Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà hay nhất | Văn mẫu lớp 12

Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân bao gồm gợi ý cách viết chi tiết kèm theo 9 bài văn mẫu khác nhau cực hay. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều tài liệu học tập củng cố kỹ năng làm văn hay. Mời bạn đọc đón xem!

Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Dàn ý phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông
Đà
Dàn ý số 1
A. Mở bài
- Nói đôi nét về tác giả và tác phẩm
Nguyễn Tuân được biết đến một trong những tác giả một phong cách độc đáo
hiếm hoi của Văn học Việt Nam từ trước đến nay. Bằng vốn kiến thức văn hóa sâu
rộng tài năng văn chương của mình thì Nguyễn Tuân đã cho ra đời rất nhiều các
kiệt tác nghệ thuật mang đậm phong cách tài hoa uyên bác, trong đó phải kể đến
tác phẩm “Người lái đò sông Đà” như đã thể hiện rõ phong cách của ông.
B. Thân bài
Đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
- Tùy bút Người lái đò Sông Đà đã thể hiện nét các đặc điểm của phong cách nghệ
thuật Nguyễn Tuân.
* Khám phá, phát hiện sự vật phương diện văn hóa, thẩm mĩ: con Sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình.
Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên ởng, tưởng tượng độc
đáo, bất ngờ rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động, giàu
hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc,
khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành
một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
>>> Tựu chung lại thì với nghệ thuật độc đáo thì hình tượng ng Đà được tác giả
khắc họa rất nổi bật với hai đặc điểm: vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình.
Qua con Sông Đà, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm
tha thiết của mình với đất nước. Dường như hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút
gợi lên người đọc suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông,
bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên dành cho con người hơn.
*Nhìn con người phương diện tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò được miêu tả như một
dũng tướng tài năng nhưng có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
*Tác giả như điểm đậm nét những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật, con
người: Con Sông Đà hung bạo. hiểm ác, ông lái đò tài hoa.
Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau về đối tượng sáng
tác để tạo hình tượng: Con Sông Đà hung bạo những trận thủy chiến của ông lái đò
được ghi lại bằng kiến thức của văn chương, hội họa, điện ảnh, địa lí, lịch sử, quân sự,
võ thuật.
Ngôn ngữ trong tác phẩm:
* Từ ngữ được sử dụng sắc sảo in đậm dấu ấn riêng. Ngữ nghĩa, ngữ điệu biến đổi,
chuyển hóa: sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, nắng giòn tan, nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa, để thơ vào sông nước… Tác giả còn sáng tạo những từ ngữ mới, đọng, giàu ý
nghĩa: luôn gân, luôn tim, bờm sóng…
* Tác giải đã diễn tả đa dạng, nhiều góc cạnh. Câu văn rất đỗi ngắn gọn phối hợp với
câu thật dài: đoạn tả chặng cuối vượt vòng y thứ ba, đang viết câu chất chồng ý (…
Cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền… xuyên nhanh, vừa xuyên vừa…),
đã kết lại bằng một câu rất gọn, biểu thị ý hoàn thành: Thế là hết thác.
* Nét độc đáo trong việc miêu tả con sông Đà là vừa khi vừa thể hiện mặt hung dữ,
vừa gợi lên khía cạnh thơ mộng của đối ợng miêu tả, vừa lại nném ra những chi
tiết rất tự nhiên, không trau chuốt (con sông đánh đòn hiểm độc nhất với con đò) vừa
chắt lọc những chi tiết, những hình ảnh rất trữ tình, rất thơ (ven Sông Đà lặng tờ).
C. Kết bài
- Khẳng định lại một lần nữa tài năng văn chương bậc thầy của Nguyễn Tuân
- Chính việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật linh hoạt đã tạo nên shấp dẫn cho c
phẩm “Người lái đò sông Đà”.
Dàn ý số 2
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần phân tích.
2. Thân bài
a. Khai thác hình ợng con sông từ nhiều phương diện thẩm mỹ, văn hóa, từ
ánh nhìn nghệ thuật đa chiều của tác giả.
* Hình tượng con sông Đà:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
- Mở ra cho người đọc những hình dung chung nhất về con sông với hai đặc tính tiêu
biểu ấy dữ dội, hùng nhưng cũng không kém tmộng trữ tình trong lời đề từ
được mượn từ thơ ca "Chúng thủy giai đông tẩu Đà giang độc bắc lưu. Đẹp vây thay
tiếng hát trên dòng sông".
- Với vẻ đẹp hùng vĩ, ddội: Ở khúc thượng nguồn trong cái vẻ hung bạo, dữ dội con
sông hiện lên kẻ quái đản, giận dữ, "kẻ thù số một" của tất cả những con người
ham muốn vượt sông kiếm kế sinh nhai.
- Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình: Nhưng đến vùng hạ u ng, dòng sông bỗng trmình
thành một thiếu nữ với dòng chảy tuôn dài như mái tóc, với những nét đẹp thi vị của
sự chuyển đổi màu sắc theo mùa.
* Hình tượng ông lái đò:
- Không chỉ được Nguyễn Tuân tả với vai trò một con người lao động bình
thường, thể hiện qua hai phương diện khác nữa ấy một người nghệ đầy đam
nghề nghiệp với "bàn tay lái ra hoa" một người anh hùng chiến trí dũng song
toàn trên mặt trận sông nước.
- cách người nghệ sĩ, thể hiện ở niềm đam mê nghề nghiệp cách ông lão tâm huyết,
tỉ mẩn và nghiêm túc với nghề nghiệp của mình.
- Với cách một chiến trên mặt trận sông nước, ông lão tra một vị tướng đã
nhiều kinh nghiệm chinh chiến sa trường, thuộc làu binh pháp của thần sông thần
đá, tư thế hiên ngang,...
b. Vận dụng tài tình những kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau vào tác phẩm
của mình một cách tinh tế và khéo léo:
* Lĩnh vực hội họa, nhiếp ảnh:
- Hình ảnh trong văn của Nguyễn Tuân luôn đạt đến một trình độ sống động chân
thực đến tuyệt diệu, với những góc nhìn cận cảnh, đa chiều và gợi nhiều xúc cảm.
- Chú ý vào việc gợi ra cho độc giả về những đặc điểm như chiều cao, độ rộng, độ
nông sâu, độ dài các con sóng của dòng sông qua các câu văn cuốn hút, đầy hình ảnh.
* Phương diện âm thanh:
- Diễn tả sự ghê gớm, hung bạo của dòng sông bằng một bản hợp tấu của những âm
thanh với nhiều âm sắc, thanh điệu khác nhau.
- Ví như tiếng "gùn ghè" của dòng nước, rồi tiếng những cái hút nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
* Phương diện địa lý và lịch sử:
- Chỉ ra nguồn gốc của con sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, trải qua hơn 400km lưu
lạc nơi đất khách mãi mới về tới biên giới Việt, rồi nhập tịch tại Mường Tè, Lai Châu.
- Hơi thở của lịch sử: "hình như từ đời Lý, đời Trần, đời quãng sông này, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi"...
* Điện ảnh:
Có một anh quay phim liều mạng nào đó "ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi
cho cả mình cả thuyền cả máy quay xuống cái hút sông Đà", ....
* Văn học:
- Lời đề từ: Kết hợp hai nhà thơ Nguyễn Quang Bích n thơ Wadislay
Broniewski.
- Nhớ đến những câu "Yên hoa tam nguyệt Dương Châu" trong Hoàng Hạc lâu
tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng ng của thi tiên Bạch để diễn tả chất "cố nhân"
của dòng sông.
- Nhấn mạnh cái ngỗ ngược ghê gớm của dòng sông qua một u đồng thoại trong
truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh "Núi cao sông hãy còn dài/Năm năm báo oán đời
đời đánh ghen".
- Bâng khuâng xao xuyến trước dòng sông bằng việc mượn câu "người tình nhân chưa
quen biết" của Tản Đà để tỏ bày.
* Quân sự:
- Sông Đà một kẻ nham hiểm, ghê gớm với những cái bẫy hút nước ghê gớm, với
một đội quân đá đã mai phục lòng sông hàng ngàn năm, cùng với các trùng vi thạch
trận, các cửa ải chứa luồng sinh luồng tử lắt léo.
- Ông lão lại hiện lên với dáng vẻ của một chiến thần có kinh nghiệm chiến đấu phong
phú, ông đã nắm quy luật phục kích của dòng sông, thuộc làu binh pháp của thần
sông thần đá.
c. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ một cách điêu luyện bậc thầy.
- Những hình nh, âm thanh, sự kiện trong tác phẩm được nhà văn tả bằng những
từ ngữ mới lạ khi chưa từng xuất hiện những trang văn vào khác như từ "gùn
ghè", "đòi nợ xuýt", "hồi lùng", "trùng vi thạch trận",...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
- Mỗi một lĩnh vực khác nhau Nguyễn Tuân lại dùng những từ ngữ chuyên thuộc lĩnh
vực ấy để diễn đạt ý của mình, từ quân sự, lịch sử, địa lý, văn học, âm nhạc, hội họa,
điện ảnh, ...
- Đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân còn nằm cách thành
lập câu văn.
3. Kết bài
Nêu cảm nghĩ.
Dàn ý số 3
1. Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vào tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò sông Đà.
2. Thân bài
a. Khái quát chung
Con sông Đà mang trong nó một vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình. Dưới cái nhìn của
ông, dòng sông được nhìn từ mọi khía cạnh địa lý, lịch sử. Con sông vừa mang vẻ
hung bạo, dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình. Nguyễn Tuân đã cùng yêu
quý con sông Đà, phải một tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước của mình thì Nguyễn
Tuân mới có thể lột tả hết được vẻ đẹp vừa hung dữ nhưng cũng đậm chất trữ tình, thơ
mộng của con sông Đà.
Song song với hình ợng con sông Đà nh ợng người lái đò sông Đà. Qua hình
tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đưa ra một cái nhìn mới về chủ nghĩa anh
hùng. không ch nơi chiến trường, trong chiến tranh gian khổ, ác liệt
ngay trong cuộc sống hàng ngày. Sự u trí, dũng cảm tài hoa ấy ẩn chứa ngay
trong những con người lao động hiền lành, bình dị.
Qua bài tùy bút Người lái đò ng Đà cụ thể qua hai nh tượng: con sông
Đà người lái đò ng Đà, đã thể hiện những nét độc đáo trong phong cách nghệ
thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
b. Đặc sắc nghệ thuật
Trước hết, ông thường đậm cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng
cảm xúc mãnh liệt. Không con sông nào thể dữ dội, hung bạo hơn dòng chảy
của con sông Đà cũng hiếm con sông nào lại thơ mộng trữ tình đến thế. Hai
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
tính cách tưởng như trái ngược nhau lại hài hòa làm nên nét riêng của con sông Đà,
cái mạnh mẽ và cái yếu đuối luôn song hành.
Nhà văn thường tiếp cận phản ánh đối ợng từ phương diện văn hóa, mỹ thuật.
Con người dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân tỏa sáng lấp lánh vẻ đẹp của tài hoa, trí
tuệ. Người lái đò Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như một nghệ trên sông
nước.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân phong cách tài hoa, uyên bác. thể hiện
những từ ngữ, hình tượng nghệ thuật trong văn của ông. Ngôn ngữ của Nguyễn
Tuân có đầy đủ cả màu sắc, âm thanh và hình tượng.
3. Kết bài
Khái quát lại nét đặc sắc nghệ thuật của tùy bút cũng như giá trị nội dung, nghệ thuật
của tác phẩm.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 1
Hơn mười năm đã trôi qua, kể từ khi Nguyễn Tuân vào cõi vĩnh hằng; có lẽ con người
“suốt đời đi tìm cái Đẹp” ấy không phải băn khoăn, hối tiếc điều gì nữa. Bởi những
ông đã cống hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại không ai thay thế được. Đọc tùy
bút “Người lái đò sông Đà” của ông, ta càng thấm thía lời nhận xét của Anh Đức:
“Không biết chừng nào mới lại một nhà văn như thế, một nhà n khi ta gọi
một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo song
mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.
thể nói Nguyễn Tuân người viết tubút nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam
hiện đại. Với các tập “Tùy bút I” (1941); Tùy bút II” (1943), ông đã làm sống lại
khái niệm tùy bút trong văn học, đồng thời “định nghĩa” lại thể tuỳ bút. Phạm Đình
Hổ (1768 - 1839) đã từng nêu lên khái niệm về thể loại này trong “Vũ Trung tuỳ bút”.
Theo ông, tuỳ bút đề cập đến những vấn đề rất đa dạng, không theo một trình tự nào,
từ chuyện thân thế, gia đình đến chuyện hội, thời cuộc, lịch sử ... Tuỳ theo hứng
thú, sự quan tâm của người viết thể hiện các đề tài ấy. Trong văn học hiện đại, tuỳ
bút khái niệm được dùng để chỉ những tác phẩm viết một cách phóng khoáng, tự
do, theo dòng suy nghĩ, liên tưởng của người viết. Tuỳ bút cũng kí, ghi chép,
nhưng không chỉ ghi chép sự việc trong đó có cả suy nghĩ, cảm xúc người viết khi
tiếp xúc với thực tế. Theo “định nghĩa” mới của Nguyễn Tuân, phần trình bày suy
nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng ợng của người viết chiếm một tỷ trọng lớn, do đó
chất trữ tình thường khá đậm nét. “Người lái đò sông Đà” thể hiện đầy đủ những điểm
đặc sắc nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân. Có thể nói thể tùy bút đã tạo đất cho nhà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
văn dụng võ, ngược lại, với Nguyễn Tuân, thể tuỳ bút cũng đã có một bước phát triển
mới.
Trước hết phong ch nghệ thuật tùy bút của ông thể hiện những trang viết i hoa
uyên bác. Tài hoa uyên bác trong kể và tả. Ở Nguyễn Tuân, kểtả đều kỹ càng, tỉ
mỉ, ngọn ngành, thông kim bác cổ. Mỗi liên tưởng, liên hệ trong duy, ởng
rất rộng, rất sâu. Cho nên những trang viết của ông đưa lại cho người đọc nhiều kiến
thức văn hoá. Chính thế, đến với thiên tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, ta như được
chứng kiến một công trình khảo cứu công phu, một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ
về sông Đà những sinh sống trên con ng đó. Tôi nhìn bìa sách văn 12, trên đó
một bức tranh tôi đoán minh hoạ cho tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Nếu
quả thực là như vậy thì thật thất vọng quá. Con sông Đà trên bức tranh chẳng khác nào
một khe suối nhỏ. Sông Đà, như tôi biết qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, một vẻ
đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình, được thể hiện qua cái nhìn từ nhiều góc độ của tác giả.
Đặc biệt bằng vốn từ vựng phong phú và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của
ông. Nói như nhà văn Anh Đức: “mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút n
đóng một dấu triện riêng”. Tại sao khi ta gọi Nguyễn Tuân là “một bậc thầy của ngôn
từ, ta không hề thấy ngại miệng”?. Bởi lẽ đọc “Người lái đò sông Đà” của ông ta nhận
thấy văn Nguyễn Tuân thứ ngôn từ nóng rẫy sự sống. Sức nóng trong ngôn ngữ của
ông phát ra từ mọi hướng. Nhà nghệ “độc đáo song” ấy đã sáng tạo ra hàng loạt
từ ngữ mới cho từ điển tiếng Việt. Chỉ trong vài trang kí, mà có biết bao động từ trong
đó. Tả tiếng thác nước, Nguyễn Tuân đem lại cho người đọc cả một hệ thống động từ
được xếp cạnh nhau theo cấp tăng tiến: Lúc đầu “tiếng nước réo gần mãi lại réo to
mãi lên” rồi “nghe như oán trách”; “van xin”, “khiêu khích”; giọng gằn chế
nhạo”. “Thế rồi nó rống lên”, “lồng lộn”, “gầm thét”. Ngôn ngữ sinh động lại được kết
hợp một cách tài tình khiến ta như cảm nhận cái hồn thác đang gầm lên giận dữ. Hết
thác rồi đến đá, đội quân đá đang mai phục, sẵn sàngới sự chỉ huy của thác. Chúng
đang chờ “có chiếc thuyền nào xuất hiệnnhổm cả dậy để vồ lấy”. Thật thú vị khi
chứng kiến sự bày binh bố” trận của những hòn đá “nhăn nhúm méo mó” kia. “Đám
tảng, đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Trận
địa đá gồm “hàng tiền vệ, hai hòn cánh cửa đá trông như hở” để “dụ đối
phương đi vào sâu nữa” rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Nếu chọc thủng được tuyến
hai thì nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan
cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Hấp dẫn nhất phải kể đến cuộc chiến đấu một mất
một còn giữa người lái đò và thác sông Đà.
Bằng cái nhìn chứa đựng đầy tính điện ảnh cũng nhiểu biết uyên bác của nh,
Nguyễn Tuân đã cho người đọc xem một đoạn phim bằng ngôn từ có một không hai:
“Phối hợp với đá, ớc thác reo làm thành viện” “hòn đá bệ vệ oai phong lẫm
liệt” trông “y như đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao
chiến”. “Một hòn khácthì “thách thức cái thuyền giỏi thì tiến gần vào”. Trí tưởng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
tượng sinh động của c giả khiến người đọc cùng ngngàng thú vị. Trận chiến
đã bắt đầu “Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất” “mặt nước la vang dậy quanh
mình”, “sóng ớc như thế quân liều mạng” “có lúc chúng đội cả thuyền lên” ... Nào
“đòn độc hiểm nhất, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” ...Trùng vi thạch
trận thứ hai không kém phần ác liệt. nhiều “cửa tử” để hòng đánh lừa con thuyền.
Dòng nước cuồn cuộn của sông Đà được Nguyễn Tuân như “hùm beo đang hồng
hộc tế mạnh trên sông Đà”. Ta có thế thấy sự biến hóa khôn lường trong cách sử dụng
ngôn ngữ của tác giả. Đoạn trên, ông tả tiếng thác như tiếng “một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn” thì đến đoạn sau dòng thác hiện lên như “hùm beo”. Cuộc chiến cửa
ải thứ hai với ưu thế nghiêng hẳn về người lái đò. Dường như Nguyễn Tuân ưa dùng
những động từ sắc lạnh. Ông lái đò hiện hình như một dũng tướng hiên ngang xông
pha trận mạc “nắm chắc lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”,
“bám chắc”, “phóng nhanh’’, “lái miết”... Niềm vui hân hoan của tác giả khi ông lái
vượt qua được vòng chiến thứ hai như lan toả trong những câu văn tiếp theo: “Chỉ còn
vẳng lại tiếng của sóng thác. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái
thằng đá tướng đứng chiến cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh thất vọng”. Tâm
hồn của người đọc nbị cuốn theo lối kể tả đầy hấp dẫn của người viết. Chi tiết
“tiu nghỉu cái mặt xanh thất vọng” của “cái thằng đá tướng” khiến người đọc như
cùng cảm nhận sự khoái chí của tác giả. Trùng vi thứ ba diễn ra nhanh hơn “Con
thuyền t qua cổng đá mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động
lái lượn được”. Cuộc chiến kết thúc, “thế hết thác”. Dòng ng đột ngột hiện lên
thanh bình, hiền hoà với sự bắt đầu bằng một hình ảnh vừa chân thực, vừa lãng mạn:
“Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Câu văn miêu tả rất sinh động những đám bọt
trắng xóa của dòng thác rơi từ trên cao khi chạm đến cái đích cuối cùng dòng
sông thì vỡ ra, tạo thành âm thanh “xèo xèo tan..”. thể tan trong trí nhớ người
lái đò bởi “cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu với sóng nước sông Đà dữ dội”,
ngày nào cũng biết đến cảm giác “xèo o tan” của sóng thác. Nhưng âm thanh ấy in
sâu vào tâm trí người đọc. Dòng thác đổ qua miền nhớ để lại những nét chạm khắc
không thể nào quên. Sức nóng trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân còn phát ra từ màu sắc
con sông Đà ông miêu tả. Tất cả đều gam màu nóng chói, thể hiện một óc
quan sát, liên tưởng, so sánh cùng tinh tế. Con sông Tây Bắc khi thì được miêu tả
như “một cái mặt giếng thành giếng xây bằng nước sông xanh xe một áng thuỷ
tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”; khi thì “xanh ngọc bích” vào mùa
xuân, “lừ lừ chín đỏ” vào mùa thu. lúc sông như “miếng sáng lóe lên một màu
nắng tháng ba Đường thi”. Cái dấu triện riêng” mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi câu văn
Nguyễn Tuân đều được in vào đấy, phải chăng chính kho ngôn ngữ cùng phong
phú đặc sắc của ông? Bởi ai nhìn thấy “cái mặt xanh lè, tiu nghỉu” của đá; cái
màu “lừ lừ chín đỏ” của sông, nghe thấy âm thanh “xèo xèo tan” của bọt thác? Gọi
Nguyễn Tuân “bậc thầy ngôn ngữquả không sai. Chỉ nói về con sông Đà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
ông đã sử dụng bao nhiêu từ đồng nghĩa. Khi thì gọi sông Đà “con sông Tây Bắc
hung bạo trữ nh”, khi thì bảo “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, lúc lại như “áng tóc
trữ tình”... ông còn gọi sông Đà “cố nhân”, “cái miếng ng lóe lên một màu
nắng tháng ba Đường thi”, rồi “một áng tóc trên mảng đầu Tây Bắc”, “một con bị
chúa đất từng vùng đem cắt ra từng khúc nhỏ”... Chỉ riêng điều đó thôi cũng cho ta
thấy vốn từ vựng của Nguyễn Tuân cùng phong phú. Nguyễn Tuân viết như lấy
chữ từ trong túi ra, thổi vào mỗi chữ một linh hồn sống và tạo nên những trang viết tài
hoa.
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến chủ nghĩa dịch. Con người thích
“chơi ngông” ấy “đi không cần mục đích, không cần đến nơi, cốt là cứ được lăn cái vỏ
mình mãi mãi trên mặt đất này” (Nguyễn Đăng Mạnh). Mặc thế, văn chương
tâm huyết thực sự của đời ông. điều làm nên linh hồn của những áng văn dịch
ấy tấm lòng gắn thiết tha với quê hương, đất nước của ông. Tôi chưa đọc được
nhiều những trang văn của Nguyễn Tuân, nhưng ấn tượng của tôi về ông gói trọn
trong chữ “ngông” độc đáo, song y. trước hay sau cách mạng thì vẫn con
người ấy. Đằng sau sự uyên bác về kiến thức, sự cầu kì, tỉ mtrong từng câu chữ,
một tấm lòng tha thiết yêu quê hương xứ sở. Không tấm lòng ấy, không thể nhìn
thấy con sông Đà như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai”. Không yêu quê hương, làm sao ông
được nhận xét: “người cố nhân ấy biết mình lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng đấy,
rồi chốc lại bản tính gắt gỏng thác ngay đấy”. Ông đâu chỉ miêu tả sông Đà, với
ông “áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sảiấy như một cố nhân. Từ lòng yêu nước
tha thiết cùng với tài hoa độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã đlại cho đời những
trang văn tuyệt bút.
Trở lại nhận xét của Anh Đức về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, người đọc tự
hỏi thế nào phong cách nghệ thuật? Đó hẳn phải một cái nhìn mới mẻ, một sự
khám phá độc đáo, tính phát hiện đối với đời sống. Cái nhìn mới mẻ ấy được thể
hiện bằng một bút pháp nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn riêng, vẻ đẹp riêng của mỗi
nhà văn. Những nhà văn thực tài mới phong cách. Nguyễn Tuân nhà văn
phong cách sâu sắc và độc đáo. Sự độc đáo của phong cách Nguyễn Tuân thể hiện
những tưởng mới lạ được nhìn nhận khám phá từ những gì rất bình thường, giản
dị, thậm chí ngay cả những người đời coi “tầm thường”, thấp kém. Những
tưởng mới mẻ ấy lại được thể hiện diễn đạt bằng một kho tàng ngôn ngữ hết sức
phong phú linh hoạt với nhiều sáng tạo trong dùng từ, đặt câu. Cũng như Nguyễn
Du đã làm giàu làm sang cho ngôn ngữ dân tộc bằng truyện Kiều, Nguyễn Tuân
cũng thế. Những trang văn của ông không chỉ thấm đượm linh hồn quê hương còn
sự thể hiện sự giàu của tiếng nói dân tộc Việt. nhà nghiên cứu nhận xét rất
đúng về ngôn ngữ Nguyễn Tuân, đó “sự giàu giá trị tạo hình cao, như muốn
ganh đua cùng tạo hoá”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Nhà văn Macxim Gorki đã từng nói “con người, tiếng ấy thật tuyệt diệu, vang lên
kiêu hãnh hùng tráng xiết bao”. Sự uyên bác, tài hoa, đầy sáng tạo bất ngờ trong
những trang văn của Nguyễn Tuân nồng ấm một tình yêu và lòng tự hào về con người.
Từ hình tượng Huấn Cao “Vang bóng một thời” đến “Người lái đò trên sông Đà
một sự chuyển biến trong tưởng thẩm của nhà văn. Song cả hai nhân vật đều
điểm chung: họ đều những người phẩm chất nghệ sĩ, chiến sĩ, vẻ đẹp thăng hoa
của con người. Họ đều sản phẩm của sự kết hợp cái Tâm cái Tài của người viết.
Nhà nghệ lớn ấy đi săn tìm cái đẹp suốt ccuộc đời để rồi mang lại cho ta “chất
vàng mười” của nghệ thuật. Đọc Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, chúng ta
thực sự bị cuốn hút vào dòng thác của cuồn cuộn của sông chữ, sống đời; thực sự như
bị lạc vào “bờ sông hoang dại như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Từng câu, từng
chữ ông đặt lên trang giấy cả một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng
thiêng liêng. Nguyễn Tuân thích sáng tạo, độc đáo cả trong đời thực lẫn trong văn
chương. Ông thích Đốtxtôiépxki dường nchính ông một minh hoạ cho cái
định nghĩa nổi tiếng của Đốt: “Tài nghệ đại nhất của nhà văn chỗ biết xoá bỏ”.
Phải chăng trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật cần cù, miệt mài, trau chuốt từng
câu, từng chữ, Nguyễn Tuân đã biết tự “xoá bỏ” để tồn tại trở thành một nghệ
lớn.
Nguyễn Tuân đã ra đi vào ngày 28 tháng 7 năm 1987. Biết bao nhớ tiếc, ngẩn ngơ đã
để lại trong lòng người đọc. “Không biết chừng nào lại một nhà văn như thế, một
nhà văn ta gọi một bậc thầy của ngôn tta không thấy ngại miệng, một nhà văn
độc đáo song mà mỗi dòng , mỗi chữ như đóng một dấu triện riêng”. Đến bao
giờ mới có một nhà văn như thế?
Đặc sc ngh thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mu 2
Người lái đò Sông Đà trích trong tập tùy bút Sông Đà ca Nguyễn Tuân, sáng tác năm
1960. Đây kết qu chuyến đi thc tế ca tác gi Tây Bắc năm 1958. Phong cách,
con người Tây Bc đã đi vào trang sách vi mt nim vui sng bao trùm lên tt c,
xen ln nhng cảm tưởng xúc cm tr nh trước v đẹp kì vĩ, l lùng ca non sng
Tây Bc.
