Phân tích chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy
tâm trong triết học
1. Mở đầu vấn đề
Triết học hệ thống quan điểm luận chung nhất của con người về thế giới;
về tự nhiên hội tư duy; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Theo Ph. Ăngghen: “Vấn đ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, mối quan hệ giữa duy tồn tại”. Tóm tắt: đó vấn đề về mối
quan h giữa vật chất ý thức. Nội dung chính của vấn đề này phải trả lời
2 câu hỏi lớn: thứ nhất, giữa vật chất ý thức: i nào trước, cái nào
sau? cái nào quyết định cái nào? cái bản chất của mọi tồn tại trong thế
giới? (vật chất hay ý thức?); thứ hai, con người khả năng nhận thức
được (hiểu được) thế giới đúng n tồn tại hay không?
Trong lịch sử tưởng triết học của nhân loại từ thời cổ đại đến nay đã
những lời giải đáp khác nhau đối lập nhau đối với hai câu hỏi đó. Đây
xuất phát điểm của sự khác biệt đối lập giữa các trường phái triết học lớn
trong lịch sử: chủ nghĩa nhất nguyên (bao gồm: chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa
duy tâm) chủ nghĩa nhị nguyên; thuyết thể biết, thuyết không thể biết
thuyết hoài nghi.
Triết học hệ thống tri thức luận chung nhất của con người về thế giới, về
bản thân con người vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học đã ra đời phát triển trên hai ngàn năm. mỗi thời kỳ lịch sử khác
nhau, triết học đối tượng nghiên cứu khác nhau; song tổng kết toàn bộ lịch
sử triết học, Ph.Ăngghen đã khái quát: "Vấn đ bản lớn của mọi triết học,
đặc biệt của triết học hiện đại, mối quan hệ giữa duy tồn tại", giữa ý
thức vật chất, giữa con người giới tự nhiên.
Vấn đề bản của triết học hai mặt.
- Thứ nhất, giữa ý thức vật chất: cái nào trước, cái nào sau? Cái nào
quyết định cái nào?
- Thứ hai, con người khả năng nhận thức được thế giới hay không?
2. Sự đối lập của ch nghĩa duy vật ch nghĩa duy tâm trong
triết học
Như đã nêu mục 1, vấn đề bản của triết học hai mặt: Giữa ý thức
vật chất: cái nào trước, cái nào sau? Cái nào quyết định cái nào?
con người khả năng nhận thức được thế giới hay không?
a. Về việc giải quyết mặi thứ nhất trong vấn đề bản của triết học đã chia
triết học thành hai trường phái lớn, đó là:Chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy
tâm.
Đối với việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề bản của triết học, những
người cho rằng bản chất thế giới vật chất; vật chất tính thứ nhất, ý thức
nh thứ hai; vật chất cái trước quyết định ý thức, được gọi các
nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ
nghĩa duy vật.
b. Việc giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề bản của triết học chia quan
điểm về nhận thức thành hai phái: Khả tri luận - phái bao hàm những quan
điếm thừa nhận khả năng nhận thức của con người - bất khả tri luận - phái
bao hàm những quan điểm phủ nhận khả năng đó.
Những người cho rằng: bản chất thế giới ý thức; ý thức tính thứ nhất, vật
chất tính thứ hai; ý thức quyết định vật chất, được gọi các nhà duy tâm;
học thuyết của họ hợp thành những môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy
tâm.
- Chủ nghĩa duy tâm nguồn gốc nhận thức nguồn gốc hội, đó là: sự
xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào
đó của quá trình nhận thức thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng
lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Chú nghĩa duy tâm tôn giáo cũng
thường mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại
phát triển.
Trong lịch sử, ch nghĩa duy tâm hai hình thức bản chủ nghĩa duy
tâm chủ quan chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ
quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự
tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định
mọi sự vật, hiện tượng chỉ "phức hợp những cảm giảc" của nhân. Chủ
nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tinh thứ nhất của tinh thần, ý thức
nhưng tinh thần, ý thức ấy tinh thần khách quan, ý thức khách quan
trước, tồn tại độc lập với giới tự nhiên, với con người thể hiện ới nhiều
tên gọi khác nhau, như: niệm tuyệt đối", "tinh thần tuyệt đối" hay "lý tính thế
giới", v.v.
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, quá trình ra đời phát triển của chủ nghĩa
duy vật nguồn gốc từ thực tiễn sự phát triển của khoa học. Chính qua
thực tiễn khái quát hóa thức của nhân loại trong nhiều lĩnh vực, chủ nghĩa
duy vật th hiện hệ thống tri thức luận chung nhất gắn với lợi ích của các
lực ợng hội tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động
nhận thức thực tiễn.
