Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân - Ngữ Văn 12

Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân" hay nhất. Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

Phân tích nhân vt bà c t
Phân tích nhân vt bà c T mu 1
Truyn ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ly bi cnh nạn đói khủng khiếp năm
1945 để din t được cái đói sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý ca tác gi chính
vic da trên nạn đói để lt t tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người,
nhng mảnh đời lm thân. Nhân vt c T một hình tượng điển hình cho người đàn
nghèo kh đến cùng cực nhưng tình yêu thương con đến b bến. Hn rằng người
đọc s không bao gi quên nhng lời mà Kim Lân đã dành cho bà.
Kim Lân rt khôn khéo khi la chn thời điểm thích hợp để c T xut hin, ti sao
không phải đầu câu chuyn li gia câu chuyn. Tác gi mun gi lên cái nghèo
đói đến thê lương của xóm ng này, lấy làm nền, làm đòn bẩy đ đi sâu vào phân
tích din biến tâm lý, ni tâm ca người đàn bà này. Tứ xut hin t khi Tràng đưa vợ
v nhà, din biến tâm ca c thay đổi liên tc t khi một người đàn khác
xut hin trong ngôi nhà ca mình.
Như nhữngm Vit Nam nghèo kh khác trong thi k cách mng tháng tám, bà c T
hin lên là một người m nghèo, b cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá nhiều. Bà c T
xut hin tht nét qua li k tác gi “T ngoài rng tre, lng khọng đi vào. Tính
vn thế, vừa đi vừa lm bm tính toán trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy m,
Tràng reo lên như một đa tr gi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật
chạy ra đón mẹ t ngoài cng và trách sao bà v muộn”. Một c dáng dấp đã không còn
nhanh nhn, tháo vát na phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên mt thm cnh thê
lương đến não lòng.
Đặc bit s thay đổi bt ng khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngi ngay giữa nhà mình “Bà
c T php phỏng bước vào theo con vào nhà. Php phng linh tính cho biết trong
nhà hn xy ra chuyn gì. qu đúng như vậy. Mới đến giữa sân, đng sng li
càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà người, lại đàn bà. Người đàn nào trong y
nhỉ? chưa gặp, không quen bao giờ. Người y lại đứng ngay đầu giường thng con
mình thế kia? Sao li chào mình bng u?.. Ai thế nh? Hàng lot câu hỏi đặt ra trong đầu
lão. Hay già ri, trông hoá cuc. Bà lão hp háy cp mắt cho đỡ nhoèn t dưng
lão thy mt mình nhoèn ra thì phi.. Không phi trông hoá cuc, không phi mt
nhoèn. Đúng người ri. lão nhìn k người đàn bà ln na, vẫn chưa nhận ra người
nào. lão quay li nhìn con t ý không hiểu.”. Người m nghèo một đời khốn khó như
vy làm sao th không ngạc nhiên cho được khi đã hiểu ra sự này. thương
mình, thương con thương cho người đàn lạ kia. Gia cnh chết choc như ngả r, nn
đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người như thế này không lo, không
buồn sao được.
nghĩ đến cái cảnh người ta dng v g chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đng
này con trai bà ly v trong cnh bn hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. thương mình
bao nhiêu thì thương cho con gp bi phn, cm thy ti nhc khi không th mang li
m no hạnh phúc cho đứa con trai ti nghiệp. thương cho người đàn héo hon kia
cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng v làm v. Chao ôi những suy nghĩ của bà
c T tht khiến người ta đau lòng, não n, khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết
cách nào có th thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.
Kim Lân đã rất thành ng khi phác ha hình nh c T đầy ám ảnh trong lòng người
đọc đến như vậy.
Hơn hết din biến tâm lý ca c T thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó tín
hiệu đáng mừng chng t rằng đã chấp nhận người v “nhặt” của đứa con, cũng giống
như việc chp nhn s gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng vi các con. Cái cách bà
c T dặn đôi vợ chng tr tht khiến con người ta cm phục Nhà ta nghèo liệu
bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, động viên nàng dâu: Ri may ra ông
giời cho khá… Biết thế nào h con, ai giàu ba họ, ai khó ba đi? Ri ra thì con cái chúng
mày v sau.”. Sự ân tình, chu đáo của người m nghèo khiến đôi vợ chng tr cảm động,
không biết nói hơn, đã chấp nhận “người v mới” của đứa con, chp nhn c cái đói
nghèo mà gia đình bà mang.
