



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61631027
VẤN ĐỀ 2: DÒNG HỌ CIVIL LAW
10. Phân tích các dạng cấu trúc của HTPL Anh. Theo anh/chị dạng cấu trúc
nào thể hiện được đầy đủ nhất các bộ phận cấu thành của HTPL Anh.
Khác với Civil law, Pháp luật Anh không phân chia thành Luật công (Công pháp)
và luật tư (Tư pháp) vì sự phân biệt này ít có ý nghĩa trong thời kì phong kiến ở
Anh, giai đoạn đầu của sự phát triển Thông luật vì các quyền công và tư được xác
định thông qua quyền lợi về tài sản, nhưng không có sự phân biệt giữa sở hữu tài
sản và các sơ quan công theo kiểu Civil law.
Cấu trúc của HTPL Anh được chia thành 2 nhóm phổ biến nhất ở Anh là phân
biệt giữa: Luật hình sự với Luật dân sự; và common law với equity và với pháp luật thành văn.
a.Luật hình sự và luật dân sự
Trong tác phẩm “Learning the Law”, Glanville Williams - nhà cải cách pháp
luật, nhà khoa học pháp lý “không có đối thủ” và giáo sư luật của Anh, đã dành
chương đầu tiên viết về phân chia giáo pháp luật (The Divisions of the Law).
Theo ông, luật của Anh được chia thành hai ngành luật lớn: luật hình sự và luật
dân sự, trong đó ngành luật thứ hai đồ sộ hơn rất nhiều so với ngành luật thứ nhất.
Luật hình sự xác định ranh giới của những hành vi mà xã hội có thể hoặc không
thể chấp nhận; quy định về quyền và nghĩa vụ của cơ quan công quyền; quy định
và kiểm soát những hành vi sai trái, đi ngược lại lợi ích của cộng đồng... Một
người vi phạm luật hình sự bị coi là tội phạm, chống lại toàn xã hội, sẽ bị Nhà
truy tố. Phạm vi rộng lớn của luật hình sự của Anh không chỉ được khẳng định
bởi Williams mà cũng được Glendon, Gordon và Carozza thừa nhận trong tác
phẩm của mình. Các tác giả này, khi bàn về cấu trúc pháp luật của Anh đã khẳng
định luật hình sự bao trùm lên đại bộ phận luật công, gồm cả luật hiến pháp, luật
hành chính và luật tố tụng.
Ngành luật lớn thứ hai của Anh, theo Williams, là luật dân sự, như đã đề cập, có
phạm vi điều chỉnh rộng hơn nhiều so với luật hình sự, bao quát từ quan hệ hợp
đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, tới những quan hệ trong lĩnh vực gia
đình kể cả những vấn đề về di chúc, rồi vươn tới cả những quan hệ về lao động
và về đất đai... Luật dân sự quy định về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, vì vậy vi
phạm luật dân sự chỉ là những hành vi sai trái giữa các bên hay gọi là hành vi
phạm lỗi dân sự (civil wrong), không bị coi là đi ngược lợi ích của cộng đồng.
Luật dân sự của Anh phân biệt bốn loại lỗi dân sự: (1) lỗi do vi phạm hợp đồng,
hình thành khi một trong các bên chủ thể hợp đồng không thực hiện những cam
kết trong hợp đồng; (2) lỗi ngoài hợp đồng (tort), hình thành ngay cả khi hai bên lOMoAR cPSD| 61631027
không hề có thỏa thuận trước về hành vi nào đó nhưng nếu hành vi gây thiệt hại
diễn ra sẽ làm phát sinh quyền khởi kiện đòi bồi thường của bên bị thiệt hại (bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng); (3) lỗi bội tín (breach of trust): đánh mất niềm
tin và làm trái sự ủy thác của người khác; (4) lỗi do vi phạm “nghĩa vụ hợp đồng
không chính thức” hay “nghĩa vụ bản hợp đồng” (quasi-contractual obligation).
Luật dân sự cung cấp giải pháp để giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân
công dân hoặc tổ chức (ví dụ: giữa người tiêu dùng và nhà cung cấp; giữa người
sử dụng lao động và người lao động...) khi một bên phạm lỗi dân sự gây thiệt hại
cho bên kia. Bên bị thiệt hại hoặc thành viên gia đình của họ có quyền kiện ra
toàn, đòi bồi thường thiệt hại (tài sản, sức khoẻ, tính mạng). Như vậy, phạm vi
điều chỉnh của luật dân sự ở Anh hết sức rộng, bao quát hầu như toàn bộ các quan
hệ xã hội mà ở các nước civil law thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư và thậm
chí bao quát cả những quan hệ xã hội mà ở các nước civil law không hẳn đã được
coi là thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư (quan hệ lao động, quan hệ đất đai...).
Giữa luật hình sự và luật dân sự của Anh có bốn điểm khác biệt lớn, về: (1) mối
quan tâm của mỗi loại luật; (2) bên có quyền đưa vụ việc ra tòa án; (3) nghĩa vụ
chứng minh; và (4) mục đích điều chỉnh của từng loại luật. Bất kể những khác
biệt lớn này, trong thực tiễn, cả hai loại luật rất có thể cùng được áp dụng để xử
lý cùng một hành vi sai trái nếu hành vi đó đồng thời phạm tội hình sự và phạm
tội dân sự (thậm chí, phạm nhiều lối dân sự). Để phân biệt giữa hành vi phạm tội
hình sự và phạm lỗi dân sự không thể đơn thuần dựa vào bản thân hành vi đã thực
hiện mà phải dựa vào hệ quả pháp lý của hành vi đó. Những hành vi sai trái bị xử
bằng thủ tục TTHS thì bị coi là hành vi phạm tội, bị xử bằng thủ tục TTDS thì bị
coi là hành vi phạm lỗi dân sự. Theo Williams, cần căn cứ vào hệ quả pháp lý của
các hành vi thay vì căn cứ vào bản thân hành vi đã thực hiện để phân biệt giữa
hành phạm tội hình sự và phạm lỗi dân sự.
Cách phân chia pháp luật thành hai bộ phận: luật hình sự và luật dân sự là cách
phân chia phổ biến ở Anh, tuy nhiên lại thường làm những luật gia nước ngoài
không thỏa mãn bởi lẽ trong tư duy của họ cách phân chia này dường như không
bao quát hết cả QPPL trong HTPL Anh. Tuy nhiên, nhìn vào định nghĩa hết sứ
rộng của luật hình sự và luật dân sự ở Anh thì mối “quan ngại” có lẽ sẽ phần nào được giải toả.
b. Common law, equity và pháp luật thành văn
Williams cũng chỉ ra rằng luật của Anh được hợp thành bởi bộ phận lớn: common
law, equity và pháp luật thành văn. Các phân chia pháp luật này có lẽ ít gây tranh
cãi bởi ba bộ phận cổ thành nên pháp luật Anh đã phủ kín hệ thống QPPL của
Anh ở tập quán pháp, theo thời gian, đã dần được chuyển hoá vào common law; lOMoAR cPSD| 61631027
riêng các tập quán thương mại thì đã được hấp thụ một phần bởi common law,
một phần bởi pháp luật thành văn. Williams không phải là tác giả duy nhất nói tới
common law và equity khi phân nhóm pháp luật của Anh mà nhiều tác giả khác
cũng đề cập tới hai bộ phận này của pháp luật Anh, trong đó có David. Tuy nhiên,
khác với Williams, David không nói tới bộ phận cấu thành thứ ba của pháp luật
Anh (pháp luật thành văn), vì vậy cách phân chia của David tiềm ẩn nguy cơ gây tranh cãi.
