Phân tích con người và bản chất con người - Triết học Mác - Lênin | Đại học Tôn Đức Thắng

Nói con người là một thực thể tự nhiên bởi lẽ tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Chính vì vậy mà bản tính tự nhiên phải là một trong những phương diện cơ bản của con người, loài người. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

1. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.
a. Khái niệm “con người”: Con người là một thực thể tự nhiên- xã hội.
Nói con người là một thực thể tự nhiên bởi lẽ tiền đề vật chất đầu tiên quy định
sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Chính vì
vậy mà bản tính tự nhiên phải là một trong những phương diện cơ bản của con
người, loài người. Cơ sở quan trọng để con người có thể hiểu biết về bản thân mình
là việc nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc của con
người. Từ đó, con người mới có thể tiến đến làm chủ mình trong mọi hành vi và
hoạt động sáng tạo ra lịch sử nhân loại.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau: thứ nhất, con
người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của
Đácuyn về sự tiến hóa của các loài đã minh chứng cho kết luận trên. Con người
ngày nay không tự nhiên có sẵn mà đó là kết quả của quá trình tiến hóa trong thế
giới tự nhiên từ loài vượn người lên người vượn rồi đến người tinh khôn và rồi tiến
hóa thành người hiện đại. Trong đó, các nhân tố sinh học đã tác động đến quá trình
tiến hóa của loài người gồm biến dị di truyền, chọn lọc tự nhiên. Những biến đổi
này là kết quả của sự tích lũy các đột biến và biến dị tổ hợp dưới tác dụng của chọn
lọc tự nhiên (những thay đổi trên vỏ Trái Đất, hoạt động của núi lửa, động đất, gia
tăng nền phóng xạ, thay đổi lục địa,…). Từ đây, ta phân tích đến giác độ thứ hai,
con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là
“thân thể vô cơ” của con người. Những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của
quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con
người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và
giới tự nhiên. Môi trường xung quanh cung cấp cho con người những điều kiện cơ
bản để tồn tại như oxi, nước, thức ăn, và con người trao đổi qua lại với môi trường
dựa vào các quá trình như hấp thụ thức ăn, hô hấp, tiêu hóa và bài tiết,… Thức ăn,
ánh sáng, nhiệt độ có ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng và phát triển của
con người, ta đã biết người bình thường có thể nhịn thở trung bình 3-5 phút, nhịn
ăn khoảng 8 ngày trong điều kiện uống nước đầy đủ và chỉ có thể nhịn uống nước
khoảng 3-4 ngày, do vậy ta dễ dàng thấy nếu con người không tiếp tục được cung
cấp đủ chất dinh dưỡng, nước uống và không khí thì sẽ không thể tồn tại. Ngược
lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại
môi trường tự nhiên , làm biến đổi môi trường đó. Biểu hiện của điều này là các
hoạt động sản xuất, khai thác tài nguyên của con người đã dẫn đến những hậu quả
đáng tiếc như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên
nhiên.
Có thể đưa ra khái niệm con người là một thực thể xã hội là bởi vì mặc dù con
người sinh ra từ sự tiến hóa tự nhiên song khác với mọi động vật khác, con người
có đặc tính xã hội. Để có thể nói đến mỗi con người với tư cách là “người” thì phải
xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, gồm có: gia đình, giai cấp, quốc
gia, dân tộc, nhân loại.