Tác phm ly người lái đò làm nhân vật ch th ca câu chuyn v Sông Đà nhưng
thc cht là cm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghin ngm và sáng to ca Nguyn Tuân.
n lời ông lái đò già nhưng chính tác gi miêu t con sng t nhiều góc độ khác
nhau, qua đó bc l tâm tình cảm của mình đối với con sông đại din cho thiên
nhiên và con người Tây Bc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Vi li viết ca Nguyễn Tuân, Sông Đà đã trở thành Sông Đà Nguyễn Tuân. Đó
con sông độ dày lch s, to ra những con người anh hùng của riêng nó. Sông Đà
được v nên bng ngòi bút biến hóa tài tình, độc đáo, thể hin s gn với đất nước
đến mc sâu xa nht ca tâm hn tác gi.
Sông Đà dữ, Sông Đà anh hùng ca, bản cht của Sông Đà vy. Tài ba của nhà văn
càng làm cho bn cht y ni bật lên. Sông Đà hung bạo những đoạn thác d,
nhng quãng lòng sông hp, b kp gia hai vách núi cao hay nhng ch có xoáy nước
khng khiếp, hút tt c những gì sa vào đó và dìm xuống đáy sông.
đoạn này có nhiu chi tiết chính xác, khoa hc xen ln cm xúc dt dào tính tr tình
ca tác giả. Sông Đà khi thì dữ di, nguy hiểm trong cái hùng không ng: nào
chét li thành cái yết hầu, nào vách đá dựng đứng cao vút, đúng ngọ mi thy mt
giời… mùa vẫn lạnh… Khi thì pha chút huyn thoi trong nhng nét nên thơ như
con nai, con h vt t b này sang b kia, tưởng như lòng sông ch còn di yếm
trong ca dao xưa.
Cái của Sông Đà cũng dữ. Cát, gió, đá, thác ghềnh, sóng nước phi hp vi nhau :
ớc đá, đá sóng, sóng gió gió c cun cun tng lung. Ch nghe tiếng
nước nhng quãng lm thác cũng đã đ ghê người. Tiếng reo của nước lúc nghe như
oán trách, ri lại n van xin, rồi lại như khiêu khích, ging gn chế
nhạo… Rồi bỗng ng không biết chuyn rống n như mt ngàn con trâu
mộng đang lồng ln. Hoc có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm đ mun hất tung đi
mt cái thuyền đang phải đóng vai mt cái np m mt ấm nước sôi khng lồ. Nhưng
không đâu tiếng nước nghe l như nhng cái hút xoáy. đó nước c ặc lên như vừa
rót du sôi vào.
Tiếng nước đã ghê, sức ớc còn đáng sợ gp bi. Mặt sóng cũng như mặt
đường kạn, đi vào sng thuyn b git xung b tri lên. Thuyền đi vào lung
nước thì chết ngay, hoặc đi không trúng tim luồng thì cũng vẫn th thp t nht
sinh. Nhng quãng him tr của Sông Đà mang diện mạo và tâm đa mt th k thù s
mt của con người: hung hãn, nham him và xo quyt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Sông Đà dữ qu không sai vi tiếng đồn. Cát, đá, nước, gió, sóng hùa nhau bt
người vào ch chết. Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu đ miêu t hàng lot
nhng hình ảnh khác nhau luôn luôn đc sách, va cht ttu va nh to
hình, vượt xa nhng th pháp người ta quen gọi nhân hóa, đi vào bản cht sâu
xa nhất, độc đáo nht ca s vt, to thành nhng trang viết biến hóa khôn lường. Do
thế mà cái d di ca Sông Đà trở nên môi trường anh hùng ca vô cùng độc đáo.
Sông Đà dữ dội nhưng Sông Đà cũng rt tr tình. Đó là những đon xuôi chèo êm .
Nhìn t máy bay xuống, Sông Đà tuôn dài như mt áng tóc tr tình, đu tóc chân tóc
n hin trong mây tri Tây Bc bung n hoa ban hoa go tháng hai cun cun
khói núi Mèo đốt nương xuân.
ớc Sông Đà màu sắc thay đi theo mùa: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích,… mùa
thu ớc Sông Đà lừ l chín đỏ. Trên sông, nhng chiếc thuyền then đuôi én xuôi
dòng, to cho sông v thơ mộng riêng ca nó. ng nói với con người bao
điều. Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà như nhìn mt c nhân, một người thân lâu ngày
gp lại. Nhà văn say ngm màu nắng giòn tan vàng như h phách trên sông
chợt liên tưởng ti màu nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt Dương
Châu” trong bài thơ Ti lu Hoàng Hc tin Mnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của thi
hào Lý Bạch đời Đưng bên Trung Quc.
Bên trên là thái độ đối với Sông Đà, còn đây là tình cảm ca tác gi đối với con người,
sn phm ca dòng sông ấy. Ông lái đò sn phm của Sông Đà đưc tác gi tp
trung t trong cuc vt ln với thác nước Sông Đà. Cái d di của Sông Đà đã
ông lái tr được. Hình ảnh ông lái đò: cố nén vết thương, hai chân vẫn kp cht ly cái
cung lái, mt méo bch đi vẫn cưỡi lên con thác, nm cht ly bm sóng, ghì
cương, đè sấn lên mà cht đôi con thác… rất sinh động và ấn tượng.
Lên thác phi chng bằng sào. Trên vai người lái đò, đầu sào in vào mt khoanh bm,
đó là hình nh thc. c gi bình thêm: Cái đng tin t máu cũng cái hình nh quý
giá ca mt th huân chương lao đng siêu hng tặng cho người lái đò Sông Đà. Con
người dũng cảm, thông minh đã chiến thng được thiên nhiên d di. người lái đò
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
này, cái không in du con sông, không sn phm của ng Đà? Sông Đà
đối với ông lái đò quả một trường thiên anh hùng ca ông đã thuộc đến c nhng
du chm câu nhng đoạn xuống dòng, ông lái đò đã tr thành mt ngh tài hoa
trong ngh thut vưt thác ghnh. Nguyn Tuân gi tài ngh ca ông là tay lái ra hoa.
Đọc văn Nguyễn Tuân, nhất tùy bút, người cho rằng như soi trong ng kính
trăm màu. Thực ra, ngòi bút tác gi không ch bảy màu trăm ngàn màu sắc.
Nguyễn Tuân đi rất u vào bn cht ca s vt, s việc, con người để m hiu, khám
phá nm bắt được cái ct lõi, tinh túy, cái hn của . Đồng thi s kết hp
giữa trình đ hiu biết uyên bác, tác phong làm vic nhanh nhy, t m, khoa hc, giàu
cht trí tu cảm xúc đậm đà chất tr tình được th hiện dưới nhng hình thc ngôn
ng sáng to rt độc đáo, rất Nguyn Tuân, không th ln vi bt kì ai khác.
Tùy bút Sông Đà phần nào chng t bút lc già dn cùng phong cách ngh thut ca
nhà văn Nguyễn Tuân cây đi th ca nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 3
Nguyễn Tuân chắc hẳn đã tâm đắc lắm với những vần thơ sông của nhà thơ Ba Lan
nọ. Chẳng vậy ng nước xứ mình đã chảy trên không biết bao nhiêu trang văn
đẹp của ông, trong đó sông Đà, con sông đã trao tên cho một công trình văn xuôi
tuyệt tác. Tôi đoán chắc rằng không thể chỉ có nhu cầu săn tìm cảm giác hay cái máu
phiêu lãng giang hđã xui khiến bước chân Nguyễn Tuân tìm đến dòng chảy đại
này của núi rừng Tây Bắc. Nhất định phải một tiên cảm, tiên giác nghệ thuật sáng
suốt nào mách cho người nghệ tài hoa về nguồn cảm hứng sông Đà hàng chục năm
trước khi “dòng sông ánh sáng” đó thực sự trở thành một địa chỉ lớn của nhạc, hoạ,
sân khấu, thơ, văn. từ ấy đến nay, cho đã biết bao người khắc, vẽ kể
chuyện về sông Đà, làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được
Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một gợi cảm
mênh mông.
Song để làm n một niềm gợi cảm sông Đà tầm cỡ, vóc dáng như của Nguyễn
Tuân thì cảm xúc tài quan sát vẫn còn chưa đủ. Nhớ lại, Xuân Diệu từng thiết tha
nói đến sự rất cần thiết phải uyên bác ngay trong một lĩnh vực trữ tình nhất là thơ. Tôi
nghĩ Nguyễn Tuân cũng thẩm quyền như thế, khi còn hơn thế nhiên trong
phạm vi lãnh thổ của ông kí, tuỳ bút để chỉ ra rằng sự uyên bác ấy thể nâng
đỡ đến thế nào cho đôi cánh của hào hoa. Càng đọc văn Nguyễn Tuân, lại càng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
nghiệm ra rằng, nhà văn độc đáo ấy luôn luôn độc đáo trong sự uyên bác, rằng con
người tài hoa, tài tình hiếm ai kịp ấy cũng đồng thời con người luôn luôn
những hiểu biết khôn lường, khôn sánh về những được nói tới văn minh. Trường
hợp sông Đà vậy. Phải Nguyễn Tuân lẽ chỉ Nguyễn Tuân mới không
ngại nhọc công đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh
của sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thuỷ,
dòng sông mang những cái tên Trung Hoa âm thanh dẫu sao cũng gợi ra khá nhiều
thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Và cũng không dễ có người như Nguyễn, để có thể
hạ bút viết đúng ba câu về sắc nước Đà giang đã phải mấy lần bay ngang trên miền
sông ấy. Để rồi sau đó, mới nói chắc như đinh đóng cột rằng ớc sông Đà không hề
đen; trái lại, xanh màu ngọc bích dưới trời xuân, khác với sông Gấm sôngnước
“xanh canh hến” (tác giả mới kì công làm sao trong quan sát và chọn tìm từ!), còn mỗi
độ thu về, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”.
Cứ theo đây thì ai m bảo các đấng tài hoa viết văn không khó nhọc? Ai dám bảo
rằng cái cốt cách phong lưu tài tử như của Nguyễn Tuân cho phép nhà văn cứ việc thả
sức rong chơi, chờ khi thần hứng đến với mình thì chỉ cần một lần phất bút đã đủ
làm nên tấm lụa ngôn ngữ đẹp mê hồn?
Nhưng chớ nên quên Nguyễn Tuân n một bản ngã vãn chương không hề giống
với một ai, cũng không thể một ai mong bắt chước. Những trang viết trong
Người lái đò Sông Đà đẹp còn tác giả đã in cái bản ngã độc đáo ấy vào sông nước
Đà giang, đã thêm cái vẻ đẹp rất chủ quan của tâm hồn tưởng tượng vào cái vẻ đẹp
rất khách quan của ng sông, để dần dần m cho dưới ngòi bút, tuôn chảy một con
sông Đà mang dấu ấn thật riêng của nhà văn, một con sông Đà đã được chinh phục
chi phối bởi thứ quyền năng riêng của người cầm bút Nguyễn Tuân vốn nhiều
hơn ai hết – tôi muốn nói đến thứ quyền năng của ngôn từ.
Hãy thử lấy ra đây một trong rất nhiều dụ. đầu trích đoạn Người lái đò Sông Đà
trong sách Văn học 12 đoạn tả “cảnh đá bsông dựng vách thành” những bức
thành vách đá cao chẹt chật lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp ấy của lòng sông, tác giả đã tả
nó ra theo đủ cách: Nào là "Mặt sông lúc ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt giời”. Nào
con hổ con nai thể vọt qua sông, chỉ cần nhẹ tay thôi cũng thể ném hòn đá từ
bờ này sang bên kia vách. Những ý văn như thế kể cũng đã thú lắm. nhưng vẫn còn
chưa khiến ta phải thán phục, phải ghê gớm cho tài nghệ của Nguyễn Tuân như trong
câu cuối đoạn này: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Một sức hút bình thường
làm sao nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ lạ lùng đến
thế. Bên cạnh những câu viết thế này, tôi chắc nhiều người sẽ nhận ra mình nghèo nàn
biết bao nhiêu cả về từ ngữ ý tưởng. cảm giác cái bậc văn nhân hằng biết sợ cái
cảnh “mình bỗng chốc trở thành người cùng đường bên dòng sông chữ quạnh trắng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
thê lương” ấy luôn luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái khó ấn tượng đầy ăm ắp để tìm
cho bằng ra một cách nói có sức kinh động hồn trí con người.
Nguyễn Tuân đang i với ta về một sông Đà hung bạo. Một nhận xét như thế sẽ
không có nhiều khả năng gây sự ngạc nhiên, nếu chúng ta không tận mắt thấy nhà văn
đã hao tổn công phu đến thế nào để bắt sự hung bạo kia phải nổi hẳn lên thành hình
khối và gào thét lên trong muôn vạn âm thanh.
Người đọc đã nđược tác giả đặt ỡi lên con thuyền đang vun vút phăng phăng
xuống thác để cảm thấy quanh mình ớc thác reo bốn mặt những hòn đá ngỗ
ngược phía trước kia như nhất tẽ “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Không khó khănđể thấy trong đoạn này, nhà văn đã sử dụng rất nhiều nhân hoá, để
nhờ đó, đọc ra từng sắc diện người trong những hình thù đá tri. Ống đã cổ dùng
thật hết sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để truyền hồn sống vào từng thớ đá. Dễ mấy
ai nhìn ra những khuôn mặt đá kiểu thế này: “Một hòn ấy trông nghiêng thì y như
đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi
lại một chút thách thức cái thuyền giỏi thì tiến gần vào”. Tồi chắc những chữ
như “hất hàm”, được viết tài đến thế, thì hoặc phải xoẹt đến trong óc nhà văn như một
ánh chớp thiêng của luồng cảm hứng và lập tức định vị ngay trong câu viết, nếu không
thì phải gò lấy nó bằng cả một “từ công phu”.
Cái dáng đá hất hàm ấy trông xấc xược, hỗn hào, du côn một cách rất hiện đại.
Nhưng đọc cả đoạn văn, vẫn cảm tưởng thấy tác giả Người lái đò Sông Đà cứ như
muốn vừa tìm sự hoà ứng vừa như muốn tranh đua với ca khúc thứ XII của Ô-đi-xê
bất hủ, đoạn tả chiếc thuyền của Uy-lit-vượt qua khoảng giữa hai con quái thạch
Karip Xila. Hãy nghe lại âm vang hào tráng của -me-từ bao nhiêu nghìn năm
trước: “Chúng tôi… chèo thuyền tiến thẳng vào eo biển hiểm nghèo một bên Xila,
một bên Karip ùng ục ngốn nước biển. Mỗi lần nhả nước ra, cả biển khơi đều
chuyển động, sôi lên nnước trong chảo đặt trên một bếp lửa hồngRồi khi lại
nuốt nước mặn vào thì làm biển sùng sục cuộn lên; vách đá xung quanh kêu réo ghê
sợ, đáy biển lộ ra với mặt cát đen thẫm… phải là ta đã gặp lại trong cái hung
bạo của sông Đà hôm nay rất nhiều thần thái cái hung bạo của chốn eo biển nào rất xa
xôi tận thời cổ đại?
Người ta bảo trong các nhà văn thật lớn thường vẫn còn một đứa trẻ thơ, đứa trẻ ấy
giúp nhà văn giữ được cái nhìn cảm tính trong trẻo hồn nhiên mà người lớn vẫn để cằn
cỗi héo tàn đi trên đường đời khó nhọc. Trường hợp Người lái đò Sông Đà lẽ cho
phép ta được nghĩ thêm: trong đôi mắt của nhà văn lớn hôm nay hình như vẫn lấp lánh
tia mắt không chỉ của tuổi thơ đời người còn của cả thời ấu thơ nhân loại. của
cả những giai đoạn vẫn cổ xưa nhưng gần gũi chúng ta hơn. Đọc những dòng viết
về thạch trận Đà giang, tôi cứ cảm thấy phảng phất những trận đổ trường xà, bát
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
quái cũng đủ cửa tử cửa sinh trong truyện cũ. Rồi lại chợt nhớ ra Gia t Khổng
Minh cũng đã lần lấy đá làm binh. Cứ thế, sự dữ dội của sông Đà được nhân mãi
lên trong trùng trùng liên tưởng.
Nhưng đoạn văn tả đá thác sông Đà bủa vây, chận bắt một chiếc thuyền xuôi đơn độc
tôi thấy không chỉ một màu hung tợn. Còn thể cảm nhận đây bóng dáng của
Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật
hùng tráng bài ca của gió thác sóng đá. Ban đầu, tác giả mới để cất lên khúc dạo
đầu với những cung bậc nỉ non của một dòng nước thác “nghe như oán trách gì, rói
lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to
hết cỡ ,các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang đỉnh
điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ man dại, trong đó âm vang cuồng loạn của
núi rừng được đưa vào để thanh viện cho sự diễn tả con thác giận dữ ầm ầm va đập
vào bờ đá. Tiếng sóng thác nhà văn viết “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Dám lấy lửa để tả cái vốn đối lập
với lửa dòng nước, dám lấy rừng để tả sông. Nguyễn Tuân quđã chơi ngông lắm
trong nghệ thuật. Nhưng ông chơi ngông ta thì được: ta được một cái nhìn tổng
quan hơn thú vị hơn về sự ơng giao sức mạnh giữa các lực lượng tự nhiên. Cũng
vậy, tôi cho rằng rất n chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tạo hoá trong những câu viết
thế này: “Ngoặt khúc sông lượn thấy ng bọt đã trắng xoá cả một chân giời đá”.
tôi nghĩ lòng Nguyễn Tuân chắc cũng sảng khoái hào hứng lắm khi rung lên với
“trận nước vang trời thanh la não bạt”.
Trên đây hình ảnh của một thiên nhiên Nguyễn Tuân từng đã muốn “trông
thành ra diện mạo tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Nhưng cũng rất đúng nếu nói
rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con người.
Thật thế, người lái đò sông Đà kia sẽ là ai, nếu con thuyền của ông không phải vật lộn
với “dòng thác hùm beo đang hồng hộc thế mạnh trên sông đá”? thể người ấy sẽ
mang một vẻ đẹp nào đó của một loại ông ngư, ông chài, ông lái… nhưng sẽ không
thể trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại, chính cái hùng vĩ của sóng của
thác, của sông nước Đà giang sẽ đưa con người dám đương đầu và chiến thắng thần đá
thần sông lên hàng oai linh tối thượng.
Người xưa vẫn coi “cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữbiểu trưng cho một
tưởng sống anh hùng. Thì ông lái đò sông Đà này, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
cũng chính con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng đấy còn
gì! Nhà văn đã dùng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái với dòng sông theo hướng:
thoạt đầu ởng như hai bên rất không cân sức. Nào là, quanh con người đơn độc,
“mặt nước la vang dậy…ùa vào bẻ gãy cán chèo”. Nào “sóng nước như thế
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
quân liều mạng vào sát nách đá trái thúc gối vào bụng vào hông thuyển”, để
đội thuyền lên, để lật ngửa mình thuyền giữa vang trời thác réo. Các luồng sóng thì thi
nhau “đánh hổi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ dễ tổn thương nhất của con
người… Sẽ tốn khá giấy mực đấy, nếu muốn kể hết ra đấy cái khối lượng hùng hậu
các từ ngữ mà Nguyễn Tuân đã trở về từ bên nhà võ để hào phóng vốc tung ra trên các
trang văn!
Vậy đối địch lại, ông đò những gì? Một chiếc thuyền mỏng manh, trên đó, con
người thật nhỏ biết bao giữa luồng thác đang giận dữ, hai tay ghì níu lấy mái chèo,
đôi chân kẹp chặt vào cuống lái, mặt méo bệch hẳn đi do “cnén vết thương” (Xin
được lưu ý rằng Nguyễn Tuân không viết “méo xệch” viết “méo bệch”. Ra cái
đau đớn tàn bạo của dòng nước nó còn làm cho bợt bạt cả sắc mặt người).
Thế nhưng ba lớp trùng vi của một thạch trận đầy cửa tử đã không ăn chết được một
con thuyền đơn độc hết chỗ lùi. Các dũng tướng phá trận ngày a, nếu vào đúng cửa
sinh đánh thốc ra đúng cửa sinh đối phương tan tành thế trận. Ông đò của
Nguyễn Tuân cũng thế. Nhà văn như muốn, qua trường hợp ông đồ, cùng mỗi chúng
ta nghiền ngẫm điều triết lí: giữa cái thế giới của độc dữ nham hiểm, cái thế giới
đầy sức mạnh mạn dại lập lờ cạm bẫy, con người vẫn đủ khả ng tìm thấy luồng
sinh. Người lái đò của Nguyễn Tuân không phép u. Ông đâu đôi cánh tay
Hecquyn nào để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông “đã nắm chắc binh
pháp của thần sông, thần đá”. cái kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống
ghềnh, không, phải nói cái ttuệ của người lao động ấy đã khiến cho ông lái,
trong tay chỉ cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác!) vẫn có thể phá thành
vượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên.
Một cảm hứng hào ng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác sông
Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát ca
ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Có quá lời, đáng ngạc nhiên chăng, nhất
ở một nhà văn văn có tiếng là kiêu bạc? Tôi không cho là như thế. Theo tôi, đừng nghĩ
Nguyễn Tuân chỉ ca ngợi một người. Ông ca ngợi Lao Động, ca ngợi Con Người, ông
theo cách của mình làm cho “hai tiếng Con Người vang lên kiêu hãnh biết bao!”.
Người lái đò sông Đà nhà văn muốn vậy thể hiện cái thế ngự trị của Con Người
trước Thiên Nhiên thần thánh.
khi trong thiên tùy bút của Nguyễn Tuân mái chèo của ông đò vừa ngừng chống
nhau ng thác đá thì dòng sông Đà bỗng nhiên đổi vẻ. Lời văn của Nguyễn y giờ
cũng bềnh bồng với bầu trời mùa xuân mùa thu, nơi tác giả từ trên tàu bay nhìn
xuống “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”. Đtừ
đó, bậc du tử tài hoa đã vẫy bút vẽ ra cả một bức tranh thuỷ mặc chỉ trong một câu
văn, cái câu sẽ còn vương vấn mãi trong hồn bao bạn đọc: “Con Sông Đà tuôn dài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Nếu được phép tỏ bày ý thích riêng, thì quả thực, cảm tình của tôi phần được đặt
nhiều hơn vào đoạn tả con sông Đà trữ tình này. Làm sao thể không yêu lối viết
của Nguyễn trong cái khúc nói về cái lần nhà văn “nhìn Sông Đà nmột cố nhân”.
Lúc đầu, chỉ cảm giác còn hồ về một s“thèm chỗ thoáng”, do “ở rừng đi núi
cũng đã hơi lâu”, thậm chí còn “quên đi mất mình sắp đổ ra Sông Đà”. Rồi con
sông hiện ra, nhưng chỉ một chút thôi, loang loáng như nghịch ngợm, đúng cảm
giác về cái nhìn con sông thấp thoáng, xa xa của con người còn phải bộ hành trong
rừng cây, trên đèo dốc. Chợt kịp khi nhận ra được dòng ng người bạn thì sao
u xa, ngơ ngẩn thế, trong cái ánh “yên hoa tam nguyệt” đọng sắc hoe hoe
vàng tự thuở Đường thi. ít nhiều còn hiểu được vì sao cái vui gặp lại sông Đà cố nhân
nó giống như “nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nhưng thật khổng biết tại làm sao tác giả
lại cảm giác được “nắng giòn tan… ”? Chỉ biết khi ba chữ ấy đã viết ra rồi thì
không thể nào đúng hơn, hay hơn, không thể nào đổi khác. cứ thế, cái “đằm đằm
âm ấm” của nắng mùa xuân trên dòng sông xuân lâu ngày gặp lại sức làm thấm
thía thêm niềm hạnh phúc được sống trên mặt đất này.
Nhưng diệu hơn nữa, theo tôi, đoạn văn bắt đầu từ câu viết: “thuyền tôi trôi trên
Sông Đà”. u văn viết toàn thanh bằng, đẹp như một lời thơ. đoạn văn xuôi ấy,
sao tôi thấy thơ hơn nhiều lắm so với bao nhiêu bài thơ tôi đã đọc. Chắc phải
người thơ nào thèm muốn tạo được sự lặng lẽ đầy mộng của một mũi đò lừ lừ trôi
giữa đôi bờ hoang dại, cái lặng lẽ tuyệt đối để ru hồn người vào cái ảo giác về bờ sông
tiền sử, về một nỗi niềm cổ tích hay hoài niệm về thời thời Lê… cái lặng lẽ
màng đến độ con người chờ mong một sự giật mình để mình ra khỏi giấc
xưa không được. Mùa xuân dòng Đà giang được nhà văn cho e ấp tỏ mình qua
mấy non nlên trên một ơng n những nõn búp cỏ gianh đồi i. Rồi con
hươu, mới tuyệt làm sao hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ
sương”. Nhẩm lại lúc viết Sông Đà, Nguyễn Tuân đã đến btuổi ngũ tuần, kể thì
hồn văn ấy đã già từ Vang bóng một thời, từ Một chuyến đi. Nghĩ thế lại càng thấy
quý cái bờ ngỡ non đến tuổi năm mươi lại nảy lộc trong nhà văn bên một dòng
sông, một cuộc đời mới mẻ.
cảm xúc đáng quý ấy cứ du dương mãi trong tôi với những âm thanh văn xuôi rất
đáng gọi là “nên câu tuyệt diệu”: “Hỡi ông khách Sông Đà phải ông cũng vừa nghe
thấy một tiếng còi sương?”. “Đàn dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như
bạc rơi thoi… Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa
xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”… Tôi cảm thấy chiếc thơ kết bằng những
câu văn xuôi ấy đem lại cho mình một thứ nhã thú văn chương phải nói rằng cũng
còn hiếm gặp ở trong đời.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Nhưng tác giả Người lái đò Sông Đà ng không phải con người duy mĩ. Ta trọng sự
tinh tế của ông trong cảm thức về cái đẹp. Nhưng qua thiên tuỳ bút, ta hiểu rằng cái
còn đáng trọng hơn nữa của ông vẫn tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước, sự
tôn kính công sức lao động của con người.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 4
"Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu".
Con sông Đà thân yêu ngày nay đã cho nhân dân ta thủy điện, đem ánh sáng đến mọi
miền đất nước. Cách đây trên bốn thập kỉ, nvăn Nguyễn Tuân, đã viết "Sông Đà",
trong đó có bài "Người lái đò sông Đà" ngợi ca cảnh sắc ng vĩ, tráng lệ của sông
núi và sự dũng cảm, tài hoa của con người Tây Bắc. Áng văn này đích thực là một "Tờ
hoa", một "Trang hoa", thể hiện những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân - một nghệ lớn, tiêu biểu cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại: uyên bác, tài
hoa, độc đáo.
Bài kí có hai nhân vật - hình tượng để lại cho người đọc nhiều cảm xúc thẩm mĩ, đó
hình ảnh con sông Đà và người lái đò trên Đà giang.
Mấy thế kỉ trước, đường lên Tây Bắc chủ yếu đi theo đường sông Đà, ca dao có câu:
"Đường lên Mường Lễ bao xa,
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh".
Sông Đà ng , vừa hung dữ, vừa thơ mộng xinh đẹp. Nguyễn Tuân coi sông Đà
người bạn thân thiết, một "cố nhân"với nhiều thương nhớ, bồi hồi. Đọc một em học
sinh biết thêm: Li Tiên và Bả Biên giang là hai cái tên xa xưa của Đà giang. Và độ dài
của nó là 883 nghìn mét, riêng từ đoạn biên giới Việt - Trung đến ngã ba Trung Hà dài
đúng 500 cây số lượng rồng rắn.
