








Preview text:
Đất Nước luôn là một đề tài được rất nhiều nhà văn, nhà thơ khai thác, bởi
đây chính là đề tài quen thuộc, gắn liền với dân tộc ta nói chung, từng con
người Việt Nam nói riêng, từ thuở ta mới vào đời. Mỗi một nhà thơ đều sẽ có
một cách nhìn nhận, định nghĩa về Đất Nước rất riêng, rất đặc biệt theo
phong cách của họ, nhưng nổi bật nhất có thể nói đến chính là góc nhìn của
nhà văn Nguyễn Khoa Điềm thông qua tác phẩm “Đất Nước” được trích trong
chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được nhà thơ sáng tác trong những ngà
y tháng nóng bỏng của chiến trường Bình - Trị - Thiên năm 1971, khi mà cuộc
chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam đang vào thời kì ác liệt. Nguyễn Khoa
điềm đã viết ra tác phẩm này nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ thành thị miền Nam ở vù
ng tạm chiếm: nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, ý thức
được sứ mệnh của mình đối với dân tộc trong cuộc chiến tranh thiêng liêng bảo vệ đ
ất nước. Và tác phẩm được trích ra từ phần đầu của chương V – chương trụ cột
của bài trường ca. Xuyên suốt bài thơ “Đất Nước” nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
đã đưa ra các câu trả lời cho những câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ ? Đất nước l
à gì ? Đất nước là của ai, do ai làm nên ? , để rồi từ đó, ông đã đưa ra lời giải đáp
cho câu hỏi: Mỗi người cần phải làm gì cho Đất Nước?
Đoạn thơ được mở đầu với những hình ảnh rất bình dị, gần gũi mà bất cứ
người Việt Nam nào cũng đã từng nghe, từng được nhìn thấy ít nhất một lần
trogn đời sống, chính những điều ấy đã giải thích được cho câu hỏi – ĐN đã có từ bao giờ
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Ngay ở câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã cho ta một câu trả lời cho câu hỏi:
“ĐN đã có tự bao giờ?” , ĐN có từ bao giờ thì ta không biết, nhưng ta chỉ biết
một điều rằng khi ta sinh ra và lớn lên, thì ĐN đã ở đó từ lâu rồi. Đối với nhà
tho Nguyễn Khoa Điềm thì ĐN không phải ở đâu đó xa xôi, mà ĐN ở ngay
trong những cái gì mà ta cảm thấy thân thuộc nhất: từ những câu chuyện cổ
tích, những miếng trầu, những phong tục tập quán, tình nghĩa vợ chồng, từ
những cây cột, cây kèo, những hạt gạo,…
Với cụm từ “ngày xửa ngày xưa”, chúng đưa đọc giả đến với những câu
chuyện cổ tích dân gian, nơi mà cái thiện sẽ chiến thắng được cái ác, nơi mà
những con người hiền lành, chịu khó sẽ gặp được điềm lành, chuyện tốt đẹp,
còn những kẻ ác sẽ gặp quả báo vì những việc mà mình đã gây ra, chúng còn
mang trên mình những khát khao , ước mơ về một cuộc sống an vui, công
bằng của con người, và ĐN cũng được xuất hiện từ những điều ấy. ĐN bắt
nguồn từ những câu chuyện, cổ tích, truyền thuyết như: sự tích Trầu cau với
tình cảm thắm thiết giữa những người thân trong gia đình, tình nghĩa vợ
chồng, truyền thuyết Thánh Gióng với tinh thần yêu nước, mong muốn bảo
vệ ĐN, bảo vệ những gì thuộc về ta, đồng thời khúc anh hùng ca biểu tượng cho
sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam thuở bình minh dựng nước và giữ nước,...
Qua đó, ta thấy được rằng, ĐN vốn không phải là một thứ gì đó vô định, hay
chỉ đơn giản là những khái niệm trừu tượng chung chung, mà ĐN chính là
những gì thân thuộc, gần gũi trong cuộc sống của mỗi con người Việt Nam,
đồng thời nhắc nhở đọc giả về những đức tính, tinh thần yêu nước nồng nàn
của nhân dân ta từ thưở xa xưa.