3. Phân tích ch nghĩa duy vật trong triết học
Chủ nghĩa duy vật một trong những trường phái triết học lớn trong lịch sử,
bao gồm trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập
trường duy vật trong việc giải quyết vấn để bản của triết học, đó là: “Vật
chất tính thứ nhất, ý thức hay tinh thần chỉ tính thứ hai của mọi tồn tại
trong thế giới” - tức thừa nhận minh chứng rằng: suy đến cùng, bản chất
sở của mọi tồn tại trong thế giới tự nhiên hội chính là vật chất.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức, đó là:
- Ch nghĩa duy vật chất phác với hình thức điển hình của các học
thuyết triết học duy vật thời cổ Ấn Độ, Trung Quốc Hy Lạp.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình với hình thức điển nh của các học
thuyết triết học duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) các nước Tây Âu
(tiêu biểu chủ nghĩa duy vật cận đại nước Anh Pháp).
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác Ph. Ăngghen sáng lập từ giữa
thế kỷ XIX.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác Ph. Ăngghen sáng lập hình
thức - trình độ phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học,
những lý do sau:
- không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong việc giải các tồn tại trong
giới tự nhiên (như chủ nghĩa duy vật siêu hình trước đây) còn đứng trên
lập trường duy vật trong việc giải thích các hiện tượng, quá trình diễn ra trong
đời sống hội loài người - đó chính những quan điểm duy vật về lịch sử
hay chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Do không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong quá trình định hướng
nhận thức cải tạo thế giới còn sử dụng phương pháp biện chứng trong
quá trình ấy. Từ đó tạo nên sự đúng đắn, khoa học trong việc giải thế giới
cải tạo thế giới.
- Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên sở kế
thừa những tinh hoa của lịch sử triết học trên sở tổng kết những thành
tựu lớn của khoa học, của thực tiễn trong thời đại mới; trở thành thế giới
quan phương pháp luận khoa học của giai cấp cách mạng của các lực
lượng tiến b trong thời đại ngày nay.
4. Phân tích ch nghĩa duy tâm trong triết học
Về chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần trước quyết định
giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ yếu
là:
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức
con ngời, khẳng định mọi sự vật, hiện tợng chỉ phức hợp những cảm giác
của nhân, của chủ thể. dụ quan niệm của Beccơly.
- Ch nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức,
nhng đó không phải ý thức nhân tinh thần khách quan trớc
tồn tại độc lập với con ngời, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, hội t
duy. Nó thờng đợc mang những tên gọi khác nhau nh ý niệm, ý niệm tuyệt
đối, tinh thần tuyệt đối hay nh thế giới.Ví dụ quan niệm của Platon,
Hêghen.
=> Ta t thấy cả chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa duy tâm đều nguồn gốc
hội nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc hội của chủ nghĩa duy vật
các lực lợng hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức
của mối liên hệ với khoa học. Còn nguồn gốc hội của chủ nghĩa duy
tâm các lực lợng hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức
của sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức (mặt hình thức),
tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật chất.
Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm
chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của t duy triết
học. Đồng thời, biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ t tởng giữa các giai cấp đối
lập trong hội.
5. Kết thúc vấn đề câu hỏi liên quan
Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận (duy vật hoặc duy tâm) giải thích
thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn c nhà triết
học nhị nguyên luận. Họ xuất phát từ cả hai nguyên th vật chất tinh thần
để giải thích mọi hiện tợng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra từ
nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ
muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhng cuối
cùng họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành phát
triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.
5.1 Chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện ới hình thức nào?
Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức bản:
chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình ch nghĩa duy
vật biện chứng.
5.2 Hãy nêu quan điểm về vật chất ý thức của Chủ nghĩa duy tâm?
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng bản chất của thế giới ý thức,ý thức trước
quyết định vật chất.Nó nguồn gốc từ nhận thức nguồn gốc
hội,thường gắn liền với lợi ích c giai cấp tầng lớp áp bức bóc lột nhân dân
lao động.Chủ nghĩa duy tâm tôn giáo thường mối quan hệ mật thiết với
nhau.
5.3 Hãy nêu quan điểm về vật chất ý thức của Chủ nghĩa duy vật?
Chủ nghĩa duy vật xem vật chất cái trước,bản chất của thế giới vật
chất,nó quyết định ý thức.Nó nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học
thực tiễn,đồng thời thường gắn với với lợi ích của giai cấp lực lượng tiến
bộ trong lịch sử.