Ta phân tích bản chất xã hội của con người qua việc xét từ giác độ nguồn gốc
hình thành con người, loài người và từ giác độ tồn tại và phát triển của con người,
loài người. Đối với giác độ thứ nhất, con người không chỉ có nguồn gốc từ sự tiến
hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, trước hết
và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Quay lại với lịch sử hình thành xã hội loài
người, khi con người còn ở giai đoạn vượn người, phần “con” là chủ yếu thì họ
sinh sống bằng săn bắt, hái lượm, chịu sự phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên
nhưng sau quá trình tiến hóa và phát triển đến giai đoạn “bầy người nguyên thủy”-
giai đoạn “chuyển tiếp”, “trung gian” từ bầy động vật lên một tổ chức cao hơn,
chặt chẽ hơn của tổ chức xã hội loài người thì con người biết lao động và chế tạo
công cụ. Các hoạt động lao động của con người rõ ràng không chỉ làm thay đổi hẳn
mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, tách hẳn con người khỏi giới động
vật, mà còn làm thay đổi cả quan hệ giữa con người với nhau. Chính trong lao
động sáng tạo, con người ngày càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm sản xuất, tự
hoàn thiện chính mình về mặt sinh vật học, đồng thời các quan hệ xã hội của họ
cũng dần phát triển. Do đó, phân tích đến giác độ thứ hai, sự tồn tại của con người
loài người luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội, xã hội
biến đổi thì con người cũng sẽ có những sự thay đổi tương ứng. Chẳng hạn, xã hội
xuất hiện chế độ tư hữu đã hình thành các giai cấp thống trị và bị trị, con người
trong xã hội không còn bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như trước. Ngược lại,
sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Bởi lẽ, con
người sau khi đã có nhận thức cũng như nắm bắt các quy luật tự nhiên cùng với
bàn tay và khối óc của mình đã biến thế giới tự nhiên, hoang sơ trở thành “thế giới
thứ hai” luôn đổi mới và phát triển không ngừng.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất
của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo
nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của
nó.
b. Bản chất của con người
Ở phần trước, chúng ta đã biết con người là một thực thể trong sự thống nhất
biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo
các quy luật tự nhiên, đồng thời con người cũng tồn tại và phát triển gắn liền với sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Bên cạnh là sản phẩm của tự nhiên, con người còn
là sản phẩm của lịch sử và cũng đồng thời là chủ thể của lịch sử. Xem xét vị thế
của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, Mác đi đến quan
niệm rằng, khuynh hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử nhân loại được
quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất - kết quả của nghị lực thực tiễn
của con người. Hoạt động thực tiễn này, đến lượt nó, lại bị quy định bởi những
điều kiện sinh tồn của con người, bởi một hình thức xã hội đã tồn tại trước khi có
những lực lượng sản xuất ấy. Mỗi thế hệ con người bao giờ cũng nhận được những
lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra và sử dụng chúng làm phương tiện cho
hoạt động sản xuất mới. Nhờ sự chuyển giao lực lượng sản xuất này mà con người
đã hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài
người. Với quan niệm này, C. Mác kết luận, xã hội là sản phẩm của sự tác động
qua lại giữa những con người và lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử
của sự phát triển cá nhân của những con người. Kết luận này cho thấy, trong quan
niệm của C. Mác, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, mà còn
là chủ thể của hoạt động lịch sử và sáng tạo ra lịch sử. Bằng hoạt động thực tiễn,
con người đã in dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên,
cải tạo đời sống xã hội và qua đó, phát triển, hoàn thiện chính bản thân mình. Con
người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của tiến trình phát triển lịch sử; con người
làm nên lịch sử của chính mình và do vậy, lịch sử là lịch sử của con người. Liên hệ
với lịch sử dân tộc Việt Nam, trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhân
dân ta là những người đã đẩy lùi sự xâm lược của kẻ thù, viết nên lịch sử hào hùng
của nước Việt Nam độc lập, tự do như ngày hôm nay và cũng chính khung cảnh
nước nhà lầm than, dân tộc phải chịu áp bức, bóc lột tàn nhẫn đã thôi thúc tinh thần
yêu nước, động lực chiến đấu mạnh mẽ, kiên cường để cha ông ta cầm súng đứng
lên đấu tranh dành lại độc lập dân tộc, tạo nên những người anh hùng của lịch sử.
Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều
kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải
đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng
tạo lịch sử của những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên
của họ, trái lại cần phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển
của các quan hệ kinh tế, chính tri, văn hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con
người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng
tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử
trong chừng mực đó.
Lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản
tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những
quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Nói về con người, C.Mác đã
đưa ra một luận điểm nổi tiếng trong Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con
người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Với
quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà
là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống
nhất giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất
đích thực của con người, chính bản tính xã hội của con người đã phân biệt con
người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Từ đó, có thể hiểu con người là một
thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội bởi toàn bộ các mối quan hệ giữa người với
người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,… đã tạo nên xã hội của con người.
Tóm lại, bản chất chung nhất, sâu sắc nhất của con người là tổng hoà các mối quan
hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra trong hiện tại và cả trong quá khứ. Bản
thân của con người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử cụ thể.