Sông Đà hung dữ có lắm thác nhiều ghềnh. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du
lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận, kể cho ta nghe tên bao nhiêu con thác dữ,
những cái n lạ hay: thác En, thác Giăng, Tôm, Nàng, Suối Hoa, Hót Gió,
thác Tiếu, thác Bờ,... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống sông Đà êm ả, bình yên;
người Thái mới có câu tục ngữ: "Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".
Ở thượng nguồn, lòng sông Đà có đoạn thắt lại "như cái yết hầu", đôi bờ vách đá dựng
thành "con nai,con hổ có thể vọt từ bờ này sang bờ kia". Ở ghềnh Hát Loóng "nước
đá, đá sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè...." dài hàng mấy cây số! những
cái vực với những hút nước sâu thẳm như giếng tông "nước thở kêu ặc ặc như
cửa cống cái bị sặc", phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn đang chờ mồi. Âm thanh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
tiếng thác mới ghê rợn, lạ lùng như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng tre, rừng vầu bị cháy. Nguyễn Tuân tạo nên những so sánh và liên tưởng
rất "đắt"cho thấy óc quan sát, cách nghĩ cách cảm của ông về thác, ghềnh Đà giang.
lúc ông ng Đà hung dữ "diện mạo tâm địa" một thứ kẻ thù số một của
con người. hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác với bao "thạch trận", bao
"trùng vi" những ông tướng đá dữ tợn, lạnh lùng đứng trấn giữ lớp lớp "cửa tử"
"cửa sinh" với những boong ke chìm mai phục khắp lòng sông, sẵn sàng nhấn chìm,
bẻ gãy tan tành những con thuyền đi qua. Sông Đà lại mùa, đoạn đẹp một cách
hữu tình: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích... Mùa thu nước sông Đà đỏ mặt một người
bầm đi rượu bữa...". Cuối tháng hai đầu tháng ba, hoa ban hoa gạo nở bung núi
rừng Tây Bắc "Con ng Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình...". Hình ảnh
những đàn hươu ngốn cỏ gianh, những ơng ngô xanh rờn, những con dầm xanh
quẫy vọt lên mặt nước sông "bụng trắng như bạc rơi thoi" gợi lên vẻ đẹp kì thú, hoang
sơ của Đà giang.
Nguyễn Tuân đã viết nên những đoạn văn tuyệt hay tuyệt đẹp nói lên vẻ hoang
của sông Đà: 'Thuyền tôi trôi trên ng Đà. Cảnh ven sông đây lặng tờ... Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồng ngày xưa". Sông Đà càng trở nên thơ
mộng với "những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển" vùng trung lưu "những
con đò mình nở chạy buồm vải" vùng hạ lưu. Đọc "Người lái đò Sông Đà", hơn bao
giờ hết ta cảm nhận một cách sâu sắc câu thơ đề từ: "Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng
sông". Với tình yêu ng núi của một con người tài hoa, Nguyễn Tuân đã tả sông Đà
một cách đa dạng, biến hóa muôn màu muôn vẻ. Không gian nghệ thuật thời gian
thẩm vừa thực vừa mộng, đã khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu thiết đối với
Đà giang mảnh hồn Tổ quốc thiêng liêng.
Hình ảnh người lái đò sông Đà được khắc hoạ khá độc đáo. Con người này như dẫn ta
đi xuôi ngược dòng sông, lúc vượt thác, lúc cưỡi ghềnh. Đó một người làm ăn giỏi,
thạo nghề sông nước. Với con thuyền u mái chèo, ông tung hoành xuôi ngược trên
chiến trường sông nước, "nắm chắc binh pháp của thần Sông, thần Đá". Ông đã đưa
con thuyền vượt qua nhiều cửa tử để đi vào cửa sinh, xuôi dòng bình yên. Hơn mười
năm liền chở đò xuôi ngược trên sông Đà, tiếng nói của ông "ào ào như tiếng nước
trước mặt ghềnh sông". Mái tóc nay đã bạc "cái đầu quắc thước đặt một thân cao to
gọn quánh như chất sừng, chất mun". Cánh tay ông "trẻ tráng" quá; nhìn ông lão bảy
mươi tuổi ta tưởng như mình đang đứng trước một chàng trai vạm vỡ. Bả vai
ngực ông nổi lên những "củ nâu" dấu vết của những tháng ngày chèo đò vượt thác.
Nguyễn Tuân gọi đó là thứ "Huân chương lao động siêu hạng".
Nhà văn đi sâu miêu tả ông lái đò đưa thuyền qua ba thạch trận trên chiến trường sông
nước. Cảnh ghềnh thác cực dữ dội, ghê sợ. Lúc thì ông tả thác qua âm thanh nước
nghe được, lúc thì ông tả cái hút nước mắt nhìn thấy được như một đoạn phim cận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
cảnh quay nhanh. Cảm hứng được khơi dậy, nvăn tung ra một kho ngôn từ giàu có,
phong phủ để diễn tả cuộc chiến đấu của người lái đò với thần Đá thần Sông. Cảnh
tượng vượt thác ghềnh với bao hình thù sắc thái, với bao bộ mặt âm thanh, xa
gần ẩn hiện, nhiều tình huống gay cấn nhất, oái oăm nhất được khắc hoạ trên quy
tầm vóc hoành tráng, đã làm nổi bật vai trò vị thuyền trưởng dũng cảm tài hoa,
chiến thắng những mưu xảo quyệt của thần Sông, thần Đá. Mưu trí dũng cảm,
quyết đoán làm nên bản lĩnh cao cường của ông lái đò. Có lúc con đò như một mũi tên
tre "vút vút" xuyên qua hơi nước của trùng vi thạch trận. lúc ông đã "nắm chặt cái
bờm sóng", nắm chắc lấy luồng nước, t qua mọi cửa tử lao thẳng đến cửa sinh,...
Cũng trường hợp ông bị luồng nước "vô sở bất chí" đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, đôi mắt nổ đom đóm hoa lên, nhưng ông lái đò vẫn tỉnh táo đưa con đò thoát
hiểm!
Nguyễn Tuân không chỉ tả ông lái đò trong lúc vượt thác băng ghềnh còn miêu tả
ông sau một ngày giao tranh với thần Sông thần Đá, để làm nổi bật cái trầm tĩnh, sự
thư thái ung dung của một vị thuyền trưởng lão luyện, dạn dày sông nước. Lúc ngừng
chèo, đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, ông lái đò chỉ nói chuyện "cá anh
vũ, dầm xanh", những hầm về mùa tiếng nto như mìn, bộc phá. Còn cái
chuyện vượt thác đối với ông chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ.
Nguyễn Tuân một nvăn bậc thầy về ngôn ngữ. Tiếng thác nước được ông tả biến
hóa, sinh động bằng một vốn từ ngữ giàu lạ. Trên mặt ghềnh thác thì "nước
đá, đá sóng, sóng gió"... Hút nước kêu "ặc ặc như rót dầu sôi vào". Tiếng thác
nghe từ xa cùng grợn "như oán trách ... như van xin.... như khiêu khích... giọng
gằn chế nhạo", lúc rống lên như đàn trâu mộng hàng ngàn con đang lồng lộn
giữa rừng cháy!
Nguyễn Tuân đã sử dụng vốn hiểu biết sâu rộng về địa lí, lịch sử, về quân sự, thdục
thể thao, về các môn nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, hội hoạ... cả tiếng lóng của
nghề sông nước để tạo nên những đoạn văn đẹp, hấp dẫn lạ. Nào đòn tỉa đòn âm,
đánh hồi lùng, phục kích, vu hồi. Nào trùng vi thạch trận, boong ke, cửa sinh, cửa
tử, pháo đài... Nào thanh viên, giáp cà, tiền vệ, hậu vệ tuyến giữa, tuyến hai...
Chữ dùng thật đắt, lối đặt câu co duỗi dài ngắn, vừa đa dạng, uyển chuyển, vừa thú vị.
Các từợng thanh, nhóm từ đồng nghĩa, những so sánh liên tưởng, lối nhân hóa... rất
sáng tạo, mới mẻ, ý vị hay. Hồ Xuân Hương viết: âm toạc chân mây, đá mấy
hòn" ("Tự tình") hoặc "Hòn đá xanh rì lún phún rêu ("Đèo Ba Dội"). Huyện Thanh
Quan lại câu thơ: "Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt - ớc còn cau mặt với tang
thương". Đó là những vần thơ tuyệt bút viết vé đá mang tính hàm nghĩa. Nguyễn Tuân
cũng những câu văn hay viết về đá, về thạch trận nơi sông Đà: "Phối hợp với đá,
nước thác reo hò làm thanh viện cho đá những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt...".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Nguyễn Tuân một nvăn uyên bác, tài hoa trong cách sử dụng vốn hiểu biết sâu
rộng vẻ văn chương. Một câu thơ nước ngoài, một câu cổ thi được ông dùng làm đề
từ, đã mấy ai biết xuất xứ của nó? - đã tạo nên cốt cách sang trọng cho bài kí. Ông
nhắc lại câu đồng dao để nói về huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh tranh giành người
đẹp, để yêu thêm núi Tản sông Đà:
"Núi cao sông hãy còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen".
Tác giả mượn câu thơ Tản Đà để làm đẹp thêm cái thơ mộng của Đà giang:
"Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".
Cảnh mùa xuân trên sông Đà cũng cảnh đẹp hoa khói như con sông Trường Giang
hơn nghìn năm về trước trong đời Đường khi thi tiên Bạch tiễn bạn Mạnh Hạo
Nhiên đi Quảng Lăng: "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu".
Nói về truyền thống anh hùng của đồng bào Tây Bắc, nhà văn đã không quên chọn hai
câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX -
để đưa vào bài kí:
"Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu,
Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu".
Nhờ thế mà đọc bài kí "Người lái đò Sông Đà", ta hiểu được nhiều điều bổ ích về cảnh
sắc thiên nhiên Tây Bắc, về địa lí, lịch sử, về truyền thống cách mạng của các n tộc
xung quanh con sông Đà, về hình thức, ghềnh sông, về tài nguyên Tổ quốc bao la, về
những câu thơ đẹp - tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây Nguyễn Tuân chọn lọc
đưa vào. Tâm hồn người như được nâng lên, trí tuệ được khơi dậy, bừng sáng trở
nên giàu có. "Người i đò Sông Đà" đúng một giai phẩm Nguyễn Tuân đã góp
vào, làm đẹp thêm vườn hoa văn nghệ Việt Nam.
Ai đã từng đọc "Vang bóng một thời" chắc cảm nhận được cái sắc sảo, tài hoa lịch
lãm của nhà văn Nguyễn Tuân khi ông nói về chuyện uống trà, thưởng hoa, trồng cây
cảnh, chơi chữ, đánh thơ, thả thơ, chơi đèn trung thu... của những nhà nho thuở trước,
những thứ ăn chơi tao nhã, sang trọng, thể hiện một phong cách sống đẹp, khẳng định
bản sắc của nền văn hóa Việt Nam với độ dày hàng nghìn năm lịch sử.
Đọc "Người lái đò Sông đà", ta biết thêm một Nguyễn Tuân uyên bác, tài hoa, độc
đáo. Tả cảnh thì biến hóa, trong bốn mùa, trong mọi thời gian và không gian, đa thanh
phức điệu lúc nói về thác, ghềnh... Bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác
mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho chữ nghĩa giàu có. Văn của Nguyễn Tuân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa, cần mẫn và sáng tạo, đem thơm thảo cho
đời. Câu văn xuôi tài hoa, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang
dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc "Người lái đò Sông Đà" ta yêu thêm con người Việt Nam dũng cảm, cần cù và tài
hoa; ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. ng Đà ququà tặng của
thiên nhiên:
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát - khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 5
Nguyễn Tuân nhà văn xuất sắc của nền n học Việt Nam, ông có rất nhiều những
tác phẩm hay nổi bật lên tác phẩm Người lái đò sông đà ông đã thể hiện được
những phong cách nghệ thuật tài tình của mình trong tác phẩm đó.
Nguyễn Tuân đã rất i hoa khi thể hiện phong cách của mình trong thể loại bút ký,
bút đó những tâm huyết của ông vậy ông đã giành tâm huyết cả những
niềm đam của mình vào thể loại này, ông đã chứng minh cho người đọc những tài
năng trong phong cách thơ ca của mình, ông tài hoa bởi chất ký giàu chất suychính
sự, sự đan xen giữa các yếu tố tạo nên một phong cách đẹp thơ mộng, niềm tự
hào của cả dân tộc bởi một tài ng về bút như ông, ông đã tạo nên một phong
cách nghệ thuật đặc sắc trong con người của mình, với tài năng của mình ông đã tạo
nên một phong cách bút ký đặc sắc và chỉ có ở ông mới có.
Với tình yêu thiên nhiên đất nước Nguyễn Tuân đã thể hiện lối viết phóng túng của
mình trong tùy bút người lái đò sông đà, một tình yêu mãnh liệt đã tạo cho ông rất
nhiều cảm xúc để thăng hoa vẻ lên một bức tranh với đầy đủ màu sắc về sông đà, sông
đà hiện lên với những tinh cách hung bạo, dưới ngòi bút của mình Nguyễn Tuân đã
thể hiện dòng sông đó với những tính cách rất đa dạng, những nét khắc họa của mình
đã được thể hiện qua hình ợng sông đà hình tượng người lái đò sông đà. Người
đọc hình dung được những vẻ đẹp đó qua lối viết linh hoạt, nó thể hiện sông đà với đa
dạng những u sắc tính cách lúc cũng dịu êm lúc thì ầm ầm hung dữ như
những con vật dữ, sông đà minh chứng lịch sử dòng sông hào hùng của dân tộc,
dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Tuân đã tạo nên cho người đọc những cảm xúc khó
diễn tả ở hình tượng sông đà.
Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên trên mảnh đất của mình,
với tình yêu quê hương da diết ông đã viết lên hình tượng sông đà thật phóng túng biết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
bao, với đa dạng cảm xúc, chắc hẳn ai đã từng đọc qua tác phẩm y cũng đều tự hào
về phong cách viết phóng túng giàu sức truyền cảm của Nguyễn Tuân, ông nhà văn
tài ba sự tinh tế trong việc cảm nhận những vẻ đẹp ẩn dấu bên trong rất
nhiều những cảm xúc, cảm xúc của những con người tình yêu thương thiên nhiên
sâu sắc. Sự tinh tế trong phong cách cảm nhận thiên nhiên của nh càng góp phần
làm cho phong ch của ông đậm nét qua những hình tượng độc đáo người đọc
cảm thụ được trong đó một tác giả của tình yêu, với nét bút đậm đà những tài hoa
cả những tinh tế, tác giả không chần chừ khi vẽ lên những vẻ đẹp tài hoa đó.
Với những cảm xúc được thể hiện tùy hứng của Nguyễn Tuân đã tạo ra một sông đà
với một vẻ đẹp ktheo dõi nhiều những tình huống khiến người đọc khó quan sát
nhanh nhạy được, văn của Nguyễn Tuân không thể hiện lên trên bề mặt câu chữ mà nó
ẩn dấu dưới câu chữ những tài hoa uyên bác, ông đã chứng tỏ cái ngông, cái chất
văn chương của mình tới độc giả, người đọc sẽ không thể bỏ qua một vị nhân tài trong
lối tùy bút, ông đã thể hiện lối viết phong phú tới những vẻ đẹp hoàn mĩ, đối với sông
đà ông đã miêu tả sông đà với những hình nh thu hút đắm say lòng người sông đà
được so sánh với những hình ảnh ấn ợng thu hút lòng người bởi tài năng sử dụng
phong cách của mình trong thể loại tùy bút người lái đò sông đà.
Những nét đặc sắc được lặp đi lặp lại, chúng ta đều thể cảm nhận được những đặc
sắc nghệ thuật đó, tác giả đã cảm nhận được cuộc sống của người lao động thông qua
nhân vật người lái đò, ông đã nêu lên tinh thần anh dũng kiên ờng của người lái
đò sông đà, với chất ngông của ông trước cách mạng tháng tám ông đã những ng
tác mang đậm tính chất nhân những nét độc đáo đó đã tạo lên phong cách nghệ
thuật của Nguyễn Tuân một cách đặc sắc và tiêu biểu.
Với những tài năng của mình Nguyễn Tuân đã thể hiện phong cách nghệ thuật của
mình thật đặc sắc trong tác phẩm với những nét bút tài hoa ông đã vẻ lên một con
sông đà với bao nhiêu tính cách chắc hẳn người đọc ấn tượng với hai tính cách nổi
bật đó nét hung bạo những lúc cũng dịu êm, dòng sông hiện lên trong mắt người
đọc hai trạng thái trái ngược nhau khi dữ dội hung bạo thì sông đà đã cuộn sóng
làm cho người đọc ngạc nhiên bởi khung cảnh thiên nhiên này, đôi khi tác giả còn
thể hiện những nét dịu êm của những gái DiGan, hai nh cách điển hình trong tùy
bút người lái đò sông đà của Nguyễn Tuân. Tác giả còn vẻ ra hình tượng người lái đò
cũng cùng hiên ngang anh dũng đã ợt qua những luồng sóng hình để lái
vững những chiếc thuyền đò đây một trong những đặc sắc nghệ thuật của tác giả,
với những tài năng đó Nguyễn Tuân đã tạo n một tác phẩm để lại rất nhiều cảm xúc
trong lòng người đọc.
Mỗi chúng ta nếu ai đã từng đào sâu tìm hiểu về Nguyễn Tuân thì đều nhận thấy
ông một con người tài hoa một nhân cách cao đẹp ông không chỉ nhìn nhận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
thấy một con người với tình yêu thiên nhiên lòng cháy con nhận thấy một con
người với tài năng sử dụng chất ngông của mình, sau cách mạng tháng tám ông đã
càng chứng tỏ chất ngông của mình, nhưng tình cảm Nguyễn Tuân thể hiện trong
bài này cũng rất đặc sắc khi tác giả so sánh con sông đà như những áng tóc trữ tình ….
Qua đó ta thấy được sự đa dạng trong phong cách của Nguyễn Tuân, một con người
có cái nhìn đa chiều nhiều phương diện, đã nhìn sông đà không chỉ ở một góc cạnh
nhìn sông đà ở nhiều chiều nhiều mặt của một lối văn trữ tình.
Nguyễn Tuân nhà văn tài ba chúng ta bắt gặp ông với một người giàu chất suy tư, tài
năng của ông được ông thể hiện đậm nét qua hình tượng sông đà với áng tóc trữ tình
thu hút lòng người.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 6
Nguyễn Tuân được xem một người nghệ sĩ tài hoa uyên bác, đối với sự nghiệp
văn chương ông có những nét đặc sắc tiêu biểu riêng thể khẳng định không phải
người nghệ o cũng có. Đó chính những vẻ đẹp trong phong cách nghệ thuật,
thật riêng biệt độc đáo tiêu biểu trong phong cách sáng tác của ông tiêu biểu thể
hiện qua tác phẩm “Người Lái Đò Sông Đà” .
Nguyễn Tuân với năng năng nghệ thuật độc đáo nhất nhì trong văn học Việt Nam hiện
đại. Ông là một người nghệ sĩ tài hoa và cả đời của ông luôn phấn đấu để đi tìm những
điểm riêng biệt những nét “khuất lấp” những cái đẹp trong phong cách nghệ thuật
của mình. Phần lớn các tác phẩm của ông thi đều thể hiện được sự uyên bác cũng như
người tài hoa “chỉ đạo những con chữ”. Trong bài tùy bút “Người lái đò sông đà” ông
đã thể hiện được phong cách riêng của nh qua những điều đó. lẽ, bởi đây
bài ông rất tâm huyết ông đã dùng chính tài năng phẩm hạnh của mình để
sáng tác lên những tác phẩm đậm chất bi tráng này, dòng sông của người lái đò
dòng sông mà ông đã quan sát ông cái nhìn sâu sắc về nó, không chỉ một
dòng sông biểu hiện cho sức mạnh mẽ của con người mà đó dòng sông của minh
chứng lịch sử. Với tài năng nghệ thuật độc đáo mang tính riêng biệt ông đã tạo nên
cho mình những sáng tác riêng đó những sáng tác cổ xưa mang biết bao dấu
ấn mạnh mẽ tác giả không chỉ dừng chân ở đây để có những quan sát thấu đáo mà ông
đã dùng những cảm xúc thật của mình để viết lên bài thơ này.
Dường như hình ảnh của người lái đò sông đà đã được thể hiện rất sinh động tài
tình qua phong cách nghệ thuật của ông, ông đã dùng những sáng tạo nghệ thuật đó để
áp vào cho những con người nơi đây, hình ảnh về dòng sông của quê ơng đất
nước đã tạo nên những dâu ấn mạnh mẽ trong lòng tác giả, ông đang thể hiện những
điều đó rất nổi bật trong cách sáng tác của chính mình. Hình ảnh đẹp về dòng sông
của quê hương như đã thôi thúc khiến cho ông cảm hứng để viết lên bài tùy bút hay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
như thế này. Tác giả như có phương án tạo ấn tượng rất đặc sắc qua cách giới thiệu về
dòng sông nó đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe, tác giả không khỏi
hình dung ra những chi tiết đặc sắc khác thể hiện trong tác phẩm này. Những hình ảnh
về dòng sông còn mang những tính cách của con người đời thực nhưng đã được nhìn
qua lăng kính của Nguyễn Tuân nên mọi thứ đều trở lên đẹp đẽ và có phí phách riêng.
Dòng sông Đà hiện lên dưới ngòi bút khám phá của ông cũng có lúc hung bạo và cũng
lúc trữ tình đã m xoay chuyển mọi tính cách qua những hoàn cảnh khác nhau,
hình ảnh về dòng sông cũng giống như về con người, tác giả đã miêu tả quan sát
dòng sông qua những tính cách điển hình tiêu biểu đó. Trong bài tùy bút thành
công này của tác giả đã như đã thể hiện, bộc bạch hàng loạt những chi tiết thể hiện
dòng sông hung bạo đó là có những vách đá ngăn thành chết lòng sông đà như một cái
yết hầu..
Tất cả các chi tiết khác cũng thể hiện điều đó dài hàng cây số nước đá, đá
sóng, sóng gió, cuồn cuộn…, các chi tiết đó cứ như ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng vầu, rừng tre… hơn nữa các chi tiết đó đã thể hiện được hình ảnh về
dòng sông quê ơng đất nước, tác giả đã dùng tài năng của mình để sáng tác lên
những hình ảnh hay và sinh động như vậy, hình ảnh đó thật mang dại và chính với khả
năng tài năng bậc thầy của mình ông đã vlên một hình ảnh về dòng sông với vẻ
đẹp thật hùng vĩ, với cách so sánh sinh động đã tạo nên cho ông một bài tùy bút hay
để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Với cách so nh von nhưng
hợp tình hợp như vậy hình ảnh về dòng sông cũng đã thể hiện rất chi tiết đặc
sắc nó mang ấn tượng cho người đọc, bởi hàng loạt những hình ảnh tạo ấn tượng riêng
biệt,hình ảnh về quê hương của chúng ta đã hiện lên những hình ảnh tuyệt đẹp như
ngày càng thu hút mạnh mẽ tầm quan sát của người đọc, những hình ảnh trên cũng đã
mang cho người đọc những cái nhìn u rộng trở thành một niềm tin sáng lóe
trong cái nhìn của tác giả về chính sản phẩm mà ông đã tạo ra.
Ông một người trí ởng tượng phải nói cùng phong phú, cũng lúc ông đã
sử dụng những hình ảnh thuật của bộ môn nghệ thuật thứ 7- điện ảnh của âm thanh
hội họa để thể hiện được những chi tiết tiêu biểu qua tác phẩm này, ông cũng nhân
hóa những hình ảnh của dòng sông để miêu tả thể cảm nhận được tính cách
hung bạo của dòng sông đó. Tưởng như những hình ảnh về dòng sông nó mang những
dấu ấn mạnh mẽ trong cách sáng tác của c giả, những thác gập ghềnh mang
cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về những hình ảnh đó, hình ảnh của dòng sông đà
đã được tác giả thể hiện sinh động cùng ấn tượng cho người đọc, không chỉ
mạnh mẽ trong đường khối cũng đã tạo nên những tính cách khác cho người
đọc, hình ảnh của dòng sông đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng tác giả
bởi tính cách và những nét riêng biệt mạnh mẽ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Những hình ảnh thật kphai mờ về một dòng sông hoang dại hung dữ cũng đã
được thể hiện sâu sắc trong nhà văn, ông đã dùng tài năng của nh để nói về những
hình ảnh đó, cảm xúc của nhà văn cũng thật sâu sắc sinh động khi ông nói về cảm
xúc của chính mình dòng sông đó đã mang dại chúng ta nhìn thấy tài năng của
tác giả được thể hiện mạnh mẽ trong đó, Nguyễn Tuân như đã ca ngợi dòng sông này
và nó hiện lên thật độc đáo sinh động, nh cách của dòng sông đó dòng sông trữ
tình yêu thương đã hiện hữu trong con người của tác giả. Bên cạnh hình ảnh
dòng sông hung dữ thì hình ảnh của dòng sông hiền hòa cũng được tác giả thể hiện
sâu sắc trong i tùy bút này, dòng sông được tác giả miêu tnhư người con gái
mái tóc dài, màu sắc cũng được thay đổi đặc sắc trong bài thơ, với những nét phong
phú đặc sắc của bài thơ tác giả đã thể hiện được những chi tiết đặc sắc mang
những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng của tác giả
thể nói nghệ thuật xây dựng nh tượng người lái đò của tác giả Nguyễn Tuân đã
điển hình thể hiện những không khí hào hùng và man dại trong cái nhìn của nhà
văn, Nguyễn Tuân nvăn đã biết tận dụng tốt các nh ảnh, chi tiết để tạo lên
hình tượng của dòng sông qua những chi tiết thật không khí hiện lên cũng mang rợ
những ấn tượng sâu sắc vang nhộn. Những hình ảnh về một dòng sông
những chi tiết rất đặc sắc đúng với không khí chi tiết tác giả đã đang
sử dụng đây. Với cái nhìn đầy chứa đựng đầy thiện cảm đã tạo nên những sâu
sắc riêng trong con mắt nhìn của tác giả về i nhìn cách quan sát của tác giả cũng
thật toàn diện như đang mang những dấu ấn mạnh mẽ trang nghiêm, những
chi tiết tuyệt vời tác giả thể hiện trong tác phẩm này tác giả đã miêu tả ràng
chi tiết hình tượng tiêu biểu của tác giả về những hình nh đó, hình nh về quê
hương với tình yêu quê hương thắm thiết đã tạo nên cho tác giả cái nhìn sâu sắc
hơn, ông đã miêu tả dòng sông qua con mắt thấu đáo của mình.
Với những tài năng không thể phủ nhận nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ông đã thể
hiện rất nhiều những câu văn nhẹ nhàng đã thể hiện một tình cảm đặc biệt của
tác giả đối với dòng sông đà, dưới ngòi bút thần của tác giả thì hình ảnh đó trở lên thật
lệ không sánh bằng. thể nói những hình ảnh về thiên nhiên cũng được
tác giả thể hiện sinh động nh ảnh về người lái đò sông đà cũng được thể hiện rất
chi tiết đặc sắc nhà văn đã thiên nhiên Tây Bắc như một thứ vàng mười, nó
thật quý giá trong con mắt nhìn người cách quan sát của tác giả về những chi tiết
nổi bật đó.