Bộ phận thứ ba của pháp luật của Anh - pháp luật thành văn - gồm những QPPL
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Loại pháp luật thành văn quan
trọng nhất là luật do Nghị viện ban hành, mặc dù ngày nay các văn bản pháp luật
ủy quyền quyo do Chính phủ ban hành, còn được gọi là công cụ pháp luật
(Statutory Instruments) cũng trở nên hết sức quan trọng.
1. Nêu được sự hình thành và phát triển của dòng họ Civil Law
Quá trình hình thành và phát triển của dòng họ Civil law bao gồm 3 giai đoạn:
Giai đoạn pháp luật tập quán - giai đoạn trước thế kỉ XIII; giai đoạn pháp luật
thành văn từ thế kỉ XIII đến cuối thế kỉ XVIII; giai đoạn pháp điển hoá pháp luật
và phát triển ra ngoài châu Âu - từ cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX đến nay.
a.Giai đoạn pháp luật tập quán
Đây là thời kì pháp luật như tên gọi của nó hình thành từ các tập quán địa phương
vì vậy còn mang tính biệt lập, phân tán, thiếu thống nhất. Tồn tại các luật tập quán
của Pháp, Đức, của các dân tộc Slavian, luật La Mã. Đặc biệt, phần lớn các bộ
tộc ở Tây Âu đã bị người La Mã đô hộ trong suốt 4 thế kỉ nên luật La Mã cổ đại
đã có ảnh hưởng lớn ở đây. Mặc dù đế chế Tây La Mã đã sụp đổ vào năm 476
nhưng đế chế Đông La Mã (có thủ phủ là Constantinopol) vẫn tồn tại. Năm 528,
Hoàng đế Đông La Mã Justinian đã ra lệnh hệ thống hoá và củng cố luật La Mã.
Kết quả là đã tạo nên công trình pháp luật lớn mang tên Corpus Juris Civilis có
nghĩa là Tập hợp các chế định luật dân sự. Corpus Juris Civilis bao gồm 4 phần:
Code, Digeste, Institutes và Novels, được công bố từ năm 529 đến năm 534.
Nhìn chung, giai đoạn này pháp luật còn giản đơn, còn lẫn lộn giữa quy phạm đạo
đức, tôn giáo và pháp luật. Đặc biệt trong thời kì mà người phương Tây gọi là
“the Dark Ages” (thời kì đen tối) từ khoảng thế kỉ V đến thế kỉ X, pháp luật mặc
dù đã tồn tại nhưng chưa phải thực sự là công cụ chủ yếu để đảm bảo cồng lí
trong xã hội. Với những quan điểm về chứng cứ hoặc duy tâm (phụ thuộc vào ý
chí của thượng đế) hoặc không hợp lí (phụ thuộc vào sự may rủi) hoặc thiếu sự
khách quan (bị kẻ có uy quyền chi phối) phương pháp giải quyết các tranh chấp
thời kì này có thể là đấu súng, đấu gươm, đấu vật, cá cược, lời thề trước Chúa, lOMoAR cPSD| 61631027
chịu thử thách với lửa, nước V.V.. Các tranh chấp giữa các cá nhân hoặc giữa các
nhóm xã hội được giải quyết hoặc bằng luật của sức mạnh cơ bắp hoặc bằng sức
mạnh quyền uy của các tộc trưởng.
Luật pháp thời kì này chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng tôn giáo, nhiều quốc
gia lấy luật lệ nhà thờ làm luật lệ nhà nước.
b. Giai đoạn phát triển pháp luật thành văn ( thế kỉ XIII- cuối thế kỉ XVIII)
Cuối thế kỉ XII, các thành phố châu Âu bắt đầu phát triển và cùng với sự phát
triển đó là sự gia tăng các hoạt động thương mại và giao lưu giữa các dân tộc châu
Âu lục địa. Hoạt động buôn bán, thương mại và sự phát triển dân cư thành thị
(civitas) tạo ra nhu cầu cần phải phân biệt giữa tôn giáo, đạo đức và pháp luật.
Đáng chú ý là giai đoạn văn hóa Phục Hưng bắt đầu từ thế kỉ XIII - XIV xuất
phát từ Italia sau đó lan dần sang các nước lục địa châu Âu. Các nhà tư tưởng lúc
này muốn những giá trị đích thực của luật La Mã chấn hưng, phát triển. Thời kì
phục hưng của luật La Mã được đánh dấu bằng sự kiện Bộ tổng luật Corpus Juris
Civils được nghiên cứu và đem vào giảng dạy tại các trường đại học tổng hợp châu Âu.
Giai đoạn từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVIII là giai đoạn hình thành hệ thống pháp
luật thống nhất của châu Âu. Vào đầu thế kỉ XIII, không những ở châu Âu mà
các nước thuộc lục địa châu âu cũng không có một hệ thống pháp luật thống nhất.
Nguyên nhân của tình trạng này là mỗi quốc gia đều áp dụng pháp luật tập quán
cho các vùngmiền khác nhau. Trên cơ sở ảnh hưởng sâu rộng của Corpus Juris
Civilshệ thống pháp luật chung của châu Âu đã ra đời và được gọi là Jus Commune
c. Giai đoạn pháp điển hoá pháp luật- sự phát triển pháp luật thuộc dòng họCivil law ra ngoài châu Âu
Đây là giai đoạn được đánh dấu bằng những VBPL quan trọng, là cuộc cách mạng
lớn trong sự phát triển tư tưởng pháp luật của nhân loại. Trước hết phải kể đến
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789 của Pháp. Những quy định
cơ bản của Bản tuyên ngôn nổi tiếng này đã trở thành những nguyên tắc cơ bản
của các bản hiến pháp của các quốc gia lục địa châu Âu và nhiều nước khác trên thế giới.
Sang thế kỉ XIX, hệ thống pháp luật châu Âu diễn ra xu hướng pháp điển hóa
mạnh mẽ. Nổi bật nhất là ở pháp, người ta đã xây dựng được khoảng 40 bộ luật
và đặc biệt là sự ra đời của các Bộ luật Dân sự Pháp (Bộ luật Napoleon 1804) Bộ
luật được coi là kinh điển cho các nước Civil Law. Ngoài ra quá trình pháp điển
hóa pháp luật cũng diễn ra mạnh mẽ ở Đức và ảnh hưởng đến các quốc giai khác. lOMoAR cPSD| 61631027
Do nhiều quốc gia châu âu như Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, hà Lan,
Italya có nhiều thuộc địa ở các châu lục khác nên dòng họ pháp luật Civil law đã
có điều kiện để phát triển sang các châu lục khác. Ở châu Phi chịu ảnh hưởng lớn
từ Pháp, Bỉ, Tây ban Nha... Ở châu Mỹ, những thuộc địa của Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Pháp, Hà Lan là những vùng lãnh thổ tiếp nhận các chế định pháp luật
thuộc dòng họ Civil law và xây dựng các bộ luật theo các hình mẫu của châu Âu.
ở châu Á, dòng họ Civil law cũng được tiếp cận ở nhiều khu vực lãnh thổ khác nhau.
Ngày nay, Civil Law được áp dụng tại nhiều nước trên thế giới, bên cạnh đó cũng
có những học tập từ những hệ thống pháp luật khác trên thế giới, đặc biệt là hệ
thống Common Law. Qua đó chúng ta có thể thấy, Civil Law được mở rộng ra
thế giới thông qua hai con đường chủ yếu đó là: Mở rộng thuộc địa (chủ yếu) và
do sự học hỏi văn minh pháp lí phương Tây của các nước.