ân tình vi con dâu, nói cho con dâu yên lòng rng nhà nghèo, nếu thì làm dăm ba
mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu gng. Chi tiết này đã cho thấy s
đồng cm gia một người ph n nghèo vi một người ph n nghèo. S gn kết này s
mang li một hơi ấm và sc sống cho gia đình sau này.
Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho cụ T,
thương cho người đàn bà nghèo và thương cho những người sng trong cnh khốn đốn đó.
Hình ảnh “nôi cháo cám” sau đêm tân hôn của con người m này mang đến thc s
khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mt. Ni cháo cám y không còn nguyên giá tr thc
như vẫn mang, hin thân của tình yêu thương con b bến, đức hi sinh ln lao
của người m nghèo dành cho những đứa con. Ni cháo cám chi tiết cc k đắt giá ca
câu chuyn, nhân phm lòng v tha, yêu thương của c T cũng t chi tiết này
được nhân lên gp bi, gp vn ln.
Hẳn người đọc s không bao gi quên đi hình nh c T gn vi ni cháo cám cui
truyn, k toàn chuyn vui cho các con nghe vi hi vng một tương lai đỡ khổ, đỡ
nhc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng m trong hoàn cnh khc nghit. Hin thc
dường như không th đánh gục được nh yêu thương giữa con người với con người vi
nhau.
Bng bút pháp khc ha din biến tâm sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc
những âm khó phai về hình nh c T nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương
đáng ngưỡng m. Bà c Thin thân ca những gì cao đẹp nht ca mt con người, mt
nhân cách.
Din biến tâm trng ca bà c T (m Tràng) mu 2
+ Lúc đầu c không ng con mình ly v nên không hiểu người đàn trong nhà
mình ai c nghĩ tình cảnh con mình khó lấy được v, nht gia nạn đói khủng
khiếp này. Dạo đu ca chui tâm trng y 1 lot nhng câu hỏi đy v ngc nhiên, thc
mc:
>>> Như thường l, bui chiu y tri sm tối. Chưa thấy người, nhưng anh Tràng biết
m, bởi ngoài đầu ngõ tiếng người húng hng ho. T ngoài rng tre, lng khọng đi
vào. Tính vn thế, va đi vừa lm bm tính toán trong miệng. Nhưng hôm nay khác,
thy mẹ, Tràng reo lên như một đứa tr gi ới vào trong nhà: U đã v đấy! Anh con trai
lật đật chạy ra đón mẹ t ngoài cng và trách sao bà v mun. , hn có chuyn gì ri, mi
bữa anh cu Tràng đâu thế. còn gi i vào trong na. Trong nhà nào ai. Lâu nay,
khi ông lão đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mi hai m con. nhp nháy hai
con mt nhìn Tràng, chm hi: "Có vic thế vậy? Anh cu Tràng chưa chịu nói, gic
vào nhà."
"Người đàn bà nào lại đứng đầu giường con mình thế kia?" "ai thế nh? sao li chào mình
bng u?".
>>> Phi, làm sao bà ng được li ngày hôm nay, khi giữa nhưng năm đói mòn đói
mi, nhà li nghèo con trai li dn không v 1 người v. Mi việc đến vi quá
nhanh. Chính bi tình hung hết sức đặc bit này ca câu chuyn "v nht", mi din biến
ni tại đã được đẩy lên đến cao trào, tr thành 1 si ch xuyên sut làm cho mạch tp đi theo
1 chiều hướng rt logic ca tâm lý nhân vt.
Bà lão thc s đi từ ngạc nhiên này đến ngc nhiên khác, ti mc:
"không còn tin vào mt, vào tai mình na". "Bà lão nhp nháy cp mắt cho đ nhoèn t
dưng lão thy mt nh nhoèn thì phải. lão nhìn người đàn bà ln na, vẫn chưa
nhận ra người nào. Bà quay li nhìn con t ý không hiu".
