








Preview text:
lOMoAR cPSD| 58728417 I. MỞ ĐẦU
Bản chất xã hội của pháp luật được bắt nguồn từ đời sống và xã hội, nó mang trên mình
tính quy định, tính chuẩn mực cho xã hội, hơn thế còn là tính giai cấp và cưỡng chế. Pháp
luật trong mối liên hệ với cơ cấu xã hội - dân tộc là một trong những nội dung cơ bản trong
nghiên cứu xã hội học pháp luật. Vì vậy, việc phân tích mối liên hệ này được đặc biệt quan
tâm, bởi nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động xây dựng, thực hiện và bảo vệ
pháp luật. Từ đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của chính quyền, việc kiểm soát xã
hội cũng thêm phát triển, văn minh hơn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, nhóm
chúng em sẽ việc phân tích một số yếu tố cấu thành cơ cấu xã hội - dân tộc nói chung và
đặc trưng tại Việt Nam nói riêng để làm rõ mối liên hệ giữa cơ cấu xã hội với pháp luật tại
nước ta, ngoài ra còn đánh giá hiệu quả về những thành tựu đã đạt được cũng như một vài
mặt hạn chế còn tồn tại.
II. NỘI DUNG 1. Phân tích đặc điểm cơ cấu xã hội – dân tộc 1.1. Khái niệm
Dân tộc là khái niệm dùng để chỉ cộng đồng chính trị - xã hội được hợp thành bởi những
tộc người khác nhau trên lãnh thổ của một quốc gia nhất định. Kết cấu dân cư của một quốc
gia có thể bao gồm nhiều tộc người khác nhau, trong đó có những tộc người chiếm đa số
trong thành phần dân cư và có những tộc người thiểu số. Ví dụ, trên lãnh thổ đất nước Việt
Nam có tất cả 54 dân tộc anh em, bao gồm: Kinh,Thái, Tày, Si La, Ba na, Chăm,..1
Cơ cấu xã hội - dân tộc là nghiên cứu quy mô, tỷ trọng và sự biến đổi về số lượng, chất
lượng cũng như những đặc trưng xu hướng biến đổi của cơ cấu xã hội trong nội bộ mỗi dân
tộc và tương quan giữa chúng trong cộng đồng. Đây là vấn đề luôn được Đảng và Nhà
nước đặc biệt chú trọng khi ảnh hướng tới tốc độ tăng trưởng, phát triển về cả kinh tế, xã
hội của cả nước. Để hoàn thành được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, việc nghiên cứu sự
biến đổi về cơ cấu xã hội – dân tộc, để đưa ra những đường lối chính sách hợp lí đảm bảo
được trình độ phát triển đồng đều giữa các dân tộc trong cả nước cần phải đặt lên hàng đầu.
1.2. Đặc trưng cơ cấu xã hội – dân tộc tại Việt Nam
Trải qua bao quá trình phát triển, cơ cấu xã hội - dân tộc của nước ta ngày nay bao gồm
ba đặc trưng có bản sau:
1 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xã hội học pháp luật, NXB Tư Pháp trang166 lOMoAR cPSD| 58728417
Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia có đa tộc người sinh sống, tổng cộng có 54 dân tộc.
Dân tộc Kinh chiếm 86,2% dân số cả nước, 53 dân tộc thiểu số còn lại chỉ chiếm 13,8%
dân số, có dân tộc chỉ dưới 1.000 người (Si La, Pu Péo, Rơ Mâm...)2
Thứ hai, các tộc người nhìn chung sống xen kẽ nhau. Người Kinh sống ở khắp cả nước,
chủ yếu ở vùng đồng bằng, ven biển và trung du. Trong khi các dân tộc thiểu số khác cư
trú không riêng biệt mà xen kẽ chủ yếu trên các vùng núi, cao nguyên, biên giới. Hiện nay,
không có tỉnh, huyện nào chỉ có một dân tộc cư trú. Nhiều tỉnh có trên 20 dân tộc cư trú:
Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang... Riêng Đắk Lắk có 49 dân tộc anh em sinh sống, trong đó có
khoảng 35% là đồng bào dân tộc thiểu số3. Tình trạng cư trú xen kẽ này một mặt là điều
kiện để tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, giúp đồng bào thêm đoàn kết, xích
lại gần nhau; mặt khác, cần đề phòng trường hợp có thể do chưa thật hiểu nhau, khác về
phong tục tập quán làm xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích kinh tế,
dẫn tới va chạm giữa các dân tộc.