Tài năng nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ hết sức phong phú cũng như đậm chất tài
hoa của mình thì đã mang cho c giả một cái nhìn toàn diện hơn về phong cách
sáng tác của nhà văn, nhà văn không chỉ mang một vẻ đẹp của người nghệ tài hoa
mà ông còn mang những vẻ đẹp của một người có cái nhìn đời sâu sắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 7
Nguyễn Tuân nhà văn tài tạo dựng không khí, đem đến cho c phẩm bằng nghệ
thuật miêu tả một sự sống động như sự việc đang diễn ra thật, lối thuật kể đầy kịch
tính, mạch văn dồn dập, từ ngữ biến hlàm cho người đọc thấy lôi cuốn, hấp dẫn
cảm giác như đang trực tiếp chứng kiến sự việc. Nhà văn đã thể hiện một cách tài hoa
tất cả các tâm, trí, lực, tất cả sự điêu luyện, tinh xảo nhà nghề của người lái đò. Theo
Nguyễn Tuân, chỉ có thứ huân chương lao động siêu hạng của cuộc sống tặng cho ông
đò mới thực sự xứng đáng (dấu tròn ở ngực).
Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng những biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa một
cách ẩn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo?
Tìm đến sông Đà, Nguyễn Tuân trước hết phát hiện con sông vẻ đẹp hung bạo, dữ
dội. Đoạn văn trích tập trung miêu tả cái hung bạo của con sông qua cảnh thác nước
và trận địa đá trên sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành: Mặt sông quảng ấy lúc
đúng ngọ mới thấy mặt trời (so sánh: vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu;
quan sát hình dung: khoảng cách nhẹ nhàng tưởng như đứng từ bờ này ném nhẹ hòn
đá sang bờ bên kia... Những cảm giác tác giả muốn truyền cho người đọc rất ấn tượng:
ngồi trong khoang đò quãng ấy, mùa cũng cảm thấy lạnh, nhà n nói cái đẹp, cái
tối của vách đá bsông để tôn lên sự hùng hiểm trở của sông Đà quãng lòng sông
hẹp...). Tác giả đã sử dụng biện pháp tô đậm, cường điệu.
Khi miêu tả ghềnh sông, Nguyễn Tuân sử dụng cấu trúc câu trùng điệp nước xô đá, đá
sóng, sóng sóng, cuồn cuộn lòng gùn ghè suốt năm như đòi nợ xuýt bất kỳ
người lái đò nào qua đây. Tác giả dùng biện pháp vừa cường điệu vừa nhân hóa.
Đoạn miêu tả những hút nước trên sông được Nguyễn Tuân tái hiện những cảm giác
mạnh dành cho kỹ xảo điện ảnh... Tất cả chứng tỏ khả năng quan sát sự hình dung,
liên tưởng tuyệt vời. Ở đây tác giả dùng biện pháp so sánh, thể nghiệm...
Đoạn miêu tả “thác nước” và “thạch trận” sông Đà. Âm thanh dữ dội, đầy những tiếng
réo gào. “Còn xa lắm mới đến cái thác ới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo, gần mãi
lại réo to mãi n”. Tiếng thác được ntiếng rống của một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Người đọc thể cảm nhận được sự lồng
lộn, giận dữ của con sông qua một thứ ngôn từ có sức nóng, có màu sắc. Tác giả đã sử
dụng biện pháp so sánh.
Hình ảnh: “Sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đã’ cho thấy sự mịt mùng của sóng
nước. Đá: ngàn năm mai phục, khi con thuyền tới thì chồm cả dậy, vồ lấy thuyền, mặt
hòn nào cũng ngngược, nhăn nhúm, méo đến dữ tợn; đá bày “thạch trận”, sông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Đà đã giao việc cho mỗi hòn với đá ớng, đá quân, những tường vây sóng ớc
tạo ra chỉ chờ con thuyền sơ hở để đưa vào cửa tử chết chóc... Nước: reo vang dậy,
làm thành viên đá để bẻ gãy cán chèo khí trên tay ông đò, đánh đến mòn đòn độc
hiểm. Khi đối mặt, sông tích tắc sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng xuống
châm lửa vào đầu sóng làm hoa mắt. Ngay cả khi đã thua thì mặt các hòn đá cũng hết
sức đáng sợ: cái mặt xanh lè vì thất vọng.
Tóm lại, bằng các biện pháp nhân hoá, so sánh, đậm, phối hợp với việc sử dụng
ngôn ngữ giàu chất tạo hình, gợi hình, những liên tưởng kỳ thú,táo bạo, khả năng vận
dụng tổng hợp kiến thức của nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực: nghệ thuật, thuật,
quân sự những câu n sức nén, sức dồn, độ căng, độ giãn đã giúp Nguyễn Tuân
khắc họa một cách ấn ợng về một con sông hung bạo, người đọc thể hình dung
sông Đà như một linh hồn, một thứ thiên nhiên nhiều lúc như Nguyễn Tuân
nói: trông nó ra thành “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người Tây
Bắc, gợi liên tưởng tới câu đồng dao về thần sông, thần núi trong truyện cổ:
Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen
Ở đây người đọc vẫn nhận ra “chất Nguyễn” (tức phong cách riêng của Nguyễn Tuân)
trong nhân vật của Nguyễn Tuân: chút đó hơi khinh bạc tài tử. Như vậy, chính
cái hùng vĩ, dữ dội của sóng, thác, nước Đà yếu tố tôn ông lái đò lên hàng “oai
phong tối thượng”. Đó điều kiện để nhân vật Nguyễn Tuân thể hiện các ngón nghề
của mình. Thiên nhiên Tây Bắc đẹp đẽ, kỳ thú, những con người Tây Bắc thực sự
thứ “vàng mườicủa đất nước, tài hoa nvậy mới “trị” được con sông này, bắt
phục vụ cho cuộc sống của mình.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 8
Nguyễn Tuân cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc
sống. Ông có strường về thể loại tuỳ bút. “Người lái đò sông Đà” tập tùy bút xuất
sắc của nguyễn Tuân. Tác phẩm đã khắc hovẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ
tình của con sông Đà ca ngợi người lái đò giản dị mà kỳ trên dòng sông. Góp
phần làm nên thành ng của “Người lái đò sông Đà” chính lớp ngôn ngữ giàu giá
trị tạo hình và biểu cảm mà Nguyễn Tuân đã công phu rèn giũa.
Với thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân tiếp tục sử dụng tài hoa của
mình trong việc liên kết giữa quá khứ, hiện tại tương lai. Trong tâm thế của con
người sau Cách Mạng ấy, sự đối lập dần được thay thế, nhường chỗ cho cho sự con
người ôn hòa, dễ chịu hơn. Đlàm được điều ấy, sự góp mặt của những yếu tố Hán
Việt là điều không thể thiếu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà
màu sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông đây lặng tờ. Hình
như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thếthôi. Thuyền
tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp c
gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp
của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ Yên Bái Lai Châu. Con
hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên
một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn i không chớp mắt như hỏi tôi bằng các tiếng
nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, phải ông cũng vừa nghe thấy
một tiếng còi sương?”. thể gọi đấy những dòng tvăn xuôi đập chất cổ điển
của nhà tùy bút.
Việc sử dụng từ ngữ Hán Việt trong các tác phẩm thuộc các thể loại của Nguyễn Tuân
trước hết xuất phát từ đòi hỏi của đối tượng được miêu tả. Do viết về đề tài “vang
bóng” các nhân vật chính nho nên ngôn ngữ Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử
tù” rất cổ nh, bác học. Viết về cuộc sống của những con người i tử, tài hoa một
thời vang ng, về luật hình phong kiến, về thú chơi chữ, thả thơ, hát đào,thì lớp
từ Hán Việt nhiên đắc địa. Bên cạnh đó, từ ngữ Hán Việt còn góp phần tạo ra âm
hưởng đặc biệt cho lời văn Nguyễn Tuân. Ấy cái âm hưởng vừa hiện đại, vừa đĩnh
đạc cổ kính, đọc lên đã cảm thấy không lẫn với giọng điệu của bất cứ nhà văn nào.
Những từ ngữ ấy được Nguyễn Tuân sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, tạo
âm vang ngàn xưa vọng lại âm vang của một thời xa vắng. Trong “Người lái đò
sông Đà”, người đọc được thưởng thức một loạt ngôn từ mới mẻ, sáng tạo, mang bản
sắc riêng: “lặng tờ, bờ tiền sử, nỗi niềm cổ ch, thơ ngộ…”. Nhà văn thực sự một
ông lái tài hoa trên dòng sông ngôn ngữ. Các câu văn Nguyễn Tuân giàu nhạc điệu, co
duỗi nhịp nhàng. Nhạc điệu trầm bổng, đưa người đọc đến với cái yên của dòng
sông đà nơi hạ lưu: “Dòng sông quãng này lững lờ như thương nhớ những hòn thác đá
xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. con sông như đang lắng nghe những
giọng nói êm êm của người xuôi, con sông đang trôi những con đò mình nở chạy
buồm vải no khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển dòng trên”.
Nguyễn Tuân, ta n bắt gặp hai thao tác ngỡ mâu thuẫn thực ra thống nhất:
sử dụng từ ngữ chuyên biệt, chính xác song song với hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa.
Thao tác thứ nhất, Nguyễn Tuân lựa chọn những từ ngữ thật đích đáng để gọi sự vật
đúng tên của nó, đặc tả sự vật đúng tính chất của nó. Chẳng hạn, khi miêu tả thác nước
sông Đà, thoạt tiên là, tác giả gọi những “hút nước” sông Đà những “cái giếng
sâu”, gọi “thiên nhiên Tây Bắc” “thứ kẻ thù số một”, gọi “chiến trường sông Đà”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
“quãng thuỷ chiến mặt trận sông Đà” Thay cho việc dùng từ trận đá” bằng từ
“thạch trận”. Tiếp đó, nhà văn sử dụng tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn,
kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thởkêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc
lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như oán trách gì, rồi lại như
van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn chế nhạo. Thế rồi rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”…
Những cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và
nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy
âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta
cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan
trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”.
Nếu như vẽ một i biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã một đường lên rất
cao rồi đột ngột trvề với thanh ngang ghi âm của biểu đồ. Thoạt tiên tri thức về
âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Nước đây thở u
như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác
nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng gằn
chế nhạo. Thế rồi rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”…
Song hành với âm thanh sóng động lớp hình ảnh đa dạng, phong phú. Bằng vốn
hiểu biết phong phú về hội họa điêu khắc, cùng trí tưởng tượng độc đáo óc quan
sát sắc sảo được diễn tả bằng vốn ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo
hình, nhà văn đã giúp ta mường tượng về độ cao hun hút khôn cùng của “đá bờ sông
dựng vách thành” gợi lên nét hùng vĩ, hoang sơ, cả sự ghê rợn nữa. Đặc biệt khi
“chẹt lòng ng Đà như một cái yết hầu” thì sức nước hẳn phải ghê gớm, dữ dằn lắm!
Cách so sánh, liên tưởng mới mẻ, bất ngờ của Nguyễn Tuân quả khiến người đọc cũng
“thấy lạnh” nđang ngồi chung qua quãng ấy với Nguyễn Tuân vậy. Vài nét vẽ
thật giàu sức gợi, từ ngữ của Nguyễn Tuân cũng góc cạnh, sắc nét như những đường
chạm trổ của người thợ tài hoa.
Thao tác thứ hai, Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm những hình thức biểu đạt rất khác
thường. Ông rất công phu trong việc ghép từ, hoặc thay thế một từ thông dụng bằng từ
ngữ lạ hoắc, gây bỡ ngcho người đọc. Những từ ngữ được lạ hoá như: “thanh viện”
(hỗ trợ bằng âm thanh), “thanh la, não bạt” (nhạc cụ bộ bằng đồng tạo âm thanh
mới lạ), “đánh hồi lùng” (đánh dồn dập), “đòn âm” (đòn ngầm), “trùng vi” (vòng vây
nhiều lớp), “tế mạnh” (phi mạnh, lao mạnh)…
Hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa đã được Nguyễn Tuân đẩy đến mức cao hơn khi trước
một đối tượng cần miêu tả, ông dùng đồng thời nhiều cách định danh, nhằm nói cho
kiệt cùng mọi sự cảm nhận của mình. Nguyễn Tuân thuộc số những cây bút đặc biệt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
chú trọng nh thức câu văn. Điều này thể hiện sự gia công của ông về cách cấu
tạo câu cũng như về các biện pháp tu từ trong câu. Nếu cấu tạo câu thời kì trước Cách
Mạng trong văn ông phợp với giọng điệu cổ kính trang nghiêm, thì với thời kỳ sau
Cách Mạng câu văn cầu kỳ, nhiều khi dài hơi, trau chuốt hơn phù hợp với tính phô
bày tri thức của mình và tài dùng chữ.
Câu văn của Nguyễn Tuân thường xu hướng phức hóa. Bất cứ thành phần nào
trong câu văn của ông cũng đều thể được phát triển một cách dễ dàng. Ông mang
trong mình cái giọng kể khoan thai trong những thiên truyện, giọng giãi bày miên man
trong những thiên tùy bút, giọng phân tích, phẩm nh tỉ mỉ kiểu “chẻ sợi tóc làm tư”
trong các bài viết về văn học nghệ thuật.
Sự chau chuốt trong u văn Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện ở bình diện cấu trúc
còn mặt tu từ. Nói cách khác, yêu cầu về tu từ đã được đáp ứng bằng những đặc
điểm của cấu trúc. Những biện pháp phương tiện được nhà văn sử dụng thường
khiến cho câu văn phải dãn ra, trổ nhiều cành nhánh rậm rạp, với những tầng bậc khác
nhau và đạt hiệu quả thẩm mỹ rõ rệt.
Trong các phép tu từ, thì sóng đôi pháp, điệp, giải nghĩa, tách câu những biện
pháp được Nguyễn Tuân ưa dùng hơn cả. Có những kiểu tu từ dễ kéo câu văn trở về
kiểu dữ ơng biền ngẫu kĩ một thời, ( như phép sóng đôi pháp), nhưng
Nguyễn Tuân vẫn sử dụng một cách thoải i, bằng sự cao tay của mình, ông viết
nên những câu văn nhịp nhàng cân đối vẫn rất hiện đại. Chẳng hạn, miêu tả âm
thanh thác nước, ông hình dung: “Tiếng nước thác nghe như oán trách gì, rồi lại
như van xin, rồi lại như khiêu giọng gằn chế nhạo”; “Có chỗ vách đá thành
chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay m hòn đá qua bên
kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia” .
Có những phép tu từ tưởng chỉ phù hợp với kiểu câu văn giải thích đậm tính duy lí của
ngữ pháp châu Âu (ví như phép giải ngữ), vậy mà, qua bàn tay Nguyễn Tuân, chúng
bỗng phát huy hiệu qubất ngờ trong việc tạo nên âm giọng điệu đặc biệt cho lời văn:
“Tôi sợ hãi khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi
cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà từ đáy cái hút nhìn
ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải”. Câu
văn trổ nhánh rậm rạp đây thể kể đến: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài
hàng cây số nước xô đá, đá sóng, ng gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm như lúc nào cũng đòi sợ suýt bắt người lái đò sông Đà nào m được qua đấy”.
Hay: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng
trèo nhanh để lướt quãng sông, y như ô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua
một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh tay lái cho vững
phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Tóm lại, cả về mặt cấu trúc phương diện tu từ pháp, Nguyễn Tuân đã thể hiện
nhiều khổ công tìm tòi, sáng tạo. Câu văn của ông vừa cho thấy dấu vết của một lộ
trình: ấy là lộ trình hiện đại hóa của câu văn quốc ngữ, vừa phản ánh khá rõ nét những
đặc điểm phong cách ngôn ngữ của một cá nhân.
Nói đến những tìm tòi, sáng tạo của Nguyễn Tuân về ngôn ngữ, không thể không đề
cập nghệ thuật so sánh đặc sắc của ông. Về lượng, câu văn so sánh trong các văn bản
thuộc mọi thể loại của Nguyễn Tuân tỉ lệ cao một cách khác thường so với tác
phẩm của các tác giả trong cùng bối cảnh n học. Nhưng điều đáng nói n hiệu
quả nghệ thuật của phép tu từ so sánh trong lời văn Nguyễn Tuân. Hiệu quả này
được nhờ những m tòi không mệt mỏi của nhà văn về cấu trúc so sánh, về từ chỉ
quan hệ so sánh, đặc biệt hình ảnh dùng để so sánh. Săn m những hình ảnh dị
thường, ít ai nghĩ tới, làm cho mỗi câu n so sánh thực sự một kết quả khám phá,
thể hiện một cái nhìn khác biệt về đối tượng, đó những thao tác thường thấy
Nguyễn Tuân.
Thao tác này được nhà văn sử dụng rộng rãi mọi thể loại, mọi giai đoạn sáng tác.
vậy, thật khó thấy được sự khác biệt nghệ thuật so sánh của câu văn trong truyện,
trong y bút hay trong phê bình, chân dung văn học của ông. thể nói, nghệ thuật
so sánh trong “Người lái đò sông Đà” không chỉ đơn thuần dừng lại việc đối chiếu
sự vật này với sự vật khác còn mang cả dấu ấn phong cách riêng của Nguyễn
Tuân, hàm chứa những cái nhìn độc đáo, tài hoa, tinh tế: ông đã diễn tả đoạn sông bị
chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng hè một cái ngõ ngóng vọng
lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”; “nước
đây thở kêu như cái cống bị sặc”; “cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy
tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ
chặt như ghì lấy mép một chiếc rừng bị vứt vào một cái cốc pha ớc khổng lồ
vừa rút lên cái gậy đánh phèn”; “mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy
hầm đập”;…
Sự liên tưởng đặc sắc nhất trong “Người lái đò sông Đà” nằm chính những trận
chiến trên sông Đà. Với thạch trận sông đà hung bạo giăng ra để chặn đánh người
lái đò, đó là: “hàng tiền vệ, hai hòn canh một cửa đá trông như hở, nhưng
chính hai đứa giữ vai tdụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa
rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại… Thạch trận dàn bày vừa xong
thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những
hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt, một hòn ấy trông nghiêng thì y như đang hất hàm
hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút
và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con thủy quái sông Đà không chỉ hung hãn còn
hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, đã trổ ra đủ mưu ma chước
quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt
sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ
ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt ng, lật nửa người, bóp
chặt hạ bộ,… vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương.
Sự liên tưởng được tiếp nối sang thứ tính cách thứ hai của sông Đà: trữ tình. “tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung n
hoa ban hoa gạo”… Cái nhìn lãng mạn và lối so sánh, liên tưởng đầy sở trường đó vẫn
vẹn nguyên khi ông phát hiện con sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”.
thể khẳng định, về phương diện nghệ thuật, tùy bút “Người lái đò sông Đà” của
nhà văn Nguyễn Tuân đạt đến trình độ điêu luyện. Mỗi chữ, mỗi câu đều được trau
chuốt cong phu đến kinh ngạc . Qua đó, ta thấy được tài hoa, vốn văn hoá uyên thâm
phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Đồng thời ta còn thấy được cảm
hứng ngợi ca, tự o về chất vàng thiên nhiên , về giang sơn gấm vóc Việt Nam của
tác giả.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 9
Nhắc đến Nguyễn Tuân ta nhớ đến bậc thầy của ngôn ngữ văn chương. Người ta cũng
nghĩ ngay đến hiện thân của chủ nghĩa “xê dịch”. Ham cái gọi “xê dịch” ông cũng
thường viết về những cái không đứng n: xe cộ, tàu thuyền, những con người
máu giang hồ, thích ngao du đây đó. Ông cũng thích tả những cái gì mãnh liệt, dữ dội:
đèo cao, vực sâu, biển rộng, gió bão, thác dữ cả cái đẹp tuyệt đỉnh, tuyệt vời, đẹp
làm trí của con người như dại. Đi nhiều, ông cũng người gần gũi với thiên
nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết đồng thời cũng khám phá nhiều vẻ đẹp, nét đặc biệt
của núi sông, cây cỏ trên nhiều miền đất nước. Tập bút Sông Đà bài "Người
lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm như thế.
Sông Đà quả một con sông vừa đẹp tuyệt vời vừa cực hung dữ. Tác giả gọi
“hung bạo trữ tình”’: hung bạo những đoạn thác dữ, có những quãng hẹp
kẹp giữa hai thành vách núi cao, hay những hút ớc khủng khiếp chết người. đây,
sông Đà “diện mạo tâm địa một thứ kẻ thù của con người: hung hãn, nham
hiểm, xảo quyệt, độc ác... Trữ tình những đoạn xuôi chèo êm ả. Dòng sông như
một “áng tóc trữ tình", nước sông thay màu sắc theo mùa rất đẹp, phong cảnh nên thơ,
những con thuyền đuôi én đáo... về phương diện này, sông Đà trở thành nỗi nhớ
người bạn thân của con người, một “cố nhân” (tức người bạn cũ).
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
"Người lái đò sông Đà" thì được tập trung tả trong cuộc vật lộn với nước sông Đà.
Một quang cảnh thật dữ dội. Đây những cảnh tượng kích thích mạnh giác quan
nghệ của Nguyễn Tuân, cảm hứng được khơi dậy, nhà bèn tung ra cả một kho ngôn
từ phong phú đầy giá trị tạo hình của mình diễn tả cho được mọi sắc thái, mọi hình
thù, mọi bộ mặt, mọi âm thanh, tình huống phức tạp, oái oăm nhất của trận chiến đấu
giữa ông lái đò trí dũng tuyệt vời thác ớc sông Đà hung hãn, đầy mưu xảo
quyệt. Chỉ nói riêng về âm thanh của con thác đã thấy ngôn t phong phú của
Nguyễn Tuân tiếng ớc thác lúc như “oán trách” lúc như “van xin” lúc như “khiêu
khí “giọng gằn mà chế nhạo”, rồi “rống lên như tiếng một ngàn con trâu đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”... Còn hình ảnh ông lái đò “cố n vết thương, hai
chân kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo xệch đi”, lên thác”, “nắm chặt lấy được cái
bờm sóng", “ghì ơng”, “phóng nhanh”, miết một đường chèo”, “rảo bơi chèo lên”,
“đè sân lên mà chặt đôi” con thác…
Một nét phong cách khác của Nguyễn Tuân thường quan sát, khám phá sự vật
phương diện thuật con người phương diện tài hoa nghệ sĩ. ới ngòi bút
Nguyễn Tuân, sông Đà quả một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa “tuôn
dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo”. Màu sắc sông Đà mùa xuân “dòng xanh ngọc bích”,
mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ” lúc lại lên cái “màu tháng ba Đường thi “Yên hoa tam
nguyệt hạ Dương Châu”...
Còn ông i đò ng Đà thì trở thành một nghệ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác
ghềnh, đã nắm chắc được “binh pháp của thần sông thần đá”, thuộc lòng các luồng
sinh luồng tử của các con thác dữ nên chủ động trong mọi huống, thể lái con
thuyền vun vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang, hiểm hóc... Nguyễn Tuân gọi thế
là “tay lái ra hoa”.
Nguyễn Tuân còn một cây bút rất mực tài hoa, lịch lãm. tmột tượng nào đấy,
ông không chỉ vận dụng những hiểu biết về nghệ thuật n chương còn kết hợp
thích đáng những lợi thế của kĩ thuật khác như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu,
đạo, điện ảnh. Bài kí Người lái đò sông Đà ng một bằng chứng rất tiêu biểu của
nét phong cách trên.
Chẳng hạn ông tả một cái hút khủng khiếp của sông Đà bằng thuật phim ảnh: “Tôi
sợ hãi nghĩ đến một anh bạn quay phim o tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho
khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vạnh rồi cho cả thuyền
cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà. từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách
thành hút mặt sông chênh nhau tới một cái cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh.
Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu ống quay tít, cái máy lia ngược (...) lên
một cái mặt giếng mà thành giếng xây tràn bằng nước sông xanh ve một áng thủy linh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
khối đúc dày, khối pha xanh như sắp vỡ tan úp vào cả máy cả người quay phim cả
người đang xem”.
Ở bài sông Đà này, Nguyễn Tuân còn vận dụng cả những nghệ thuật, thuật rất ít
khi thấy được vận dụng trong văn chương: nghệ thuật quân sự thuật. Nào cửa
sinh cửa tử, đánh khuýp vu hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp cà, nào đòn
tỉa, đòn âm, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng... Ngoài ra ông còn vận dụng những tri
thức của nhiều bộ n khoa học trong tác phẩm của mình - một vốn văn hóa phong
phú lịch lãm hiếm thấy - làm cho những bài của ông giá trị văn hóa cao. Bài
Người lái đò sông Đà như thế đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ ích về
lịch sử, địa ng Đà, về lịch sử cách mạng xung quanh con sông này, về địa hình
địa thế của , về những con thác đủ loại, về các tài nguyên đất nước vùng sông Đà,
về những bài thơ của Nguyễn Quang Bích, của Tản Đà..., về con sông miền Tây Tổ
quốc này.
Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Tuân nhà văn phong cách độc đáo, tài sử dụng
ngôn ngữ đến mức điêu luyện. Đọc "Người lái đò sông Đà" ta cảm nhận thêm sự
sắc sảo của giác quan người nghệ bậc thầy kho từ vựng giàu gtrị tạo hình, lối
văn rất mực tài hoa. Bởi thế bài vừa giá trị văn học vừa đem đến cho người đọc
những thông tin thú vị về sông Đà, con sông ở vùng Tây bắc Tổ quốc.
| 1/36

Preview text:

Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Dàn ý phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà Dàn ý số 1 A. Mở bài
- Nói đôi nét về tác giả và tác phẩm
Nguyễn Tuân được biết đến là một trong những tác giả có một phong cách độc đáo
hiếm hoi của Văn học Việt Nam từ trước đến nay. Bằng vốn kiến thức văn hóa sâu
rộng và tài năng văn chương của mình thì Nguyễn Tuân đã cho ra đời rất nhiều các
kiệt tác nghệ thuật mang đậm phong cách tài hoa và uyên bác, trong đó phải kể đến
tác phẩm “Người lái đò sông Đà” như đã thể hiện rõ phong cách của ông. B. Thân bài
Đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
- Tùy bút Người lái đò Sông Đà đã thể hiện rõ nét các đặc điểm của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.
* Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ: con Sông Đà tuôn dài
tuôn dài như một áng tóc trữ tình.
Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc
đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động, giàu
hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc,
khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã trở thành
một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
>>> Tựu chung lại thì với nghệ thuật độc đáo thì hình tượng Sông Đà được tác giả
khắc họa rất nổi bật với hai đặc điểm: vừa hùng vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình.
Qua con Sông Đà, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm
tha thiết của mình với đất nước. Dường như hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút
gợi lên ở người đọc suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông,
bởi đó là quà tặng vô giá của thiên nhiên dành cho con người hơn.
*Nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ: Ông lái đò được miêu tả như một
dũng tướng tài năng nhưng có phong thái của một nghệ sĩ tài hoa.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
*Tác giả như điểm tô đậm nét những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật, con
người: Con Sông Đà hung bạo. hiểm ác, ông lái đò tài hoa.
Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau về đối tượng sáng
tác để tạo hình tượng: Con Sông Đà hung bạo và những trận thủy chiến của ông lái đò
được ghi lại bằng kiến thức của văn chương, hội họa, điện ảnh, địa lí, lịch sử, quân sự, võ thuật.
Ngôn ngữ trong tác phẩm:
* Từ ngữ được sử dụng sắc sảo in đậm dấu ấn riêng. Ngữ nghĩa, ngữ điệu biến đổi,
chuyển hóa: sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ, nắng giòn tan, nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa, để thơ vào sông nước… Tác giả còn sáng tạo những từ ngữ mới, cô đọng, giàu ý
nghĩa: luôn gân, luôn tim, bờm sóng…
* Tác giải đã diễn tả đa dạng, nhiều góc cạnh. Câu văn rất đỗi ngắn gọn phối hợp với
câu thật dài: đoạn tả chặng cuối vượt vòng vây thứ ba, đang viết câu chất chồng ý (…
Cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền… xuyên nhanh, vừa xuyên vừa…),
đã kết lại bằng một câu rất gọn, biểu thị ý hoàn thành: Thế là hết thác.
* Nét độc đáo trong việc miêu tả con sông Đà là vừa có khi vừa thể hiện mặt hung dữ,
vừa gợi lên khía cạnh thơ mộng của đối tượng miêu tả, vừa lại như ném ra những chi
tiết rất tự nhiên, không trau chuốt (con sông đánh đòn hiểm độc nhất với con đò) vừa
chắt lọc những chi tiết, những hình ảnh rất trữ tình, rất thơ (ven Sông Đà lặng tờ). C. Kết bài
- Khẳng định lại một lần nữa tài năng văn chương bậc thầy của Nguyễn Tuân
- Chính việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật linh hoạt đã tạo nên sự hấp dẫn cho tác
phẩm “Người lái đò sông Đà”. Dàn ý số 2 1. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề cần phân tích. 2. Thân bài
a. Khai thác hình tượng con sông từ nhiều phương diện thẩm mỹ, văn hóa, từ
ánh nhìn nghệ thuật đa chiều của tác giả.

* Hình tượng con sông Đà:
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
- Mở ra cho người đọc những hình dung chung nhất về con sông với hai đặc tính tiêu
biểu ấy là dữ dội, hùng vĩ nhưng cũng không kém thơ mộng trữ tình trong lời đề từ
được mượn từ thơ ca "Chúng thủy giai đông tẩu Đà giang độc bắc lưu. Đẹp vây thay
tiếng hát trên dòng sông".
- Với vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội: Ở khúc thượng nguồn trong cái vẻ hung bạo, dữ dội con
sông hiện lên là kẻ quái đản, giận dữ, là "kẻ thù số một" của tất cả những con người
ham muốn vượt sông kiếm kế sinh nhai.
- Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình: Nhưng đến vùng hạ lưu sông, dòng sông bỗng trở mình
thành một thiếu nữ với dòng chảy tuôn dài như mái tóc, với những nét đẹp thi vị của
sự chuyển đổi màu sắc theo mùa.
* Hình tượng ông lái đò:
- Không chỉ được Nguyễn Tuân mô tả với vai trò là một con người lao động bình
thường, mà thể hiện qua hai phương diện khác nữa ấy là một người nghệ sĩ đầy đam
mê nghề nghiệp với "bàn tay lái ra hoa" và một người anh hùng chiến sĩ trí dũng song
toàn trên mặt trận sông nước.
- Tư cách người nghệ sĩ, thể hiện ở niềm đam mê nghề nghiệp cách ông lão tâm huyết,
tỉ mẩn và nghiêm túc với nghề nghiệp của mình.
- Với tư cách là một chiến sĩ trên mặt trận sông nước, ông lão tỏ ra là một vị tướng đã
có nhiều kinh nghiệm chinh chiến sa trường, thuộc làu binh pháp của thần sông thần
đá, tư thế hiên ngang,...
b. Vận dụng tài tình những kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau vào tác phẩm
của mình một cách tinh tế và khéo léo:

* Lĩnh vực hội họa, nhiếp ảnh:
- Hình ảnh trong văn của Nguyễn Tuân luôn đạt đến một trình độ sống động và chân
thực đến tuyệt diệu, với những góc nhìn cận cảnh, đa chiều và gợi nhiều xúc cảm.
- Chú ý vào việc gợi ra cho độc giả về những đặc điểm như chiều cao, độ rộng, độ
nông sâu, độ dài các con sóng của dòng sông qua các câu văn cuốn hút, đầy hình ảnh.
* Phương diện âm thanh:
- Diễn tả sự ghê gớm, hung bạo của dòng sông bằng một bản hợp tấu của những âm
thanh với nhiều âm sắc, thanh điệu khác nhau.
- Ví như tiếng "gùn ghè" của dòng nước, rồi tiếng những cái hút nước.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
* Phương diện địa lý và lịch sử:
- Chỉ ra nguồn gốc của con sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, trải qua hơn 400km lưu
lạc nơi đất khách mãi mới về tới biên giới Việt, rồi nhập tịch tại Mường Tè, Lai Châu.
- Hơi thở của lịch sử: "hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê quãng sông này, quãng
sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi"... * Điện ảnh:
Có một anh quay phim liều mạng nào đó "ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi
cho cả mình cả thuyền cả máy quay xuống cái hút sông Đà", .... * Văn học:
- Lời đề từ: Kết hợp hai nhà thơ Nguyễn Quang Bích và nhà thơ Wadislay Broniewski.
- Nhớ đến những câu "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu" trong Hoàng Hạc lâu
tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng của thi tiên Lý Bạch để diễn tả chất "cố nhân" của dòng sông.
- Nhấn mạnh cái ngỗ ngược ghê gớm của dòng sông qua một câu đồng thoại trong
truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh "Núi cao sông hãy còn dài/Năm năm báo oán đời đời đánh ghen".
- Bâng khuâng xao xuyến trước dòng sông bằng việc mượn câu "người tình nhân chưa
quen biết" của Tản Đà để tỏ bày. * Quân sự:
- Sông Đà là một kẻ nham hiểm, ghê gớm với những cái bẫy hút nước ghê gớm, với
một đội quân đá đã mai phục ở lòng sông hàng ngàn năm, cùng với các trùng vi thạch
trận, các cửa ải chứa luồng sinh luồng tử lắt léo.
- Ông lão lại hiện lên với dáng vẻ của một chiến thần có kinh nghiệm chiến đấu phong
phú, ông đã nắm rõ quy luật phục kích của dòng sông, thuộc làu binh pháp của thần sông thần đá.
c. Nghệ thuật sử dụng ngôn từ một cách điêu luyện bậc thầy.
- Những hình ảnh, âm thanh, sự kiện trong tác phẩm được nhà văn mô tả bằng những
từ ngữ mới lạ có khi chưa từng xuất hiện ở những trang văn vào khác ví như từ "gùn
ghè", "đòi nợ xuýt", "hồi lùng", "trùng vi thạch trận",...
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
- Mỗi một lĩnh vực khác nhau Nguyễn Tuân lại dùng những từ ngữ chuyên thuộc lĩnh
vực ấy để diễn đạt ý của mình, từ quân sự, lịch sử, địa lý, văn học, âm nhạc, hội họa, điện ảnh, ...
- Đặc sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ của Nguyễn Tuân còn nằm ở cách thành lập câu văn. 3. Kết bài Nêu cảm nghĩ. Dàn ý số 3 1. Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vào tác giả Nguyễn Tuân và tùy bút Người lái đò sông Đà. 2. Thân bài a. Khái quát chung
Con sông Đà mang trong nó một vẻ đẹp vừa hung bạo, vừa trữ tình. Dưới cái nhìn của
ông, dòng sông được nhìn từ mọi khía cạnh địa lý, lịch sử. Con sông vừa mang vẻ
hung bạo, dữ dội nhưng cũng rất thơ mộng, trữ tình. Và Nguyễn Tuân đã vô cùng yêu
quý con sông Đà, phải có một tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước của mình thì Nguyễn
Tuân mới có thể lột tả hết được vẻ đẹp vừa hung dữ nhưng cũng đậm chất trữ tình, thơ mộng của con sông Đà.
Song song với hình tượng con sông Đà là hình tượng người lái đò sông Đà. Qua hình
tượng người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đưa ra một cái nhìn mới về chủ nghĩa anh
hùng. Nó không chỉ có ở nơi chiến trường, trong chiến tranh gian khổ, ác liệt mà nó ở
ngay trong cuộc sống hàng ngày. Sự mưu trí, dũng cảm và tài hoa ấy ẩn chứa ngay
trong những con người lao động hiền lành, bình dị.
→ Qua bài tùy bút Người lái đò Sông Đà mà cụ thể là qua hai hình tượng: con sông
Đà và người lái đò Sông Đà, đã thể hiện những nét độc đáo trong phong cách nghệ
thuật của nhà văn Nguyễn Tuân.
b. Đặc sắc nghệ thuật
Trước hết, ông thường tô đậm cái khác thường, cái phi thường để gây ấn tượng và
cảm xúc mãnh liệt. Không có con sông nào có thể dữ dội, hung bạo hơn dòng chảy
của con sông Đà và cũng hiếm có con sông nào lại thơ mộng và trữ tình đến thế. Hai
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
tính cách tưởng như trái ngược nhau lại là hài hòa làm nên nét riêng của con sông Đà,
cái mạnh mẽ và cái yếu đuối luôn song hành.
Nhà văn thường tiếp cận và phản ánh đối tượng từ phương diện văn hóa, mỹ thuật.
Con người dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân tỏa sáng lấp lánh vẻ đẹp của tài hoa, trí
tuệ. Người lái đò Sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả như một nghệ sĩ trên sông nước.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là phong cách tài hoa, uyên bác. Nó thể hiện
ở những từ ngữ, hình tượng nghệ thuật trong văn của ông. Ngôn ngữ của Nguyễn
Tuân có đầy đủ cả màu sắc, âm thanh và hình tượng. 3. Kết bài
Khái quát lại nét đặc sắc nghệ thuật của tùy bút cũng như giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 1
Hơn mười năm đã trôi qua, kể từ khi Nguyễn Tuân vào cõi vĩnh hằng; có lẽ con người
“suốt đời đi tìm cái Đẹp” ấy không phải băn khoăn, hối tiếc điều gì nữa. Bởi những gì
ông đã cống hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại không ai thay thế được. Đọc tùy
bút “Người lái đò sông Đà” của ông, ta càng thấm thía lời nhận xét của Anh Đức:
“Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là
một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song
mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.
Có thể nói Nguyễn Tuân là người viết tuỳ bút nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam
hiện đại. Với các tập “Tùy bút I” (1941); “Tùy bút II” (1943), ông đã làm sống lại
khái niệm tùy bút trong văn học, đồng thời “định nghĩa” lại thể tuỳ bút. Phạm Đình
Hổ (1768 - 1839) đã từng nêu lên khái niệm về thể loại này trong “Vũ Trung tuỳ bút”.
Theo ông, tuỳ bút đề cập đến những vấn đề rất đa dạng, không theo một trình tự nào,
từ chuyện thân thế, gia đình đến chuyện xã hội, thời cuộc, lịch sử ... Tuỳ theo hứng
thú, sự quan tâm của người viết mà thể hiện các đề tài ấy. Trong văn học hiện đại, tuỳ
bút là khái niệm được dùng để chỉ những tác phẩm viết một cách phóng khoáng, tự
do, theo dòng suy nghĩ, liên tưởng của người viết. Tuỳ bút cũng là kí, là ghi chép,
nhưng không chỉ ghi chép sự việc mà trong đó có cả suy nghĩ, cảm xúc người viết khi
tiếp xúc với thực tế. Theo “định nghĩa” mới của Nguyễn Tuân, phần trình bày suy
nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của người viết chiếm một tỷ trọng lớn, do đó
chất trữ tình thường khá đậm nét. “Người lái đò sông Đà” thể hiện đầy đủ những điểm
đặc sắc nghệ thuật tùy bút của Nguyễn Tuân. Có thể nói thể tùy bút đã tạo đất cho nhà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
văn dụng võ, ngược lại, với Nguyễn Tuân, thể tuỳ bút cũng đã có một bước phát triển mới.
Trước hết phong cách nghệ thuật tùy bút của ông thể hiện những trang viết tài hoa và
uyên bác. Tài hoa và uyên bác trong kể và tả. Ở Nguyễn Tuân, kể và tả đều kỹ càng, tỉ
mỉ, có ngọn ngành, thông kim bác cổ. Mỗi liên tưởng, liên hệ trong tư duy, tư tưởng
rất rộng, rất sâu. Cho nên những trang viết của ông đưa lại cho người đọc nhiều kiến
thức văn hoá. Chính vì thế, đến với thiên tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, ta như được
chứng kiến một công trình khảo cứu công phu, một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ
về sông Đà và những gì sinh sống trên con sông đó. Tôi nhìn bìa sách văn 12, trên đó
có một bức tranh mà tôi đoán là minh hoạ cho tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Nếu
quả thực là như vậy thì thật thất vọng quá. Con sông Đà trên bức tranh chẳng khác nào
một khe suối nhỏ. Sông Đà, như tôi biết qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, có một vẻ
đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình, được thể hiện qua cái nhìn từ nhiều góc độ của tác giả.
Đặc biệt là bằng vốn từ vựng phong phú và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của
ông. Nói như nhà văn Anh Đức: “mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút như có
đóng một dấu triện riêng”. Tại sao khi ta gọi Nguyễn Tuân là “một bậc thầy của ngôn
từ, ta không hề thấy ngại miệng”?. Bởi lẽ đọc “Người lái đò sông Đà” của ông ta nhận
thấy văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng rẫy sự sống. Sức nóng trong ngôn ngữ của
ông phát ra từ mọi hướng. Nhà nghệ sĩ “độc đáo vô song” ấy đã sáng tạo ra hàng loạt
từ ngữ mới cho từ điển tiếng Việt. Chỉ trong vài trang kí, mà có biết bao động từ trong
đó. Tả tiếng thác nước, Nguyễn Tuân đem lại cho người đọc cả một hệ thống động từ
được xếp cạnh nhau theo cấp tăng tiến: Lúc đầu là “tiếng nước réo gần mãi lại réo to
mãi lên” rồi “nghe như là oán trách”; “van xin”, “khiêu khích”; “giọng gằn mà chế
nhạo”. “Thế rồi nó rống lên”, “lồng lộn”, “gầm thét”. Ngôn ngữ sinh động lại được kết
hợp một cách tài tình khiến ta như cảm nhận cái hồn thác đang gầm lên giận dữ. Hết
thác rồi đến đá, đội quân đá đang mai phục, sẵn sàng dưới sự chỉ huy của thác. Chúng
đang chờ “có chiếc thuyền nào xuất hiện” là “nhổm cả dậy để vồ lấy”. Thật thú vị khi
chứng kiến sự bày binh bố” trận của những hòn đá “nhăn nhúm méo mó” kia. “Đám
tảng, đám hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Trận
địa đá gồm “hàng tiền vệ, có hai hòn cánh cửa đá trông như là sơ hở” để “dụ đối
phương đi vào sâu nữa” rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Nếu chọc thủng được tuyến
hai thì nhiệm vụ của những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan
cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Hấp dẫn nhất phải kể đến cuộc chiến đấu một mất
một còn giữa người lái đò và thác sông Đà.
Bằng cái nhìn chứa đựng đầy tính điện ảnh cũng như hiểu biết uyên bác của mình,
Nguyễn Tuân đã cho người đọc xem một đoạn phim bằng ngôn từ có một không hai:
“Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thành viện” và “hòn đá bệ vệ oai phong lẫm
liệt” trông “y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao
chiến”. “Một hòn khác” thì “thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Trí tưởng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
tượng sinh động của tác giả khiến người đọc vô cùng ngỡ ngàng và thú vị. Trận chiến
đã bắt đầu “Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất” có “mặt nước hò la vang dậy quanh
mình”, “sóng nước như thế quân liều mạng” “có lúc chúng đội cả thuyền lên” ... Nào
là “đòn độc hiểm nhất, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” ...Trùng vi thạch
trận thứ hai không kém phần ác liệt. Có nhiều “cửa tử” để hòng đánh lừa con thuyền.
Dòng nước cuồn cuộn của sông Đà được Nguyễn Tuân ví như “hùm beo đang hồng
hộc tế mạnh trên sông Đà”. Ta có thế thấy sự biến hóa khôn lường trong cách sử dụng
ngôn ngữ của tác giả. Đoạn trên, ông tả tiếng thác như tiếng “một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn” thì đến đoạn sau dòng thác hiện lên như “hùm beo”. Cuộc chiến ở cửa
ải thứ hai với ưu thế nghiêng hẳn về người lái đò. Dường như Nguyễn Tuân ưa dùng
những động từ sắc lạnh. Ông lái đò hiện hình như một dũng tướng hiên ngang xông
pha trận mạc “nắm chắc lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”,
“bám chắc”, “phóng nhanh’’, “lái miết”... Niềm vui hân hoan của tác giả khi ông lái
vượt qua được vòng chiến thứ hai như lan toả trong những câu văn tiếp theo: “Chỉ còn
vẳng lại tiếng hò của sóng thác. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái
thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Tâm
hồn của người đọc như bị cuốn theo lối kể và tả đầy hấp dẫn của người viết. Chi tiết
“tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” của “cái thằng đá tướng” khiến người đọc như
cùng cảm nhận sự khoái chí của tác giả. Trùng vi thứ ba diễn ra nhanh hơn “Con
thuyền vút qua cổng đá mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong
cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động
lái lượn được”. Cuộc chiến kết thúc, “thế là hết thác”. Dòng sông đột ngột hiện lên
thanh bình, hiền hoà với sự bắt đầu bằng một hình ảnh vừa chân thực, vừa lãng mạn:
“Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Câu văn miêu tả rất sinh động những đám bọt
trắng xóa của dòng thác rơi từ trên cao và khi chạm đến cái đích cuối cùng là dòng
sông thì vỡ ra, tạo thành âm thanh “xèo xèo tan..”. Nó có thể tan trong trí nhớ người
lái đò bởi “cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu với sóng nước sông Đà dữ dội”,
ngày nào cũng biết đến cảm giác “xèo xèo tan” của sóng thác. Nhưng âm thanh ấy in
sâu vào tâm trí người đọc. Dòng thác đổ qua miền nhớ và để lại những nét chạm khắc
không thể nào quên. Sức nóng trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân còn phát ra từ màu sắc
con sông Đà mà ông miêu tả. Tất cả đều là gam màu nóng chói, và thể hiện một óc
quan sát, liên tưởng, so sánh vô cùng tinh tế. Con sông Tây Bắc khi thì được miêu tả
như “một cái mặt giếng mà thành giếng xây bằng nước sông xanh xe một áng thuỷ
tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”; khi thì “xanh ngọc bích” vào mùa
xuân, “lừ lừ chín đỏ” vào mùa thu. Có lúc sông như “miếng sáng lóe lên một màu
nắng tháng ba Đường thi”. Cái “dấu triện riêng” mà mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi câu văn
Nguyễn Tuân đều được in vào đấy, phải chăng chính là kho ngôn ngữ vô cùng phong
phú và đặc sắc của ông? Bởi có ai nhìn thấy “cái mặt xanh lè, tiu nghỉu” của đá; cái
màu “lừ lừ chín đỏ” của sông, nghe thấy âm thanh “xèo xèo tan” của bọt thác? Gọi
Nguyễn Tuân là “bậc thầy ngôn ngữ” quả là không sai. Chỉ nói về con sông Đà mà
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
ông đã sử dụng bao nhiêu từ đồng nghĩa. Khi thì gọi sông Đà là “con sông Tây Bắc
hung bạo và trữ tình”, khi thì bảo “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, lúc lại như “áng tóc
trữ tình”... ông còn gọi sông Đà là “cố nhân”, là “cái miếng sáng lóe lên một màu
nắng tháng ba Đường thi”, rồi “một áng tóc trên mảng đầu Tây Bắc”, “một con cá bị
chúa đất từng vùng đem cắt ra từng khúc nhỏ”... Chỉ riêng điều đó thôi cũng cho ta
thấy vốn từ vựng của Nguyễn Tuân vô cùng phong phú. Nguyễn Tuân viết như lấy
chữ từ trong túi ra, thổi vào mỗi chữ một linh hồn sống và tạo nên những trang viết tài hoa.
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến chủ nghĩa xê dịch. Con người thích
“chơi ngông” ấy “đi không cần mục đích, không cần đến nơi, cốt là cứ được lăn cái vỏ
mình mãi mãi trên mặt đất này” (Nguyễn Đăng Mạnh). Mặc dù thế, văn chương là
tâm huyết thực sự của đời ông. Và điều làm nên linh hồn của những áng văn xê dịch
ấy là tấm lòng gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước của ông. Tôi chưa đọc được
nhiều những trang văn của Nguyễn Tuân, nhưng ấn tượng của tôi về ông gói trọn
trong chữ “ngông” độc đáo, vô song ấy. Dù trước hay sau cách mạng thì vẫn là con
người ấy. Đằng sau sự uyên bác về kiến thức, sự cầu kì, tỉ mỉ trong từng câu chữ, là
một tấm lòng tha thiết yêu quê hương xứ sở. Không có tấm lòng ấy, không thể nhìn
thấy con sông Đà như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời
Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai”. Không yêu quê hương, làm sao ông có
được nhận xét: “người cố nhân ấy biết mình lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng đấy,
rồi chốc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Ông đâu chỉ miêu tả sông Đà, với
ông “áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải” ấy như một cố nhân. Từ lòng yêu nước
tha thiết cùng với tài hoa độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã để lại cho đời những trang văn tuyệt bút.
Trở lại nhận xét của Anh Đức về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, người đọc tự
hỏi thế nào là phong cách nghệ thuật? Đó hẳn phải là một cái nhìn mới mẻ, một sự
khám phá độc đáo, có tính phát hiện đối với đời sống. Cái nhìn mới mẻ ấy được thể
hiện bằng một bút pháp nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn riêng, vẻ đẹp riêng của mỗi
nhà văn. Những nhà văn thực tài mới có phong cách. Nguyễn Tuân là nhà văn có
phong cách sâu sắc và độc đáo. Sự độc đáo của phong cách Nguyễn Tuân thể hiện ở
những tư tưởng mới lạ được nhìn nhận và khám phá từ những gì rất bình thường, giản
dị, thậm chí ngay cả ở những gì người đời coi là “tầm thường”, thấp kém. Những tư
tưởng mới mẻ ấy lại được thể hiện và diễn đạt bằng một kho tàng ngôn ngữ hết sức
phong phú và linh hoạt với nhiều sáng tạo trong dùng từ, đặt câu. Cũng như Nguyễn
Du đã làm giàu và làm sang cho ngôn ngữ dân tộc bằng truyện Kiều, Nguyễn Tuân
cũng thế. Những trang văn của ông không chỉ thấm đượm linh hồn quê hương mà còn
là sự thể hiện sự giàu có của tiếng nói dân tộc Việt. Có nhà nghiên cứu nhận xét rất
đúng về ngôn ngữ Nguyễn Tuân, đó là “sự giàu có và giá trị tạo hình cao, như muốn
ganh đua cùng tạo hoá”.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Nhà văn Macxim Gorki đã từng nói “con người, tiếng ấy thật tuyệt diệu, nó vang lên
kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao”. Sự uyên bác, tài hoa, đầy sáng tạo bất ngờ trong
những trang văn của Nguyễn Tuân nồng ấm một tình yêu và lòng tự hào về con người.
Từ hình tượng Huấn Cao “Vang bóng một thời” đến “Người lái đò trên sông Đà” có
một sự chuyển biến trong tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai nhân vật đều có
điểm chung: họ đều là những người có phẩm chất nghệ sĩ, chiến sĩ, vẻ đẹp thăng hoa
của con người. Họ đều là sản phẩm của sự kết hợp cái Tâm và cái Tài của người viết.
Nhà nghệ sĩ lớn ấy đi săn tìm cái đẹp suốt cả cuộc đời để rồi mang lại cho ta “chất
vàng mười” của nghệ thuật. Đọc Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, chúng ta
thực sự bị cuốn hút vào dòng thác của cuồn cuộn của sông chữ, sống đời; thực sự như
bị lạc vào “bờ sông hoang dại như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Từng câu, từng
chữ mà ông đặt lên trang giấy là cả một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và
thiêng liêng. Nguyễn Tuân thích sáng tạo, độc đáo cả trong đời thực lẫn trong văn
chương. Ông thích Đốtxtôiépxki và dường như chính ông là một minh hoạ cho cái
định nghĩa nổi tiếng của Đốt: “Tài nghệ vĩ đại nhất của nhà văn là ở chỗ biết xoá bỏ”.
Phải chăng trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật cần cù, miệt mài, trau chuốt từng
câu, từng chữ, Nguyễn Tuân đã biết tự “xoá bỏ” để tồn tại và trở thành một nghệ sĩ lớn.
Nguyễn Tuân đã ra đi vào ngày 28 tháng 7 năm 1987. Biết bao nhớ tiếc, ngẩn ngơ đã
để lại trong lòng người đọc. “Không biết chừng nào lại có một nhà văn như thế, một
nhà văn mà ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không thấy ngại miệng, một nhà văn
độc đáo vô song mà mỗi dòng , mỗi chữ như có đóng một dấu triện riêng”. Đến bao
giờ mới có một nhà văn như thế?
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 2
Người lái đò Sông Đà trích trong tập tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân, sáng tác năm
1960. Đây là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả ở Tây Bắc năm 1958. Phong cách,
con người Tây Bắc đã đi vào trang sách với một niềm vui sống bao trùm lên tất cả,
xen lẫn những cảm tưởng và xúc cảm trữ tình trước vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng của non sống Tây Bắc.
Tác phẩm lấy người lái đò làm nhân vật chủ thể của câu chuyện về Sông Đà nhưng
thực chất là cảm nghĩ, nghe nhìn, quan sát, nghiền ngẫm và sáng tạo của Nguyễn Tuân.
Mượn lời ông lái đò già nhưng chính là tác giả miêu tả con sống từ nhiều góc độ khác
nhau, qua đó bộc lộ tâm tư tình cảm của mình đối với con sông đại diện cho thiên
nhiên và con người Tây Bắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Với lối viết của Nguyễn Tuân, Sông Đà đã trở thành Sông Đà – Nguyễn Tuân. Đó là
con sông có độ dày lịch sử, tạo ra những con người anh hùng của riêng nó. Sông Đà
được vẽ nên bằng ngòi bút biến hóa tài tình, độc đáo, thể hiện sự gắn bó với đất nước
đến mức sâu xa nhất của tâm hồn tác giả.
Sông Đà dữ, Sông Đà anh hùng ca, bản chất của Sông Đà là vậy. Tài ba của nhà văn
càng làm cho bản chất ấy nổi bật lên. Sông Đà hung bạo ở những đoạn có thác dữ,
những quãng lòng sông hẹp, bị kẹp giữa hai vách núi cao hay những chỗ có xoáy nước
khủng khiếp, hút tất cả những gì sa vào đó và dìm xuống đáy sông.
Ở đoạn này có nhiều chi tiết chính xác, khoa học xen lẫn cảm xúc dạt dào tính trữ tình
của tác giả. Sông Đà khi thì dữ dội, nguy hiểm trong cái hùng vĩ không ngờ: nào là
chét lại thành cái yết hầu, nào là vách đá dựng đứng cao vút, đúng ngọ mới thấy mặt
giời… mùa hè vẫn lạnh… Khi thì pha chút huyền thoại trong những nét nên thơ như
con nai, con hổ vọt từ bờ này sang bờ kia, tưởng như lòng sông chỉ còn là dải yếm trong ca dao xưa.