+ Khi biết con mình “nhặt” được v thì lòng m nghèo kh hiu ra: bun, lo, tùi cc, ai
oán, xót thương… Tâm trạng c băn khoăn như thế cho đến khi mi chuyện được v l
thông qua li xác nhn ca con trai: "Nhà tôi nó mi v làm bn với tôi đấy u ..."
>>>Lúc y tâm trng của người m lại bước sang 1 trang khác, ha hn nhiu biến động
hơn tinh tế hơn. Kim Lân đã không t thêm na những suy nghĩ, những căn vặn trong
tâm não ca nhân vt, hay những động thái tâm phc tp khác, ch đơn giản 1 cái
"cúi đầu nín lng". Không ch câu trn thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng rưng tấm
lòng hoà cảm đy ân tình ca Kim Lân. Bao nhiêu ni nim cht cha trong cái im lng cúi
đầu y. Cái im lng ti phn. Cái im lng cam chu. Cái im lng xót xa.
+ Càng nghĩ càng thương con mình, thương cả con dâu: “dù sao người ta chu ly con mình
thì cũng đáng quí”
>>> thương thầm cho cái s kiếp của đứa con trai độc nhất. người m y gi đây ý
thức hơn vợ chng Tràng rt nhiu v cái nghch cnh quá éo le, nghit ngã ca cuc
hôn nhân này. Chng ấy năm sống trên đời mách bảo lão 1 điu rng: mi duyên kiếp
tr trêu kia hình như không nên có.
3. Tấm lòng người m quê nghèo trước hnh phúc bt ng ca con trai bà.
+ T t trách mình: làm m đã không lo nổi v cho con, nay v thì cũng mừng,
bà thy có trách nhim vi hai v chng mi.
"Chao ôi! người ta dựng gả chồng cho con lúc gia đình ăn nên làm ni, nhng mong
sinh con đẻ cái m mt sau này - còn mình thì..."
>>> Bao nhiêu ngp ngng, ti cc, chua xót dn nén sau ch "thì" vng y. xót xa
không th làm tròn bn phn của người m: ko lo ni chuyện đại s cho con. Gi đây,
giữa lúc người chết đói "như ngả r", lại người theo con trai mình v làm vợ. Người m
b dn vào cnh túng qun, khó x, không biết ly cúng t tiên, trình làng khi con đã
v.
>>> Cái bun, cái ti lại chan đầy nước mắt, và bà đâm khóc vì thương con, thương dâu ko
biết làm sao đây để vượt qua cơn khốn khó này:
"Trong k mt kèm nhèm của bà rũ xuống 2 hàng nước mt",
>>> Kim Lân như 1 nhà quay phim tài ba đy cm xúc lia ng kính máy quay ca mình
chp ly thn cảnh, thước phim t cn cnh làm hiện lên đôi mắt hn dấu chân chim 1 đời
vt v của người m già, trên cái khoé mt nt n theo thi gian y rạn ra 2 dòng nước
mt khô héo.
"Biết rng chúng nó có nuôi ni nhau sống được qua cơn đói khát này không".
>>> Đọc nhng dòng này, ta cảm giác như trái tim người m trong cái thân hình còm
cõi đang rung lên đau đớn, xót xa như xát muối.
>>> Bà thương con, tủi phận để ri lại thương dâu: mắt "đăm đăm nhìn người đàn bà"
>>> Như để nhn mặt người đồng hành khn trong cuộc đời kh nghèo, thấy người con
dâu đứng đấy, tay "vân vê áo đã rách bợt". cũng từ đó đã thức dy trong lão bao ý
nghĩ nhân đạo và mt s hàm ơn:
"Người ta gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mi lấy đến con mình. con
mình mi có v được... Thôi thì bn phn bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con..."