ĐN không chỉ gắn liền với các câu chuyện cổ tích, mà còn gắn liền với
những phong tục, tập quán, nếp sống văn hoá của nhân dân ta, có thể nói
đến như bới tóc sau đầu, tục ăn trầu, tục đặt tên vật, tên người,… Ông cha ta
đã có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện” , bởi từ xưa tục ăn trầu đã phổ biến
ở mọi tầng lớp, từ dân gian tới cung đình, nó đã dần trở thành nét đẹp văn hoá
truyền thống của dân tộc, người Việt quý nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch
sự cũng mời ăn trầu. Miếng trầu, làm cho người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miế
ng trầu còn là sự thể hiện lòng thành kính của thế hệ sau với các thế hệ trước cho nê
n trên mâm cỗ thờ cúng gia tiên của người Việt cũng có trầu cau. Thêm vào đó, tro
ng phong tục cưới hỏi của người VN, không bao giờ vắng mặt hai lễ vật trầu cau bởi
nó thể hiện cho sự gắn kết, thắm thiết giữa tình yêu đôi lứa và hôn nhân. Thế nên ca
dao mới có những hình ảnh về trầu cau đẹp đến nao lòng:
Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ké dây trầu một bên Khi nào cao nọ lớn lên
Trầu kia ra lá thì nên vợ chồng
Cùng với hình ảnh trầu cau, câu thành ngữ “ gừng cay muối mặn” đã cho ta thấy
được cha với mẹ đã cùng nhau gây dựng nên một tổ ấm, Cha mẹ thương và sống
với nhau không chỉ bằng tình yêu mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền
chặt với thời gian. Cũng như gừng bao năm gừng vẫn nguyên vẹn vị cay,
thậm chí càng già càng cay, càng đậm mùi vị đặc trưng không đổi; hay như
vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như xưa.
“ Cái kèo cái cột thành tên”
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại một lần nữa đề cập đến một thói quen đặt tên cực
kì quen thuộc của nhân dân ta: tục đặt tên cho con không đẹp. Nghe có vẻ hơi ngượ
c đời bởi con người ta ai mà chẳng muốn có một cái tên đẹp, thế nhưng, điều tưởng
chừng như vô lý ấy lại xuất phát từ mong muốn cực kì tốt đẹp: mong con dễ nuôi lớn,
có một đời bình an, hạnh phúc. Không chỉ vậy, cái kèo cái cột còn là những thứ dùn
g để làm nhà cổ của người Việt, họ dùng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vữ
ng chắc, bề chặt và có thể tránh được mưa gió, thú dữ.
ĐN ta vốn là một ĐN thuộc nền văn minh lúa nước, nên không lý nào mà nhà thơ l
ại không đề cập đến truyền thống trồng lúa đã có từ thuở xa xưa của ông cha ta.
“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Chỉ với câu tục ngữ “ một nắng hai sương” , Nguyễn Khao Điềm đã thành công k
hắc hoạ nên hình ảnh con người VN với các đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó tr
ong công việc. Để có thể có được những hạt gạo chất lượng, những ngừoi nông dân
đã phải hi sinh rất nhiều thời gian, công sức để có thể chăm sóc những cánh đồng lú
a từ lúc cấy mạ cho đến lúc trổ bông, rồi thu hoạch. Sau đó, lúa gặt về còn cần phải
“ xay, giã, giần, sàng” , công phu lắm mới có được một bát cơm thơm dẻo. Qua đó,
ta thấy được rằng, nhà thơ không chỉ đơn giản nhắc lại những văn hoá truyền thống
của ông cha ta, mà còn là lời nhắc nhở dịu dàng rằng: hãy nhớ đến công sức lao độn
g của những người nông dân , phải biết quý trọng hạt gạo bởi chúng chứa đựng rất n
hiều sự vất vả, cực nhọc từ ngừoi trồng nên chúng
Ở câu thơ cuối của đoạn thơ, ta thấy được đó chính là lời khẳng định với niềm tự h
ào của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:
“ Đất Nước có từ ngày đó...”
Không ai trong chúng ta có thể khẳng định được rằng ĐN đã có từ ngày nào, nhưn
g ít nhất ta biết được một điều rằng là ĐN có từ khi những câu chuyện cổ tích, truyền
thuyết xuất hiện, từ ngày ta có được những phong tục, văn hoá, hay là ngày ta biết đ
ứng lên đánh giặc, bảo vệ những thứ thuộc về ta và cả nền văn minh lúa nước được l
ưu giữ ngàn đời. Tất cả đều là những biểu hiện cao đẹp của bề dày văn hóa.