Cái gì của Sông Đà cũng dữ. Cát, gió, đá, thác ghềnh, sóng nước phối hợp với nhau :
Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió và gió cứ cuồn cuộn từng luồng. Chỉ nghe tiếng
nước ở những quãng lắm thác cũng đã đủ ghê người. Tiếng reo của nước lúc nghe như
là oán trách, rồi lại như là van xin, rồi lại là như khiêu khích, giọng gằn mà chế
nhạo… Rồi bỗng dưng không biết chuyện gì mà nó rống lên như một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn. Hoặc có lúc nó reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi
một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm một ấm nước sôi khổng lồ. Nhưng
không đâu tiếng nước nghe lạ như ở những cái hút xoáy. Ở đó nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
Tiếng nước đã ghê, sức nước còn đáng sợ gấp bội. Mặt sóng cũng có ổ gà như mặt
đường kạn, đi vào ổ gà sống là thuyền bị giật xuống bị trồi lên. Thuyền đi vào luồng
nước thì chết ngay, hoặc đi không trúng tim luồng thì cũng vẫn có thể là thập tử nhất
sinh. Những quãng hiểm trở của Sông Đà mang diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số
một của con người: hung hãn, nham hiểm và xảo quyệt.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Sông Đà dữ quả là không sai với tiếng đồn. Cát, đá, nước, gió, sóng hùa nhau bắt
người vào chỗ chết. Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút trăm màu để miêu tả hàng loạt
những hình ảnh khác nhau mà luôn luôn đắc sách, vừa có chất trí tuệ vừa có tính tạo
hình, vượt xa những thủ pháp mà người ta quen gọi là nhân hóa, đi vào bản chất sâu
xa nhất, độc đáo nhất của sự vật, tạo thành những trang viết biến hóa khôn lường. Do
thế mà cái dữ dội của Sông Đà trở nên môi trường anh hùng ca vô cùng độc đáo.
Sông Đà dữ dội nhưng Sông Đà cũng rất trữ tình. Đó là ở những đoạn xuôi chèo êm ả.
Nhìn từ máy bay xuống, Sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc
ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân.
Nước Sông Đà màu sắc thay đổi theo mùa: Mùa xuân dòng xanh ngọc bích,… mùa
thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ. Trên sông, những chiếc thuyền then đuôi én xuôi
dòng, tạo cho sông vẻ thơ mộng riêng của nó. Là sông mà nó nói với con người bao
điều. Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà như nhìn một cố nhân, một người thân cũ lâu ngày
gặp lại. Nhà văn say mê ngắm màu nắng giòn tan vàng như hổ phách trên sông mà
chợt liên tưởng tới màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương
Châu” trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của thi
hào Lý Bạch đời Đường bên Trung Quốc.
Bên trên là thái độ đối với Sông Đà, còn đây là tình cảm của tác giả đối với con người,
sản phẩm của dòng sông ấy. Ông lái đò là sản phẩm của Sông Đà được tác giả tập
trung mô tả trong cuộc vật lộn với thác nước Sông Đà. Cái dữ dội của Sông Đà đã có
ông lái trị được. Hình ảnh ông lái đò: cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái
cuống lái, mặt méo bệch đi mà vẫn cưỡi lên con thác, nắm chặt lấy bờm sóng, ghì
cương, đè sấn lên mà chặt đôi con thác… rất sinh động và ấn tượng.
Lên thác phải chống bằng sào. Trên vai người lái đò, đầu sào in vào một khoanh bầm,
đó là hình ảnh thực. Tác giả bình thêm: Cái đồng tiền tụ máu cũng là cái hình ảnh quý
giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò Sông Đà. Con
người dũng cảm, thông minh đã chiến thắng được thiên nhiên dữ dội. Ở người lái đò
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
này, có cái gì mà không in dấu con sông, không là sản phẩm của Sông Đà? Sông Đà
đối với ông lái đò quả là một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những
dấu chấm câu và những đoạn xuống dòng, ông lái đò đã trở thành một nghệ sĩ tài hoa
trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. Nguyễn Tuân gọi tài nghệ của ông là tay lái ra hoa.
Đọc văn Nguyễn Tuân, nhất là tùy bút, có người cho rằng như soi trong Ống kính
trăm màu. Thực ra, ngòi bút tác giả không chỉ bảy màu mà trăm ngàn màu sắc.
Nguyễn Tuân đi rất sâu vào bản chất của sự vật, sự việc, con người để tìm hiểu, khám
phá và nắm bắt kì được cái cốt lõi, tinh túy, cái hồn của nó. Đồng thời có sự kết hợp
giữa trình độ hiểu biết uyên bác, tác phong làm việc nhanh nhạy, tỉ mỉ, khoa học, giàu
chất trí tuệ và cảm xúc đậm đà chất trữ tình được thể hiện dưới những hình thức ngôn
ngữ sáng tạo rất độc đáo, rất Nguyễn Tuân, không thể lẫn với bất kì ai khác.
Tùy bút Sông Đà phần nào chứng tỏ bút lực già dặn cùng phong cách nghệ thuật của
nhà văn Nguyễn Tuân – cây đại thụ của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 3
Nguyễn Tuân chắc hẳn đã tâm đắc lắm với những vần thơ sông của nhà thơ Ba Lan
nọ. Chẳng vậy mà sông nước xứ mình đã chảy trên không biết bao nhiêu trang văn
đẹp của ông, trong đó có sông Đà, con sông đã trao tên cho một công trình văn xuôi
tuyệt tác. Tôi đoán chắc rằng không thể chỉ có nhu cầu săn tìm cảm giác hay cái máu
phiêu lãng giang hồ đã xui khiến bước chân Nguyễn Tuân tìm đến dòng chảy vĩ đại
này của núi rừng Tây Bắc. Nhất định phải có một tiên cảm, tiên giác nghệ thuật sáng
suốt nào mách cho người nghệ sĩ tài hoa về nguồn cảm hứng sông Đà hàng chục năm
trước khi “dòng sông ánh sáng” đó thực sự trở thành một địa chỉ lớn của nhạc, hoạ,
sân khấu, thơ, văn. Và từ ấy đến nay, cho dù đã có biết bao người khắc, vẽ và kể
chuyện về sông Đà, làm thơ và ca hát với sông Đà thì có lẽ vẫn chưa ai vượt hơn được
Nguyễn Tuân trong việc biến vùng sông nước ấy thành nghệ thuật, thành một gợi cảm mênh mông.
Song để làm nên một niềm gợi cảm sông Đà có tầm cỡ, vóc dáng như của Nguyễn
Tuân thì cảm xúc và tài quan sát vẫn còn chưa đủ. Nhớ lại, Xuân Diệu từng thiết tha
nói đến sự rất cần thiết phải uyên bác ngay trong một lĩnh vực trữ tình nhất là thơ. Tôi
nghĩ Nguyễn Tuân cũng có thẩm quyền như thế, có khi còn hơn thế – dĩ nhiên trong
phạm vi lãnh thổ của ông là kí, là tuỳ bút – để chỉ ra rằng sự uyên bác ấy có thể nâng
đỡ đến thế nào cho đôi cánh của hào hoa. Càng đọc văn Nguyễn Tuân, lại càng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
nghiệm ra rằng, nhà văn độc đáo ấy luôn luôn độc đáo trong sự uyên bác, rằng con
người tài hoa, tài tình hiếm ai bì kịp ấy cũng đồng thời là con người luôn luôn có
những hiểu biết khôn lường, khôn sánh về những gì được nói tới ở văn minh. Trường
hợp sông Đà là vậy. Phải là Nguyễn Tuân và có lẽ chỉ có Nguyễn Tuân mới không
ngại nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khai sinh
của sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kì thuỷ,
dòng sông mang những cái tên Trung Hoa mà âm thanh dẫu sao cũng gợi ra khá nhiều
thơ mộng: Li Tiên, Bả Biên Giang. Và cũng không dễ có người như Nguyễn, để có thể
hạ bút viết đúng ba câu về sắc nước Đà giang đã phải mấy lần bay ngang trên miền
sông ấy. Để rồi sau đó, mới nói chắc như đinh đóng cột rằng nước sông Đà không hề
đen; trái lại, nó xanh màu ngọc bích dưới trời xuân, khác với sông Gấm sông Lô nước
“xanh canh hến” (tác giả mới kì công làm sao trong quan sát và chọn tìm từ!), còn mỗi
độ thu về, nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”.
Cứ theo đây thì ai dám bảo các đấng tài hoa viết văn không khó nhọc? Ai dám bảo
rằng cái cốt cách phong lưu tài tử như của Nguyễn Tuân cho phép nhà văn cứ việc thả
sức rong chơi, chờ khi thần hứng đến với mình thì chỉ cần một lần phất bút là đã đủ
làm nên tấm lụa ngôn ngữ đẹp mê hồn?
Nhưng chớ nên quên Nguyễn Tuân còn là một bản ngã vãn chương không hề giống
với một ai, và cũng không thể có một ai mong bắt chước. Những trang viết trong
Người lái đò Sông Đà đẹp còn vì tác giả đã in cái bản ngã độc đáo ấy vào sông nước
Đà giang, đã thêm cái vẻ đẹp rất chủ quan của tâm hồn và tưởng tượng vào cái vẻ đẹp
rất khách quan của dòng sông, để dần dần làm cho dưới ngòi bút, tuôn chảy một con
sông Đà mang dấu ấn thật riêng của nhà văn, một con sông Đà đã được chinh phục và
chi phối bởi thứ quyền năng riêng của người cầm bút mà Nguyễn Tuân vốn có nhiều
hơn ai hết – tôi muốn nói đến thứ quyền năng của ngôn từ.
Hãy thử lấy ra đây một trong rất nhiều ví dụ. Ở đầu trích đoạn Người lái đò Sông Đà
trong sách Văn học 12 có đoạn tả “cảnh đá bờ sông dựng vách thành” và những bức
thành vách đá cao chẹt chật lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp ấy của lòng sông, tác giả đã tả
nó ra theo đủ cách: Nào là "Mặt sông lúc ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt giời”. Nào là
con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ
bờ này sang bên kia vách. Những ý văn như thế kể cũng đã thú lắm. nhưng vẫn còn
chưa khiến ta phải thán phục, phải ghê gớm cho tài nghệ của Nguyễn Tuân như trong
câu cuối đoạn này: “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy
lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ
nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Một sức hút bình thường
làm sao có nổi một cái so sánh vừa chính xác, tinh tế, lại vừa bất ngờ và lạ lùng đến
thế. Bên cạnh những câu viết thế này, tôi chắc nhiều người sẽ nhận ra mình nghèo nàn
biết bao nhiêu cả về từ ngữ và ý tưởng. Có cảm giác cái bậc văn nhân hằng biết sợ cái
cảnh “mình bỗng chốc trở thành người cùng đường bên dòng sông chữ quạnh trắng
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
thê lương” ấy luôn luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái khó ấn tượng đầy ăm ắp để tìm
cho bằng ra một cách nói có sức kinh động hồn trí con người.
Nguyễn Tuân đang nói với ta về một sông Đà hung bạo. Một nhận xét như thế sẽ
không có nhiều khả năng gây sự ngạc nhiên, nếu chúng ta không tận mắt thấy nhà văn
đã hao tổn công phu đến thế nào để bắt sự hung bạo kia phải nổi hẳn lên thành hình
khối và gào thét lên trong muôn vạn âm thanh.
Người đọc đã như được tác giả đặt cưỡi lên con thuyền đang vun vút phăng phăng
xuống thác để cảm thấy quanh mình nước thác hò reo bốn mặt và những hòn đá ngỗ
ngược phía trước kia như nhất tẽ “nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Không khó khăn gì để thấy trong đoạn này, nhà văn đã sử dụng rất nhiều nhân hoá, để
nhờ đó, đọc ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Ống đã cổ dùng
thật hết sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để truyền hồn sống vào từng thớ đá. Dễ mấy
ai nhìn ra những khuôn mặt đá kiểu thế này: “Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là
đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi
lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Tồi chắc những chữ
như “hất hàm”, được viết tài đến thế, thì hoặc phải xoẹt đến trong óc nhà văn như một
ánh chớp thiêng của luồng cảm hứng và lập tức định vị ngay trong câu viết, nếu không
thì phải gò lấy nó bằng cả một “từ công phu”.
Cái dáng đá hất hàm ấy trông nó xấc xược, hỗn hào, du côn một cách rất là hiện đại.
Nhưng đọc cả đoạn văn, vẫn cảm tưởng thấy tác giả Người lái đò Sông Đà cứ như
muốn vừa tìm sự hoà ứng vừa như muốn tranh đua với ca khúc thứ XII của Ô-đi-xê
bất hủ, đoạn tả chiếc thuyền của Uy-lit-xơ vượt qua khoảng giữa hai con quái thạch
Karip và Xila. Hãy nghe lại âm vang hào tráng của Hô-me-rơ từ bao nhiêu nghìn năm
trước: “Chúng tôi… chèo thuyền tiến thẳng vào eo biển hiểm nghèo một bên là Xila,
một bên là Karip ùng ục ngốn nước biển. Mỗi lần nó nhả nước ra, cả biển khơi đều
chuyển động, sôi lên như nước trong chảo đặt trên một bếp lửa hồng… Rồi khi nó lại
nuốt nước mặn vào thì làm biển sùng sục cuộn lên; vách đá xung quanh kêu réo ghê
sợ, và đáy biển lộ ra với mặt cát đen thẫm… Có phải là ta đã gặp lại trong cái hung
bạo của sông Đà hôm nay rất nhiều thần thái cái hung bạo của chốn eo biển nào rất xa
xôi tận thời cổ đại?
Người ta bảo trong các nhà văn thật lớn thường vẫn còn một đứa trẻ thơ, và đứa trẻ ấy
giúp nhà văn giữ được cái nhìn cảm tính trong trẻo hồn nhiên mà người lớn vẫn để cằn
cỗi héo tàn đi trên đường đời khó nhọc. Trường hợp Người lái đò Sông Đà có lẽ cho
phép ta được nghĩ thêm: trong đôi mắt của nhà văn lớn hôm nay hình như vẫn lấp lánh
tia mắt không chỉ của tuổi thơ đời người mà còn của cả thời ấu thơ nhân loại. Và của
cả những giai đoạn vẫn cổ xưa nhưng có gần gũi chúng ta hơn. Đọc những dòng viết
về thạch trận Đà giang, tôi cứ cảm thấy nó phảng phất những trận đổ trường xà, bát
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
quái cũng có đủ cửa tử cửa sinh trong truyện cũ. Rồi lại chợt nhớ ra Gia Cát Khổng
Minh cũng đã có lần lấy đá làm binh. Cứ thế, sự dữ dội của sông Đà được nhân mãi
lên trong trùng trùng liên tưởng.
Nhưng đoạn văn tả đá thác sông Đà bủa vây, chận bắt một chiếc thuyền xuôi đơn độc
tôi thấy không chỉ có một màu hung tợn. Còn có thể cảm nhận ở đây bóng dáng của
Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật
hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá. Ban đầu, tác giả mới để cất lên khúc dạo
đầu với những cung bậc nỉ non của một dòng nước thác “nghe như là oán trách gì, rói
lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to
hết cỡ ,các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở đỉnh
điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại, trong đó âm vang cuồng loạn của
núi rừng được đưa vào để thanh viện cho sự diễn tả con thác giận dữ ầm ầm va đập
vào bờ đá. Tiếng sóng thác – nhà văn viết – “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu
mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng
lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Dám lấy lửa để tả cái vốn đối lập
với lửa là dòng nước, dám lấy rừng để tả sông. Nguyễn Tuân quả đã chơi ngông lắm
trong nghệ thuật. Nhưng ông chơi ngông mà ta thì được: ta được một cái nhìn tổng
quan hơn và thú vị hơn về sự tương giao sức mạnh giữa các lực lượng tự nhiên. Cũng
vậy, tôi cho rằng rất nên chiêm ngưỡng vẻ đẹp kì vĩ của tạo hoá trong những câu viết
thế này: “Ngoặt khúc sông lượn thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân giời đá”. Và
tôi nghĩ lòng Nguyễn Tuân chắc cũng sảng khoái hào hứng lắm khi nó rung lên với
“trận nước vang trời thanh la não bạt”.
Trên đây là hình ảnh của một thiên nhiên mà Nguyễn Tuân từng đã muốn “trông nó
thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Nhưng cũng rất đúng nếu nói
rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con người.
Thật thế, người lái đò sông Đà kia sẽ là ai, nếu con thuyền của ông không phải vật lộn
với “dòng thác hùm beo đang hồng hộc thế mạnh trên sông đá”? Có thể người ấy sẽ
mang một vẻ đẹp nào đó của một loại ông ngư, ông chài, ông lái… nhưng sẽ không
thể trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại, chính cái hùng vĩ của sóng của
thác, của sông nước Đà giang sẽ đưa con người dám đương đầu và chiến thắng thần đá
thần sông lên hàng oai linh tối thượng.
Người xưa vẫn coi “cưỡi cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ” là biểu trưng cho một lí
tưởng sống anh hùng. Thì ông lái đò sông Đà này, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân
cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng đấy còn
gì! Nhà văn đã dùng tâm diễn tả cuộc chiến giữa ông lái với dòng sông theo hướng:
thoạt đầu tưởng như hai bên rất không cân sức. Nào là, quanh con người đơn độc,
“mặt nước hò la vang dậy…ùa vào mà bẻ gãy cán chèo”. Nào là “sóng nước như thế
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng vào hông thuyển”, để
đội thuyền lên, để lật ngửa mình thuyền giữa vang trời thác réo. Các luồng sóng thì thi
nhau “đánh hổi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ dễ tổn thương nhất của con
người… Sẽ tốn khá giấy mực đấy, nếu muốn kể hết ra đấy cái khối lượng hùng hậu
các từ ngữ mà Nguyễn Tuân đã trở về từ bên nhà võ để hào phóng vốc tung ra trên các trang văn!
Vậy mà đối địch lại, ông đò có những gì? Một chiếc thuyền mỏng manh, trên đó, con
người thật nhỏ bé biết bao giữa luồng thác đang giận dữ, hai tay ghì níu lấy mái chèo,
đôi chân kẹp chặt vào cuống lái, mặt méo bệch hẳn đi do “cố nén vết thương” (Xin
được lưu ý rằng Nguyễn Tuân không viết “méo xệch” mà viết là “méo bệch”. Ra cái
đau đớn tàn bạo của dòng nước nó còn làm cho bợt bạt cả sắc mặt người).
Thế nhưng ba lớp trùng vi của một thạch trận đầy cửa tử đã không ăn chết được một
con thuyền đơn độc hết chỗ lùi. Các dũng tướng phá trận ngày xưa, nếu vào đúng cửa
sinh và đánh thốc ra đúng cửa sinh là đối phương tan tành thế trận. Ông đò của
Nguyễn Tuân cũng thế. Nhà văn như muốn, qua trường hợp ông đồ, cùng mỗi chúng
ta nghiền ngẫm điều triết lí: giữa cái thế giới của độc dữ và nham hiểm, cái thế giới
đầy sức mạnh mạn dại và lập lờ cạm bẫy, con người vẫn đủ khả năng tìm thấy luồng
sinh. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu. Ông đâu có đôi cánh tay
Hecquyn nào để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông “đã nắm chắc binh
pháp của thần sông, thần đá”. Và cái kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống
ghềnh, không, phải nói là cái trí tuệ của người lao động ấy đã khiến cho ông lái, dù
trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác!) vẫn có thể phá thành
vượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên.
Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác sông
Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo, hấp dẫn, một khúc hát ca
ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Có quá lời, có đáng ngạc nhiên chăng, nhất là
ở một nhà văn văn có tiếng là kiêu bạc? Tôi không cho là như thế. Theo tôi, đừng nghĩ
Nguyễn Tuân chỉ ca ngợi một người. Ông ca ngợi Lao Động, ca ngợi Con Người, ông
theo cách của mình làm cho “hai tiếng Con Người vang lên kiêu hãnh biết bao!”.
Người lái đò sông Đà – nhà văn muốn vậy – thể hiện cái tư thế ngự trị của Con Người
trước Thiên Nhiên thần thánh.
Và khi trong thiên tùy bút của Nguyễn Tuân mái chèo của ông đò vừa ngừng chống
nhau cùng thác đá thì dòng sông Đà bỗng nhiên đổi vẻ. Lời văn của Nguyễn bây giờ
cũng bềnh bồng với bầu trời mùa xuân mùa thu, nơi tác giả từ trên tàu bay mà nhìn
xuống “từng nét sông tãi ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình”. Để từ
đó, bậc du tử tài hoa đã vẫy bút vẽ ra cả một bức tranh thuỷ mặc chỉ trong một câu
văn, cái câu sẽ còn vương vấn mãi trong hồn bao bạn đọc: “Con Sông Đà tuôn dài
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Nếu được phép tỏ bày ý thích riêng, thì quả thực, cảm tình của tôi có phần được đặt
nhiều hơn vào đoạn tả con sông Đà trữ tình này. Làm sao có thể không yêu lối viết
của Nguyễn trong cái khúc nói về cái lần nhà văn “nhìn Sông Đà như một cố nhân”.
Lúc đầu, chỉ là cảm giác còn mơ hồ về một sự “thèm chỗ thoáng”, do “ở rừng đi núi
cũng đã hơi lâu”, thậm chí còn “quên đi mất là mình sắp đổ ra Sông Đà”. Rồi con
sông hiện ra, nhưng chỉ một chút thôi, loang loáng như nghịch ngợm, đúng là cảm
giác về cái nhìn con sông thấp thoáng, xa xa của con người còn phải bộ hành trong
rừng cây, trên đèo dốc. Chợt kịp khi nhận ra được dòng sông – người bạn cũ thì sao
mà nó sâu xa, ngơ ngẩn thế, trong cái ánh “yên hoa tam nguyệt” đọng sắc hoe hoe
vàng tự thuở Đường thi. ít nhiều còn hiểu được vì sao cái vui gặp lại sông Đà cố nhân
nó giống như “nối lại chiêm bao đứt quãng”. Nhưng thật khổng biết tại làm sao tác giả
lại cảm giác được “nắng giòn tan… ”? Chỉ biết khi ba chữ ấy đã viết ra rồi thì rõ là
không thể nào đúng hơn, hay hơn, không thể nào đổi khác. Và cứ thế, cái “đằm đằm
âm ấm” của nắng mùa xuân trên dòng sông xuân lâu ngày gặp lại nó dư sức làm thấm
thía thêm niềm hạnh phúc được sống trên mặt đất này.
Nhưng kì diệu hơn nữa, theo tôi, là đoạn văn bắt đầu từ câu viết: “thuyền tôi trôi trên
Sông Đà”. Câu văn viết toàn thanh bằng, đẹp như một lời thơ. Mà đoạn văn xuôi ấy,
sao tôi thấy nó thơ hơn nhiều lắm so với bao nhiêu bài thơ tôi đã đọc. Chắc phải có
người thơ nào thèm muốn tạo được sự lặng lẽ đầy mơ mộng của một mũi đò lừ lừ trôi
giữa đôi bờ hoang dại, cái lặng lẽ tuyệt đối để ru hồn người vào cái ảo giác về bờ sông
tiền sử, về một nỗi niềm cổ tích hay hoài niệm về thời Lí thời Lê… Và là cái lặng lẽ
mơ màng đến độ con người chờ mong một sự giật mình để rũ mình ra khỏi giấc mơ
xưa mà không được. Mùa xuân dòng Đà giang được nhà văn cho e ấp tỏ mình qua
mấy lá non nhú lên trên một nương ngô và những nõn búp cỏ gianh đồi núi. Rồi con
hươu, mới tuyệt làm sao hình ảnh “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ
sương”. Nhẩm lại lúc viết Sông Đà, Nguyễn Tuân đã đến bờ tuổi ngũ tuần, và kể thì
hồn văn ấy đã già từ Vang bóng một thời, từ Một chuyến đi. Nghĩ thế lại càng thấy
quý cái bờ ngỡ non tơ đến tuổi năm mươi lại nảy lộc trong nhà văn bên một dòng
sông, một cuộc đời mới mẻ.
Và cảm xúc đáng quý ấy cứ du dương mãi trong tôi với những âm thanh văn xuôi rất
đáng gọi là “nên câu tuyệt diệu”: “Hỡi ông khách Sông Đà có phải ông cũng vừa nghe
thấy một tiếng còi sương?”. “Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như
bạc rơi thoi… Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa
xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”… Tôi cảm thấy chiếc bè thơ kết bằng những
câu văn xuôi ấy đem lại cho mình một thứ nhã thú văn chương mà phải nói rằng cũng
còn hiếm gặp ở trong đời.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Nhưng tác giả Người lái đò Sông Đà cũng không phải con người duy mĩ. Ta trọng sự
tinh tế của ông trong cảm thức về cái đẹp. Nhưng qua thiên tuỳ bút, ta hiểu rằng cái
còn đáng trọng hơn nữa của ông vẫn là tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước, là sự
tôn kính công sức lao động của con người.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 4
"Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu".
Con sông Đà thân yêu ngày nay đã cho nhân dân ta thủy điện, đem ánh sáng đến mọi
miền đất nước. Cách đây trên bốn thập kỉ, nhà văn Nguyễn Tuân, đã viết "Sông Đà",
trong đó có bài kí "Người lái đò sông Đà" ngợi ca cảnh sắc hùng vĩ, tráng lệ của sông
núi và sự dũng cảm, tài hoa của con người Tây Bắc. Áng văn này đích thực là một "Tờ
hoa", một "Trang hoa", thể hiện những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật Nguyễn
Tuân - một nghệ sĩ lớn, tiêu biểu cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại: uyên bác, tài hoa, độc đáo.
Bài kí có hai nhân vật - hình tượng để lại cho người đọc nhiều cảm xúc thẩm mĩ, đó là
hình ảnh con sông Đà và người lái đò trên Đà giang.
Mấy thế kỉ trước, đường lên Tây Bắc chủ yếu đi theo đường sông Đà, ca dao có câu:
"Đường lên Mường Lễ bao xa,
Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh".
Sông Đà hùng vĩ, vừa hung dữ, vừa thơ mộng xinh đẹp. Nguyễn Tuân coi sông Đà là
người bạn thân thiết, một "cố nhân"với nhiều thương nhớ, bồi hồi. Đọc một em học
sinh biết thêm: Li Tiên và Bả Biên giang là hai cái tên xa xưa của Đà giang. Và độ dài
của nó là 883 nghìn mét, riêng từ đoạn biên giới Việt - Trung đến ngã ba Trung Hà dài
đúng 500 cây số lượng rồng rắn.
Sông Đà hung dữ có lắm thác nhiều ghềnh. Nguyễn Tuân như một nhà thám hiểm - du
lịch đi xa biết nhiều, đến sơn cùng thủy tận, kể cho ta nghe tên bao nhiêu con thác dữ,
những cái tên là lạ hay: thác En, thác Giăng, Mó Tôm, Mó Nàng, Suối Hoa, Hót Gió,
thác Tiếu, thác Bờ,... Nhà văn cho biết từ thác Tiếu trở xuống sông Đà êm ả, bình yên;
người Thái mới có câu tục ngữ: "Qua thác Tiếu trải chiếu mà nằm".
