




Preview text:
CHINH PHỤ NGÂM
TÌNH CẢNH LẺ LOI CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ
Đặng Trần Côn sáng tác
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
Lòng này gửi gió Đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. I. GIỚI THIỆU CHUNG 1. TÁC GIẢ
Tác giả: Đặng Trần Côn.
- Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ 18 (xã hội phong kiến lúc bấy giừ chiến tranh xảy ra liên
miên: không phải là những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm mà là những cuộc nội chiến giữa
những tập đoàn phong kiến xâu xé lẫn nhau).
- Đầu đời Lê Hiển Tông có cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Lúc
đó triều đình phong kiến phải rút quân ngăn chặn các cuộc khởi nghĩa của nông dân, huy động
tất cả trai tráng ra mặt trần. Khi đó, Đặng Trần Côn thấy cảnh những người vợ tiễn đưa chồng ra
mặt trận với tất cả những nỗi khổ đau mất mát, biệt li. Và ông rất xót xa, thương cảm cho những
người vợ lính trong chiến tranh cho nên ông đã viết “Chinh Phụ Ngâm”.
Người dịch: không xác định. Có 2 người được giả thiết:
- Đoàn Thị Điểm: có bút danh là “Hồng Hà nữ sĩ”, nổi tiếng thông minh từ nhỏ, bà lập gia đình
muộn (37 tuổi), chồng của bà sau khi vừa kết hôn đã đi sứ Trung Quốc. Phải chăng những nỗi
nhung nhớ, chờ đợi khắc khoải đã truyền cảm hứng để dịch bài thơ “Chinh Phụ Ngâm” vô cùng thành công.
- Phan Huy Ích: đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi, còn có nhiều sáng tác khác.
Không biết tác phẩm này do ai dịch, nhưng những dòng chữ không còn là vô tri nữa, mà các
dịch giả đã gửi vào đó nỗi lòng, sự đồng cảm và gửi vào đó tiếng nói, khát khao hạnh phúc về
một cuộc sống gia đình, một mái ấm lứa đôi để phản đối chiến tranh phi nghĩa. 2. TÁC PHẨM
- “Chinh phụ”: người vợ có chồng đi chính chiến; “chinh phu”: người chồng đi chinh chiến.
- Sáng tác bằng chữ Hán.
- Được dịch theo thể thơ song thất lục bát.
- Gồm 476 câu thơ viết theo thể trường đoản cú (câu thơ dài ngắn không đều nhau).
- Là tấm gương phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
- Đặc biệt, tác phẩm không phản ánh trực diện những cuộc nội chiến này mà lại phản ánh ở một
khía cạnh khác, đó là nỗi buồn đau, mất mát, nỗi cơ đơn, trống trải, nỗi khát khao hạnh phúc của
những người vợ lính rồi từ đó phản ánh chiến tranh phi nghĩa.
- Nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khao khát
tình yêu, hạnh phúc lứa đôi vốn ít được thơ văn thời kì trước chú ý. Do đó, tác phẩm được đón
nhận rất nồng nhiệt lúc đương thời.
- Khi mà một tác phẩm phản ánh cái hiện thực, tố cáo những thế lực trong xã hội đã chà đạp lên
cuộc sống của con người và nói lên khát vọng của con người, thì tác phẩm đó đạt được Giá trị nhân đạo. II. MỞ BÀI
Toàn bộ đoạn trích giống như bản đàn, mà gam chủ đạo chỉ có sầu và nhớ; nhưng lại diễn ra rất
nhiều cung bậc, và khát khao, nỗi sầu nhớ có một sức nặng, giá trị của nó đã phá vỡ thời gian và
vang vọng cho đến ngày hôm nay, như một bản độc tấu.
Có những tác phẩm giống như một bản độc tấu, nhưng, những cung bậc cảm xúc của nó lại vang
vọng cho đến ngàn năm. Tác phẩm đó là “Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ” trích trong
“Chinh Phụ Ngâm” của Đặng Trần Côn. Chỉ là sầu và nhớ, nhưng những cung bậc cảm xúc ấy
đã vang lên niềm khát khao về hạnh phúc lứa đôi, về một mái ấm gia dình, về một cuộc sống hòa
bình mà cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi tất cả. Có lẽ, chính điều đó đã tạo ra giá trị trường tồn cho tác phẩm. III. THÂN BÀI 1. CHUNG
- 16 dòng thơ đầu miêu tả cảm xúc của người chinh phụ gián tiếp.
- 8 dòng thơ sau miêu tả cảm xúc của người chinh phụ trực tiếp. 2. CHI TIẾT
Đoạn 1&2 (16 câu thơ đầu): TÂM TRẠNG CÔ ĐƠN CỦA NGƯỜI CHINH PHỤ.