>>> Câu văn tht cảm động! va nhoi nhói 1 tình cm ti hn, ai oán cho s kiếp, va
như cố nén cái cm giác bất đắc trước 1 s việc đã rồi, li vừa rưng rưng, xao xuyến 1
nim vui. Nhng lời độc thoi c như đợt sóng cuộn lên trong lòng người m, va khc
khoi, dt dào, va bao la, v v đầy tình mu tử, hoà trong đó là là những rung cm xót xa
trong trái tim nhân đạo của Kim Lân. Ta cũng thấy tim ta thn thc cùng vi những trăn
tr bình d mà xiết bao ân tình.
+ Tình yêu y dâng lên nghn ngào khi c T nói trong nước mt: "k ra làm được
dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo... lấy nhau lúc này u thương quá....".
>>> "Lúc này" đây chính thời điểm năm 1945 - cái mc in du 1 nạn đói khủng khiếp
đã đi vào lịch sử: "hơn 2 triệu đng bào ta chết đói" (Tuyên ngôn đc lp), câu nói y vn
còn vang lên như 1 chứng tích ti ác ca thực dân Pháp, không khí quê hương "vẩn lên 1
mùi m thi của rác rưởi mùi gây ca xác người", "dưới nhng gốc đa, gốc go xì,
bóng những người đói dật d đi lại như những bóng ma". y vậy mà, "như bèo gặp nước",
v chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ. Th hi
sao lòng người m ko đau đáu. chỉ biết khuyên v chồng Tràng thương yêu nhau, ăn
hoà thuận để cùng vượt qua cơn cực này. Đó nỗi lo, nỗi thương của người m tng
tri, hiểu đời có tm lòng yêu con sâu thm...
+ Bà c c nén ni bun, nỗi lo động viên con tin s sống tương lai: “… tươi tỉnh
khác ngày thường, cái mt bng beo u ám ca bà rng r hẳn lên”
>>> Đẹp biết bao 2 tiếng "mng lòng" ca lão nói vi các con. Ch "mng" thật đắc
địa, v như ko đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lt t đúng cái thn thái ca 1
tm lòng v tha cao quý đang ngượng ngp, vng v tìm cách giấu đi dòng nước mt xót
thương vì sợ phiền lòng cho chính người mình đang thương xót.
+ Những hành động ca bà: dn dp nhà cửa, động viên v chng mi bng nhng chuyn
vui, chuyện tương lai sáng sủa: "Có đèn đấy à? , thp lên 1 cho sáng sa...Du bây gi
đắt gm lên mày ".
>>> Người m già như cố nuốt nước mt vào trong, c nén nỗi đau trong lòng để tình
thương của mình an i các con. Ni lo s ngày mai mãi ch 1 nim riêng không chia s.
Bới trái tim người m y hin hu nhân t lm.
+ Quên làm sao được c ch ân cn xiết bao thương mến ca m vi con dâu, ta tưởng
như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: "con ngi xuống đây. Ngồi xuống đây
cho đỡ mi chân".
>>> Còn đâu là ranh giới gia m chng - nàng dâu?
+ Niềm ao ước thiết tha v 1 ngày mai sáng sủa hơn cho con của m nghèo: "Ri may
ông gii cho khá....ai giàu ba họ, ai khó ba đời..."
>>> Lời động viên con gin dị, mang đậm nim tin tâm linh ca 1 m nông dân tng
trải, nhưng cũng thật cn thiết, bởi đó chính là nguồn động lc giúp cho m con bà đủ vng
vàng để vượt lên hoàn cnh khc nghit nht của cái đói, cái chết. Câu nói y ch th
tht lên t 1 tm lòng cao c, tràn ngập tình thương.
+ Bà vui trong công vic "sa sang nhà cửa vườn tược".
>>> Nó khiến bà nh nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường,
"cái mt bng beo, u ám ca bà bng rng r hn lên".
+ Bà đã chủ động to nên niềm vui đó trong ngày đầu tiên gia đình đón chào 1 nàng dâu
mi: bà dy t rt sớm, "xăm xắn thu dọn, quét tưc nhà ca, giy nhng búi c mc nham
nh trong vườn".