2. Sự khác biệt giữa hệ thống Tòa án ở Anh và Mỹ.
Nhìn một cách khái quát nhất, ta có thể dễ dàng nhận thấy sự khác biệt cơ bản
giữa hệ thống Toà án Anh và Mỹ, bởi ở Mỹ tồn tại song song hệ thống toà án Liên
bang và hệ thống Toà án bang, còn ở Anh chỉ có một hệ thống Toà án tồn tại, thụ
lý các vụ việc pháp lý phát sinh trên lãnh thổ thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Hệ thống toà án Anh theo cấu trúc gồm có Thượng nghị viện, Toà phúc thẩm, Toà
án cấp cao, Toà địa phương. Thực tế hiện nay cho thấy, Thượng nghị viện tự giới
hạn mình ở chỗ, nó chỉ ra quyết định giứ nguyên hoặc huỷ bỏ bản án đã có hiệu
lực trước đó của toà án cấp dưới, mà ít khi tự mình đưa ra một bản quyết định độc
lập. Điều này khác với cách thức làm việc của hệ thống toà án ở Mỹ. Như đã nói,
ở Mỹ tồn tại hệ thống tư pháp liên bang gồm có Toà án tối cao, Toà án phúc thẩm
và Toà án Hạt; hệ thống tư pháp bang gồm có Toà chung thẩm, Toà phúc thẩm và
Toà sơ thẩm. Phán quyết của Toà án cấp dưới có thể bị huỷ bỏ bởi toà án cấp trên,
phán quyết của toà án cấp cao nhất có giá trị quyết định cuối cùng.
Cấp toà án cơ sở
Ở Anh, cấp thấp nhất trong hệ thống toà án là Toà địa phương, với thẩm quyền
xét xử giới hạn trong lĩnh vực dân sự, và thẩm quyền của toà án bao trùm một
khu vực hành chính nhất định
Ở hệ thống tư pháp bang, cũng giống như ở Anh, Toà sơ thẩm (chia thành toà sơ
thẩm với thẩm quyền hạn chế và Toà sơ thẩm với thẩm quyền chung). Thường,
Toà sơ thẩm với thẩm quyền hạn chế giới hạn xét xử những vụ việc ít nghiêm
trọng, hình phạt tiền không quá 1000USD và hình phạt tù không quá 1 năm. Toà lOMoAR cPSD| 61631027
sơ thẩm với thẩm quyền chung hoạt động như cấp phúc thẩm, phúc thẩm lại các
vụ việc từ cấp dưới. Toà sơ thẩm cũng hoạt động theo đơn vị hành chính.
Cấp toà án phúc thẩm
Ở Anh, Toà phúc thẩm là một bộ phận của Toà án tối cao với hai toà chuyên trách
(Toà Dân sự và Toà Hình sự), có nhiệm vụ tiếp nhận và giải quyết những kháng
cáo, kháng nghị từ những vụ án đã được xét xử ở Toà cấp cao, Toà địa phương.
Ở Mỹ, Toà phúc thẩm tồn tại ở cả hệ thống tư pháp liên bang và hệ thống tư pháp
bang. Trước hết, ở hệ thống tư pháp liên bang, Toà phúc thẩm có chức năng xem
xét lại các vụ việc, thường là bắt đầu từ các Toà án Hạt; bên cạnh đó các toà cũng
có quyền xem xét lại quyết định của một số cơ quan hành chính. Việc xem xét lại
vụ án nhằm giám sát tính hợp pháp trong hoạt động xét xử của toà án cấp dưới;
tìm ra những lỗi vi phạm trong quá trình tố tụng; đồng thời thực hiện mục đích
phân loại các vụ việc cần có sự can thiệp của Toà án tối cao. Còn ở hệ thống tư
pháp bang, Toà án Phúc thẩm trung gian có nhiệm vụ giảm bớt khối lượng công
việc của Toà chung thẩm của bang. Toà án Phúc thẩm bang chịu trách nhiệm trên phạm vi toàn bang.
Như vây cả về mặt lí luận và thực tiễn, có thể nhận thấy cơ cấu tổ chức và hoạt
động của cấp phúc thẩm tại Mỹ đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống tư pháp,
đem lại hiệu quả cao cho công tác xét xử của ngành toà án, bởi khối lượng và chất
lượng công việc mà Toà phúc thẩm thực hiện thực sự rất đồ sộ, vừa bao quát hoạt
động của toà án cấp dưới, vừa trợ giúp cho Toà án tối cao trong công tác hệ thống
hoá các vụ việc quan trọng. Toà án tối cao
Ở Anh: Toà tối cao ở Anh là sự hợp nhất của Toà phúc thẩm, Toà cấp cao và Toà
hình sự trung ương. Trước đây, khác với ở Mỹ, toà án tối cao ở Anh không phải
là cấp cao nhất trong hệ thống tư pháp. Tuy nhiên khi những điều khoản trong
Luật cải tổ Hiến Pháp có hiệu lực vào tháng 10 năm 2009 thì Toà án tối cao sẽ
được cơ cấu lại, và phạm vi thẩm quyền của nó sẽ mang đúng nghĩa là cấp xét xử
cao nhất, các phán quyết sẽ mang tính chất quyết định cuối cùng trong hệ thống pháp luật Anh.
Ở Mỹ, Toà án tối cao liên bang là cấp xét xử cao nhất, và thực sự có quyền lực
tối cao trong hệ thống tư pháp liên bang. Cấp toà án này ngoài tư cách là cơ quan
xét xử cuối cùng, còn được biết đến với tư cách là nhà lập sách (lập các chính
sách), và xem xét tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, các hành vi của chính phủ. lOMoAR cPSD| 61631027
Như vậy tính tối cao của Toà án tối cao ở Anh nghiêng về hình thức nhiều hơn.
Khi cơ cấu của Toà án được tổ chức lại, có thể phạm vi quyền lực và thẩm quyền
xét xử của Toà tối cao của Anh sẽ tương đương với Toà án tối cao liên bang của
Mỹ. Khối lượng công việc của Toà án tối cao tại Mỹ có thể không nhiều bằng tại
Anh, bởi trước khi vụ việc được đưa lên cấp tối cao, phải qua nhiều cấp phúc
thẩm tại từng bang riêng biệt, phúc thẩm tại cấp liên bang, rồi mới tới cấp tối cao.
Chính sự phân chia này làm tăng hiệu quả trong hoạt động xét xử của ngành tư pháp Hoa Kì.
3. Hãy cho biết những điểm khác biệt cơ bản giữa thông luật và luật công bằng.
Thông luật và Luật Công bằng đều nằm trong hệ thống pháp luật nước Anh.
Thông luật ra đời trước và Luật Công bằng ra đời sau nhằm khắc phục những
khuyết điểm của Thông luật và từ đó tồn tại song song với Thông luật. *Thời điểm ra đời:
- Thông luật: Thông luật Anh ra đời vào thế kỉ XIII và phải đến thế kỉ XV thìmới
hoàn thiện khi hội tụ đầy đủ các yếu tố cơ bản: có hệ thống tòa án tập trung; có
đội ngũ Thẩm phán, luật sư giàu kinh nghiệm; các phán quyết được công bố và xuất bản
-Luật công bằng: Sự ra đời của Luật Công bằng bắt đầu vào thế kỉ XV khi Nhà
vua thành lập ra tòa án công bằng được xét bằng các thẩm phán xuất thân từ linh
mục. Và đến thế kỉ XVI Luật công bằng chính thức được bổ sung vào hệ thống pháp luật Anh. *Nguyên nhân:
- Thông luật: Trước năm 1066, nước Anh bị phân quyền các cứ, pháp luật mỗinơi
mỗi khác và được điều chỉnh bởi tập quán mỗi địa phương. Đến khi Wiliam lên
ngôi, ông đã thực thi quyền lực của quan chánh án tối cao, chỉ giải quyết những
vấn đề làm Hoàng gia lo ngại ở Westminster và những tranh chấp hết sức đặc
biệt; còn những vấn đề ở địa phương vẫn tiếp tục do các tòa án quận/huyện và
tòa án bách hộ khu giải quyết. Tuy nhiên, khi thực hiện cuộc cải cách của mình,
Wiliam đệ nhất đã gặp những khó khăn về tài chính, để khắc phục tình trạng đó
Chính phủ Hoàng gia trung ương can thiệp vào các quan hệ dân sự và hình sự
có liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế nhằm tạo ra nguồn thu mới cho Hoàng gia.