Preview text:

Phân tích chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học 1. Mở đầu vấn đề
Triết học là hệ thống quan điểm lý luận chung nhất của con người về thế giới;
về tự nhiên xã hội và tư duy; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
Theo Ph. Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học
hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại”. Tóm tắt: đó là vấn đề về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nội dung chính của vấn đề này là phải trả lời
2 câu hỏi lớn: thứ nhất, giữa vật chất và ý thức: cái nào có trước, cái nào có
sau? cái nào quyết định cái nào? cái gì là bản chất của mọi tồn tại trong thế
giới? (vật chất hay ý thức?); và thứ hai, con người có khả năng nhận thức
được (hiểu được) thế giới đúng như nó tồn tại hay không?
Trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại từ thời cổ đại đến nay đã có
những lời giải đáp khác nhau và đối lập nhau đối với hai câu hỏi đó. Đây là
xuất phát điểm của sự khác biệt và đối lập giữa các trường phái triết học lớn
trong lịch sử: chủ nghĩa nhất nguyên (bao gồm: chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa
duy tâm) và chủ nghĩa nhị nguyên; thuyết có thể biết, thuyết không thể biết và thuyết hoài nghi.
Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về
bản thân con người và vị trí của con người trong thế giới đó.
Triết học đã ra đời và phát triển trên hai ngàn năm. Ở mỗi thời kỳ lịch sử khác
nhau, triết học có đối tượng nghiên cứu khác nhau; song tổng kết toàn bộ lịch
sử triết học, Ph.Ăngghen đã khái quát: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,
đặc biệt là của triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại", giữa ý
thức và vật chất, giữa con người và giới tự nhiên.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt.
- Thứ nhất, giữa ý thức và vật chất: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?
- Thứ hai, con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
2. Sự đối lập của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học
Như đã nêu ở mục 1, vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt: Giữa ý thức và
vật chất: cái nào có trước, cái nào có sau? Cái nào quyết định cái nào?
và con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không?
a. Về việc giải quyết mặi thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học đã chia
triết học thành hai trường phái lớn, đó là:Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Đối với việc giải quyết mặt thứ nhất trong vấn đề cơ bản của triết học, những
người cho rằng bản chất thế giới là vật chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức
là tính thứ hai; vật chất là cái có trước và quyết định ý thức, được gọi là các
nhà duy vật; học thuyết của họ hợp thành các môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy vật.
b. Việc giải quyết mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học chia quan
điểm về nhận thức thành hai phái: Khả tri luận - phái bao hàm những quan
điếm thừa nhận khả năng nhận thức của con người - và bất khả tri luận - phái
bao hàm những quan điểm phủ nhận khả năng đó.
Những người cho rằng: bản chất thế giới là ý thức; ý thức là tính thứ nhất, vật
chất là tính thứ hai; ý thức quyết định vật chất, được gọi là các nhà duy tâm;
học thuyết của họ hợp thành những môn phái khác nhau của chủ nghĩa duy tâm.
- Chủ nghĩa duy tâm có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội, đó là: sự
xem xét phiến diện, tuyệt đối hóa, thần thánh hóa một mặt, một đặc tính nào
đó của quá trình nhận thức và thường gắn với lợi ích của các giai cấp, tầng
lớp áp bức, bóc lột nhân dân lao động. Chú nghĩa duy tâm và tôn giáo cũng
thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Trong lịch sử, chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản là chủ nghĩa duy
tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan. Chủ nghĩa duy tâm chủ
quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự
tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định
mọi sự vật, hiện tượng chỉ là "phức hợp những cảm giảc" của cá nhân. Chủ
nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tinh thứ nhất của tinh thần, ý thức
nhưng tinh thần, ý thức ấy là tinh thần khách quan, ý thức khách quan có
trước, tồn tại độc lập với giới tự nhiên, với con người và thể hiện dưới nhiều
tên gọi khác nhau, như: "ý niệm tuyệt đối", "tinh thần tuyệt đối" hay "lý tính thế giới", v.v.
Đối lập với chủ nghĩa duy tâm, quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa
duy vật có nguồn gốc từ thực tiễn và sự phát triển của khoa học. Chính qua
thực tiễn và khái quát hóa thức của nhân loại trong nhiều lĩnh vực, chủ nghĩa
duy vật thể hiện là hệ thống tri thức lý luận chung nhất gắn với lợi ích của các
lực lượng xã hội tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động
nhận thức và thực tiễn.
