch trận dàn bày
vừa xong thì cũng là lúc con thuyền tới”. Người lái đò không hề run sợ, tiến đề với
trùng vi thạch trận thứ nhất với tâm thế sẵn sàng nhất. Con sông Đà khôn ngoan, nó
không đánh trực diện với người lái đò mà đánh bằng nghệ thuật tâm lý chiến. Trước
đó, nó dùng âm thanh của thác để khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”, còn giờ đây
nó lại nhờ đến “nước thác làm thanh viện cho đá”. Sông Đà quả thực hiểm ác, nó xông
tới “ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng vào sát nách mà đá trái”, “thúc gối vào
bụng và hông thuyền”, có lúc lại “đội cả thuyền lên”. Sông Đà khôn ngoan và hiểm ác
là thế, nhưng ông lái đò không hề hoảng sợ “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất
tung lên khỏi sóng”. Lúc này con sông Đà lại chuyển thế bám lấy thuyền và sử dụng
đòn vật “túm lấy thắt lưng ông lái đò đòi lật ngửa thuyền ra”. Không để cho ông đò có
cơ hội xoay xở, sông Đà lại chuyển thế đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả cái luồng
nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Khi sóng thác đánh miếng đòn
độc hiểm nhất, ông đò mặt “méo bệch” đi. Khuôn mặt ấy của ông lái đò hiện ra không
chỉ là gương mặt biến dạng, trắng bệch vì đau đớn mà còn nhợt nhạt vì phải dầm lâu
trong nước lạnh. Sự đau đớn của ông đò còn được gián tiếp miêu tả trong một cảm
nhận của thị giác và xúc giác “mặt sông trong tích tắc lòa sáng như một cửa bể đom
đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”. Đó là một trận chiến không cân sức,
con sông Đà hùng vĩ và hung bạo vô cùng, người lái đò hiện lên nhỏ bé, với chiếc mái
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
chèo nhưng với sức mạnh thật lớn lao. Qua cách miêu tả tiếng hô chỉ huy ngắn gọn,
tỉnh táo của người cầm lái, Nguyễn Tuân đã không giấu được lòng ngưỡng mộ và cảm
phục trước bản lĩnh kiên cường, sự dũng mãnh, bình thản của người lái đò.
Tới vòng vây thứ hai của thạch trận, ông đò không chỉ dũng mãnh, kiên cường mà còn
thể hiện sự thông minh của một người lái đò dày dặn kinh nghiệm – người nắm chắc
binh pháp của thần sông thần đá, người đã “thuộc quy luật” của dòng sông, thác đá.
Đến với trùng vi này, con sông Đà tăng thêm nhiều cửa tử hơn, cửa sinh lại bố trí lệch
qua bờ phía hữu ngạn. Ở trận đánh này ông đò đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh
thắng nhanh. Ông đò “nắm chắc được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông ghì cương
lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”, tốc độ nhanh vô cùng. Nhưng sông Đà nào đâu
phải dạng vừa, chúng xô ra, níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh
giác sẵn “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở
đường tiến lên”. Nguyễn Tuân quả thực là bậc thầy của ngôn ngữ, ông huy động hàng
loạt các động từ, hò reo theo từng nhịp lái chèo của ông lão lái đò: nắm, ghì, phóng,
lái, rảo, đè,... Ông lái đò như một dũng tướng tài ba điều khiển thuần phục con ngựa
bất kham của sóng thác sông Đà. Chính bằng sự mưu trí và tài năng của mình, ông lão
đã vượt qua hết các cửa tử, làm cho bọn đá thua cuộc phải bày bộ mặt “tiu nghỉu, xanh
lè thất vọng”. Thiên nhiên, thác đá sông Đà hung bạo hiểm độc là thế cũng không thể
chiến thắng được sức mạnh phi thường của ông lái đò - một tay lái ra hoa, trí tuệ, một
tướng lĩnh thực thụ đã chiến thắng cả thần sông, thần đá.