Ở thượng nguồn, lòng sông Đà có đoạn thắt lại "như cái yết hầu", đôi bờ vách đá dựng
thành "con nai,con hổ có thể vọt từ bờ này sang bờ kia". Ở ghềnh Hát Loóng "nước xô
đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn gùn ghè...." dài hàng mấy cây số! Có những
cái vực với những hút nước sâu thẳm như giếng bê tông "nước thở và kêu ặc ặc như
cửa cống cái bị sặc", ở phía trên lừ lừ những cánh quạ đàn đang chờ mồi. Âm thanh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
tiếng thác mới ghê rợn, lạ lùng như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng tre, rừng vầu bị cháy. Nguyễn Tuân tạo nên những so sánh và liên tưởng
rất "đắt"cho thấy óc quan sát, cách nghĩ cách cảm của ông về thác, ghềnh Đà giang.
Có lúc ông ví sông Đà hung dữ có "diện mạo và tâm địa" một thứ kẻ thù số một của
con người. Nó hung hãn, nham hiểm, xảo quyệt, độc ác với bao "thạch trận", bao
"trùng vi" có những ông tướng đá dữ tợn, lạnh lùng đứng trấn giữ lớp lớp "cửa tử" và
"cửa sinh" với những boong ke chìm mai phục khắp lòng sông, sẵn sàng nhấn chìm,
bẻ gãy tan tành những con thuyền đi qua. Sông Đà lại có mùa, có đoạn đẹp một cách
hữu tình: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích... Mùa thu nước sông Đà đỏ mặt một người
bầm đi vì rượu bữa...". Cuối tháng hai đầu tháng ba, hoa ban hoa gạo nở bung núi
rừng Tây Bắc "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình...". Hình ảnh
những đàn hươu ngốn cỏ gianh, những nương ngô xanh rờn, những con cá dầm xanh
quẫy vọt lên mặt nước sông "bụng trắng như bạc rơi thoi" gợi lên vẻ đẹp kì thú, hoang sơ của Đà giang.
Nguyễn Tuân đã viết nên những đoạn văn tuyệt hay và tuyệt đẹp nói lên vẻ hoang sơ
của sông Đà: 'Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ... Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồng ngày xưa". Sông Đà càng trở nên thơ
mộng với "những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển" ở vùng trung lưu và "những
con đò mình nở chạy buồm vải" vùng hạ lưu. Đọc "Người lái đò Sông Đà", hơn bao
giờ hết ta cảm nhận một cách sâu sắc câu thơ đề từ: "Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng
sông". Với tình yêu sông núi của một con người tài hoa, Nguyễn Tuân đã tả sông Đà
một cách đa dạng, biến hóa muôn màu muôn vẻ. Không gian nghệ thuật và thời gian
thẩm mĩ vừa thực vừa mộng, đã khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu thiết đối với
Đà giang – mảnh hồn Tổ quốc thiêng liêng.
Hình ảnh người lái đò sông Đà được khắc hoạ khá độc đáo. Con người này như dẫn ta
đi xuôi ngược dòng sông, lúc vượt thác, lúc cưỡi ghềnh. Đó là một người làm ăn giỏi,
thạo nghề sông nước. Với con thuyền sáu mái chèo, ông tung hoành xuôi ngược trên
chiến trường sông nước, "nắm chắc binh pháp của thần Sông, thần Đá". Ông đã đưa
con thuyền vượt qua nhiều cửa tử để đi vào cửa sinh, xuôi dòng bình yên. Hơn mười
năm liền chở đò xuôi ngược trên sông Đà, tiếng nói của ông "ào ào như tiếng nước
trước mặt ghềnh sông". Mái tóc nay đã bạc "cái đầu quắc thước đặt một thân cao to và
gọn quánh như chất sừng, chất mun". Cánh tay ông "trẻ tráng" quá; nhìn ông lão bảy
mươi tuổi mà ta tưởng như mình đang đứng trước một chàng trai vạm vỡ. Bả vai và
ngực ông nổi lên những "củ nâu" dấu vết của những tháng ngày chèo đò vượt thác.
Nguyễn Tuân gọi đó là thứ "Huân chương lao động siêu hạng".
Nhà văn đi sâu miêu tả ông lái đò đưa thuyền qua ba thạch trận trên chiến trường sông
nước. Cảnh ghềnh thác cực kì dữ dội, ghê sợ. Lúc thì ông tả thác qua âm thanh nước
nghe được, lúc thì ông tả cái hút nước mắt nhìn thấy được như một đoạn phim cận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
cảnh quay nhanh. Cảm hứng được khơi dậy, nhà văn tung ra một kho ngôn từ giàu có,
phong phủ để diễn tả cuộc chiến đấu của người lái đò với thần Đá thần Sông. Cảnh
tượng vượt thác ghềnh với bao hình thù và sắc thái, với bao bộ mặt và âm thanh, xa
gần ẩn hiện, nhiều tình huống gay cấn nhất, oái oăm nhất được khắc hoạ trên quy mô
và tầm vóc hoành tráng, đã làm nổi bật vai trò vị thuyền trưởng dũng cảm tài hoa,
chiến thắng những mưu mô xảo quyệt của thần Sông, thần Đá. Mưu trí dũng cảm,
quyết đoán làm nên bản lĩnh cao cường của ông lái đò. Có lúc con đò như một mũi tên
tre "vút vút" xuyên qua hơi nước của trùng vi thạch trận. Có lúc ông đã "nắm chặt cái
bờm sóng", nắm chắc lấy luồng nước, vút qua mọi cửa tử lao thẳng đến cửa sinh,...
Cũng có trường hợp ông bị luồng nước "vô sở bất chí" đánh đến miếng đòn hiểm độc
nhất, đôi mắt nổ đom đóm hoa lên, nhưng ông lái đò vẫn tỉnh táo đưa con đò thoát hiểm!
Nguyễn Tuân không chỉ tả ông lái đò trong lúc vượt thác băng ghềnh mà còn miêu tả
ông sau một ngày giao tranh với thần Sông thần Đá, để làm nổi bật cái trầm tĩnh, sự
thư thái ung dung của một vị thuyền trưởng lão luyện, dạn dày sông nước. Lúc ngừng
chèo, đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, ông lái đò chỉ nói chuyện "cá anh
vũ, cá dầm xanh", những hầm cá về mùa hè tiếng nổ to như mìn, bộc phá. Còn cái
chuyện vượt thác đối với ông chẳng có gì là hồi hộp, đáng nhớ.
Nguyễn Tuân là một nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ. Tiếng thác nước được ông tả biến
hóa, sinh động bằng một vốn từ ngữ giàu có kì lạ. Trên mặt ghềnh thác thì "nước xô
đá, đá xô sóng, sóng xô gió"... Hút nước kêu "ặc ặc như rót dầu sôi vào". Tiếng thác
nghe từ xa vô cùng ghê rợn "như oán trách ... như van xin.... như khiêu khích... giọng
gằn mà chế nhạo", có lúc rống lên như đàn trâu mộng hàng ngàn con đang lồng lộn giữa rừng cháy!
Nguyễn Tuân đã sử dụng vốn hiểu biết sâu rộng về địa lí, lịch sử, về quân sự, thể dục
thể thao, về các môn nghệ thuật như điện ảnh, âm nhạc, hội hoạ... cả tiếng lóng của
nghề sông nước để tạo nên những đoạn văn đẹp, hấp dẫn lạ. Nào là đòn tỉa đòn âm,
đánh hồi lùng, phục kích, vu hồi. Nào là trùng vi thạch trận, boong ke, cửa sinh, cửa
tử, pháo đài... Nào là thanh viên, giáp lá cà, tiền vệ, hậu vệ tuyến giữa, tuyến hai...
Chữ dùng thật đắt, lối đặt câu co duỗi dài ngắn, vừa đa dạng, uyển chuyển, vừa thú vị.
Các từ tượng thanh, nhóm từ đồng nghĩa, những so sánh liên tưởng, lối nhân hóa... rất
sáng tạo, mới mẻ, ý vị và hay. Hồ Xuân Hương viết: "Đâm toạc chân mây, đá mấy
hòn" ("Tự tình") hoặc "Hòn đá xanh rì lún phún rêu ("Đèo Ba Dội"). Bà Huyện Thanh
Quan lại có câu thơ: "Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt - Nước còn cau mặt với tang
thương". Đó là những vần thơ tuyệt bút viết vé đá mang tính hàm nghĩa. Nguyễn Tuân
cũng có những câu văn hay viết về đá, về thạch trận nơi sông Đà: "Phối hợp với đá,
nước thác reo hò làm thanh viện cho đá những hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt...".
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa trong cách sử dụng vốn hiểu biết sâu
rộng vẻ văn chương. Một câu thơ nước ngoài, một câu cổ thi được ông dùng làm đề
từ, đã mấy ai biết xuất xứ của nó? - Và đã tạo nên cốt cách sang trọng cho bài kí. Ông
nhắc lại câu đồng dao để nói về huyền thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh tranh giành người
đẹp, để yêu thêm núi Tản sông Đà:
"Núi cao sông hãy còn dài,
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen".
Tác giả mượn câu thơ Tản Đà để làm đẹp thêm cái thơ mộng của Đà giang:
"Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình".
Cảnh mùa xuân trên sông Đà cũng là cảnh đẹp hoa khói như con sông Trường Giang
hơn nghìn năm về trước trong đời Đường khi thi tiên Lý Bạch tiễn bạn Mạnh Hạo
Nhiên đi Quảng Lăng: "Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu".
Nói về truyền thống anh hùng của đồng bào Tây Bắc, nhà văn đã không quên chọn hai
câu thơ của Nguyễn Quang Bích - bậc sĩ phu kiên cường chống Pháp cuối thế kỉ XIX - để đưa vào bài kí:
"Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu,
Giữ lấy Thao Đà dải thượng lưu".
Nhờ thế mà đọc bài kí "Người lái đò Sông Đà", ta hiểu được nhiều điều bổ ích về cảnh
sắc thiên nhiên Tây Bắc, về địa lí, lịch sử, về truyền thống cách mạng của các dân tộc
xung quanh con sông Đà, về hình thức, ghềnh sông, về tài nguyên Tổ quốc bao la, về
những câu thơ đẹp - tinh hoa văn hóa cổ kim Đông Tây mà Nguyễn Tuân chọn lọc
đưa vào. Tâm hồn người như được nâng lên, trí tuệ được khơi dậy, bừng sáng và trở
nên giàu có. "Người lái đò Sông Đà" đúng là một giai phẩm mà Nguyễn Tuân đã góp
vào, làm đẹp thêm vườn hoa văn nghệ Việt Nam.
Ai đã từng đọc "Vang bóng một thời" chắc cảm nhận được cái sắc sảo, tài hoa và lịch
lãm của nhà văn Nguyễn Tuân khi ông nói về chuyện uống trà, thưởng hoa, trồng cây
cảnh, chơi chữ, đánh thơ, thả thơ, chơi đèn trung thu... của những nhà nho thuở trước,
những thứ ăn chơi tao nhã, sang trọng, thể hiện một phong cách sống đẹp, khẳng định
bản sắc của nền văn hóa Việt Nam với độ dày hàng nghìn năm lịch sử.
Đọc "Người lái đò Sông đà", ta biết thêm một Nguyễn Tuân uyên bác, tài hoa, độc
đáo. Tả cảnh thì biến hóa, trong bốn mùa, trong mọi thời gian và không gian, đa thanh
và phức điệu lúc nói về thác, ghềnh... Bao liên tưởng đầy thi vị, với bao cảm giác
mạnh đầy màu sắc và góc cạnh với một kho chữ nghĩa giàu có. Văn của Nguyễn Tuân
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
đúng là những giọt mật của con ong yêu hoa, cần mẫn và sáng tạo, đem thơm thảo cho
đời. Câu văn xuôi tài hoa, lúc thì vang vọng âm ba của thác ghềnh, lúc thì mênh mang
dư vị của hương nguồn hoa núi.
Đọc "Người lái đò Sông Đà" ta yêu thêm con người Việt Nam dũng cảm, cần cù và tài
hoa; ta tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là quà tặng của thiên nhiên:
"Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đến Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát - khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi"
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 5
Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam, ông có rất nhiều những
tác phẩm hay và nổi bật lên là tác phẩm Người lái đò sông đà ông đã thể hiện được
những phong cách nghệ thuật tài tình của mình trong tác phẩm đó.
Nguyễn Tuân đã rất tài hoa khi thể hiện phong cách của mình trong thể loại bút ký,
bút ký đó là những tâm huyết của ông vì vậy ông đã giành tâm huyết và cả những
niềm đam mê của mình vào thể loại này, ông đã chứng minh cho người đọc những tài
năng trong phong cách thơ ca của mình, ông tài hoa bởi chất ký giàu chất suy tư chính
sự, có sự đan xen giữa các yếu tố tạo nên một phong cách đẹp và thơ mộng, niềm tự
hào của cả dân tộc bởi có một tài năng về bút ký như ông, ông đã tạo nên một phong
cách nghệ thuật đặc sắc trong con người của mình, với tài năng của mình ông đã tạo
nên một phong cách bút ký đặc sắc và chỉ có ở ông mới có.
Với tình yêu thiên nhiên đất nước Nguyễn Tuân đã thể hiện lối viết phóng túng của
mình trong tùy bút người lái đò sông đà, một tình yêu mãnh liệt đã tạo cho ông rất
nhiều cảm xúc để thăng hoa vẻ lên một bức tranh với đầy đủ màu sắc về sông đà, sông
đà hiện lên với những tinh cách hung bạo, dưới ngòi bút của mình Nguyễn Tuân đã
thể hiện dòng sông đó với những tính cách rất đa dạng, những nét khắc họa của mình
đã được thể hiện qua hình tượng sông đà và hình tượng người lái đò sông đà. Người
đọc hình dung được những vẻ đẹp đó qua lối viết linh hoạt, nó thể hiện sông đà với đa
dạng những màu sắc và tính cách có lúc cũng dịu êm và lúc thì ầm ầm hung dữ như
những con vật dữ, sông đà là minh chứng lịch sử là dòng sông hào hùng của dân tộc,
dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Tuân đã tạo nên cho người đọc những cảm xúc khó
diễn tả ở hình tượng sông đà.
Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên trên mảnh đất của mình,
với tình yêu quê hương da diết ông đã viết lên hình tượng sông đà thật phóng túng biết
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
bao, với đa dạng cảm xúc, chắc hẳn ai đã từng đọc qua tác phẩm này cũng đều tự hào
về phong cách viết phóng túng giàu sức truyền cảm của Nguyễn Tuân, ông là nhà văn
tài ba có có sự tinh tế trong việc cảm nhận những vẻ đẹp mà ẩn dấu bên trong rất
nhiều những cảm xúc, cảm xúc của những con người có tình yêu thương thiên nhiên
sâu sắc. Sự tinh tế trong phong cách cảm nhận thiên nhiên của mình càng góp phần
làm cho phong cách của ông đậm nét qua những hình tượng độc đáo và người đọc
cảm thụ được trong đó một tác giả của tình yêu, với nét bút đậm đà những tài hoa và
cả những tinh tế, tác giả không chần chừ khi vẽ lên những vẻ đẹp tài hoa đó.
Với những cảm xúc được thể hiện tùy hứng của Nguyễn Tuân đã tạo ra một sông đà
với một vẻ đẹp khó theo dõi nhiều những tình huống khiến người đọc khó quan sát
nhanh nhạy được, văn của Nguyễn Tuân không thể hiện lên trên bề mặt câu chữ mà nó
ẩn dấu dưới câu chữ những tài hoa và uyên bác, ông đã chứng tỏ cái ngông, cái chất
văn chương của mình tới độc giả, người đọc sẽ không thể bỏ qua một vị nhân tài trong
lối tùy bút, ông đã thể hiện lối viết phong phú tới những vẻ đẹp hoàn mĩ, đối với sông
đà ông đã miêu tả sông đà với những hình ảnh thu hút đắm say lòng người sông đà
được so sánh với những hình ảnh ấn tượng thu hút lòng người bởi tài năng sử dụng
phong cách của mình trong thể loại tùy bút người lái đò sông đà.
Những nét đặc sắc được lặp đi lặp lại, chúng ta đều có thể cảm nhận được những đặc
sắc nghệ thuật đó, tác giả đã cảm nhận được cuộc sống của người lao động thông qua
nhân vật người lái đò, ông đã nêu lên tinh thần anh dũng và kiên cường của người lái
đò sông đà, với chất ngông của ông trước cách mạng tháng tám ông đã có những sáng
tác mang đậm tính chất cá nhân và những nét độc đáo đó đã tạo lên phong cách nghệ
thuật của Nguyễn Tuân một cách đặc sắc và tiêu biểu.
Với những tài năng của mình Nguyễn Tuân đã thể hiện phong cách nghệ thuật của
mình thật đặc sắc trong tác phẩm với những nét bút tài hoa ông đã vẻ lên một con
sông đà với bao nhiêu tính cách và chắc hẳn người đọc ấn tượng với hai tính cách nổi
bật đó là nét hung bạo và những lúc cũng dịu êm, dòng sông hiện lên trong mắt người
đọc hai trạng thái trái ngược nhau khi dữ dội hung bạo thì sông đà đã cuộn sóng và
làm cho người đọc ngạc nhiên bởi khung cảnh thiên nhiên này, và đôi khi tác giả còn
thể hiện những nét dịu êm của những cô gái DiGan, hai tính cách điển hình trong tùy
bút người lái đò sông đà của Nguyễn Tuân. Tác giả còn vẻ ra hình tượng người lái đò
cũng vô cùng hiên ngang và anh dũng đã vượt qua những luồng sóng vô hình để lái
vững những chiếc thuyền đò đây là một trong những đặc sắc nghệ thuật của tác giả,
với những tài năng đó Nguyễn Tuân đã tạo nên một tác phẩm để lại rất nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.
Mỗi chúng ta nếu ai đã từng đào sâu và tìm hiểu về Nguyễn Tuân thì đều nhận thấy
ông là một con người tài hoa và có một nhân cách cao đẹp ở ông không chỉ nhìn nhận
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
thấy một con người với tình yêu thiên nhiên lòng cháy mà con nhận thấy một con
người với tài năng sử dụng chất ngông của mình, sau cách mạng tháng tám ông đã
càng chứng tỏ chất ngông của mình, nhưng tình cảm mà Nguyễn Tuân thể hiện trong
bài này cũng rất đặc sắc khi tác giả so sánh con sông đà như những áng tóc trữ tình ….
Qua đó ta thấy được sự đa dạng trong phong cách của Nguyễn Tuân, một con người
có cái nhìn đa chiều nhiều phương diện, đã nhìn sông đà không chỉ ở một góc cạnh mà
nhìn sông đà ở nhiều chiều nhiều mặt của một lối văn trữ tình.
Nguyễn Tuân nhà văn tài ba chúng ta bắt gặp ông với một người giàu chất suy tư, tài
năng của ông được ông thể hiện đậm nét qua hình tượng sông đà với áng tóc trữ tình thu hút lòng người.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 6
Nguyễn Tuân được xem là một người nghệ sĩ tài hoa và uyên bác, đối với sự nghiệp
văn chương ông có những nét đặc sắc tiêu biểu riêng và có thể khẳng định không phải
người nghệ sĩ nào cũng có. Đó chính là những vẻ đẹp trong phong cách nghệ thuật,
thật riêng biệt và độc đáo tiêu biểu trong phong cách sáng tác của ông tiêu biểu nó thể
hiện qua tác phẩm “Người Lái Đò Sông Đà” .
Nguyễn Tuân với năng năng nghệ thuật độc đáo nhất nhì trong văn học Việt Nam hiện
đại. Ông là một người nghệ sĩ tài hoa và cả đời của ông luôn phấn đấu để đi tìm những
điểm riêng biệt những nét “khuất lấp” và những cái đẹp trong phong cách nghệ thuật
của mình. Phần lớn các tác phẩm của ông thi đều thể hiện được sự uyên bác cũng như
người tài hoa “chỉ đạo những con chữ”. Trong bài tùy bút “Người lái đò sông đà” ông
đã thể hiện rõ được phong cách riêng của mình qua những điều đó. Có lẽ, bởi đây là
bài mà ông rất tâm huyết và ông đã dùng chính tài năng và phẩm hạnh của mình để
sáng tác lên những tác phẩm đậm chất bi tráng này, dòng sông của người lái đò là
dòng sông mà ông đã quan sát và ông có cái nhìn sâu sắc về nó, nó không chỉ là một
dòng sông biểu hiện cho sức mạnh mẽ của con người mà đó là dòng sông của minh
chứng lịch sử. Với tài năng nghệ thuật độc đáo mang tính riêng biệt ông đã tạo nên
cho mình những sáng tác riêng và đó là những sáng tác cổ xưa và mang biết bao dấu
ấn mạnh mẽ tác giả không chỉ dừng chân ở đây để có những quan sát thấu đáo mà ông
đã dùng những cảm xúc thật của mình để viết lên bài thơ này.
Dường như hình ảnh của người lái đò sông đà đã được thể hiện rất sinh động và tài
tình qua phong cách nghệ thuật của ông, ông đã dùng những sáng tạo nghệ thuật đó để
áp vào cho những con người ở nơi đây, hình ảnh về dòng sông của quê hương đất
nước đã tạo nên những dâu ấn mạnh mẽ trong lòng tác giả, ông đang thể hiện những
điều đó rất nổi bật trong cách sáng tác của chính mình. Hình ảnh đẹp về dòng sông
của quê hương như đã thôi thúc khiến cho ông cảm hứng để viết lên bài tùy bút hay
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
như thế này. Tác giả như có phương án tạo ấn tượng rất đặc sắc qua cách giới thiệu về
dòng sông nó đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ cho người nghe, tác giả không khỏi
hình dung ra những chi tiết đặc sắc khác thể hiện trong tác phẩm này. Những hình ảnh
về dòng sông còn mang những tính cách của con người đời thực nhưng đã được nhìn
qua lăng kính của Nguyễn Tuân nên mọi thứ đều trở lên đẹp đẽ và có phí phách riêng.
Dòng sông Đà hiện lên dưới ngòi bút khám phá của ông cũng có lúc hung bạo và cũng
có lúc trữ tình nó đã làm xoay chuyển mọi tính cách qua những hoàn cảnh khác nhau,
hình ảnh về dòng sông cũng giống như về con người, tác giả đã miêu tả và quan sát
dòng sông qua những tính cách điển hình và tiêu biểu đó. Trong bài tùy bút thành
công này của tác giả đã như đã thể hiện, bộc bạch rõ hàng loạt những chi tiết thể hiện
dòng sông hung bạo đó là có những vách đá ngăn thành chết lòng sông đà như một cái yết hầu..
Tất cả các chi tiết khác cũng thể hiện rõ điều đó dài hàng cây số nước xô đá, đá xô
sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn…, các chi tiết đó cứ như ngàn con trâu mộng đang lồng
lộn giữa rừng vầu, rừng tre… hơn nữa các chi tiết đó đã thể hiện được hình ảnh về
dòng sông quê hương đất nước, tác giả đã dùng tài năng của mình để sáng tác lên
những hình ảnh hay và sinh động như vậy, hình ảnh đó thật mang dại và chính với khả
năng và tài năng bậc thầy của mình ông đã vẻ lên một hình ảnh về dòng sông với vẻ
đẹp thật hùng vĩ, với cách so sánh sinh động đã tạo nên cho ông một bài tùy bút hay
và nó để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Với cách so sánh ví von nhưng
hợp tình và hợp lý như vậy hình ảnh về dòng sông cũng đã thể hiện rất chi tiết và đặc
sắc nó mang ấn tượng cho người đọc, bởi hàng loạt những hình ảnh tạo ấn tượng riêng
biệt,hình ảnh về quê hương của chúng ta đã hiện lên những hình ảnh tuyệt đẹp và như
ngày càng thu hút mạnh mẽ tầm quan sát của người đọc, những hình ảnh trên cũng đã
mang cho người đọc những cái nhìn sâu rộng và nó trở thành một niềm tin sáng lóe
trong cái nhìn của tác giả về chính sản phẩm mà ông đã tạo ra.
Ông là một người có trí tưởng tượng phải nói vô cùng phong phú, cũng có lúc ông đã
sử dụng những hình ảnh kĩ thuật của bộ môn nghệ thuật thứ 7- điện ảnh của âm thanh
hội họa để thể hiện được những chi tiết tiêu biểu qua tác phẩm này, ông cũng nhân
hóa những hình ảnh của dòng sông để miêu tả và có thể cảm nhận được tính cách
hung bạo của dòng sông đó. Tưởng như những hình ảnh về dòng sông nó mang những
dấu ấn mạnh mẽ trong cách sáng tác của tác giả, những thác gập ghềnh và nó mang
cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về những hình ảnh đó, hình ảnh của dòng sông đà
đã được tác giả thể hiện sinh động và vô cùng ấn tượng cho người đọc, nó không chỉ
mạnh mẽ trong đường khối mà nó cũng đã tạo nên những tính cách khác cho người
đọc, hình ảnh của dòng sông đã tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ trong lòng tác giả
bởi tính cách và những nét riêng biệt mạnh mẽ.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Những hình ảnh thật khó phai mờ về một dòng sông hoang dại và hung dữ cũng đã
được thể hiện sâu sắc trong nhà văn, ông đã dùng tài năng của mình để nói về những
hình ảnh đó, cảm xúc của nhà văn cũng thật sâu sắc và sinh động khi ông nói về cảm
xúc của chính mình và dòng sông đó đã mang dại và chúng ta nhìn thấy tài năng của
tác giả được thể hiện mạnh mẽ trong đó, Nguyễn Tuân như đã ca ngợi dòng sông này
và nó hiện lên thật độc đáo và sinh động, tính cách của dòng sông đó là dòng sông trữ
tình và yêu thương nó đã hiện hữu trong con người của tác giả. Bên cạnh hình ảnh
dòng sông hung dữ thì hình ảnh của dòng sông hiền hòa cũng được tác giả thể hiện
sâu sắc trong bài tùy bút này, dòng sông được tác giả miêu tả như người con gái có
mái tóc dài, màu sắc cũng được thay đổi đặc sắc trong bài thơ, với những nét phong
phú và đặc sắc của bài thơ tác giả đã thể hiện được những chi tiết đặc sắc và mang
những dấu ấn mạnh mẽ trong lòng của tác giả
Có thể nói nghệ thuật xây dựng hình tượng người lái đò của tác giả Nguyễn Tuân đã
điển hình và nó thể hiện những không khí hào hùng và man dại trong cái nhìn của nhà
văn, Nguyễn Tuân là nhà văn đã biết và tận dụng tốt các hình ảnh, chi tiết để tạo lên
hình tượng của dòng sông qua những chi tiết thật và không khí hiện lên cũng mang rợ
và có những ấn tượng sâu sắc và vang nhộn. Những hình ảnh về một dòng sông có
những chi tiết rất đặc sắc và nó đúng với không khí và chi tiết mà tác giả đã và đang
sử dụng ở đây. Với cái nhìn đầy chứa đựng đầy thiện cảm và nó đã tạo nên những sâu
sắc riêng trong con mắt nhìn của tác giả về cái nhìn và cách quan sát của tác giả cũng
thật toàn diện và như nó đang mang những dấu ấn mạnh mẽ và trang nghiêm, những
chi tiết tuyệt vời mà tác giả thể hiện trong tác phẩm này là tác giả đã miêu tả rõ ràng
và chi tiết và hình tượng tiêu biểu của tác giả về những hình ảnh đó, hình ảnh về quê
hương và với tình yêu quê hương thắm thiết đã tạo nên cho tác giả cái nhìn sâu sắc
hơn, ông đã miêu tả dòng sông qua con mắt thấu đáo của mình.