>>> Bi hiu rng, bắt đầu t hôm nay đã đánh dấu 1 bước ngot trong cuộc đời các
con mình, chúng nó đã nên vợ nên chng và bà cm thy mình phi vun vén cho hnh phúc
ca các con.
+ Bà đã đon đ lo chu tt, chun b bữa cơm đón dâu, nhưng "cái bữa cơm ngày đói thật
thm hi" li ch là 1 ba "tic" với món cháo loãng và món "chè khoán" đắng chat
>>> Nhưng bà vẫn c to ra 1 không khí m cúng, vui v để động viên, làm gim bt ni
tht vng cho các con.
+ Dù cuc sng này có khc nghit, ngặt nghèo đến tàn bạo, đầy đoạ m con bà, bà vn nói
toàn chuyn vui, chuyện sung sướng sau này, chuyện nuôi đôi cho sinh sôi nảy n
thành đàn gà con...
>>> Người m già y vẫn nghĩ đến cái sống, nghĩ đến ánh sáng ca ngày mai ngay bên b
vc thm ca cái chết. Hình ảnh đàn sinh i trong bữa cơm ngày đói đã nói lên sức
sng kì diu của người lao động.
+ Nhưng xúc động nht nồi cháo cám đã cố tình giấu con trai, con dâu cho đến
phút cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước s hào hng vui v khi "l m bưng
nồi cháo cám nghi ngút khói" lên nhà, tươi cười đon đả múc cho các con ri mi mc:
"cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, c ăn thử mà xem".
>>> Nhưng ta biết, bên trong cái v tươi tnh nim n y, lòng m đang quặn tht. Cái món
c T gi "chè khoán" y hoá ra li cám, gọi như vậy để cho các con bt ti
thân, li mi mc ca bà là lời động viên, an i.
>>> Bà muốn con được no đủ, hnh phúc trong 1 vic làm c gng to nên du biết
rằng đó chỉ ảo giác, sau đó thực ti s li tr v nguyên bn, b bàng chua chát.
ờng như ý xua tan đi không khí ảm đạm, c che đậy, vùi đi thc cảnh thê lương.
Nhưng thật ti nghip cho lão, ti nghip thay cho cái nim vui nh chi vi gia 1
b bi lu, khi mà màu sc ca hin ti phải được tr v đúng nghĩa của nó.
+ "Bà ko dám để con dâu nhìn thy bà khóc".
Mt ln nữa, người m li nuốt đắng cay vào trong. Khi ngoài đình bỗng di lên mt hi
trng, dn dp, vi khiến đàn qu trên nhng cây go cao chót vót ngoài bãi cht ht
hoảng bay lên, n thành từng đám bay vẩn trên nn trời như những đám mây đen,
c T gii thích cho nàng dâu biết đy tiếng trng thúc gic thuế. Đói khát như thế này,
vn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được. Bà ngonh vi ra ngoài vì không dám
để con dâu thấy khóc. đó li nhng giọt nước mt khóc bởi cái tương lai mờ mt,
xanh xám ca các con bà.
Nhng giọt nước mt lại rơi. Những giọt nước mt ám nh y....
III. Kết bài:
Ý nghĩa nhân vật Bà c Tứ, ý đồ ca tác gi khi to hình nhân vt này.
c T xut hin trong V nht ca Kim Lân một đêm non buổi sáng hôm sau.
Chng y thi gian vừa đủ cho một người ng dy muôn. Nhưng đối với người m nghèo
kh kia, qu rt dài. Chng y thi gian, song bà, biết bao bun vui, mng ti, cay
đắng, âu lo, ln hy vọng. Người m ấy đã sống trn tt c đời sng n trong ca mt
người con.
Nhân vt c T đã cho ta hiểu bao điu v tình yêu thương bờ bến của người m
dành cho con. chính linh hn ca tác phm, hin thân cho tình mu t, hình
ng tiêu biu cho v đẹp các bà m Vit Nam: rt nhân hu, rt bao dung, giàu lòng nhân
ái, thương con hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hnh phúc, khát khao sng, khát
khao yêu thương và truyền được ngn la sng y t mình sang cho các con. Người m già
y phải chăng chính ánh sáng của c thiên truyn, lng thầm đằng sau bóng ti bi thm
ca nhng kiếp đời nghèo kh. Ánh sáng y làm cho câu chuyn anh Tràng nht v tr nên
thm thía cảm động hơn, nâng truyện ngn "V nht" lên tm cao, mang chiu sâu ca 1
truyn ngn "hin thc - nhân bn".