Có lẽ tất cả sự hiểm ác nhất của con sông Đà tập trung hết cả ở trùng vi cuối cùng.
Không những ít cửa hơn mà bên trái bên phải đều là luồng chết cả, luồng sống thì lại
nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liên xô
ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Con sông ngày càng mưu mẹo vào hiểm
ác, muốn dồn con người đến chỗ chết. Sự hiểm ác của thác đá đã được nhà văn miêu
tả trong hình ảnh ẩn dụ tài hoa về cổng đá cánh mở cánh khép – đó là cả một mặt trận
đá trùng điệp trong đó bức tường phòng ngự vững chắc của lũ đá hậu vệ kết hợp với
những mũi tấn công ào ạt, tới tấp không ngừng nghỉ của sóng dữ. Nhiệm vụ của ông
đò là phải phóng thẳng thuyền, chọc thủng một luồng sinh duy nhất ở ngay giữa cửa
bọn đá hậu vệ trấn giữ, trong khoảnh khắc cánh “cổng đá” mở giữa những đợt sóng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
thác dữ dội. Có lẽ ngay lúc này đây, tay lái chèo của ông lái đò thực sự là một tay lái
ra hoa. Không bằng quá nhiều từ ngữ, câu văn, hình ảnh con thuyền lao vút qua khe
hẹp được miêu tả trong những câu văn ngắn mà bản thân cách ngắt câu, sự kết hợp
những động từ và danh từ nối tiếp: vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng… đã
thể hiện sự điêu luyện khéo léo và sức mạnh của ông đò. Tốc độ phi thường của con
thuyền dưới bàn tay vừa lái, vừa xuyên, vừa lượn của ông đò không chỉ như một mũi
tên tre mà còn được gợi tả tinh tế qua làn hơi nước mà con thuyền xuyên qua, con
thuyền không còn lướt trên mặt nước mà đã thực sự bay trong làn hơi nước trên mặt
sóng. Tài năng của ông đò khi ấy đã bao hàm cả trí tuệ, sự trải nghiệm, sức mạnh thể
lực, trình độ điêu luyện và bản lĩnh kiên cường – tất cả đều đạt tới mức phi phàm, kì
diệu. Vậy là cuối cùng, bằng tất cả tài hoa, trí lực và sự dũng mãnh của mình, ông lái
đò đã chiến thắng con sông Đà hiểm độc.
Cảnh vượt thác sông Đà có lẽ chính là một trong những kiệt tác nghệ thuật trong cuộc
đời sáng tác của Nguyễn Tuân. Ông lái đò trí dũng, tài hoa đã chiến thắng con sông
Đà hung bạo, hiểm ác một cách ngoạn mục. Khung cảnh vượt thác sông Đà có lẽ đã
quá quen thuộc trong suốt hàng chục năm hành nghề của ông lái đò, nhưng dưới ngòi
bút tài hoa của Nguyễn Tuân nó đã thực sự trở thành biểu tượng đẹp đẽ nhất nơi núi
rừng Tây Bắc. Từng câu, từng chữ đều được Nguyễn Tuân chăm chút từng tí một, đến
nỗi tưởng đầu người đọc đang được trên chính chuyến đò ấy, được tận mắt chứng kiến
từng hành động, từng nước đi tài hoa của ông lái đò.