Thứ ba, các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế- xã hội không hề đồng
đều. Đồng bào sinh sống ở vùng đồng bằng, ven biển có trình độ phát triển kinh tế, xã hội
cao hơn các nhóm người dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa. Cũng từ nguyên nhân
về vị trí địa lí mà giao thông đi lại khó khăn, điện nước sinh hoạt còn thiếu; trang thiết bị,
cơ sở vật chất khó tiếp cận được đến từng dân tộc. Vì vậy tại những vùng dân tộc thiểu số
còn xảy ra tình trạng tỷ lệ hộ nghèo cao, nhận thức của người dân còn kém.
Các đặc trưng trên đã tạo sự cần thiết để pháp luật cần phải có những tác động, đề ra
những quy định cụ thể để giải quyết các vấn đề nhức nhối về dân tộc hiện nay.
2. Mối liên hệ giữa cơ cấu xã hội – dân tộc với pháp luật
2.1. Giảm bớt sự cách biệt, đảm bảo phát triển bình đẳng đồng đều
Mối liên hệ giữa cơ cấu xã hội - dân tộc với pháp luật thể hiện ở việc pháp luật nước ta
có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, thúc đẩy sự phát triển hài hòa giữa các nhóm
dân tộc, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng về điều kiện phát triển giữa các dân tộc trong
xã hội theo tinh thần tại Điều 5 Hiến pháp 2013
Trước hết, pháp luật giúp giảm bớt sự cách biệt giữa các nhóm dân tộc và tầng lớp xã
hội khi bảo vệ quyền lợi của các nhóm dân tộc thiêu số. Pháp luật quy định quyền lợi và
nghĩa vụ của các nhóm dân tộc thiểu số, giúp bảo vệ các quyền cơ bản như quyền tiếp
cận giáo dục, y tế, việc làm, và phát triển kinh tế. Ví dụ, ở Việt Nam, Luật Bình đẳng giới
2 Số liệu thống kê, Tổng điều tra dân số và nhà ở 2013, Tổng cục thống kê
3 Nguyễn Công Lý, Hội tụ sắc màu các dân tộc tỉnh Đắc Lắk, nguồn: https://nhandan.vn/hoi-tu-sac-mau-cac-dantoc-
tinh-dak-lak-post783358.html , truy cập ngày 24/8/2024 lOMoAR cPSD| 58728417
và các chương trình chính sách phát triển kinh tế - xã hội dành riêng cho đồng bào dân
tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa giúp giảm thiểu sự cách biệt về mức sống và cơ hội
phát triển giữa các dân tộc. Ngoài ra, các chính sách đất đai, hỗ trợ tài chính, và phát triển
cơ sở hạ tầng là những mà cách pháp luật can thiệp để đảm bảo mọi người đều có cơ hội
phát triển kinh tế và xã hội.
Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam hiện cũng hướng đến sự đảm bảo phát triển một cách
bình đẳng và đồng đều, pháp luật đã được sử dụng như một công cụ quan trọng để thúc đẩy
sự bình đẳng giữa các dân tộc và tầng lớp xã hội thông qua các chính sách ưu đãi cho dân
tộc thiểu số nhằm giảm thiểu sự chênh lệch về kinh tế - xã hội giữa các dân tộc. Ví dụ,
Chính phủ Việt Nam đã triển khai chương trình 1354, nghị quyết 30a5 tập trung vào xóa đói
giảm nghèo, hỗ trợ phát triển hạ tầng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng hết sức quan tâm, đặc biệt chú trọng việc phát triển
các chính sách giáo dục. Trong lĩnh vực giáo dục, Nhà Nước khẳng định học tập là 1 quyền
bình đẳng, không phân biệt giữa các dân tộc theo Khoản 1 Điều 13 Luật Giáo dục 2019.
Hơn nữa, Chính phủ cũng đề ra các chính sách hỗ trợ học phí, phát triển trường học và
chương trình đào tạo cho học sinh thuộc hộ khó khăn hay thuộc dân tộc thiểu số . Điều này
đã góp phần nâng cao trình độ dân trí và tạo cơ hội việc làm, phát triển kinh tế của đấy
nước cho các nhóm dân cư này.