Bằng cách đó, tư pháp Hoàng gia đã phát triển trong giai đoạn từ thế kỉ XII tới
thế kỉ XIII từ thẩm quyền đặc biệt để giải quyết những vụ việc tài chính quốc
gia trở thành thẩm quyền chung, giải quyết phạm vi rộng rãi các vụ việc, từ đó
xuất hiện quá trình xét xử lưu động của Tòa án Hoàng gia. Bên cạnh quá trình lOMoAR cPSD| 61631027
xét xử lưu động là quá trình thảo luận tại Luân Đôn của các Thẩm phán Hoàng
gia xung quanh các ghi chép qua từng vụ việc ở từng địa phương, từ quá trình
thảo luận này, các Thẩm phán rút ra kết luận luật và tập quán của địa phương
nào là tối ưu nhất khi áp dụng trên thực tiễn. Do ảnh hưởng từ những kết luận
này, dần dần các quy định chung được các thẩm phán áp dụng trên khắp đất
nước dựa trên thói quen tham khảo (bởi tiền lệ pháp chưa ra đời nên chưa có
tính bắt buộc áp dụng), và từ đó hình thành nên luật chung trong hệ thống pháp luật nước Anh. - Luật công bằng:
Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Luật Công Bằng bắt nguồn từ những hạn chế của Thông luật.
Thứ nhất, về lĩnh vực dân sự: khi nguyên tắc “stare dicisis” – nguyên tắc tiền lệ
phải được tuân thủ ra đời nó đã trở thành tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của
Thông luật. Tuy nhiên cũng chính nguyên tắc này cũng tạo ra sự cứng nhắc trong
việc đưa ra phán quyết của các thẩm phán bởi không có án lệ để điều chỉnh các
quan hệ mới nên thẩm phán thường áp dụng các án lệ cũ để giải quyết vụ việc.
Một hạn chế khác đó là chế tài của Thông luật trong lĩnh vực này chủ yếu là phạt
tiền vì thế chưa đủ mạnh để ngăn chặn các bên phá vỡ giao dịch hợp đồng. Từ đó
dẫn đến sự bất bình lớn trong giới tư sản nói riêng và cộng đồng người dân nói chung.
Thứ hai, chế tài trong lĩnh vực hình sự ngày càng nghiêm khắc, các hình phạt đau
đớn vẫn được áp dụng do ảnh hưởng từ các tập quán pháp trước đó.
Thứ ba, thủ tục tố tụng ngày càng trở nên phức tạp bởi sự tồn tại của hệ thống
trát. Thực tiễn áp dụng hệ thống trát trong hoạt động xét xử của tòa án Hoàng gia
đã làm cho thẩm quyền của các tòa án này bị giới hạn nghêm trọng vì nếu đương
sự không có trát thích hợp thì tòa án không thể tiến hành xét xử vụ việc. (4) Do
sự cứng nhắc của Thông luật và sự phức tạp trong thủ tục tố tụng được sử dụng
tại tòa án Hoàng gia đã làm cho bên nguyên rất nhiều trường hợp bị bác đơn hoắc
bị thua kiện vì lí do kĩ thuật.
Từ những thực tế trên đã nảy sinh nhu cầu tìm kiếm những giải pháp để khắc phục
khi người dân không thể tiếp cận với công lý hay họ không thỏa mãn với các giải
pháp của tòa Thông luật.
Khi đó người dân sẽ tìm cách thỉnh cầu lên nhà vua để tìm sự công bằng, thỉnh
cầu của nguyên đơn sẽ được xem xét bởi Đổng lý văn phòng trước khi dâng lên
nhà vua. Dần dần, nhà vua giao toàn quyền giải quyết cho Đổng lý văn phòng vì
vậy Văn phòng đại pháp đã phát triển thành Tòa đại pháp. Trong quá trình sử lOMoAR cPSD| 61631027
dụng công lí để giải quyết các vụ việc, cùng với thời gian, các phán quyết của Đại
pháp quan đã phát triển thành tập hợp những quy phạm pháp luật đặc biệt, đó là
những quy phạm của Luật công bằng. *Mục đích: -
Thông luật: Trước khi Thông luật ra đời, tập quán pháp là nguồn luật chiếm
ưuthế tuyệt đối, mỗi địa phương khác nhau có tập quán khác nhau nên giải quyết
các vụ việc các vụ việc tương tự nhau ở mỗi nơi mỗi khác. Thẩm quyền xét xử
vào tay các lãnh chúa phong kiến còn Tòa án Hoàng gia chỉ xét xử một số vụ việc
đặc biệt liên quan đến sự tồn vong của vương quốc, liên quan đến Hoàng gia và
thuế. Vì thế, Luật chung ra đời là nhằm mục đích thống nhất các tập quán pháp,
kế thừa và lựa chọn tập quán pháp để tạo ra các quy tắc xử xự chung trên toàn
lãnh thổ. Qua đó cũng nhằm tăng cường quyền lục của nhà vua, giảm bớt quyền
lực của lãnh chúa phong kiến -
Luật công bằng: Thông luật ra đời và phát triển ngày càng mạnh trên toàn
lãnhthổ nước Anh, tuy nhiên cùng với sự phát triển đó, Thông luật cũng bộc lộ
những khuyết điểm và sự cứng nhắc của mình. Vì thế Luật Công bằng ra đời
nhằm khắc phục những khiếm khuyết của Thông luật, đem đến sự công bằng ch
1. Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law)
Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa bao gồm pháp luật của phần lớn các nước
châu Âu lục địa mà điển hình là của các nước Pháp, Đức, Italia và một số nước
châu Mỹ Latinh. Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa có một số đặc trưng nổi bật sau đây:
+ Chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật dân sự La Mã cổ đại. Điều này có nguyên
nhân là vì luật La Mã mà đặc biệt là luật dân sự đã phát triển và rất hoàn thiện ở
châu Âu lục địa trong thời kì cổ đại và trung đại. Pháp luật La Mã đã được nghiên
cứu và giảng dạy, được các quốc gia khác ở châu Âu lục địa sao chép, áp dụng
trong một thời gian khá dài.
+ Nguồn luật chủ yếu là văn bản quy phạm pháp luật được hệ thống hoá (pháp
điển hoá) cao với sự hiện diện của nhiều văn bản luật có giá trị pháp lí cao như
luật, bộ luật. Ngoài ra các tư tưởng pháp luật, học thuyết chính trị pháp lí và các
nguyên tắc pháp luật ở châu Âu lục địa cũng được coi là nguồn quan trọng của
pháp luật. Ấn lệ được áp dụng rất hạn chế ở các nước châu Âu lục địa và không
có tính ràng buộc chính thức. Án lệ thường có vai trò quan trọng trong việc thống
nhất giải thích các quy định pháp luật thành văn. lOMoAR cPSD| 61631027
+ Pháp luật được phân định thành công pháp và tư pháp, mặc dù việc phân định
này không tuyệt đối. Tuy nhiên, hiện nay ranh giới giữa công pháp và tư pháp ở
các nước nói trên không còn đậm nét như trước đây.
+ Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa dựa trên quy trình tố tụng thẩm vấn, các
thẩm phán chỉ tiến hành hoạt động xét xử mà không được tham gia hoạt động lập
pháp, họ không được tạo ra các chế định, các quy phạm pháp luật.
2. Hệ thống pháp luật Anh Mỹ (Common Law)
Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ bao gồm pháp luật của các nước Anh, Mỹ, các nước
chịu ảnh hưởng của Anh như Canada, úc… Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ có một
số đặc trưng nổi bật sau đây:
+ Hình thành và phát triển trên cơ sở pháp luật dân sự của nước Anh là pháp luật
coi trọng tiền lệ. Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ ít chịu sự ảnh hưởng của pháp luật
La Mã bởi tính phức tạp và chặt chẽ trong thủ tục tố tụng truyền thống của pháp
luật Anh đã cản trở việc tiếp nhận luật La Mã vào lãnh thổ nước Anh.