Viết về con người bình thường trong cuộc sống đời thường nhưng không hề tầm
thường. Nguyễn Tuân luôn tìm đến và khắc họa những vẻ đẹp ấy bằng ngòi bút tài hoa
nghệ sĩ nhất. Khung cảnh vượt thác của ông lái đò - một nhịp sống thường niên trong
suốt cuộc đời ông lái đò, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân cớ sao nó lại đẹp đẽ và tuyệt
mĩ đến vậy. Người nghệ sĩ tài hoa ấy đã chạm đến tuyệt đích của cái đẹp, đã thực sự
thành công trên con đường đi tìm cái đẹp ấy. Không giống như “Chữ người tử tù”,
trong câu chuyện của “Người lái đò sông Đà” Nguyễn Tuân không đi tìm cái đẹp của
một thời đã qua nữa mà cái đẹp mà ông khám phá ở ngay trước mắt, trong chính cuộc
sống đời thường nhất, đúng như cái nghệ danh mà người đời đặt cho ông - “Một người
nghệ sĩ suốt đời đi săn tìm cái đẹp”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Nguyễn Tuân đã vẽ lên một khung cảnh cảnh vượt thác đầy gay cấn và khốc liệt. Nếu
coi người lái đò là người nghệ sĩ điều khiển con thuyền đầy điêu luyện thì Nguyễn
Tuân đích thực là người nghệ sĩ chèo lái con thuyền ngôn từ đầy tài hoa. Chỉ qua một
một khung cảnh vượt thác thôi, nhưng Nguyễn Tuân đã điều động cả một đội quân từ
ngữ để diễn tả sự cuồng nộ của sông Đà và cả sự tài hoa của người lái đò. Nguyễn
Tuân đưa người đọc đi từ cảm xúc này sang cảm xúc khác, từ hồi hộp, căng thẳng đến
thở phào nhẹ nhõm. Cứ từ trùng vi thạch trận này đến trùng vi thạch trận khác, người
đọc chưa khỏi thở phào lại phải tiếp tục đến với một cuộc chiến mới gay cấn và khốc
liệt vô cùng. Trong công cuộc đi tìm “chất vàng mười” của con người Tây Bắc nói
riêng và người lao động Việt Nam nói chung trong thời kỳ mới, Nguyễn Tuân đã khai
thác và khám phá một cách tỉ mỉ nhất, bằng con mắt và trái tim yêu thương nhất của
người nghệ sĩ yêu thương và khát khao khám phá cái đẹp ở đời.
Khép lại những trang văn của “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ mãi không bao
giờ quên về hình ảnh một con sông Đà hiểm độc, hung bạo, về một người lái đò điều
luyện và cả người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân. Từng cảm xúc, từng hình ảnh vượt
thác sông Đà đã trở thành một ấn tượng khó phai khi con người bước chân tới chân
trời đầy màu sắc huyền bí riêng biệt, hấp dẫn và độc đáo. Đó là chân trời của cái đẹp,
của tài hoa và sự uyên bác.
3 trùng vi thạch trận của người lái đò sông Đà - Mẫu 13
Mỗi một vùng đất mà chúng ta đi qua đều để lại trong ta những dấu ấn riêng biệt bởi
nó mang những nét đặc trưng về văn hóa, lịch sử, địa lí của từng vùng. Đến với Tây
Bắc xa xôi cùng làn sương khói mờ ảo Nguyễn Tuân cũng không khỏi bị ấn tượng với
thiên nhiên, cảnh vật nơi đây. Có lẽ vì thế mà hình ảnh dòng sông Đà rẽ theo một lối
riêng với một cá tính riêng biệt đã trở thành ngọn nguồn cho cảm hứng thi ca của nhà
văn. Giữa thiên nhiên hùng vĩ ấy đã khiến cho con người trở nên bé nhỏ hơn bao giờ
hết. Qua cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân đã ngợi ca vẻ
đẹp bình dị của con người lao động khi chiến đấu với sự hung bạo, dữ dội của thiên nhiên.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
Nguyễn Tuân (1910 - 1988) là người tài hoa, uyên bác, thích khám phá vẻ đẹp của
thiên nhiên và con người ở mọi miền đất nước. Ông là nhà văn có phong cách nghệ
thuật ngông ngạo, khác người, ông luôn tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng "thứ
vàng mười đã qua thử lửa" ở tâm hồn người lao động. "Người lái đò sông Đà" được
rút từ tập tùy bút "Sông Đà", là "thứ vàng mười đã qua thử lửa" mà Nguyễn Tuân đã
khám phá ra khi đến với Tây Bắc thơ mộng và hùng vĩ.
Cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" được Nguyễn Tuân ví là cảnh "xưa nay
chưa từng có" bởi đây là cuộc chiến dữ dội giữa thiên rộng lớn với con người bé nhỏ.
Nguyễn Tuân đã chú ý tô đậm nét tài hoa nghệ sĩ bởi với ông nét tài hoa nghệ sĩ của
con người không chỉ thể hiện trong việc sáng tạo nghệ thuật mà còn ở nhiều lĩnh vực,
hoạt động khác nữa. Cảnh vượt thác được tái hiện ở ba trùng vi thạch trận với những
thử thách nghiệt ngã khác nhau đã đề cao sự gan dạ, trí, dũng của ông lái đò khi vượt
qua cả ba trùng vi thạch trận an toàn.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất là sự đối mặt giữa thiên nhiên và ông lái đò. Nguyễn
Tuân đã lấy thác đá để diễn tả sự hùng vĩ của sông Đà giống như các nhà văn thường
dùng lửa để tả nước. Đá bờ sông dựng vách thành nhưng lại hẹp đến mức "chẹt như
một cái yết hầu" khiến cho con nai, con hổ cũng có thể nhảy vọt từ bờ này qua bờ kia
sông. Cách sử dụng từ ngữ sáng tạo của nhà văn giúp cho người đọc có thể hình dung
rõ khung cảnh nơi đây hung hiểm, đáng sợ biết nhường nào. Gần đến con thác "sóng
bọt trắng xóa cả một chân trời" và chúng sẵn sàng nhổm dậy để vồ lấy con thuyền.
Chúng như những sinh thể có khối óc để bày binh bố trận, cản trở sự di chuyển của
con thuyền. Những hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền
phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Ông lái đò được đặt vào một tình huống đầy
cam go, "hai tay giữ chặt mái chèo", hiên ngang như một tướng soái phóng thẳng vào
đối phương. Ông lái đò một mình chiến đấu với dòng sông hung bạo như trận đồ bát
quái, nó chỉ trực chờ cơ hội để giết chết ông lái đò.
Cuộc chiến giáp lá cà giữa ông lái đò và dòng sông diễn ra với sóng nước dữ dội, hò
la, "đá trái", "thúc gối" vào bụng, vào hông con thuyền, bám lấy thuyền như đô vật, nó
tung ra những đòn hiểm độc nhất để "bóp chặt lấy bộ hạ người lái đò". Ông lái đà kiên
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
cường, vượt qua sông, nước, thác đá "cố nén vết thương", "mặt méo bệch đi", "đánh
đòn tỉa, đòn âm vào chỗ hiểm", cố gắng giữ tỉnh táo để vật lộn với sóng thác và vượt
qua thạch trận ở vòng thứ nhất an toàn. Ông đã nén chịu nỗi đau về thể xác do cuộc
vật lộn với sóng thác gây nên để cố giữ tỉnh táo, giữ vững nghị lực trí tuệ để vật lộn
với sóng thác, vượt qua thạch trận ở vòng thứ nhất.
Sang đến trùng vi thạch trận thứ hai, khó khăn lại nối tiếp khó khăn đòi hỏi chí can
trường và sự khéo léo của người lái đò thì mới có thể vượt qua được. Ở vòng này tăng
thêm nhiều cửa tử và chỉ có một cửa sinh để đánh lừa con thuyền rơi vào hố đen. Bằng
sự am hiểu về tính nết của dòng sông và quy luật phục kích của đá nước, ông lái đò đã
thay đổi chiến lược ở vòng vây thứ hai. Ông lái đò bình tĩnh vượt qua các cửa tử và
những dòng thác hùm beo. Ông nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá nên
không một phút nghỉ tay ông đò đã phá luôn trùng vi thạch trận thứ hai, ông "ghì
cương bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh" khiến cho thằng
đá tướng "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".