Mối liên hệ giữa cơ cấu xã hội - dân tộc và pháp luật là một yếu tố quan trọng trong
việc giảm bớt sự cách biệt và đảm bảo phát triển bình đẳng, đồng đều trong xã hội. Pháp
luật không chỉ đóng vai trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội mà còn là công cụ hiệu quả
để thúc đẩy sự phát triển đồng đều giữa các nhóm dân tộc, góp phần xây dựng một xã hội
công bằng, văn minh và phát triển bền vững. Việt Nam đã và đang áp dụng thành công các
chính sách và quy định pháp luật để hiện thực hóa mục tiêu này, đồng thời thể hiện cam
kết mạnh mẽ trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền lợi của mọi tầng lớp dân cư.
2.2. Giữ gìn bản sắc dân tộc, loại bỏ hủ tục lạc hậu
Bản sắc dân tộc là một phạm trù thể hiện tính đặc trưng về giá trị văn hóa, tinh thần của
dân tộc bảo tồn qua thời gian dài lịch sử. Đó là những nét đặc trưng tạo nên chất riêng của
mỗi quốc gia, từ ngôn ngữ, phong tục, truyền thống, đến lối sống và tư duy của con người
trong một nền văn hóa cụ thể. Qua nhiều sự đổi mới, phát triển của nền văn minh nhân loại,
những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn luôn được giữ gìn và phát huy, nhưng những hủ tục
lạc hậu, không còn phù hợp với xã hội hiện đại và cần phải bị xóa bỏ. Đặc biệt hơn, khi đặt
4 Quyết định số 135/QĐ-TTG
5 Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP lOMoAR cPSD| 58728417
trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa song hành loại bỏ hủ
tục lạc hậu lại càng quan trọng hơn cả, điều này có ý nghĩa rất lớn đối với việc tạo ra một
xã hội văn minh nhưng vẫn giữ lại bản sắc của mỗi quốc gia.
Với đặc thù về lịch sử, địa giới, Việt Nam là quốc gia đa tộc người sinh sống, dân tộc
Kinh chiếm gần 86% còn lại 53 tộc người khác và người Việt Nam có gốc nước ngoài sinh
sống.. Mỗi dân tộc đều có nền văn hóa mang bản sắc riêng bao gồm: tiếng nói, chữ viết,
văn học, nghệ thuật, kiển trúc, y phục, tâm lí, tình cảm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng6.
Bởi vậy, việc giữ gìn bản sắc dân tộc, đồng thời xóa bỏ hủ tục lạc hậu là vô cùng cần thiết
mà trong đó pháp luật đóng vai trò lớn, đặt ra vấn đề pháp luật trong cơ cấu văn hóa – dân tộc.
Nhà nước ta đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng và thực hiện những chính sách dân
tộc nhằm giữ gìn thuần phong mĩ tục, những truyền thống văn hóa tốt đẹp, xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện rõ nét qua
Điều 5 Hiến Pháp 2013: "1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống
nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kì thị, chia rẽ
dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết,
giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình. 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước" hay Khoản 2 Điều 11 Luật
Giáo dục 2019: "Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình theo quy định của Chính phù".
Bên cạnh đó, theo dòng chảy thời đại, Đảng và Nhà Nước cũng đã đưa ra những quyết
định kịp thời, góp phần xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, không còn phù hợp với xã hội hiện
đại. Đáng chú ý, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 126/2014/NĐ-CP, quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình. Trong đó, những phủ tục
như chế độ hôn nhân đa thê, hôn nhân cận huyết, tục cướp vợ hay thách cưới đều bị xóa bỏ
nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên yếu thế. Ngoài ra, tại Điều 132 Bộ luật Hình sự 2015
cũng có những quy định nghiêm ngặt nhằm xóa bỏ nhưng hủ tục mê tín dị đoan, cũng như
bói toán khi đặt ra các mức phạt tiền cũng như cải tạo không giam giữ.
6 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xã hội học pháp luật , NXB Tư pháp, trang 167. lOMoAR cPSD| 58728417
2.3. Nâng cao tuyên truyền, giáo dục pháp luật (Trang)
"Giáo dục pháp luật là quá trình tác động một cách có hệ thống, có mục đích và thường
xuyên tới nhận thức của con người nhằm trang bị cho mỗi người trình độ pháp lý nhất định
để từ đó có ý thức đúng đắn về pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp
luật."7 Đối với các dân tộc thiểu số, việc tiếp cận với các phương tiện truyền thông còn
nhiều khó khăn, đội ngũ cán bộ tham gia giáo dục pháp luật cho người dân còn chưa nhiều,
thiếu sự quan tâm của chính những người dân nơi đây. Những khó khăn kể trên dễ dẫn đến
ý thức pháp luật kém, tình hình tội phạm gia tăng, không đảm bảo được mục tiêu phát triển
xã hội của Nhà nước. Vì vậy các cấp chính quyền thời gian qua vẫn luôn chú trọng đẩy mạnh công tác này.