2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN ĐIỂM TRÊN
a.Về lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người và bản chất con người là cơ
sở phương pháp luận cho mọi hoạt động của con người. Do vậy, khi đánh giá con
người thì cần phải xem xét cả phương diện bản tính tự nhiên lẫn bản tính xã hội và
đặc biệt hơn là cần xem xét con người từ phương diện bản tính xã hội bởi lẽ sự
tổng hòa của các mối quan hệ xã hội đã góp phần tạo nên bản chất của con người.
Ta không thể hiểu hay đánh giá một ai đó bằng một cái nhìn phiến diện, hạn hẹp
hoặc chỉ đưa ra một nhận định mang tính khái quát vì phải trong các quan hệ xã hội
cụ thể, xác định, con người mới bộc lộ bản chất thật sự của mình. Thêm vào đó,
trong việc xây dựng thái độ sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh học song cần
coi trọng rèn luyện phẩm chất xã hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy theo nhu cầu
bản năng tầm thường.
Vì bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, nên cần chú trọng việc
xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, với những quan hệ xã hội tốt đẹp để có thể
xây dựng, phát triển được những con người tốt đẹp, hoàn thiện. Đồng thời, trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn luôn phải chú ý giải quyết đúng đắn mối quan hệ
xã hội- cá nhân, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân hoặc xã hội con
người là tổng thể các quan hệ xã hội.
b. Về thực tiễn
Con người trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh một chỉnh thể thống
nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao
gồm sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần. Người cho
con người tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng phát triển con người, coi con
người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, nhân tố quyết định thành công
của cách mạng. Nhận thức đúng đắn khơi dậy nguồn lực con người chính sự
phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với cách nguồn
sáng tạo có ý thức, chủ thể của lịch sử.
tưởng Hồ Chí Minh về con người bao hàm nhiều nội dung khác nhau, trong
đó các nội dung bản là: tưởng về giải phóng nhân dân lao động, giải
phóng dân tộc, tưởng về con người vừa mục tiêu, vừa động lực của cách
mạng, tư tưởng về phát triển con người toàn diện. Có thể nói, giải phóng nhân dân
lao động gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, bởi Việt Nam
quyền lợi của nhân dân lao động thống nhất với quyền lợi giai cấp dân tộc. Do
đó, đấu tranh giải phóng nhân dân lao động, giai cấp sản giai cấp nông dân
dưới sự lãnh đạo của giai cấp sản không chỉ để giải phóng bản thân giai cấp
sản mà còn giải phóng giai cấp nông dân và toàn thể dân tộc Việt Nam khỏi ách áp
bức, bóc lột. Chỉ bằng cách đó duy nhất bằng cách đó thì việc giải phóng giai
cấp vô sản mới có thể thực hiện triệt để và đảm bảo thắng lợi hoàn toàn. Công cuộc
giải phóng chỉ có thể thắng lợi hoàn toàn và triệt để bằng việc thực hiện cách mạng
sản, xây dựng thành công chủ nghĩa hội chủ nghĩa cộng sản. Sự nghiệp
giải phóng đó chỉ được hoàn thành khi các giai cấp bị bóc lột, các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên phạm vi toàn thế giới thoát khỏi ách áp bức, nô lệ.
Việc đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến
lược phát triển tưởng nhất quán của Đảng ta, trong điều kiện nền kinh tế thị
trường đang thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng, phong phú. Lợi
ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo cơ hội mới để phát triển cá nhân.
| 1/6

Preview text:

1. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.

a. Khái niệm “con người”: Con người là một thực thể tự nhiên- xã hội.
Nói con người là một thực thể tự nhiên bởi lẽ tiền đề vật chất đầu tiên quy định
sự hình thành, tồn tại và phát triển của con người chính là giới tự nhiên. Chính vì
vậy mà bản tính tự nhiên phải là một trong những phương diện cơ bản của con
người, loài người. Cơ sở quan trọng để con người có thể hiểu biết về bản thân mình
là việc nghiên cứu, khám phá khoa học về cấu tạo tự nhiên và nguồn gốc của con
người. Từ đó, con người mới có thể tiến đến làm chủ mình trong mọi hành vi và
hoạt động sáng tạo ra lịch sử nhân loại.
Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau: thứ nhất, con
người là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Sự
phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của
Đácuyn về sự tiến hóa của các loài đã minh chứng cho kết luận trên. Con người
ngày nay không tự nhiên có sẵn mà đó là kết quả của quá trình tiến hóa trong thế
giới tự nhiên từ loài vượn người lên người vượn rồi đến người tinh khôn và rồi tiến
hóa thành người hiện đại. Trong đó, các nhân tố sinh học đã tác động đến quá trình
tiến hóa của loài người gồm biến dị di truyền, chọn lọc tự nhiên. Những biến đổi
này là kết quả của sự tích lũy các đột biến và biến dị tổ hợp dưới tác dụng của chọn
lọc tự nhiên (những thay đổi trên vỏ Trái Đất, hoạt động của núi lửa, động đất, gia
tăng nền phóng xạ, thay đổi lục địa,…). Từ đây, ta phân tích đến giác độ thứ hai,
con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng là
“thân thể vô cơ” của con người. Những biến đổi của giới tự nhiên và tác động của
quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp thường xuyên quy định sự tồn tại của con
người và xã hội loài người, nó là môi trường trao đổi vật chất giữa con người và
giới tự nhiên. Môi trường xung quanh cung cấp cho con người những điều kiện cơ
bản để tồn tại như oxi, nước, thức ăn, và con người trao đổi qua lại với môi trường
dựa vào các quá trình như hấp thụ thức ăn, hô hấp, tiêu hóa và bài tiết,… Thức ăn,
ánh sáng, nhiệt độ có ảnh hưởng lớn đến quá trình sinh trưởng và phát triển của
con người, ta đã biết người bình thường có thể nhịn thở trung bình 3-5 phút, nhịn
ăn khoảng 8 ngày trong điều kiện uống nước đầy đủ và chỉ có thể nhịn uống nước
khoảng 3-4 ngày, do vậy ta dễ dàng thấy nếu con người không tiếp tục được cung
cấp đủ chất dinh dưỡng, nước uống và không khí thì sẽ không thể tồn tại. Ngược
lại, sự biến đổi và hoạt động của con người, loài người luôn luôn tác động trở lại
môi trường tự nhiên , làm biến đổi môi trường đó. Biểu hiện của điều này là các
hoạt động sản xuất, khai thác tài nguyên của con người đã dẫn đến những hậu quả
đáng tiếc như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên.
Có thể đưa ra khái niệm con người là một thực thể xã hội là bởi vì mặc dù con
người sinh ra từ sự tiến hóa tự nhiên song khác với mọi động vật khác, con người
có đặc tính xã hội. Để có thể nói đến mỗi con người với tư cách là “người” thì phải
xét trong mối quan hệ của các cộng đồng xã hội, gồm có: gia đình, giai cấp, quốc gia, dân tộc, nhân loại.
Ta phân tích bản chất xã hội của con người qua việc xét từ giác độ nguồn gốc
hình thành con người, loài người và từ giác độ tồn tại và phát triển của con người,
loài người. Đối với giác độ thứ nhất, con người không chỉ có nguồn gốc từ sự tiến
hóa, phát triển của vật chất tự nhiên mà còn có nguồn gốc xã hội của nó, trước hết
và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Quay lại với lịch sử hình thành xã hội loài
người, khi con người còn ở giai đoạn vượn người, phần “con” là chủ yếu thì họ
sinh sống bằng săn bắt, hái lượm, chịu sự phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên
nhưng sau quá trình tiến hóa và phát triển đến giai đoạn “bầy người nguyên thủy”-
giai đoạn “chuyển tiếp”, “trung gian” từ bầy động vật lên một tổ chức cao hơn,
chặt chẽ hơn của tổ chức xã hội loài người thì con người biết lao động và chế tạo
công cụ. Các hoạt động lao động của con người rõ ràng không chỉ làm thay đổi hẳn
mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, tách hẳn con người khỏi giới động
vật, mà còn làm thay đổi cả quan hệ giữa con người với nhau. Chính trong lao
động sáng tạo, con người ngày càng tích lũy được nhiều kinh nghiệm sản xuất, tự
hoàn thiện chính mình về mặt sinh vật học, đồng thời các quan hệ xã hội của họ
cũng dần phát triển. Do đó, phân tích đến giác độ thứ hai, sự tồn tại của con người
loài người luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội, xã hội
biến đổi thì con người cũng sẽ có những sự thay đổi tương ứng. Chẳng hạn, xã hội
xuất hiện chế độ tư hữu đã hình thành các giai cấp thống trị và bị trị, con người
trong xã hội không còn bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ như trước. Ngược lại,
sự phát triển của mỗi cá nhân lại là tiền đề cho sự phát triển của xã hội. Bởi lẽ, con
người sau khi đã có nhận thức cũng như nắm bắt các quy luật tự nhiên cùng với
bàn tay và khối óc của mình đã biến thế giới tự nhiên, hoang sơ trở thành “thế giới
thứ hai” luôn đổi mới và phát triển không ngừng.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính thống nhất
của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo
nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của nó.