Với những tài năng không thể phủ nhận và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ ông đã thể
hiện rất nhiều những câu văn nhẹ nhàng và nó đã thể hiện một tình cảm đặc biệt của
tác giả đối với dòng sông đà, dưới ngòi bút thần của tác giả thì hình ảnh đó trở lên thật
mĩ lệ và không có gì sánh bằng. Có thể nói những hình ảnh về thiên nhiên cũng được
tác giả thể hiện sinh động và hình ảnh về người lái đò sông đà cũng được thể hiện rất
chi tiết và đặc sắc nhà văn đã ví thiên nhiên Tây Bắc như một thứ vàng mười, và nó
thật quý giá trong con mắt nhìn người và cách quan sát của tác giả về những chi tiết nổi bật đó.
Tài năng và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ hết sức phong phú cũng như đậm chất tài
hoa của mình thì nó đã mang cho tác giả một cái nhìn toàn diện hơn về phong cách
sáng tác của nhà văn, nhà văn không chỉ mang một vẻ đẹp của người nghệ sĩ tài hoa
mà ông còn mang những vẻ đẹp của một người có cái nhìn đời sâu sắc.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 7
Nguyễn Tuân là nhà văn có tài tạo dựng không khí, đem đến cho tác phẩm bằng nghệ
thuật miêu tả một sự sống động như sự việc đang diễn ra thật, lối thuật kể đầy kịch
tính, mạch văn dồn dập, từ ngữ biến hoá làm cho người đọc thấy lôi cuốn, hấp dẫn có
cảm giác như đang trực tiếp chứng kiến sự việc. Nhà văn đã thể hiện một cách tài hoa
tất cả các tâm, trí, lực, tất cả sự điêu luyện, tinh xảo nhà nghề của người lái đò. Theo
Nguyễn Tuân, chỉ có thứ huân chương lao động siêu hạng của cuộc sống tặng cho ông
đò mới thực sự xứng đáng (dấu tròn ở ngực).
Trong thiên tùy bút, tác giả đã dùng những biện pháp nghệ thuật nào để khắc họa một
cách ẩn tượng hình ảnh con sông Đà hung bạo?
Tìm đến sông Đà, Nguyễn Tuân trước hết phát hiện ở con sông vẻ đẹp hung bạo, dữ
dội. Đoạn văn trích tập trung miêu tả cái hung bạo của con sông qua cảnh thác nước
và trận địa đá trên sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành: Mặt sông quảng ấy lúc
đúng ngọ mới thấy mặt trời (so sánh: vách đá chẹt lòng sông như một cái yết hầu;
quan sát hình dung: khoảng cách nhẹ nhàng tưởng như đứng từ bờ này ném nhẹ hòn
đá sang bờ bên kia... Những cảm giác tác giả muốn truyền cho người đọc rất ấn tượng:
ngồi trong khoang đò quãng ấy, mùa hè cũng cảm thấy lạnh, nhà văn nói cái đẹp, cái
tối của vách đá bờ sông để tôn lên sự hùng vĩ hiểm trở của sông Đà quãng lòng sông
hẹp...). Tác giả đã sử dụng biện pháp tô đậm, cường điệu.
Khi miêu tả ghềnh sông, Nguyễn Tuân sử dụng cấu trúc câu trùng điệp nước xô đá, đá
xô sóng, sóng xô sóng, cuồn cuộn lòng gùn ghè suốt năm như đòi nợ xuýt bất kỳ
người lái đò nào qua đây. Tác giả dùng biện pháp vừa cường điệu vừa nhân hóa.
Đoạn miêu tả những hút nước trên sông được Nguyễn Tuân tái hiện những cảm giác
mạnh dành cho kỹ xảo điện ảnh... Tất cả chứng tỏ khả năng quan sát và sự hình dung,
liên tưởng tuyệt vời. Ở đây tác giả dùng biện pháp so sánh, thể nghiệm...
Đoạn miêu tả “thác nước” và “thạch trận” sông Đà. Âm thanh dữ dội, đầy những tiếng
réo gào. “Còn xa lắm mới đến cái thác dưới. Nhưng đã thấy tiếng nước réo, gần mãi
lại réo to mãi lên”. Tiếng thác được ví như tiếng rống của “một ngàn con trâu mộng
đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng
gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Người đọc có thể cảm nhận được sự lồng
lộn, giận dữ của con sông qua một thứ ngôn từ có sức nóng, có màu sắc. Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh.
Hình ảnh: “Sóng bọt trắng xóa cả một chân trời đã’ cho thấy sự mịt mùng của sóng
nước. Đá: ngàn năm mai phục, khi con thuyền tới thì chồm cả dậy, vồ lấy thuyền, mặt
hòn nào cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó đến dữ tợn; đá bày “thạch trận”, sông
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Đà đã giao việc cho mỗi hòn với đá tướng, đá quân, những tường vây mà sóng nước
tạo ra chỉ chờ con thuyền sơ hở để đưa vào cửa tử chết chóc... Nước: reo hò vang dậy,
làm thành viên đá để bẻ gãy cán chèo vũ khí trên tay ông đò, đánh đến mòn đòn độc
hiểm. Khi đối mặt, sông tích tắc sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng sà xuống mà
châm lửa vào đầu sóng làm hoa mắt. Ngay cả khi đã thua thì mặt các hòn đá cũng hết
sức đáng sợ: cái mặt xanh lè vì thất vọng.
Tóm lại, bằng các biện pháp nhân hoá, so sánh, tô đậm, phối hợp với việc sử dụng
ngôn ngữ giàu chất tạo hình, gợi hình, những liên tưởng kỳ thú,táo bạo, khả năng vận
dụng tổng hợp kiến thức của nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực: nghệ thuật, võ thuật,
quân sự những câu văn có sức nén, sức dồn, độ căng, độ giãn đã giúp Nguyễn Tuân
khắc họa một cách ấn tượng về một con sông hung bạo, người đọc có thể hình dung
sông Đà như có một linh hồn, một thứ thiên nhiên mà có nhiều lúc như Nguyễn Tuân
nói: trông nó ra thành “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một” của con người Tây
Bắc, gợi liên tưởng tới câu đồng dao về thần sông, thần núi trong truyện cổ:
Núi cao sông hãy còn dài
Năm năm báo oán, đời đời đánh ghen
Ở đây người đọc vẫn nhận ra “chất Nguyễn” (tức phong cách riêng của Nguyễn Tuân)
trong nhân vật của Nguyễn Tuân: có chút gì đó hơi khinh bạc tài tử. Như vậy, chính
cái hùng vĩ, dữ dội của sóng, thác, nước Đà là yếu tố tôn ông lái đò lên hàng “oai
phong tối thượng”. Đó là điều kiện để nhân vật Nguyễn Tuân thể hiện các ngón nghề
của mình. Thiên nhiên Tây Bắc đẹp đẽ, kỳ thú, những con người Tây Bắc thực sự là
thứ “vàng mười” của đất nước, tài hoa như vậy mới “trị” được con sông này, bắt nó
phục vụ cho cuộc sống của mình.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà - Mẫu 8
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc
sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. “Người lái đò sông Đà” là tập tùy bút xuất
sắc của nguyễn Tuân. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ
tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kỳ vĩ trên dòng sông. Góp
phần làm nên thành công của “Người lái đò sông Đà” chính là lớp ngôn ngữ giàu giá
trị tạo hình và biểu cảm mà Nguyễn Tuân đã công phu rèn giũa.
Với thiên tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân tiếp tục sử dụng tài hoa của
mình trong việc liên kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong tâm thế của con
người sau Cách Mạng ấy, sự đối lập dần được thay thế, nhường chỗ cho cho sự con
người ôn hòa, dễ chịu hơn. Để làm được điều ấy, sự góp mặt của những yếu tố Hán
Việt là điều không thể thiếu.
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà
màu sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình
như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền
tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng
người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ
gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp
lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con
hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên
một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng các tiếng
nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy
một tiếng còi sương?”. Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi đập chất cổ điển của nhà tùy bút.
Việc sử dụng từ ngữ Hán Việt trong các tác phẩm thuộc các thể loại của Nguyễn Tuân
trước hết xuất phát từ đòi hỏi của đối tượng được miêu tả. Do viết về đề tài “vang
bóng” các nhân vật chính là nho sĩ nên ngôn ngữ Nguyễn Tuân trong “Chữ người tử
tù” rất cổ kính, bác học. Viết về cuộc sống của những con người tài tử, tài hoa một
thời vang bóng, về luật hình phong kiến, về thú chơi chữ, thả thơ, hát ả đào,… thì lớp
từ Hán Việt dĩ nhiên là đắc địa. Bên cạnh đó, từ ngữ Hán Việt còn góp phần tạo ra âm
hưởng đặc biệt cho lời văn Nguyễn Tuân. Ấy là cái âm hưởng vừa hiện đại, vừa đĩnh
đạc cổ kính, đọc lên đã cảm thấy không lẫn với giọng điệu của bất cứ nhà văn nào.
Những từ ngữ ấy được Nguyễn Tuân sử dụng một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt, tạo
âm vang ngàn xưa vọng lại – âm vang của một thời xa vắng. Trong “Người lái đò
sông Đà”, người đọc được thưởng thức một loạt ngôn từ mới mẻ, sáng tạo, mang bản
sắc riêng: “lặng tờ, bờ tiền sử, nỗi niềm cổ tích, thơ ngộ…”. Nhà văn thực sự là một
ông lái tài hoa trên dòng sông ngôn ngữ. Các câu văn Nguyễn Tuân giàu nhạc điệu, co
duỗi nhịp nhàng. Nhạc điệu trầm bổng, đưa người đọc đến với cái yên ả của dòng
sông đà nơi hạ lưu: “Dòng sông quãng này lững lờ như thương nhớ những hòn thác đá
xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những
giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy
buồm vải no khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển dòng trên”.
Ở Nguyễn Tuân, ta còn bắt gặp hai thao tác ngỡ mâu thuẫn mà thực ra là thống nhất:
sử dụng từ ngữ chuyên biệt, chính xác song song với hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa.
Thao tác thứ nhất, Nguyễn Tuân lựa chọn những từ ngữ thật đích đáng để gọi sự vật
đúng tên của nó, đặc tả sự vật đúng tính chất của nó. Chẳng hạn, khi miêu tả thác nước
sông Đà, thoạt tiên là, tác giả gọi những “hút nước” ở sông Đà là những “cái giếng
sâu”, gọi “thiên nhiên Tây Bắc” là “thứ kẻ thù số một”, gọi “chiến trường sông Đà” là
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
“quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà” Thay cho việc dùng từ “trận đá” bằng từ
“thạch trận”. Tiếp đó, nhà văn sử dụng tri thức về âm nhạc với bản hợp âm náo loạn,
kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc
lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là
van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”…
Những cách ví von mới lạ, độc đáo cùng ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu sức gợi và
nhịp điệu câu văn nhanh, gấp, đã tác động mạnh vào tâm trí người đọc, liên tục đẩy
âm thanh thác dữ đến hồi cao trào, quyết liệt nhất, để rồi, khi tất cả đã qua đi, người ta
có cảm giác đầu óc mình đã căng quá độ, bây giờ thừ ra nghe “Sóng thác xèo xèo tan
trong trí nhớ”. “Sông nước lại thanh bình”.
Nếu như vẽ một cái biểu đồ tần số âm thanh sông Đà thì ta đã có một đường lên rất
cao rồi đột ngột trở về với thanh ngang ghi âm của biểu đồ. Thoạt tiên là tri thức về
âm nhạc với bản hợp âm náo loạn, kinh khiếp của thác dữ: “Nước ở đây thở và kêu
như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “Tiếng nước thác
nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn
mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa”…
Song hành với âm thanh sóng động là lớp hình ảnh đa dạng, phong phú. Bằng vốn
hiểu biết phong phú về hội họa và điêu khắc, cùng trí tưởng tượng độc đáo và óc quan
sát sắc sảo được diễn tả bằng vốn ngôn ngữ phong phú, điêu luyện, giàu giá trị tạo
hình, nhà văn đã giúp ta mường tượng về độ cao hun hút khôn cùng của “đá bờ sông
dựng vách thành” gợi lên nét hùng vĩ, hoang sơ, và cả sự ghê rợn nữa. Đặc biệt là khi
“chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu” thì sức nước hẳn phải ghê gớm, dữ dằn lắm!
Cách so sánh, liên tưởng mới mẻ, bất ngờ của Nguyễn Tuân quả khiến người đọc cũng
“thấy lạnh” như đang ngồi chung qua quãng ấy với Nguyễn Tuân vậy. Vài nét vẽ mà
thật giàu sức gợi, từ ngữ của Nguyễn Tuân cũng góc cạnh, sắc nét như những đường
chạm trổ của người thợ tài hoa.
Thao tác thứ hai, Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm những hình thức biểu đạt rất khác
thường. Ông rất công phu trong việc ghép từ, hoặc thay thế một từ thông dụng bằng từ
ngữ lạ hoắc, gây bỡ ngỡ cho người đọc. Những từ ngữ được lạ hoá như: “thanh viện”
(hỗ trợ bằng âm thanh), “thanh la, não bạt” (nhạc cụ bộ gõ bằng đồng tạo âm thanh
mới lạ), “đánh hồi lùng” (đánh dồn dập), “đòn âm” (đòn ngầm), “trùng vi” (vòng vây
nhiều lớp), “tế mạnh” (phi mạnh, lao mạnh)…
Hình thức biểu đạt kiểu lạ hóa đã được Nguyễn Tuân đẩy đến mức cao hơn khi trước
một đối tượng cần miêu tả, ông dùng đồng thời nhiều cách định danh, nhằm nói cho
kiệt cùng mọi sự cảm nhận của mình. Nguyễn Tuân thuộc số những cây bút đặc biệt
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
chú trọng hình thức câu văn. Điều này thể hiện rõ ở sự gia công của ông về cách cấu
tạo câu cũng như về các biện pháp tu từ trong câu. Nếu cấu tạo câu thời kì trước Cách
Mạng trong văn ông phù hợp với giọng điệu cổ kính trang nghiêm, thì với thời kỳ sau
Cách Mạng câu văn cầu kỳ, nhiều khi dài hơi, trau chuốt hơn phù hợp với cá tính phô
bày tri thức của mình và tài dùng chữ.
Câu văn của Nguyễn Tuân thường có xu hướng phức hóa. Bất cứ thành phần nào
trong câu văn của ông cũng đều có thể được phát triển một cách dễ dàng. Ông mang
trong mình cái giọng kể khoan thai trong những thiên truyện, giọng giãi bày miên man
trong những thiên tùy bút, giọng phân tích, phẩm bình tỉ mỉ kiểu “chẻ sợi tóc làm tư”
trong các bài viết về văn học nghệ thuật.
Sự chau chuốt trong câu văn Nguyễn Tuân không chỉ thể hiện ở bình diện cấu trúc mà
còn ở mặt tu từ. Nói cách khác, yêu cầu về tu từ đã được đáp ứng bằng những đặc
điểm của cấu trúc. Những biện pháp và phương tiện được nhà văn sử dụng thường
khiến cho câu văn phải dãn ra, trổ nhiều cành nhánh rậm rạp, với những tầng bậc khác
nhau và đạt hiệu quả thẩm mỹ rõ rệt.
Trong các phép tu từ, thì sóng đôi cú pháp, điệp, giải nghĩa, tách câu là những biện
pháp được Nguyễn Tuân ưa dùng hơn cả. Có những kiểu tu từ dễ kéo câu văn trở về
kiểu dữ dương biền ngẫu cũ kĩ một thời, (ví như phép sóng đôi cú pháp), nhưng
Nguyễn Tuân vẫn sử dụng một cách thoải mái, và bằng sự cao tay của mình, ông viết
nên những câu văn nhịp nhàng cân đối mà vẫn rất hiện đại. Chẳng hạn, miêu tả âm
thanh thác nước, ông hình dung: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại
như là van xin, rồi lại như là khiêu giọng gằn mà chế nhạo”; “Có chỗ vách đá thành
chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên
kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia” .
Có những phép tu từ tưởng chỉ phù hợp với kiểu câu văn giải thích đậm tính duy lí của
ngữ pháp châu Âu (ví như phép giải ngữ), vậy mà, qua bàn tay Nguyễn Tuân, chúng
bỗng phát huy hiệu quả bất ngờ trong việc tạo nên âm giọng điệu đặc biệt cho lời văn:
“Tôi sợ hãi khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi
cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà – từ đáy cái hút nhìn
ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải”. Câu
văn trổ nhánh rậm rạp ở đây có thể kể đến: “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài
hàng cây số nước xô đá, đá cô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm như lúc nào cũng đòi sợ suýt bắt người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”.
Hay: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng
trèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số nhấn ga cho nhanh để vút qua
một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà
phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Tóm lại, cả về mặt cấu trúc và phương diện tu từ cú pháp, Nguyễn Tuân đã thể hiện
nhiều khổ công tìm tòi, sáng tạo. Câu văn của ông vừa cho thấy dấu vết của một lộ
trình: ấy là lộ trình hiện đại hóa của câu văn quốc ngữ, vừa phản ánh khá rõ nét những
đặc điểm phong cách ngôn ngữ của một cá nhân.
Nói đến những tìm tòi, sáng tạo của Nguyễn Tuân về ngôn ngữ, không thể không đề
cập nghệ thuật so sánh đặc sắc của ông. Về lượng, câu văn so sánh trong các văn bản
thuộc mọi thể loại của Nguyễn Tuân có tỉ lệ cao một cách khác thường so với tác
phẩm của các tác giả trong cùng bối cảnh văn học. Nhưng điều đáng nói hơn là hiệu
quả nghệ thuật của phép tu từ so sánh trong lời văn Nguyễn Tuân. Hiệu quả này có
được là nhờ những tìm tòi không mệt mỏi của nhà văn về cấu trúc so sánh, về từ chỉ
quan hệ so sánh, và đặc biệt là hình ảnh dùng để so sánh. Săn tìm những hình ảnh dị
thường, ít ai nghĩ tới, làm cho mỗi câu văn so sánh thực sự là một kết quả khám phá,
thể hiện một cái nhìn khác biệt về đối tượng, đó là những thao tác thường thấy ở Nguyễn Tuân.
Thao tác này được nhà văn sử dụng rộng rãi ở mọi thể loại, mọi giai đoạn sáng tác. Vì
vậy, thật khó mà thấy được sự khác biệt nghệ thuật so sánh của câu văn trong truyện,
trong tùy bút hay trong phê bình, chân dung văn học của ông. Có thể nói, nghệ thuật
so sánh trong “Người lái đò sông Đà” không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc đối chiếu
sự vật này với sự vật khác mà còn mang cả dấu ấn phong cách riêng của Nguyễn
Tuân, hàm chứa những cái nhìn độc đáo, tài hoa, tinh tế: ông đã diễn tả đoạn sông bị
chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang
mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng
lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”; “nước
ở đây thở và kêu như cái cống bị sặc”; “cái phim ảnh thu được trong lòng giếng xoáy
tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim ký sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ
chặt như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ
vừa rút lên cái gậy đánh phèn”; “mặt sông rung tít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập”;…
Sự liên tưởng đặc sắc nhất trong “Người lái đò sông Đà” nằm ở chính những trận
chiến trên sông Đà. Với thạch trận mà sông đà hung bạo giăng ra để chặn đánh người
lái đò, đó là: “hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng
chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa
rồi nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại… Thạch trận dàn bày vừa xong
thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những
hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt, một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm
hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút
và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến vào”
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con thủy quái sông Đà không chỉ hung hãn mà nó còn
hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước
quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt
sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ
ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp
chặt hạ bộ,… vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương.
Sự liên tưởng được tiếp nối sang thứ tính cách thứ hai của sông Đà: trữ tình. Nó “tuôn
dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở
hoa ban hoa gạo”… Cái nhìn lãng mạn và lối so sánh, liên tưởng đầy sở trường đó vẫn
vẹn nguyên khi ông phát hiện con sông Đà “tuôn dài, tuôn dài như áng tóc trữ tình,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Có thể khẳng định, về phương diện nghệ thuật, tùy bút “Người lái đò sông Đà” của
nhà văn Nguyễn Tuân đạt đến trình độ điêu luyện. Mỗi chữ, mỗi câu đều được trau
chuốt cong phu đến kinh ngạc . Qua đó, ta thấy được tài hoa, vốn văn hoá uyên thâm
và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Đồng thời ta còn thấy được cảm
hứng ngợi ca, tự hào về chất vàng thiên nhiên , về giang sơn gấm vóc Việt Nam của tác giả.
Đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò sông Đà - Mẫu 9
Nhắc đến Nguyễn Tuân ta nhớ đến bậc thầy của ngôn ngữ văn chương. Người ta cũng
nghĩ ngay đến hiện thân của chủ nghĩa “xê dịch”. Ham cái gọi là “xê dịch” ông cũng
thường viết về những cái gì không đứng yên: xe cộ, tàu thuyền, những con người có
máu giang hồ, thích ngao du đây đó. Ông cũng thích tả những cái gì mãnh liệt, dữ dội:
đèo cao, vực sâu, biển rộng, gió bão, thác dữ và cả cái đẹp tuyệt đỉnh, tuyệt vời, đẹp
làm lí trí của con người như tê dại. Đi nhiều, ông cũng là người gần gũi với thiên
nhiên, yêu thiên nhiên tha thiết đồng thời cũng khám phá nhiều vẻ đẹp, nét đặc biệt
của núi sông, cây cỏ trên nhiều miền đất nước. Tập bút ký Sông Đà và bài ký "Người
lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm như thế.
Sông Đà quả là một con sông vừa đẹp tuyệt vời vừa cực kì hung dữ. Tác giả gọi là
“hung bạo và trữ tình”’: hung bạo là ở những đoạn có thác dữ, có những quãng hẹp
kẹp giữa hai thành vách núi cao, hay những hút nước khủng khiếp chết người. Ở đây,
sông Đà có “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù của con người: hung hãn, nham
hiểm, xảo quyệt, độc ác... Trữ tình là ở những đoạn xuôi chèo êm ả. Dòng sông như
một “áng tóc trữ tình", nước sông thay màu sắc theo mùa rất đẹp, phong cảnh nên thơ,
những con thuyền đuôi én đáo... về phương diện này, sông Đà trở thành nỗi nhớ và
người bạn thân của con người, một “cố nhân” (tức người bạn cũ).
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
"Người lái đò sông Đà" thì được tập trung mô tả trong cuộc vật lộn với nước sông Đà.
Một quang cảnh thật dữ dội. Đây là những cảnh tượng kích thích mạnh giác quan
nghệ sĩ của Nguyễn Tuân, cảm hứng được khơi dậy, nhà bèn tung ra cả một kho ngôn
từ phong phú và đầy giá trị tạo hình của mình diễn tả cho được mọi sắc thái, mọi hình
thù, mọi bộ mặt, mọi âm thanh, tình huống phức tạp, oái oăm nhất của trận chiến đấu
giữa ông lái đò trí dũng tuyệt vời và thác nước sông Đà hung hãn, đầy mưu mô xảo
quyệt. Chỉ nói riêng về âm thanh của con thác đã thấy rõ ngôn từ phong phú của
Nguyễn Tuân tiếng nước thác lúc như “oán trách” lúc như “van xin” lúc như “khiêu
khí “giọng gằn mà chế nhạo”, rồi “rống lên như tiếng một ngàn con trâu đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”... Còn hình ảnh ông lái đò “cố nén vết thương, hai
chân kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo xệch đi”, “ lên thác”, “nắm chặt lấy được cái
bờm sóng", “ghì cương”, “phóng nhanh”, miết một đường chèo”, “rảo bơi chèo lên”,
“đè sân lên mà chặt đôi” con thác…
Một nét phong cách khác của Nguyễn Tuân là thường quan sát, khám phá sự vật ở
phương diện mĩ thuật và con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Dưới ngòi bút
Nguyễn Tuân, sông Đà quả là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa “tuôn
dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc hiện trong mây trời Tây Bắc
bung nở hoa ban hoa gạo”. Màu sắc sông Đà mùa xuân là “dòng xanh ngọc bích”,
mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ” có lúc lại lên cái “màu tháng ba Đường thi “Yên hoa tam
nguyệt hạ Dương Châu”...
Còn ông lái đò sông Đà thì trở thành một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật vượt thác
ghềnh, đã nắm chắc được “binh pháp của thần sông thần đá”, thuộc lòng các luồng
sinh luồng tử của các con thác dữ nên chủ động trong mọi huống, có thể lái con
thuyền vun vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang, hiểm hóc... Nguyễn Tuân gọi thế là “tay lái ra hoa”.
Nguyễn Tuân còn là một cây bút rất mực tài hoa, lịch lãm. Mô tả một tượng nào đấy,
ông không chỉ vận dụng những hiểu biết về nghệ thuật văn chương mà còn kết hợp
thích đáng những lợi thế của kĩ thuật khác như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, sân khấu,
vũ đạo, điện ảnh. Bài kí Người lái đò sông Đà ng là một bằng chứng rất tiêu biểu của nét phong cách trên.
Chẳng hạn ông tả một cái hút khủng khiếp của sông Đà bằng kĩ thuật phim ảnh: “Tôi
sợ hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho
khán giả, đã dũng cảm dám ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vạnh rồi cho cả thuyền
cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà. từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách
thành hút mặt sông chênh nhau tới một cái cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh.
Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu ống quay tít, cái máy lia ngược (...) lên
một cái mặt giếng mà thành giếng xây tràn bằng nước sông xanh ve một áng thủy linh
Văn mẫu lớp 12: Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong Người lái đò Sông Đà
khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan úp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem”.
Ở bài ký sông Đà này, Nguyễn Tuân còn vận dụng cả những nghệ thuật, kĩ thuật rất ít
khi thấy được vận dụng trong văn chương: nghệ thuật quân sự và võ thuật. Nào là cửa
sinh cửa tử, đánh khuýp vu hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp lá cà, nào là đòn
tỉa, đòn âm, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng... Ngoài ra ông còn vận dụng những tri
thức của nhiều bộ môn khoa học trong tác phẩm của mình - một vốn văn hóa phong
phú lịch lãm hiếm thấy - làm cho những bài kí của ông có giá trị văn hóa cao. Bài kí
Người lái đò sông Đà như thế đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ ích về
lịch sử, địa lý sông Đà, về lịch sử cách mạng xung quanh con sông này, về địa hình
địa thế của nó, về những con thác đủ loại, về các tài nguyên đất nước vùng sông Đà,
về những bài thơ của Nguyễn Quang Bích, của Tản Đà..., về con sông ở miền Tây Tổ quốc này.
Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo, tài sử dụng
ngôn ngữ đến mức điêu luyện. Đọc "Người lái đò sông Đà" ta cảm nhận rõ thêm sự
sắc sảo của giác quan người nghệ sĩ bậc thầy và kho từ vựng giàu giá trị tạo hình, lối
văn rất mực tài hoa. Bởi thế bài ký vừa có giá trị văn học vừa đem đến cho người đọc
những thông tin thú vị về sông Đà, con sông ở vùng Tây bắc Tổ quốc.