Quyết định số 1163/QĐ-Ttg ngày 08-8-2017 phê duyệt đề án "Đẩy mạnh công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền, vận động đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền
núi giai đoạn 2017 - 2021". Trong đó, nêu rõ mục tiêu đến năm 2021 phấn đấu đạt trên
70% đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi được phổ biến giáo dục pháp luật và tuyên
truyền, vận động nâng cao nhận thức về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về công tác dân tộc, chính sách dân tộc.
Việc được đào tạo nâng cao nhận thức pháp luật cho cán bộ cơ sở làm việc tại các vùng
miền núi phải được đặt lên hàng đầu. Để đạt được mục tiêu này, nhà nước cần tăng cường
tổ chức các hội nghị phổ biến, giáo dục pháp luật; nhằm truyền đạt những kiến thức cần
thiết. Bên cạnh đó, các lớp tập huấn chuyên sâu cần được tổ chức giúp trang bị cho đội ngũ
tuyên truyền pháp luật thêm kỹ năng cần thiết để nâng cao hiệu quả công tác. Ngoài ra;
việc tích cực huy động già làng, trưởng bản tham gia vào công tác tuyên truyền cũng sẽ
góp phần lan tỏa thông tin một cách rộng rãi và sâu rộng hơn trong cộng đồng.
Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi;
cơ quan chính quyền cũng phải tổ chức các hoạt động trực tiếp tại cộng đồng, sử dụng
những hình thức truyền đạt gần gũi, thân thiện với người dân vùng cao; tạo không khí thoải
mái giúp người dân tiếp thu kiến thức pháp luật hiệu quả. Bên cạnh đó, các tài liệu pháp
luật cần được biên soạn và phát hành, để xây dựng các tủ sách cộng đồng tại các nhà sinh
hoạt cộng đồng để dễ tiếp cận với đồng bào người dân tộc, góp phần nâng cao hiệu quả
tuyên truyền pháp luật, giúp học nâng cao ý thức pháp luật. Những tài liệu này cần phải
ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với trình độ của người dân. . Song song với đó, dù khó khăn
nhưng cán bộ lãnh đạo cũng cần xem xét sử dụng công nghệ trong giáo dục và tuyên truyền
pháp luật cũng vô cùng quan trọng. Các nền tảng trực tuyến không chỉ là kênh truyền tải
7 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lí luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư Pháp lOMoAR cPSD| 58728417
thông tin một chiều mà còn tạo ra những diễn đàn tương tác, giúp đồng bào dân tộc thiểu
số trao đổi, chia sẻ và giải đáp thắc mắc về pháp luật.
Cuối cùng, để khuyến khích người dân vùng cao tuân thủ pháp luật, việc xây dựng niềm
tin vững chắc vào pháp luật là điều cấp thiết. Điều này đòi hỏi các nhà cầm quyền phải
chứng minh được hiệu quả của pháp luật trong thực tiễn đời sống thông qua việc cập nhật
pháp luật phù hợp với sự phát triển xã hội, xóa bỏ các hủ tục lâu đời tại các vùng miền núi,
đồng thời xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, người dân cũng
phải được đảm bảo về quyền lợi của bản thân để giải quyết các tranh chấp được xử lý theo pháp luật
2.4. Nghiêm cấm hành vi kích động, chia rẽ dân tộc
Cơ cấu xã hội dân tộc tại Việt Nam rất đa dạng với 54 dân tộc cùng sinh sống. Sự đa
dạng này đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật chặt chẽ để đảm bảo sự đoàn kết và bình
đẳng giữa các dân tộc, đồng thời Chính phủ nước ta cũng đặt ra những điều luật, nghị quyết
cụ thể nhằm nghiêm cấm mọi hành vi kích động, gây chia rẽ dân tộc.
Theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng cũng như Đảng
Cộng sản Việt Nam là đại đoàn kết để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất
nước nhà. Như lời Người đã nếu, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, xem đây là nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Vì
thế tính bình đẳng giữa các dân tộc được quy định chặt chẽ trong Hiến pháp và các văn
bản pháp luật khác khẳng định quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Ngoài ra, các hành vi
lăng mạ, làm nhục, kích động gây chia rẽ dân tộc bị phát hiện đều sẽ phải chịu những hình
phạt nghiêm minh của chính quyền nhằm bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc
3. Đánh giá hiệu quả 3.1. Thành tựu
Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và miền núi giai đoạn 2021-2030; giai đoạn I từ năm 2021 - 2025 với 10 dự án thành phần,
gồm: Dự án 1: “Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt”. Dự
án 2: “Quy hoạch, sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết”. Dự án 3: “Phát
triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản
xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị”. Dự án 4: “Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản
xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các đơn vị sự nghiệp
công của lĩnh vực dân tộc”. Dự án 5: “Phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực”. Dự án 6: “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các
dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”. Dự án 7: “Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng lOMoAR cPSD| 58728417
cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em”. Dự
án 8: “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ
em”. Dự án 9: “Đầu tư phát triển nhóm dân tộc thiểu số rất ít người và nhóm dân tộc còn
nhiều khó khăn”. Dự án 10: “Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi. Kiểm tra, giám sát, đánh giá việc tổ chức thực hiện chương trình”.
Nhờ có sự quan tâm, vào cuộc của cả hệ thống chính trị nước nhà đã mang lại những
kết quả tích cực, dần thay đổi diện mạo cho đồng bào vùng DTTS: Kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội được quan tâm đầu tư, góp phần tạo diện mạo mới cho vùng đồng bào DTTS và
miền núi; đời sống của đồng bào các DTTS được cải thiện rõ nét; tốc độ tăng trưởng kinh
tế những năm gần đây đạt mức khá cao. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo và chăm sóc sức khoẻ
nhân dân có nhiều tiến bộ; các giá trị văn hoá dân tộc truyền thống được quan tâm, bảo tồn
và phát huy; quyền bình đẳng giữa các dân tộc cơ bản được bảo đảm; đoàn kết giữa các
dân tộc tiếp tục được củng cố; hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc, miền núi được tăng
cường, đội ngũ cán bộ được kiện toàn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ; quốc phòng, an
ninh, chính trị được giữ vững, ổn định; công tác dân tộc đã phát huy sức mạnh đoàn kết
các dân tộc, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố lòng tin của
đồng bào DTTS đối với Đảng, Nhà nước; các cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể các cấp đã cụ
thể hoá thực hiện Nghị quyết phù hợp với điều kiện của địa phương, đơn vị.
Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi là quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước, được xây dựng trên cơ sở rà soát,
sửa đổi, bổ sung và tích hợp của nhiều nội dung chương trình, dự án, chính sách; đồng thời
là một sự kiện đặc biệt quan trọng trong công tác dân tộc vì đây là lần đầu tiên Việt Nam
ta có một chương trình mục tiêu quốc gia dành riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số. 3.2. Hạn chế
Hạn chế đầu tiên có thể thấy đó là sự hiểu biết về pháp luật của người dân chưa đồng
đều do nhận thức, trình độ văn hóa, phong tục tập quán, điều kiện kinh tế - xã hội; ý thức
tự giác chấp hành pháp luật của người dân tộc ở vùng miền núi là chưa cao.
Sự hiểu biết pháp luật phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: trình độ dân trí, điều
kiện và vị trí xã hội, đặc điểm về giới tính, lứa tuổi, kinh nghiệm cá nhân. Dân trí càng cao
thì thực trạng khiếu kiện phức tạp càng nhiều, do đó, nhu cầu về hiểu biết pháp luật cũng
được quan tâm hơn. Cũng vì thế, công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở Việt Nam hiện
nay vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn tại các tỉnh miền núi, vùng sâu vùng xa do tâm lý thờ
ơ và khả năng tiếp cận còn nhiều hạn chế của người dân địa phương, dẫn đến một tồn đọng
lớn là việc áp dụng pháp luật ở các vùng núi, dân tộc thiểu số còn hạn chế. lOMoAR cPSD| 58728417
Ngày nay, nhiều địa phương còn tồn tại những phong tục, tập quán lạc hậu, tư tưởng
bảo thủ đã ăn sâu trong tiềm thức một bộ phận dân cư nên việc phổ biến giáo dục pháp luật
gặp nhiều khó khăn. Có thể kể đến 02 sự việc xảy ra mới đây ở Hà Giang và Sa Pa khi 02
bé gái dân tộc bị các thanh niên cố ép để bắt về làm vợ theo phong tục cổ hủ ở một số địa
phương. Đáng nói ở đây là trong cả 02 trường hợp kể trên, tuy có rất nhiều người dân chứng
kiến sự việc nhưng không một ai có hành động giúp đỡ nạn nhân vì họ cho rằng đây là điều hiển nhiên.