+ Nguồn pháp luật chủ yếu của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ là án lệ, phần lớn
các chế định và quy phạm pháp luật được hình thành không phải bằng việc ban
hành văn bản pháp quy mà bằng án lệ. Các phán quyết tại các toà án cấp cao
thường được coi là án lệ và có giá trị bắt buộc đối với các toà án địa phưcmg.
Hiện nay mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật ở các nước này cũng được ban
hành khá nhiều, nhưng các thẩm phán vẫn dựa vào cả án lệ, văn bản quy phạm
pháp luật và những căn cứ thực tế để xét xử.
+ Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ bao gồm hai bộ phận là tiền lệ pháp luật và luật
công bình. Nếu tiền lệ pháp luật các vụ việc được xem xét giải quyết trên cơ sở
các án lệ thì luật công bình lại xem xét và giải quyết các vụ việc trên cơ sở các
nguyên tắc công bằng, công lí. Những nguyên tắc công bằng, công lí thường khá
trừu tượng và khó định lượng vì vậy chủ yếu phụ thuộc vào niềm tin nội tâm, vào
lương tâm và đạo đức của các thẩm phán. Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ không
chia pháp luật thành công pháp và tư pháp như pháp luật châu Âu lục địa.
+ Ở hệ thống pháp luật Anh – Mỹ nguyên tắc tranh tụng được áp dụng rộng rãi
trong quá trình tố tụng. Trong quá trình tố tụng các bên (bên nguyên đơn và bên
bị đơn; bên công tố và bên bào chữa…) luôn có sự tranh tụng, đấu trí và chứng
cứ với nhau, còn thẩm phán chỉ có vai trò như người trọng tài lắng nghe ý kiến
của các bên và đưa ra phán quyết. Do việc sử dụng rộng rãi án lệ nên trong những
trường hợp nhất định các thẩm phán của toà án tối cao vừa là người xét xử vừa là
người sáng tạo ra pháp luật một cách gián tiếp. lOMoAR cPSD| 61631027
5. Ảnh hưởng của Civil Law đối với hệ thống Việt Nam hiện nay.
Từ khi Việt Nam thay đổi kiểu loại Hiến pháp từ kiểu Hiến pháp dân chủ sang
kiểu Hiến pháp Xô Viết vào năm 1959, vấn đề du nhập pháp luật Xô Viết bắt đầu
diễn ra. Điều này làm cho các bộ luật dân sự nói riêng và pháp luật Việt Nam nói
chung đã dần xa rời mô hình pháp điển hóa theo kiểu Pháp, tuy nhiên dấu ấn Pháp
vấn còn khá đậm nét. Thứ nhất, ảnh hưởng trong lĩnh vực dân sự
Nếu như dưới thời Pháp thuộc các tư tưởng hiện đại trong dân sự được du nhập
mang tính chất cưỡng bức hơn là tự nguyện thì đến nay lại phản ánh hoàn toàn
ngược lại. Năm 1995, Bộ luật dân sự ra đời với trình độ pháp điểm hóa tương đối
cao trong đó kế thừa rất nhiều giá trị hiện đại của hệ thống Civil law. Điều này
cũng được thể hiện qua các khái niệm cơ bản, các chế định pháp luật đặc thù trong
Bộ luật dân sự 2015 như: khái niệm về hợp đồng (Điều 384), nguyên tắc tự do
hợp đồng (Điều 3), các chế định về pháp nhân (Điều 74), chế định luật nghĩa vụ
cũng được quy định và được phát triển và hoàn thiện tiếp trong các bộ luật dân
sự về sau. Bên cạnh đó, giống với các quốc gia khác trong hệ thống Civil law,
pháp luật Việt Nam coi trọng việc áp dụng luật thành văn, các tập quán hơn là án
lệ. Theo Điều 6 Bộ luật dân sự 2015 về áp dụng tương tự pháp luật thì khi quan
hệ phát sinh không có trong thỏa thuận và phát luật cũng chưa có quy định thì sẽ
ưu tiên áp dụng tập quán trước. Nếu không thể áp dụng được tập quán thì sẽ áp
dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và sau cùng mới xét đến áp dụng án lệ, lẽ công bằng.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật Việt Nam học hỏi những kỹ thuật pháp điển hóa
của Pháp. Chúng ta đã xây dựng được nhiều bộ luật khác nhau để điều chỉnh
những vấn đề theo lĩnh vực cụ thể như: Bộ luật Hôn nhân và Gia đình, Bộ luật
lao động, Luật thương mại, Luật Doanh nghiệp,… Trong các bộ luật thường đi từ
cái chung đến cái riêng, từ khái quát đến cụ thể, từ nguyên tắc chung đến các tình
huống, lý luận thực tiễn.
Thứ hai, ảnh hưởng đến phương thức đào tạo luật và nghề luật tại Việt NamỞ các
nước trong hệ thống Civil law có truyền thống đào tạo luật từ rất sớm, ngay từ
thế kỷ thứ XII, luật La mã đã được đưa vào giảng dạy ở các trường Tổng hợp.
Trong hoạt động đào tạo luật của họ coi trọng nghiên cứu hàn lâm, các vấn đề lý
thuyết, các học thuyết về pháp luật. Điểm này rất tương đồng với Việt Nam, khi
đào tạo luật, sinh viên luật nước ta phải dành ít nhất hai, ba năm để học các kiến
thức cơ bản về pháp luật hàn lâm. Còn đối với đào tạo nghề luật, giống như các
nước châu Âu lục địa, ở Việt Nam điều kiện trở thành luật sư chính thức thì cần
có bằng tốt nghiệp đại học luật và phải theo học một khóa nghiệp vụ nghề luật.Đối
với việc đào tạo thẩm phán, cũng do ảnh hưởng của các nước trong hệ thống Civil lOMoAR cPSD| 61631027
law, mô hình đào tạo thẩm phán ở nước ta hiện nay có những nét tương đồng với
mô hình của Pháp hay Tây Ban Nha khi đào tạo thẩm phán trong một cơ sởduy
nhất trên toàn quốc là Học viên tư pháp. Tuy nhiên ở Việt Nam có sự khác biệt ở
chỗ phải đã có biên chế trong ngành tòa án và thuộc diện quy hoạch để bổ nhiệm
thẩm phán mới có cơ hội thi tuyển vào trường đào tạo thẩm phán
6. Nguyên nhân ảnh hưởng dòng họ Civil Law đến hệ thống pháp luật Việt Nam
Với phát triển mạnh mẽ kể từ đời dòng họ pháp luật Civil Law có ảnh hưởng sâu
rộng ra bên ngoài thế giới vượt khỏi Châu Âu lục địa. VN là một quốc gia ít nhiều
chịu nhiều ảnh hưởng của dòng họ pháp luật Civil Law. Một số nguyên nhân dẫn
đến ảnh hưởng Civil Law đến hệ thống pháp luật Việt Nam đó là:
Thứ nhất, nguyên nhân dẫn đến ảnh hưởng Civil Law đến hệ thống pháp luật Việt
Nam hệ xâm lực thuộc địa Việt Nam đó chính là hệ quả của cuộc xâm lược thuộc
địa Việt Nam của Đế quốc Pháp một đất nước đến từ châu Âu lục địa một đại diện
tiêu biểu cho hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil law. Sau khi hoàn thành xâm
lược các nước Đông dương nói chung và Việt Nam nói riêng, chính quyền thực
dân Pháp đã bắt tay vào xây dựng bộ máy đô hộ để cai trị các nước ở Đông
Dương, bên cạnh đó thì Thực dân pháp cũng đem pháp luật của nước mình đồng
thời phát triển những quy định pháp luật mới để làm công cụ cai trị. Chính sách
thuộc địa của Pháp ở Đông Dương đã làm cho hệ thống pháp luật của ba nước
này tiếp nhận pháp luật của Pháp theo cách thức bắt buộc. Chẳng hạn, ở Việt Nam
trong thời kì Pháp thuộc, bên cạnh hệ thống pháp luật của các hoàng đế Nam
triều, các toà án của Pháp vẫn áp dụng pháp luật của Pháp đối với "người Pháp
và những ngoại kiều được biệt đãi như người Pháp, người Việt Nam sinh ra ở
vùng đất thuộc địa dù đang sống ở đâu trên đất Việt Nam”. Ngay cả sau khi đã
giành được độc lập và thậm chí đã xây dựng hệ thống pháp luật theo mô hình
pháp luật XHCN như ở Việt Nam và Lào, những nhân tố của hệ thống pháp luật
Pháp về kỹ thuật pháp lí, hệ thống khái niệm cơ bản và cấu trúc của pháp luật vẫn
tiếp tục được duy trì.