Mà văn hóa truyền thống thì lại là hiện thân của chiều sâu đất nước.
Sau khi đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “ ĐN có từ bao giờ?” , nhà thơ NKĐ đã tiếp
tục đưa đọc giả đến với hình ảnh một ĐN gắn liền với những kỉ niệm riêng tư của mỗ
i người, đồng thời là lời giải cho câu hỏi “ ĐN là gì?” thông qua hai phương diện: kh
ông gian địa lí và thời gian lịch sử. Trước hết, ta sẽ được nhìn định nghĩa rõ ĐN thông
qua phương diện không gian địa lí.
“ Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Tác giả đã sử dụng chiết tự hai từ ĐN thành hai yếu tố Đất và Nước để suy tư m
ột cách sâu sắc. Đất là nơi đến trường để đi học với ước mơ có thể được tiếp cận với
tri thức, nước là nơi em tắm. Qua đó, ta có thể hiểu được rằng ĐN chính là nơi mà cu
ộc sống sinh hoạt hằng ngày diễn ra, là nơi ta được sinh ra, trưởng thành và học tập.
Khi Đất và Nước gộp lại, ĐN lại là nơi mà tình yêu đôi lứa bắt đầu, nơi gắn kết tình cả
m. Không chỉ vậy, đây cũng là nơi mà cô gái, thiếu nữ nào đó gửi gắm nỗi nhớ thầm cho tâm hồn bất cứ ai
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã lần nữa tách hai yếu tố ấy nhằm lần nữa lí giải v
ề định nghĩa ĐN, đồng thời khắc hoạ rõ nét vẻ đẹp của lịch sử, phong cảnh của quê
hương, thêm vào đó là lòng biết ơn tổ tiên được kế thừa từ nhiều đời của người Việt t
hông qua phương diện lịch sử:
“ Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
ĐN là nơi mà chim phượng hoàng bay về, loài chim linh vật của phương Đông, tượ
ng trưng cho sự đổi mới, mạnh mẽ, trường tồn. Ngoài ra, ĐN còn là nơi có cá ngư ôn
g, một loài ca được nhân dân ta tôn thờ như 1 vị thần bảo hộ trước những chuyến ra
khơi. Từ đó ta thấy được rằng ĐN là nơi dân ta cùng đoàn tụ, sinh sống, phát triển và
đổi mới hằng ngày, là nơi có sông, suối, biển, rừng.
ĐN còn gắn liền với những truyền thuyết với bề dày lịch sử ấn tượng, đó chính là tr
uỳen thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết dựng nước của vua Hùng cùng v ới ngày giỗ Tổ.
Hai chữ “ đằng đẵng” đã nói lên thời gian bền bỉ tràn đầy sức sống của bề dày văn
hiến lâu đời, cùng với đó “ mênh mông” đã gợi nên hình ảnh ĐN với không gian rộ
ng lớn, thể hiện rõ niềm tụe hào về lãnh thổ nước nhà của nhà thơ NKĐ. Tác giả đã d
ùng truyền thuyết để nhắc lại về cội nguồn của dân tộc ta. Nếu tách ĐN ra thì Đất ch
ính là nơi quy tụ của chim, còn Nước sẽ nơi rồng sinh sống, nhưng nếu hợp lại thì chí
nh là đồng bào, một từ mang ý biểu tượng, nhắc nhở người Việt ý thức trách
nhiệm với tổ tiên. Lời thơ nhắc đến tổ tiên mang sắc thái trang trọng, thể hiện
tấm lòng biết ơn của mỗi con người Việt Nam hôm nay với những người đã khai sinh ra dân tộc. Những ai đã khuất Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
NKĐ đã nhấn mạnh trách nhiệm và bổn phận của mọi người dân đối với ĐN. Ôn g cha ta đã
phải hi sinh rất nhiều để có thể dựng nước và giữ nước với mong ước để có thể cho
các thế hệ sau sẽ có thể được sống trong một cuộc sống tốt đẹp hơn, trong một b
ầu không khí hoà bình. Và các thế hệ sau sẽ được sống trong thành quả mà ông ch
a ta đã đạt được, đồng thời cũng sẽ “ gánh vác” phần trách nhiệm mà ông cha ta đã truyền lại cho.