Tác giả đã dùng yếu tố ngoại cảnh đẻ miêu tả một cách gián tiếp, tức đưa ngoại cảnh là một tấm
gương để phản chiếu trực tiếp tâm trạng của nhân vật trữ tình. Khi miêu tả gián tiếp, tác giả miêu
tả qua ba phương diện: ngoại hình, hành động và ngoại cảnh.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Hai dòng thơ đầu đã giới thiệu hành động của người chinh phụ. Với những từ ngữ “Dạo hiên
vắng”, “từng bước”, ta như thấy cảnh người chinh phụ với những bước chân đang đi qua đi lại ở
ngoài hiên vắng. Sau rồi lại đến ngồi ở chỗ cái rèm thưa “rủ thác đòi phen”. Nàng ngồi ở chỗ
rèm và tay của nàng cứ buông xuống rồi lại kéo tấm rèm thêm. Vậy thì, hành động này đã phản
chiếu được cái tâm trạng của người chinh phụ. Những từ “dạo”, “từng bước”, hành động “ngồi”
và “rủ thác” đều là hành động vô thức và phản chiếu tâm trạng của người chinh phụ: dường như
đang chờ đợi điều gì đó sâu trong tâm hồn, nhưng dẫu chờ đợi, nàng vẫn biết rõ điều đó sẽ không
xảy ra. Như vậy, hai dòng thơ đầu thôi đã hé mở được bức tranh tâm trạng này rồi: có gì đó lẻ loi
trong từng bước chân, có gì đó đáng thời trong hành động vô thức cứ kéo rèm rồi lại buông
xuống như thế. Nỗi mong ngóng của nàng chúng ta có thể thấu hiểu là chờ đợi tin tức của người
chồng đi chiến tranh, đi biền biệt mà không hẹn ngày trở về. Ta thấy, nhà thơ đã dùng ngoại cảnh
và từ ngữ để diễn tả nội tâm đầy biến động của người chinh phụ. Qua những dòng thơ, người
chinh phụ sao mà cô đơn, trong gam sầu và nhớ, nó lại bao phủ, đặc quánh lại trong không gian,
thời gian và tâm hồn người chinh phụ.
Sau khi ở ngoài hiên như thế, dòng thơ thứ ba đã hé mở một sự lý giải cho sự ngóng chờ của người chinh phụ này:
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Như vậy, khi nàng ngồi ở ngoài hiên, ánh mắt của nàng nhìn xa xăm, đau đáu về một phương
trời xa chờ đợi “thước” - ở đây là chỉ chim khách. Chờ mong, hi vọng, khắc khoải một tiếng kêu
của con chim khách – con chim báo tin lành, có khách đến; và dường như cả nỗi trách móc, nỗi
cô đơn được thổi vào trong câu là “Sao thước mãi chẳng mách tin? Sao đến bây giờ vẫn chưa có
tin tức gì của chồng, chưa thấy chàng trở về?”. Ánh mắt của nàng lúc đó hướng ra một không
gian rộng lớn để rồi nỗi thất vọng lại kéo nàng trở về cái không gian đầy cô quạnh, chốn phòng
the lạnh lẽo của mình. Cho nên nàng mới nói rằng: “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”,
một câu hỏi tu từ, không phải hướng đến một người thân để sẻ chia mà hướng đến ngọn đèn vô
tri vô giác. Một câu hỏi tu từ “đèn biết chăng?”, đèn có thấu hiểu được nỗi lòng của người chinh
phụ này hay không, có thấu hiểu được tất cả nỗi nhớ nhung và sầu muộn của người vợ đang
hướng về chiến trận nơi xa xôi mà người chồng đang đi biền biệt như vậy hay không? Ở đây, ta
thấy “đèn” là yếu tố ngoại cảnh. Nhà thơ đã dùng ba yếu tố ngoại cảnh để nói lên tâm trạng của
người chinh phụ, đầu tiền là hình ảnh ngọn đèn. Ngọn đèn đã được nhân hóa qua câu hỏi tu từ.