3. Phân tích chủ nghĩa duy vật trong triết học
Chủ nghĩa duy vật là một trong những trường phái triết học lớn trong lịch sử,
bao gồm trong đó toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập
trường duy vật trong việc giải quyết vấn để cơ bản của triết học, đó là: “Vật
chất là tính thứ nhất, ý thức hay tinh thần chỉ là tính thứ hai của mọi tồn tại
trong thế giới” - tức là thừa nhận và minh chứng rằng: suy đến cùng, bản chất
và cơ sở của mọi tồn tại trong thế giới tự nhiên và xã hội chính là vật chất.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển qua ba hình thức, đó là:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác với hình thức điển hình của nó là các học
thuyết triết học duy vật thời cổ ở Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp.
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình với hình thức điển hình của nó là các học
thuyết triết học duy vật thời cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) ở các nước Tây Âu
(tiêu biểu là chủ nghĩa duy vật cận đại nước Anh và Pháp).
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập từ giữa thế kỷ XIX.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập là hình
thức - trình độ phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học, vì những lý do sau:
- Dó không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong việc lý giải các tồn tại trong
giới tự nhiên (như chủ nghĩa duy vật siêu hình trước đây) mà còn đứng trên
lập trường duy vật trong việc giải thích các hiện tượng, quá trình diễn ra trong
đời sống xã hội loài người - đó chính là những quan điểm duy vật về lịch sử
hay chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Do nó không chỉ đứng trên lập trường duy vật trong quá trình định hướng
nhận thức và cải tạo thế giới mà còn sử dụng phương pháp biện chứng trong
quá trình ấy. Từ đó tạo nên sự đúng đắn, khoa học trong việc lý giải thế giới và cải tạo thế giới.
- Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng được xây dựng trên cơ sở kế
thừa những tinh hoa của lịch sử triết học và trên cơ sở tổng kết những thành
tựu lớn của khoa học, của thực tiễn trong thời đại mới; nó trở thành thế giới
quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp cách mạng và của các lực
lượng tiến bộ trong thời đại ngày nay.
4. Phân tích chủ nghĩa duy tâm trong triết học
Về chủ nghĩa duy tâm – nó cho rằng ý thức, tinh thần có trước và quyết định
giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.
Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ yếu là:
- Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức
con ngời, khẳng định mọi sự vật, hiện tợng chỉ là phức hợp những cảm giác
của cá nhân, của chủ thể. Ví dụ quan niệm của Beccơly.
- Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức,
nhng đó không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có trớc và
tồn tại độc lập với con ngời, quyết định sự tồn tại của tự nhiên, xã hội và t
duy. Nó thờng đợc mang những tên gọi khác nhau nh ý niệm, ý niệm tuyệt
đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.Ví dụ quan niệm của Platon, Hêghen.
=> Ta xét thấy cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc
xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là
các lực lợng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức
của nó là mối liên hệ với khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy
tâm là các lực lợng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức
của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức (mặt hình thức),
tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật chất.
Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của t duy triết
học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ t tởng giữa các giai cấp đối lập trong xã hội.
5. Kết thúc vấn đề và câu hỏi liên quan
Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận (duy vật hoặc duy tâm) giải thích
thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có các nhà triết
học nhị nguyên luận. Họ xuất phát từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần
để giải thích mọi hiện tợng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra từ
nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ
muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nhng cuối
cùng họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát
triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.
5.1 Chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới hình thức nào?
Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản:
chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
5.2 Hãy nêu quan điểm về vật chất và ý thức của Chủ nghĩa duy tâm?
Chủ nghĩa duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là ý thức,ý thức có trước
và quyết định vật chất.Nó có nguồn gốc từ nhận thức và nguồn gốc xã
hội,thường gắn liền với lợi ích các giai cấp tầng lớp áp bức bóc lột nhân dân
lao động.Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thường có mối quan hệ mật thiết với nhau.
5.3 Hãy nêu quan điểm về vật chất và ý thức của Chủ nghĩa duy vật?
Chủ nghĩa duy vật xem vật chất là cái có trước,bản chất của thế giới là vật
chất,nó quyết định ý thức.Nó có nguồn gốc từ sự phát triển của khoa học và
thực tiễn,đồng thời thường gắn với với lợi ích của giai cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử.
Document Outline

  • Phân tích chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm t
    • 1. Mở đầu vấn đề
    • 2. Sự đối lập của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa d
    • 3. Phân tích chủ nghĩa duy vật trong triết học
    • 4. Phân tích chủ nghĩa duy tâm trong triết học
    • 5. Kết thúc vấn đề và câu hỏi liên quan
      • 5.1 Chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới hình t
      • 5.2 Hãy nêu quan điểm về vật chất và ý thức của Ch
      • 5.3 Hãy nêu quan điểm về vật chất và ý thức của Ch