“ Hằng năm ăn đâu nằm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Hành động “ cúi đầu” thể hiện sự thành kính, ngưỡng vọng. Cứ mỗi năm, vào dị
p giỗ Tổ Hùng Vương nhằm ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch, nhân dân ta ở khắp mọi
miền Tổ quốc sẽ cùng quay về Đền Hùng để thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên,
theo tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam. Ta cũng có thể b
ắt gặp được những câu ca dao, thành ngữ tục ngữ nói đến sự biết ơn của ta đối với t ổ tiên như:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”
Nhà thơ NKĐ đã phát hiện ra một điều rằng: bản thân người đều sẽ có
trách nhiệm với ĐN, và ĐN chính là sự hợp nhất, đoàn kết của toàn dân tộc,
là sự kết hợp giữa cái riêng và cái chung, cá nhân và cộng đồng: Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
ĐN bắt nguồn từ nhũng thứ đơn giản, thân thuộc nhất, hoặc có thể nói là ĐN đồng
hành với chúng ta từ khi ta mới chào đời, trở thành một phần của đời sống của ta, c
ó lẽ vì thế mà NKĐ đã nói ĐN có trong mỗi ngừoi trong con người VN, cùng với đó là
cách xưng hô ‘ anh em” cực kì ngọt ngào, tha thiết với giọng thơ thủ thỉ, tâm tình.
Khi cầm tay nhau, ta dường như thấu cảm và yêu thương, cùng nhau chia ngọt sẻ bù
i, là hành động biểu tượng tình yêu lứa đôi, chúng có thể làm cho vẻ đẹp của ĐN trở
nên hài hoà nồng thắm. Không chỉ có tình yêu đôi lứa, mối quan hệ giữa từng cá nhâ
n với nhau trong một cộng đồng chung cũng có thể tô điểm thêm cho vẻ đẹp của ĐN.
Hình ảnh “ anh” và “ em” cùng nhau nắm tay mọi người chính là biểu tượng cho
sự đoàn kết vững chắc, để ĐN trở nên “ vẹn tròn, to lớn” , lớn mạnh trong tình đoà n kết dân tộc.
Ở 3 tiếp theo, độc giả sẽ thấy được hình ảnh ĐN trong tương lai cùng với các thế h ệ sau này: “ Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang ĐN đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Cụm từ “ mai này” chỉ đến khoảng thời gian trong tương lai, còn “ con ta” chín
h là con của “ Anh” và “ em” hoặc đó cũng có thể chính là những thế hệ sau này.
Tác giả mong những thế hệ sau này sẽ lớn lên, trở nên trưởng thành, phát triển một
cách toàn vẹn, họ sẽ mang ĐN cùng đi ra xa khắp nơi trên Trái Đất. Với động từ “ ma
ng” , độc giả đường như hiểu rằng ĐN chính là một cái gì đó có hình dạng, có sức nặ
ng của bổn phận và trách nhiệm, đồng thời chính là tình cảm yêu thương trìu mến, h
y vọng, niềm tin cậy mà nhà thơ NKĐ luôn mong muốn gửi vào thế hệ trẻ sau. Họ chí
nh là những người sẽ mang ĐN đến với “ những tháng ngày mơ mộng” , chính là đế
n với sự phát triển phồn thịnh và tươi đẹp của ĐN. Qua đó, độc giả đã thấy được niề
m tin và hi vọng của nhà thơ về một thế hệ con người sau này sẽ hoàn thành trách n
hiệm mà thế hệ trước đã truyền lại một cách xuất sắc.
Sau những lời gửi gắm đầy yêu thương, nhà thơ NKĐ đã đưa ra lời nhắc nhở về ý t
hức trách nhiệm của mỗi con người đối với ĐN:
“ Em ơi em ĐN là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên ĐN muôn đời...”