b. Bản chất của con người
Ở phần trước, chúng ta đã biết con người là một thực thể trong sự thống nhất
biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội. Con người sinh ra từ tự nhiên, tuân theo
các quy luật tự nhiên, đồng thời con người cũng tồn tại và phát triển gắn liền với sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Bên cạnh là sản phẩm của tự nhiên, con người còn
là sản phẩm của lịch sử và cũng đồng thời là chủ thể của lịch sử. Xem xét vị thế
của con người trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, Mác đi đến quan
niệm rằng, khuynh hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử nhân loại được
quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất - kết quả của nghị lực thực tiễn
của con người. Hoạt động thực tiễn này, đến lượt nó, lại bị quy định bởi những
điều kiện sinh tồn của con người, bởi một hình thức xã hội đã tồn tại trước khi có
những lực lượng sản xuất ấy. Mỗi thế hệ con người bao giờ cũng nhận được những
lực lượng sản xuất do thế hệ trước tạo ra và sử dụng chúng làm phương tiện cho
hoạt động sản xuất mới. Nhờ sự chuyển giao lực lượng sản xuất này mà con người
đã hình thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài người, hình thành lịch sử loài
người. Với quan niệm này, C. Mác kết luận, xã hội là sản phẩm của sự tác động
qua lại giữa những con người và lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử
của sự phát triển cá nhân của những con người. Kết luận này cho thấy, trong quan
niệm của C. Mác, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, mà còn
là chủ thể của hoạt động lịch sử và sáng tạo ra lịch sử. Bằng hoạt động thực tiễn,
con người đã in dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên,
cải tạo đời sống xã hội và qua đó, phát triển, hoàn thiện chính bản thân mình. Con
người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của tiến trình phát triển lịch sử; con người
làm nên lịch sử của chính mình và do vậy, lịch sử là lịch sử của con người. Liên hệ
với lịch sử dân tộc Việt Nam, trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhân
dân ta là những người đã đẩy lùi sự xâm lược của kẻ thù, viết nên lịch sử hào hùng
của nước Việt Nam độc lập, tự do như ngày hôm nay và cũng chính khung cảnh
nước nhà lầm than, dân tộc phải chịu áp bức, bóc lột tàn nhẫn đã thôi thúc tinh thần
yêu nước, động lực chiến đấu mạnh mẽ, kiên cường để cha ông ta cầm súng đứng
lên đấu tranh dành lại độc lập dân tộc, tạo nên những người anh hùng của lịch sử.
Như vậy, không có con người phi lịch sử mà trái lại luôn gắn với những điều
kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Cần phải từ quan niệm như vậy mới có thể lý giải
đúng đắn về khả năng sáng tạo lịch sử của con người. Sự hạn chế về năng lực sáng
tạo lịch sử của những con người tiểu nông không thể lý giải từ bản tính tự nhiên
của họ, trái lại cần phải được lý giải từ giác độ tính hạn chế về trình độ phát triển
của các quan hệ kinh tế, chính tri, văn hóa của xã hội tiểu nông. Như thế, con
người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng
tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó.