Thứ hai, đó là do sự tiếp thu những yếu tố tinh hoa, những điểm tiến bộ và phù
hợp của Civil Law với hoàn cảnh Việt Nam của các nhà làm luật ở Việt Nam.
Chúng ta có thể thấy rằng, ngay cả sau khi Việt Nam đã được giải phóng khỏi ách
đô hộ của đế quốc Pháp nhưng những quy định của pháp Luật thời kì pháp thuộc
mà có xu hướng tiến bộ và phù hợp với hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ vẫn còn
được duy trì và áp dụng. Cho đến tận sau này khi đất nước đã hoàn toàn thống
nhất, non sông thu về một mối, một trong những yêu cầu đặt ra đó chính là xây
dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật đồng bộ để áp dụng trên cả nước. Từ lOMoAR cPSD| 61631027
yêu cầu cấp thiết đó một loạt những Bộ luật, luật mới đã được ban hành. Pháp
luật của Việt Nam vẫn tiếp thu những tư tưởng pháp lý, cấu trúc pháp luật tiến bộ của hệ thống PL Pháp.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay việc hội nhập với các nước trên thế
giới là rất quan trọng để giúp phát triển đất nước. Trong lĩnh vực xây dựng pháp
luật cũng vậy, để có được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp với sự phát
triển của đất nước đồng thời đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong xu thế hội
nhập là rất quan trọng. Vì vậy mà việc nghiên cứu các hệ thống pháp luật trên thế
giới cũng ngày càng được chúng ta quan tâm, để từ đó tìm ra những điểm tiến bộ,
phù hợp của cá hệ thống pháp luật để có thể áp dụng ở Việt Nam nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật. Là một trong những dòng họ pháp luật lớn và lâu đời nhất
trên thế giới Civil Law là một trong những hệ thống pháp luật được các nhà làm
luật Việt Nam rất chú ý. Việc nghiên cứu kĩ lưỡng về Civil Law đã giúp các nhà
làm luật tìm ra những nét nổi bậtphù hợp của Civil Law để áp dụng vào VN. Việc
áp dụng những điểm tiến bộ góp phần vào việc hoàn thiện, giúp PL của nước VN hội nhập với TG.
7. Một số điểm tương đồng giữ hệ thống PLVN với hệ thống dòng họ Civil Law
Dưới sự ảnh hưởng của pháp luật Pháp - một đại diện điển hình của dòng họ pháp
luật Civil Law trong thời kì thuộc địa cũng như quá trình tiếp thu những giá trị
tinh hoa của pháp luật Pháp nói riêng cũng như những quan điểm tiến bộ, như
những sự phù hợp của Civil Law nói riêng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
pháp luật của Việt nam từ khi dành độc lập đến nay, vì vậy mà hệ thống pháp luật
Việt nam có một số điểm tương đồng với hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil
Law. Một số điểm tương đồng đó là:
Thứ nhất, cũng giống như các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Civil Law, hệ
thống pháp luật Việt Nam cũng coi trọng lý luận pháp luật. Các bộ luật ở Việt
Nam thường đi từ cái chung đến cái riêng. Phần chung làm cơ sở cho phần riêng
và được xây dựng theo tư duy logic từ cái khái quát đến cái cụ thể, từ cái chung
đến cái riêng, từ cái trừu tượng đến cái hữu hình, từ nguyên tắc chung đến các
tình huống cụ thể, từ lý luận đến thực tiễn. Điều này chúng ta có thể thấy rõ trong
Bộ luật hình sự Và Bộ luật dân sự của Việt Nam. Ngày nay khi Việt Nam đang
xây dựng nhà nước theo con đường XHCN lấy chủ nghĩa Mác–Lê nin là nền tảng
tư tưởng thì vấn đề coi trọng lý luận trong mọi vấn đề luôn được đề cao, ngay cả
trong lĩnh vực xây dựng pháp luật cũng vậy.
Thứ hai, hệ thống pháp luật của việt nam cũng có trình độ hệ thống hóa, pháp
điển hóa cao. Điều này được thể hiện ở việc chúng ta đã xây dựng được nhiều bộ lOMoAR cPSD| 61631027
luật khác nhau cũng như ban hành nhiều luật, ...nhờ việc ban hành nhiều Bộ luật,
luật với các quy phạm pháp luật cụ thể, rõ ràng đã làm cho việc áp dụng pháp luật
trở nên dễ ràng hơn. Có thể áp dụng trực tiếp cá quy phạm pháp luật trong các Bộ
luật cũng như Luật vào điều chỉnh các quan hệ xã hội mà không cần phải thông
qua văn bản pháp luật trung gian như nghị định hoặc thông tư hướng dẫn thi hành.
Tuy nhiên thì trình độ pháp điển hóa ở Việt Nam vẫn còn chưa thực sự đạt được
nhiều thành tựu, nhiều quy định của pháp luật vẫn chưa thực sự rõ ràng dẫn đến
tình trạng còn phải ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, sự tương đồng về nguồn của hệ thống pháp luật. Cũng như các hệ thống
pháp luật thuộc dòng họ Civil Law, nguồn quan trọng nhất của hệ thống pháp luật
Việt Nam cũng là nguồn pháp luật thành văn. Các nguồn khác như tập quán pháp,
tiền lệ pháp chỉ là những nguồn bố sung cho nguồn pháp luật thành văn. Mặc dù
hiện nay chúng ta đã thừa nhận án lệ và đã công bố một số bản án lệ nhưng án lệ
của Việt Nam không có vai trò được áp dụng trực tiếp mà nó chỉ được coi là một
nguồn để giải thích pháp luật.
8. So sánh hệ thống tòa án Pháp và Đức. Nguyên nhân của sự giống nhau và
khác nhau giữa hệ thống tòa án Pháp và Đức. a. So sánh hệ thống tòa án
Pháp và Đức * Giống nhau:
- Đối với hệ thống tòa án tư pháp:
Hệ thống tòa tư pháp của hai nước đều có cách chia cấp xét xử theo 3 cấp từ thấp
đến cao: cấp xét xử đầu tiên là cấp sơ thẩm, cấp tiếp theo là cấp phúc thẩm và
cuối cùng là cấp xét xử có thẩm quyền cao nhất trong hệ thống.
+ Hệ thống tòa án tư pháp xét xử các vụ việc có quan hệ giữa tư nhân với tư nhân:
Phương pháp điều chỉnh chung của tư pháp là phương pháp tự do thỏa thuận ý
chí và bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật. Trong quá trình thực
hiện và định hướng, không tránh khỏi những tranh chấp, mâu thuẫn. Để thực hiện
được, buộc phải có hệ thống tòa án giải quyết các sự vụ không tuân theo quy định
của pháp luật tư pháp nói riêng cũng như phương pháp điều chỉnh của tư pháp nói chung.