Tuy là lời nhắc nhở nhưng với cách xưng hô “ em” , lời nhắc nhở tựa như là nhữn
g lời tâm tình mà các cặp đôi vẫn thương hay nói với nhau, khiến cho lời nhắc nhở c
ũng biến thành lời tự nhủ, tự dặn bản thân mình. NKĐ đã sử dụng giọng văn trữ tình
kết hợp với chính luận, bằng cách sử dụng câu cầu khiến cùng với điệp ngữ “ phải bi
ết” , và động từ mạnh “ gắn bó” , “ san sẻ” , hoá thân” . Mặc dù đây là lời nhắc n
hở có mang yếu tố chính luận, thế nhưng, ta lại không cảm tháy co chút khô khan,
mang đậm tính giáo huấn, mà lại thấy đây là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng, đầy tâm tình
nhưng cũng không kém phần chân thành, đó chính là điểm độc đáo của nhà thơ NK
Đ. Ở đây, “ gắn bó” chính là phải có mối quan hệ thân thiết chặt chẽ với , “ san s
ẻ” chính là cùng nhau chia sẻ những niềm vui, thành tựu đồng thời cũng cùng nhau
trải qua những khso khăn, hàon thành trách nhiệm mà ông cha ta đã nhắn nhủ. Và c
uối cùng chinh là sự “ hoá thân” là mức độ cao nhất, sằn lòng hi sinh tất cả những
gì hiện có để có thể tạo ra và giữ gìn dáng hình của ĐN. Từ đó, ta thấy được trách nhi
ệm mà nhà thơ muốn nhắn nhủ cho thế hệ trẻ đối với ĐN để cùng nhau “ làm nên Đ N muôn đời...”
Ở những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã cho độc giả thấy được những tư tưởng cực
kì mới mẻ về ĐN, đó chính là: ĐN là do nhân dân làm nên và ĐN là của nhân dân, thô
ng qua góc nhìn về các danh làm thắng cảnh trải dọc suốt ĐN Việt Nam ta.
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Với nghệ thuật liệt kê, nhà thơ đã lần lượt nêu ra tên địa danh nổi tiếng với những
cảnh đẹp ở trên khắp mọi miền của Tổ quốc, từ miền Bắc đến miền Nam, một cách
dày đặc. Tất cả chúng đã làm cho người đọc cảm thấy Việt Nam cũng rộng lớn, đồng
thời đoạn thơ trên đã khẳng định được phần nào khẳng định được chủ quyền toàn v
ẹn lãnh thổ của nước ta trước mắt các kẻ thù xăm lược. Vai trò quan trọng của nhữn
g nhân dân bình thường, vô danh được đề cao trong việc làm nên ĐN nhờ nhà thơ N
KĐ đã điệp từ “ góp” 7 lần, họ làm nên “ dáng hình xứ sở” , họ khẳng định chủ qu
yền ĐN của dân tộc ta. Và mỗi địa danh được nhà thơ đề cập đến đều mang trên mìn
h những câu chuyện, ý nghĩa riêng
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
Hình ảnh những người vợ đợi chồng đến độ hoá thành đá tạo nên những ngọn núi
Vọng Phu, những câu chuyện tình yêu đôi lứa giữa các cặp vợ chồng cùng tạo nên h
òn Trống, hòn Mái. Từ đó, ĐN xuất hiện từ những tình yêu nồng thấm, từ lòng thuỷ c
hung tình nghĩa vợ chồng.
ĐN còn được làm nên bởi những truyền thuyết về vị anh hùng của dân tộc, người
có công dựng nước, nơi mà vẻ đẹp của ĐN được hoá thân thành những thời khắc lịc h sử hào hùng.
“ Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương”
Những cái ao, cái đầm có ở ĐN ta ngày nay có được từ những gót ngựa của Thánh
Gióng, những ngọn núi có dáng hình tựa như những con voi đã cùng nhau quy tụ lại,
dùng sức của chính mình cùng với sự đoàn kết, chung sức, cùng nhau “ dựng Đất tổ
Hùng Vương” . Từ đó ta thấy được rằng, ĐN xuất hiện từ tấm lòng yêu nước, mong
muốn đánh đuổi giặc ngoại xâm, đồng thời, truyền thống uống nước nhớ nguồn, luô
n một lòng hướng về cội nguồn với tất cả lòng thành. Không chỉ vậy, nhà thơ NKĐ cò
n đề cập đến một truyền thống, cũng như là vẻ đẹp thiên nhiên của ĐN ta.
“ Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Nhưng con rồng “ nằm im” góp cho ĐN những dòng sông xanh thẳm, nơi có sự g
iàu có của phù sa, tôm cá,... Từng ngọn núi Bút, non Nghiên trải dài khắp ĐN ta, làm
nổi bật lên tinh thần tôn sư trọng đạo của dân ta. Các câu thơ trên cùng với nhiều đị
a danh và cổ tích, đã thể hiện phần nào lòng tự hào và biết ơn những người dân vô d
anh đã “ góp cho” ,” để lại” ,” góp mình” ,” đã góp nên” , hi sinh thầm lặng, cùn
g nhau làm nên từng phần của ĐN, làm cho ĐN ngày thêm giàu đẹp.