Phân tích nhân vt bà c T mu 3
Trước sau Cách mng tháng Tám, viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân
cũng có tác phẩm hay. Là mt cây bút truyn ngn vững vàng, ông đã viết v cuc sng
con người nông thôn bng tình cm, tâm hn ca một nhà văn chân chất vốn đứa con
của đồng rung. Trong bi cnh ca nạn đói năm 1945, Kim Lân viết truyn ngn V nht.
Tác phm là một đóng góp xuất sc cho nền văn xuôi dân tộc. Vi mt ct truyện đơn giản
nhưng tình hung truyện độc đáo hp dn. V nhặt đề cập đến mt vấn đề ln tính
hin thực nhân đạo sâu sc; những con người Việt Nam lương thiện, trong tai họa đói
kém khng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu mang đùm bc nhau hi vng,
trông ch vào sc mnh gii phóng ca cách mng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc vi
tác phm l tấm lòng đáng quý của m con Tràng cũng tâm lòng thật đáng quý
của nhà văn đối vi những người lao động nghèo kh.
Anh Tràng v trong mt hoàn cảnh không bình thưng. Không phải anh Tràng cưới v,
cũng không phải ly v theo nghĩa thông thường "nht vợ", nói như ngưi min
Trung và miền Nam là "lượm v" ngoài đường. Nhưng việc làm đó lại có ý nghĩa nhân ái
ca mt lm lòng nhân hu. Thấy người đàn đói quá anh sẵn sàng cho ăn chẳng
dt gì. Thấy người đàn quyết tâm theo mình, cũng sợ cho tương lai, anh vẫn không
n nào t chi. Tràng dt v v nhà trong mt tâm trng va lo lắng bâng quơ sung
ng mt cách mi m, l lm...
Nhân vt th hai ca câu truyn, c T, m Tràng không được tác gi nói đến nhiu
nhưng qua những nét đặc t tâm tính cách rt chân thật sinh đng, nhân vật đã to
được mt s cm thông sâu sc với người đọc. Cũng như Tràng, người m khn kh, già
yếu sng trong mt xóm ng cư vất vưởng y một người đàn bà nhân hậu.
Va v đến nhà, thy một người đàn lạ, c T ng sng li" hết sc ngc nhiên, "thế
là thế nào". Bà không th tin rng con mình ly v trong hoàn cảnh này. Nhưng khi hiu ra
c sự, "bà lão cúi đầu n lng", hn tủi xót thương cho số kiếp của đứa con mình
cho thân phn ca nh. "Chúng nuôi ni nhau sống qua được cơn đói khát này
không?". Ri cm thy kh tâm, nghèo quá lấy để ra mt bn li xóm. "K ra
làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà quá nghèo, cũng chả ai người ta chp nht
chi cái úc này... chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". nỗi kh tâm đau xót y cô
đọng li, biến thành những "dòng nước mt chy xung ròng ròng" tht ti nghip. Trong
truyn ngn Một đám cưới ca Nam Cao cảnh đời đã khổ (phải rước dâu vào ban đêm để
mọi người khi thấy dâu rách rưới, nh đám cưới con, cha m mới được mt bữa ăn
no), chuyn này, cái kh nhiều hơn gấp bi. Bữa ăn đầu tiên ca gia đình thay cho đám
i là mt ba "chè cám".
Đem một người đàn xa lạ v làm v trong mt hoàn cảnh như vy, m nghĩ thế nào?
Tràng lo lm ch. Khi biết m đồng ý trước mt s việc đã rồi "Tràng th phào mt cái,
ngc nh hẳn đi". Bởi người m y có quyền không đng tình, có quyn trách mng Tràng.