Chính sách dân tộc dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng núi còn nhiều bất cập hạn
chế ban hành nhiều chính sách nhưng việc bố trí nguồn lực, ngân sách để bảo đảm tổ chức
thực hiện chính sách còn thấp hơn rất nhiều so với thực tế, gây khó khăn trong quá trình tổ
chức thực hiện. Dẫn tới nhiều sự bất công bằng trong việc áp dụng chính sách dân tộc cũng
như áp dụng pháp luật trong khu vực vùng núi hoặc cá biệt các dân tộc thiểu số. Ví dụ,
chúng ta có chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho ĐBDTTS nhưng lại không quy định chất
lượng đất cấp cho ĐBDTTS, nên có nơi người ta lấy rừng nghèo, đất trống đồi trọc để cấp
cho ĐBDTTS, đất đó không có nước tưới, xa kết cấu hạ tầng giao thông nên có đồng bào
không nhận đất hoặc nhận đất nhưng không sản xuất.
Vì những hạn chế trong quá trình giáo dục, tuyên truyền pháp luật dẫn đến việc đồng
bào dân tộc thiểu số ít, đồng bào vùng núi khó được tiếp cận với các chính sách của Đảng
và nhà nước, tạo tiền đề cho các thế lực chống phá chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Thời
gian qua, các thế lực thù địch không ngừng xuyên tạc chính sách tôn giáo, dân tộc của Việt
Nam, cố tình đánh tráo khái niệm nhằm đồng nhất “quyền dân tộc tự quyết” với “quyền
dân tộc thiểu số” để chống phá Đảng, Nhà nước cũng như khối đại đoàn kết dân tộc. Thực
tế này đòi hỏi mỗi người dân cần nhận thức và thực hành đúng đắn quyền dân tộc tự quyết
nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, góp
phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Qua đó ta có thể thấy những hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật vào vấn
đề cơ cấu xã hội - Dân tộc. Gây ra nhiều hậu quả khôn lường có thể ảnh hưởng không chỉ
sự công bằng của người dân nói chung đồng bào dân tộc thiểu số và vùng núi nói riêng
trước pháp luật. Mà còn ảnh hưởng tới cả an ninh chính trị của quốc gia vì những chia rẽ
mất đoàn kết do nhưng hạn chế, tồn đọng của quá trình áp dụng pháp luật đối với vấn đề
cơ cấu xã hội - dân tộc III. KẾT LUẬN
Với sự đa dạng về dân tộc và văn hoá ở Việt Nam, cơ cấu xã hội - dân tộc không chỉ
đóng vai trò quan trọng mà còn ảnh hưởng sâu sắc trong việc hình thành và thực thi pháp
luật. Mối liên hệ giữa cơ cấu xã hội - dân tộc và pháp luật thể hiện rõ qua các quy định
pháp lý được điều chỉnh để phù hợp với nhu cầu và đặc thù của từng nhóm dân tộc. Hệ lOMoAR cPSD| 58728417
thống pháp luật không những phản ánh các quyền và nghĩa vụ của các nhóm xã hội khác
nhau mà còn phải đảm bảo tính công bằng và bình đẳng trong việc áp dụng và thực thi
pháp luật. Nhận thức đúng và hiểu rõ đặc điểm của cơ cấu xã hội - dân tộc là kim chỉ nam
cho các nhà làm luật và các cơ quan chức năng trong công cuộc xây dựng đất nước văn
minh, có trật tự và đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy phát triển giữa các nhóm dân tộc.
IV.TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP
2. Quyết định số 135/QĐ-TTG
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xã hội học pháp luật, NXB Tư Pháp
4. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xã hội học pháp luật , NXB Tư pháp
5. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lí luận về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp
6. Số liệu thống kê, Tổng điều tra dân số và nhà ở 2013, Tổng cục thống kê
7. Nguyễn Công Lý, Hội tụ sắc màu các dân tộc tỉnh Đắc Lắk, nguồn:
https://nhandan.vn/hoi-tu-sac-mau-cac-dan-toc-tinh-dak-lak-post783358.html