Trùng vi thạch trận thứ ba còn đáng sợ hơn cả vì nó ít cửa hơn khi bên phải bên trái
đều là luồng chết. Thiên nhiên ngày càng dữ dằn như tranh đấu với con người để
khẳng định sự sống. Ông lái đò đã chiến thắng bằng những động tác mạnh mẽ, dứt
khoát, ông khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về
đích an toàn. Ở vòng vây thứ ba, ông "phóng thẳng con thuyền, chọc thủng cửa giữa"
rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép" một cách nhanh chóng. Ông lái đò mang
dáng vẻ của người anh hùng nhưng lãng mạn trong cuộc thủy chiến, ông đặt mình vào
thử thách là sự đối mặt thản nhiên rất đỗi đời thường vì chẳng có ai bàn thêm lời nào
về cuộc chiến vừa qua.
Cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà" đã ngợi ca kỳ tích của ông lái đò trong
thế đối lập với thiên nhiên. Ông lái đò mang dáng vẻ của người anh hùng thầm lặng
trong cuộc chiến với thiên nhiên dữ dội, qua đó ta thấy được sự tài hoa, uyên bác của
ngòi bút Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp của ông lái đò chính là vẻ đẹp của con người trong
thời đại mới vì với Nguyễn Tuân thì "người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu
mà còn có ngay trong cuộc sống đời thường". Tác giả đã sử dụng nghệ thuật miêu tả
Văn mẫu lớp 12: Phân tích cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà
giàu chất tạo hình cùng hàng loạt các động từ để khẳng định vẻ đẹp của ông lái đò
trước trận chiến gay cấn với dòng sông Đà.
Qua cảnh vượt thác trong "Người lái đò sông Đà", Nguyễn Tuân đã khẳng định được
"thứ vàng mười đã qua thử lửa" của núi rừng Tây Bắc. Sông Đà mang vẻ đẹp hùng vĩ
dữ dội nhưng cũng rất đỗi thơ mộng trữ tình đã trở thành nguồn cảm hứng để nhà văn
có thể lột tả cảnh vượt thác của ông lái đò một cách hấp dẫn như vậy.
Cảnh vượt thác trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 14
Tác phẩm Người lái đò Sông Đà được tác giả sáng tác trong một chuyến đi thực tế, vẻ
đẹp thiên nhiên vùng núi Tây Bắc và hình ảnh người lái đò sông Đà chính là những
điểm nhấn quan trọng. Trên nền của thiên nhiên Tây Bắc hình tượng ông lái đò sông
Đà hiện lên thật khỏe khắn và tài hoa.
Hình ảnh người lái đò hiện lên qua những miêu tả ngoại hình từ tác giả “tay lêu
nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng
nói ào ào như thác lũ sông Đà”, công việc vốn nguy hiểm, cần nhiều sức lực nhưng
ông vẫn gắn bó với nghề. Thế giới của ông đó là vượt qua nhiều nguy hiểm “nước xô
đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm” nhưng bằng sự
am hiểu tường tận từng con thác, xoáy nước, tảng đá trên sông đã giúp ông vượt qua
thử thách từ thiên nhiên.
Công việc của ông có thể xem là đối mặt với “thần chết” nhưng lúc nào người lái
đò cũng tự tin, bình tĩnh vượt qua khó khăn, đó không chỉ là sự am hiểu về con sông
Đà mà còn là tài năng của người lái đò khi điều khiển con thuyền vượt qua thử thách
từ thiên nhiên. Tài năng của người lái đò thể hiện đậm nét trong cuộc chiến giữa con
người và thiên nhiên – thời điểm ông lái đò vượt qua con sông Đà hung hãn, con sông
hiểm trở, thử thách bao nhiêu thì người lại đó càng giỏi giang và mạnh mẽ bấy nhiêu.
Không chỉ là người tài hoa mà người lái đò sông Đà còn toát lên sự bình dị, khiêm tốn
đó là thời điểm mà con thuyền đã về bến an toàn, mọi người tập trung cùng nhau ăn
uống và tuyệt nhiên không có một lời nói nào về những mối nguy hiểm họ vừa trải
qua, những con người bình dị xem những mối nguy hiểm đó trở nên bình thường và
công việc mỗi ngày mà thôi.