Lịch sử tư tưởng nhân loại đã có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất, “bản
tính người” của con người, nhưng về cơ bản những quan niệm đó thường là những
quan niệm phiến diện, trừu tượng và duy tâm, thần bí. Nói về con người, C.Mác đã
đưa ra một luận điểm nổi tiếng trong Luận cương về Phoiơbắc: “Bản chất con
người không phải là một cái gì trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong
tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Với
quan niệm đó, C.Mác chỉ ra rằng bản chất con người không phải là trừu tượng mà
là hiện thực, không phải tự nhiên mà là lịch sử. Con người là một thực thể thống
nhất giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội mới là bản chất
đích thực của con người, chính bản tính xã hội của con người đã phân biệt con
người với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Từ đó, có thể hiểu con người là một
thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội bởi toàn bộ các mối quan hệ giữa người với
người trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa,… đã tạo nên xã hội của con người.
Tóm lại, bản chất chung nhất, sâu sắc nhất của con người là tổng hoà các mối quan
hệ giữa người và người trong xã hội diễn ra trong hiện tại và cả trong quá khứ. Bản
thân của con người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử cụ thể.
2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN ĐIỂM TRÊN a.Về lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về con người và bản chất con người là cơ
sở phương pháp luận cho mọi hoạt động của con người. Do vậy , khi đánh giá con
người thì cần phải xem xét cả phương diện bản tính tự nhiên lẫn bản tính xã hội và
đặc biệt hơn là cần xem xét con người từ phương diện bản tính xã hội bởi lẽ sự
tổng hòa của các mối quan hệ xã hội đã góp phần tạo nên bản chất của con người.
Ta không thể hiểu hay đánh giá một ai đó bằng một cái nhìn phiến diện, hạn hẹp
hoặc chỉ đưa ra một nhận định mang tính khái quát vì phải trong các quan hệ xã hội
cụ thể, xác định, con người mới bộc lộ bản chất thật sự của mình. Thêm vào đó,
trong việc xây dựng thái độ sống vừa phải biết tính đến nhu cầu sinh học song cần
coi trọng rèn luyện phẩm chất xã hội, tránh rơi vào thái độ sống chạy theo nhu cầu bản năng tầm thường.
Vì bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội, nên cần chú trọng việc
xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, với những quan hệ xã hội tốt đẹp để có thể
xây dựng, phát triển được những con người tốt đẹp, hoàn thiện. Đồng thời, trong
hoạt động nhận thức và thực tiễn luôn phải chú ý giải quyết đúng đắn mối quan hệ
xã hội- cá nhân, tránh khuynh hướng đề cao quá mức cá nhân hoặc xã hội con
người là tổng thể các quan hệ xã hội. b. Về thực tiễn
Con người trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống
nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao
gồm sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo đức, đời sống tinh thần. Người cho
con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và phát triển con người, coi con
người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, nhân tố quyết định thành công
của cách mạng. Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con người chính là sự
phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách là nguồn
sáng tạo có ý thức, chủ thể của lịch sử.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người bao hàm nhiều nội dung khác nhau, trong
đó có các nội dung cơ bản là: tư tưởng về giải phóng nhân dân lao động, giải
phóng dân tộc, tư tưởng về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách
mạng, tư tưởng về phát triển con người toàn diện. Có thể nói, giải phóng nhân dân
lao động gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, bởi ở Việt Nam
quyền lợi của nhân dân lao động thống nhất với quyền lợi giai cấp và dân tộc. Do
đó, đấu tranh giải phóng nhân dân lao động, giai cấp vô sản và giai cấp nông dân
dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản không chỉ để giải phóng bản thân giai cấp vô
sản mà còn giải phóng giai cấp nông dân và toàn thể dân tộc Việt Nam khỏi ách áp
bức, bóc lột. Chỉ bằng cách đó và duy nhất bằng cách đó thì việc giải phóng giai
cấp vô sản mới có thể thực hiện triệt để và đảm bảo thắng lợi hoàn toàn. Công cuộc
giải phóng chỉ có thể thắng lợi hoàn toàn và triệt để bằng việc thực hiện cách mạng
vô sản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Sự nghiệp
giải phóng đó chỉ được hoàn thành khi các giai cấp bị bóc lột, các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên phạm vi toàn thế giới thoát khỏi ách áp bức, nô lệ.
Việc đề cao nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến
lược phát triển là tư tưởng nhất quán của Đảng ta, trong điều kiện nền kinh tế thị
trường đang thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, tạo ra cơ sở vật chất và văn hóa tinh thần ngày càng đa dạng, phong phú. Lợi
ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo cơ hội mới để phát triển cá nhân.