+ Tòa án tư pháp cấp cao nhất chỉ xem xét việc tuân thủ thủ tục tố tụng và áp dụng pháp luật.
- Đối với hệ thống tòa án hành chính: Cũng như hệ thống tòa án tư pháp, hệthống
tòa án hành chính ở cả hai nước cũng được chia ra thành 3 cấp xét xử chính với
thẩm quyền phân bố hợp lý từ địa phương đến trung ương. lOMoAR cPSD| 61631027
* Sự khác nhau giữa hệ thống tòa án Pháp và Đức
Đối với hệ thống tòa án tư pháp: - Cách thức tổ chức:
+ Pháp: hệ thống tòa án tư pháp của Pháp bao gồm các tòa chuyên trách riêng về
các ngành luật. Với mỗi tòa chuyên trách lại bao gồm tòa thông thường và tòa đặc biệt.
+ Đức: Hệ thống tòa án của Đức được tổ chức tại hai cấp là cấp bang và cấp liên
bang. Cơ quan xét xử cao nhất là cơ quan liên bang còn các tòa án cấp dưới là
của Bang. - Cơ chế phúc thẩm:
+ Pháp: Có tòa phúc thẩm được thành lập ở các thành phố lớn và các khu vực lãnh thổ
+ Đức: Các tòa án có thẩm quyền cao hơn được quyền phúc thẩm các bản án bị
kháng nghị, kháng cáo ở tòa cấp thấp hơn
Về tòa án tư pháp cấp cao nhất
- Cơ cấu: Với tòa án tư pháp cấp cao nhất của Pháp là Tòa phá án gồm 6 tòachuyên
trách: 3 tòa dân sự, 1 tòa thương mại tài chính, 1 tòa hình sự, 1 tòa về các vấn
đề xã hội. Còn Đức là Tòa án liên bang gồm 11 phòng giải quyết các vụ việc về
luật tư, 5 phòng giải quyết các vụ án hình sự, 7 phòng chuyên trách. - Hội đồng xét xử:
+ Pháp: Hội đồng xét xử của tòa này thường có từ 3-5 thành viên ở lần phá án
thứ nhất, nhưng tất cả các thành viên của tòa phá án sẽ phải tham gia ở lần thứ hai.
+ Đức: các vụ việc thường được xét xử bởi một hội đồng gồm 5 thẩm phán - Bổ nhiệm:
+ Pháp: Theo nguyên tắc, Thẩm phán ngạch tư pháp do Tổng thống bổ nhiệm trên
cơ sở đề nghị của Hội đồng Thẩm phán tối cao hoặc của Bộ trưởng Bộ tư pháp
+ Đức: Thẩm phán các Tòa án liên bang do Tổng thống bổ nhiệm theo đề cử của
Bộ trưởng Bộ tư pháp liên bang và Ủy ban tuyển chọn Thẩm phán liên bang.
Đối với hệ thống tòa án hành chính: - Cơ cấu tổ chức: lOMoAR cPSD| 61631027
+ Pháp với Tham chính viện có khoảng 300 thành viên. Thành viên tham chính
viện được chia ra 3 loại: thẩm phán tập sự, thẩm phán tham vấn và thẩm phán cao cấp
+ Đức: Tòa án hành chính tối cao Liên Bang Đức bao gồm các ban là các Thượng
Nghị sĩ cùng với 5 thẩm phán chuyên nghiệp (một thẩm phán chủ tọa chính và
bốn thẩm phán hỗ trợ) - Thẩm quyền:
+ Tham chính viện của Pháp vừa là tòa án hành chính tối cao (chức năng xét xử),
vừa là cơ quan tham mưu cho Chính phủ Pháp (chức năng tư vấn). Có thể giải
quyết các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại do hành chính gây ra.
+ Đức: chỉ có chức năng xét xử, không có chức năng tư vấn, không giải quyết các
vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại do hành chính gây ra, mà chuyển cho tòa án thường giải quyết.
Đối với cơ quan bảo hiến: - Thẩm quyền:
+ Hội đồng bảo hiến của Pháp sẽ đưa ra phán quyết xem đạo luật đó có vi hiến
không, nếu có thì sẽ đưa về cho Nghị viện, chứ không trực tiếp xóa bỏ đạo luật
+ Còn Đức với Tòa án Hiến Pháp Đức có quyền tuyên bố đạo luật là vi hiến và
xóa bỏ đạo luật đó. Có thể xem xét tính hợp hiến của các đạo luật ngay cả khi vấn
đề về tính hợp hiến không nảy sinh từ vụ việc cụ thể. - Cơ cấu tổ chức:
+ HĐ bảo hiến gồm 9 thành viên do Tổng thống, chủ tịch thượng viện, chủ tịch
hạ viện với nhiệm kỳ 9 năm và không ai giữ chức vụ này quá một nhiệm kỳ. Cùng
với các cựu tổng thống là thành viên đương nhiên nếu không từ chối và không có
nhiệm kì đối với những thành viên này,
+ Tòa án HP Đức gồm 16 thẩm phán, trong đó mỗi viện của Nghị viện liên bang
bổ nhiệm một nửa số thành viên. Nhiệm kỳ của họ là 12 năm hoặc ngắn hơn.
Chỉ có thể giữ chức vụ không quá một nhiệm kỳ.
- Quyền khiếu nại, đề nghị:
+ Pháp: HĐ bảo hiến chỉ xem xét vụ việc khi có đơn đề nghị của Tổng thống, Thủ
tướng, Chủ tịch thượng viện, Chủ tịch Hạ viện, 60 thượng nghị sĩ hoặc 60 hạ nghị sĩ lOMoAR cPSD| 61631027
+ Tòa án HP Đức có quyền khiếu nại, đề nghị yêu cầu của Chính phủ liên bang
hoặc 2/3 số thành viên của Hạ nghị viện, khiếu kiện của cá nhân trong trường hợp
các quyền cơ bản của công dân bị xâm hại
b. Nguyên nhân của sự giống nhau và khác nhau giữa hệ thống tòa án Pháp và Đức: * Nguyên nhân giống nhau: -
Cùng thuộc dòng họ pháp luật Civil Law - một dòng họ pháp luật lớn và
ảnhhưởng trên thế giới nên điều này góp phần lý giải những điểm chung của hệ
thống tòa án hai nước về cấu trúc, nguồn của hệ thống tòa án, cấp xét xử, phân chia pháp luật... -
Hệ thống pháp luật của hai nước cùng chịu ảnh hưởng sâu sắc của học
thuyếtphân chia quyền lực nên không thừa nhận vai trò lập pháp của cơ quan xét xử. -
Pháp và Đức thừa nhận quan điểm giữa luật công và luật tư không thể đặt
lêncùng một bàn cân, nên hệ thống tòa án tư pháp và hành chính ra đời với các
chế định khác nhau để xét xử cho các sự việc liên quan.
* Nguyên nhân khác nhau giữa hệ thống tòa án của Pháp và Đức: -
Các điều kiện về lịch sử, chính trị, dân tộc, tôn giáo, tập quán... của hai
quốcgia cũng có những đặc điểm riêng. Từ đó khiến cho pháp luật và cụ thể ở
đây là hệ thống tòa án ở mỗi quốc gia tồn tại sự khác biệt. -
Pháp là một nhà nước đơn nhất còn Đức là một nước liên bang nên cách
thứctổ chức của Đức chia theo bang chứ không chia theo từng ngành luật như Pháp. -
Sự khác nhau giữa hệ thống tòa án hiến pháp của hai nước có thể thấy rõ
ngaytừ tên gọi của hai cơ quan này, với Pháp là một hội đồng, còn với Đức đó là
cả một tòa án. Sự chênh lệch về thẩm quyền là rõ, nên có thể thấy sự khác nhau
khi một bên có quyền tuyên bố một đạo luật là vi hiến và xóa bỏ, một bên thì
không có thẩm quyền này.