Tác giả đã viết như thế này:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Thế là ngọn đèn vô tri giờ đây lại trở thành người bạn tâm tình với người chinh phụ. Nhưng mà,
đáng thương thay, nó chỉ là một vật vô tri. Ngọn đèn vô tri vô giác không còn chỉ diễn tả bước đi
của thời gian, lúc còn ở ngoài vào buổi chiều tà và đến khi ngọn đèn được thắp lên – thời gian đã
bắt đầu vào tối, như vậy thì ngọn đèn còn là một cách để bộc bạch cái nỗi lòng cô đơn, sầu muộn
của người chinh phụ. Bởi vì sao? Nỗi nhớ nhung, nỗi khắc khoải, nỗi sầu muộn khiến cho nàng
không còn để ý về thời gian nữa; và khi mà nói với đèn thì nàng cũng biết không thể sẻ chia
được cho nên tác giả mới viết là: “Đèn có biết dường bằng chẳng biết.”, nỗi cô đơn cùa nàng như
đặc quánh lại, không chia sẻ được. Đến lúc này nàng như nói với ngọn đèn vô tri đó:
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Từ “bi thiết” nghĩa là bi thương đến thấu thiết. Từ “bi thiết” này đã chạm đến tận đáy lòng của
người chinh phụ và gói tất cả những nỗi niềm khắc khoải, nhớ thương, đau đến ứa gan của người
vợ nơi hậu phương theo bước chân của người chồng. Dịch giả đã dịch rất hay khi dùng từ “bi
thiêt” này. Rồi sau lại có:
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Từ “buồn rầu” lại mở ra một nét tâm trạng, một khía cạnh trong bản độc tấu này. Cái “bi thiết”
đã là bi thương thấu thiết rồi, đây lại là một cung bậc cảm xúc nữa, khi mà nàng đã bộc bạch trực
tiếp là buồn rầu khiến nói không nên lời nữa. Khi nhìn ngọn đèn, thì lúc đó, ngọn đèn ấy bât sáng
lên, tim đèn dầu bùng, người ta gọi đó là hoa đèn. Theo quan niệm của dân gian, hoa đèn là điềm
không may. Thế thì, nhìn hoa đèn đó với bóng người khá thương – bóng của người chinh phụ
trong đêm tối, đó là một sự đồng cảm, đồng cảnh với nhau. Tuy là hai, nhưng hai này cũng
không thể phá vỡ sự cô đơn, mà lại còn tô đậm thêm nỗi cô đơn, thấu thiết của người chinh phụ.
Hình ảnh ngọn đèn là người bạn duy nhất của người chinh phụ, nhưng nó lại là vật vô tri; bởi
thế, nỗi cô đơn vò vỏ của nàng lại không thể nào giải tỏa được. Không gian càng mênh mông,
lòng người càng trĩu nặng. Giống như Nguyễn Kiều đã từng viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Tiếp theo, ta lại đến với yếu tố ngoại cảnh thứ hai:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Yếu tố ngoại cảnh thứ hai là âm thanh tiếng gà gáy. “Năm trống” là năm canh, báo hiệu bước đi
của thời gian đã diễn biến trong đêm khuya; nhưng có lẽ, thời gian không còn là gì với người
chinh phụ cả. Cái tiếng gà gáy dường như nó đơn lẻ, nó không báo hiệu một ngày mới sắp bắt
đầu nữa mà nó lại làm cho không gian và thời gian của bóng đêm càng rộng hơn. Không gian
càng rộng hơn, thời gian càng chìm đắm thêm trong thời gian. Ngọn đèn đã cộng hưởng với tâm
trạng của người chinh phụ, và dường như giờ đây tiếng gà cũng đã gia nhập vào bản hòa ca này
để tô đậm thêm tâm trạng của người chinh phụ. Tiếng gà gáy khiến cho không gian màn đêm
càng tĩnh mịch và não nề. Vì sao lại như thế? Nhà thơ dùng từ gà “eo óc” gáy, tức tiếng gà từ xa
văng vẳng lại, rất đơn côi, trong đêm tôi như vang thêm nỗi lòng người chinh phụ: cô đơn, khổ
đau, bứt rứt. Tiếng gà gáy phải chăng đã bật lên sự mỏi mòn của người chinh phụ: tiếng kêu tha thiết phá vỡ đêm tối.
Hình ảnh ngoại cảnh thứ ba là bóng cây hoè. Cây hoè ta cũng đã từng gặp trong “Cảnh Ngày Hè”
của Nguyễn Trãi, nhưng cây hòe trong “Chinh Phụ Ngâm” đặc biệt hơn. Hòe của người chinh
phụ hướng ra bên ngoài, “hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”. Từ láy “phất phơ” vừa là từ láy và từ
tượng hình; nó diễn tả cây hòe, cũng diễn tả sợ nhớ nhung, khắc khoải của người chinh phụ. Bởi
vì lá cây hè rủ xuống, còn vật vã qua lại, tô đậm lên nỗi sầu muộn của người chinh phụ. Hình ảnh
bóng cây hòe rất đặc biệt, nó nói lên tất cả sự vật vã trong nỗi nhớ, nỗi âu lo của người chinh
phụ. Dường như mỗi yếu tố ngoại cảnh là một lát cắt để phản chiếu nỗi lòng của người chinh phụ
lẻ loi này. Nỗi sầu mong của người chinh phụ như phả vào từng cảnh vật, lay động từng cảnh
vật. Đây là một điều rất thành công của dịch giả, dùng ngoại cảnh để miêu tả gián tiếp tâm trạng nhân vật.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
“Khắc giờ” – tức thời gian, được so sánh với “niên” là năm qua từ láy “đằng đẵng”. IV. KẾT BÀI