Ở 4 câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khẳng định lại một lần nữa tư tưởng ĐN là của n hân dân của mình:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta. . ”
Hình ảnh “ruộng đồng”,”gò bãi” đã hiện ra 1 ĐN với dáng vẻ mộc mạc, bình dị mà thân thuộc,
đó cũng chính là dáng hình mà ông cha ta vẫn luôn ao ước có thể gây dựng. Thán từ “ôi” đã thể
hiện cảm xúc tự hào trước bề dày lịch sử của dân tộc ta, ĐN ta. “những cuộc đời” của những ng
ừoi dân bình dị vô danh, và những con người vô danh ấy cũng đã hoá thân, dần tạo nên dáng hìn
h của ĐN. 4 câu thơ trên được viết theo cảm xúc tự do, được mở rộng kéo dài theo cung bậc. Nh
à thơ NKĐ đã khẳng định: thiên nhiên ĐN đã được nhân dân sáng tạo nên, ĐN là của Nhân dân,
Nhân dân đã hoá thân cho ĐN.
8 câu thơ sau đây, nhà thơ đã sử dụng các chất liệu văn học dân để có thể làm nổi bật vẻ đẹp t inh thần của nhân dân.
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về ĐN mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Từ ý thơ trong câu ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”, nh
à thơ đã cho ta thấy được tấm chân tình, thủy chung của một chàng trai trong tình yêu, ý thơ đã t
hể hiện được tình yêu thuỷ chung bền vững của nhân dân ta, đồng thời ca ngợi nên vẻ đẹp của m
ột mối tình từ thuở nhở đến lúc trưởng thành.
Một lần nữa, nhà thơ lại sử dụng câu ca dao để nói lên quan niệm sống sâu sắc được gìn giữ v
à truyền lại qua biết bao thế hệ. NKĐ đã lấy ý từ câu ca “Cầm vàng mà lội qua
sông/Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”, Nhân dân ta đã dạy rằng: khi đạt
được một điều gì đó, ta phải biết quý trọng cái công sức mà ta đã phải bỏ ra để có th
ể đạt được điều trước đó.
Lại một lần nữa, Nhân dân ta đã dạy ta cần phải luôn kiên nhẫn, sẵn sàng đánh gi
ặc, đuổi giặc ngoại xâm. Dân ta từ xa xưa đã biết kiên nhẫn làm việc lớn, biết trồng tr
e để mà có thể đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc.
4 câu thơ cuối, ta lại bắt gặp hình ảnh dòng sông rất thân thuộc, những con sông
ấy không biết bắt đầu từ đâu, nhưng ta chỉ biết là, khi mà dòng sông ấy đến với ĐN t
a, chúng sẽ cất lên câu ca hát, tiếng hát ấy riêng biệt, độc đáo bởi do đặc điểm địa hì
nh của đất nước ta. Ở 2 câu thơ cuối, nàh thơ lại lần nữa khẳng định nhân dân đã là
m nên ĐN, dù cho có “ trăm màu” , có ở hình dáng nào thì nhân dân ta cũng vẫn sẽ
tiếp nối những giá trị mà tác giả đã nhắn gửi và mong những giá trị ấy vẫn sẽ mãi trư ờng tồn theo thời gian
Bài thơ ĐN là tác phẩm được nhà thơ NKĐ sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất
liệu văn hóa và văn học dân gian đem vào câu thơ hiện đại làm tăng thêm sức hấp dẫn của
đoạn thơ, đồng thời, chúng đã thành công truyền đạt hoàn toàn những thông điệp mà nhà thơ
muốn nhắn gửi trong tác phẩm. Rất nhiều địa danh đã được nhà thơ liệt kê ra, điều đó đã khiế
n cho độc giả biết được rằng ĐN ta rộng lớn, hùng vĩ biết bao.
Qua tác phẩm, ta biết được rằng, đã là con dân của một ĐN nào đó, bản thân ta cần phải n
hận thức được trách nhiệm của bản thân đối với ĐN. Đồng thời, ta cần phải biết trân trọng, k
ế thừa và phát triển các văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.