9. So sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa hệ thống pháp luật
Pháp và hệ thống pháp luật Đức. a. Đặc điểm chung
Cả hai quốc gia Pháp và Đức đều thuộc thuộc hệ thống pháp luật Cilvil law. Đâylà
hệ thống pháp luật lớn nhất thế giới, được xây dựng trên nền tảng di sản của
LuậtLa Mã (ius civile), phát triển ở các nước Pháp, Đức và một số nước lục địa
Châu Âu.Trong đó pháp luật của Pháp, Đức là quan trọng nhất và có ảnh hưởng lOMoAR cPSD| 61631027
lớn tới phápluật của các nước khác trong hệ thống pháp luật này. Hệ thống pháp
luật của các nướcnày nhìn chung đều chịu ảnh hưởng của Luật La Mã, luật vật
chất được coi trọng hơnluật thủ tục, luật tư là lĩnh vực pháp luật được chú trọng
hơn cả. Họ pháp luật này coi trọng văn bản qui phạm pháp luật và đã thoát ly khỏi
tôn giáo, luân lý, đề cao tự do cá nhân.
Pháp luật Pháp và Đức có một số đặc điểm cơ bản giống nhau:
-Chịu ảnh hưởng sâu sắc của Luật La Mã.
-Được phân chia thành luật công và luật tư.
-Có trình độ hệ thống hóa và pháp điển hóa cao -
Không xem án lệ là nguồn chính thức hoặc cơ bản b.
So sánh sự giống và khác nhau. ✓ Giống nhau:
• Hiến pháp: Cả hai bản hiến pháp của Pháp và Đức đều là Hiến pháp thành văn
• Án lệ là nguồn bổ trợ, mangtính chất tham khảo, chỉ được ápdụng khi
mà thẩm phán thấy nóphù hợp với vụ án đang xét xử
• BLDS: Có hệ thống hóa, pháp điển hóa cao; có kết cấu chặt chẽ, logic;
có khả năng trường tồn
• Hệ thống cơ quan Tòa án: - Hệ thống tòa án của Pháp và Đức hoạt động
đều nhằm mục đích đảmbảo pháp luật được thực hiện trên thực tế và
có vai trò răn đe, giáo dụcmọi người trong xã hội thực hiện pháp luật
một cách nghiêm chỉnh.-Cơ quan tối cao trong hệ thống tòa án tư pháp
không làm nhiệm vụ xétxử mà chuyển cho tòa cấp dưới xét xử lại.-Các
thành viên trong tòa án hiến pháp đều hình thành bằng con đường
• Đào tạo luật và hành nghề luật: Nhìn chung những người hành nghề
luật ở cả hai nước Pháp và Đức đềucần điều kiện tiên quyết là phải trải
qua 1 khóa học kéo dài khoảng 04năm trong trường đại học để nhận
tấm bằng cử nhân luật. ✓ Khác nhau:
*Lịch sử hình thành pháp luật: Hệ thống PL Pháp:
Cũng như dòng họ civillaw, hệ thống pháp luật Pháp có thể chia thành ba giai đoạn phát triển:
+ Trước thế kỷ XIII là giai đoạn pháp luật tập quán lOMoAR cPSD| 61631027
+ Từ thế kỉ XIII đến thế kỷ XVIII là giai đoạn phát triển pháp luật thành văn
+ Từ thế kỷ XIX đến nay là giai đoạn pháp điển hóa pháp luật và phát triển sự
ảnh hưởng của pháp luật Pháp sang các quốc gia khác.
Ngoài đặc điểm trên, pháp luật Pháp có một đặc điểm khác là có sự
khác nhau rõ rệt giữa hai vùng lãnh thổ miền Bắc và Miền Nam nước Pháp.Hai
vùng này được ngăn cách bởi song Loire chảy trong khoảng giữa và bờbiển
Atlantic. Vùng phíNam song Loire là vùng pháp luật thành văn, được phát triển
trên cơ sở Luật La Mã. Còn vùng miền Bắc song Loire chiếm 3/5diện tích là
vùng tậpquán, vùng này là vùng phát triển pháp luật tậpquán như tập quán
Paris,tập quán Normandy và tập quán Bretagne Hệ thống PL Đức:
Bắt đầu từ hiệp ước Verdune năm 843 khi lãnh thổ đế chế Charlemagne bị chia
cắt thành ba phần và một trong ba phần đó làVương quốc Germain, tiền thâncủa
nước Đức ngày nay. Đến nay lịch sử nước Đức có thể chia thành các giai đoạn sau:
-Từ hiệp ước Verdune năm 843đến hiệp ước Westphalie 1648
-Từ hiệp ước Westphalie 1648đến giai đoạn hình thành Đế quốcĐức (1648 – 1871).
-Từ nền cộng hòa đệ nhị đến sựsụp đổ của nền cộng hòa đệ tam(1871 – 1945):
Thời kỳ Otto Bismart (1871 –1918); Thời kỳ hiến pháp Weimar(1919 –1933);
Thời kỳ thống trị của Hitler(1933 – 1945)
-Từ năm 1945 đến nay: Sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thuc, nước Đức
chia thành Đông ĐỨc và Tây Đưc
Ngày 31/8/1990, hiệp định thốngnhất nước Đức được kí kết và cóhiệu lực ngày
03/10/1990, nămbang của Cộng hòa dân chủ Đứcđược sáp nhập vào Cộng hòaLiên bang Đức *Nguồn của Luật Hệ thống PL Pháp
- Luật thành văn có giá trị cao nhất: Hiến pháp, cáccông ước quốc tế
(khôngyêucầu nội luật hóa), Bộluật, Luật, văn bản dướiluật.
- Tập quán pháp luật: chỉấp dụng khi luật trực tiếp nói đến nó. Hệ thống PL Đức:
- Luật thành văn có giá trị caonhất: Hiến pháp, Bộ luật, Luật,các công ướcquốc
tế, văn bảndưới luật. lOMoAR cPSD| 61631027
- Tập quán pháp luật: có giá trị ngang với luật. *Hiến pháp: - hình thức NN:
Hệ thống pl pháp: + Hình thức cấu trúc: lànhà nước đơn nhất+ Hình thức chính
thể: Cóchính thể cộng hòa lưỡngtính
Hệ thống pl đức: + Hình thức cấu trúc: là Nhànước liên bang+ Hình thức chính
thể: có chínhthể Cộng hòa đại nghị -Làm luật
Hệ thống pl pháp: -Chủ thể có thẩm quyềnlàm luật là Nghị viện và Chính Phủ
(đứng đầu làThủ tướng). Chính phủchịu trách nhiệm trước Tổng thống.; -
Chủ thể có thẩm quyềncông bố luật là Tổngthống (Nguyên thủ quốcgia)
Hệ thống pl đức: -Chủ thể có thẩm quyền làmluật là Nghị viện (Thượng
việnvà Hạ viện) -> Ở ĐứcChínhphủkhông cóquyềnlàm luật; -Chủ thể có thẩm
quyền côngbố luật là Thủ tướng (Đứng đầuChính phủ) + Tổng thống(Nguyên
thủ quốc gia) + các Bộtrưởng
*Hệ thống cơ quan TA: cơ cấu tổ chức
Pháp: Gồm 03 hệ thống chính:-Tòa hiến pháp-Tòa tư pháp-Tòa hành chính). Tòa
án hiến pháp độclập và tương đương cáchệ thống tòa án khác
Đức: Gồm có 06 hệ thống tòa án:-Tòa hiến pháp-Tòa tư pháp-Tòa hành chínhTòa
án bảo hiểm xã hội-Tòa lao động-Tòa thuế. Tòa án Hiến pháp là tòa án
cóthẩm quyền cao nhất trong các hệthống tòa án