Nhưng thương con cụ cũng thương dâu. hiu ra rằng sao người ta chu ly con
mình cũng điều đáng quý. Với những người già cả, trong môi trường xã hi phong kiến
kht khe, không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. "nghĩ đến cuộc đời cực kh
dài dng dc ca mình" rồi nhìn đứa con dâu cũng cực kh như mình "lòng đầy thươg xót".
Trong không khí ngi ngùng, lúng túng ca mọi người, đã thái độ tế nh, quan tâm
đầy nhân hu.
Bà nói đỡ cho cô dâu còn xu h: "Con ngi xuống đáy, ngồi xuống đây cho đỡ mi chân".
Bà lưu tâm ý tứ đến tình cảm riêng tư của con: "Hôm nào ngh nhà kiếm ly ít na v đan
cái phên mà ngăn ra mày ạ".
Tm lòng của người m y thật đáng quý. Không lo nổi v cho con, nay v thì
cũng mừng thy phi trách nhim vi nó. c nén ni bun, nỗi lo, động viên con
tin s sống và tương lai bng việc làm chăm sóc của mình. Bà cùng dâu mi sa sang
dn dp li nhà cửa, động viên nhau bng nhng chuyn vui, chuyện tương lai sáng sủa:
Khi nào có tin mua lấy đôi gà...này ngoảnh đi ngoảnh li ch mấy ngay đàn cho
mà xem". Trước cái hnh phúc nh bé ca con, cuc sng ca bà m dường như cũng được
đổi khác, "cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thương, cái mặt bng beo u ám ca
rng r hn lên". T thái độ bao dung y, hạnh phúc đơn sơ nhưng tấm lòng đã đến vi mi
người. Nhân vt c T đã mang được một ý nghĩa khái quát lớn: thời đại nào, hoàn
cnh nào tâm trng ca nhng m nghèo cũng thật ti nghip, h hiểu con, thương con,
lo lắng cho con nhưng vì nghèo khổ h phi chịu đắng cay, chua xót.
Vi mt ct truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dng tinh tế, truyn ngn
V nht của Kim Lân đã nêu lên đưc nhng vấn đề nh nhân bn sâu sắc. Con người
lao động tình hung bi thảm đến đâu vẫn khao khát hnh phúc và h chí tìm thy khi
biết cưu mang giúp đỡ ln nhau. Cảm động biết bao, dưới cái nhìn nhân ái ca nhà văn,
những con ngưi khn kh ấy đã có th tìm thy nhng hnh phúc, dù nh nhoi trong cuc
đời.
V nht của Kim Lân như một s tiếp ni tt yếu ca nhng tác phm hin thc phê phán
ca Nam Cao, Tô Hoài t trước Cách mng tháng Tám. Cảnh đời cũng vẫn tối tăm, ngt
ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có đưc nim tin hi vng vào cuc sng. chc
chn cuc đời s được đổi khác, hình nh cui ng ca tác phm "lá c đỏ bay pht phi"
th hin niềm tin đó.
Phân tích nhân vt bà c T mu 4
V nht là tác phm xut sc ca Kim Lân, viết v cuc sng ngt ngt ca nhân dân ta mà
tiêu biểu là gia đình cụ T trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đo ca
Kim Lân va th hin s phát hin khẳng định v đẹp tinh thn n giu sau cái b ngoài
xác xơ vì đói khổ ca nhân vt.
Trong ba nhân vt ca truyn (bà c Tứ, Tràng người đàn vợ Tràng), c T, m
Tràng, là nhân vt tâm trng phc tp mà nhân hu vô cùng di th hin ni bt ni dung
nhân đo sâu sc, cảm đng trong tác phm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn t rt
thành công trạng thái tâm lí đó
1. S ngạc nhiên đến sng s
- Tình huống đặc bit làm cho c T ngc nhiên, y vic con trai mình ly v. c
ngc nhiên con nh nghèo, xu xí, dân ng lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân
chng xong. Tràng còn dám ly vợ, rước thêm miệng ăn. Khi cụ đi làm về mun, thy
người đàn ngồi đầu giường con mình rt ngc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi đưc
người đàn chào bằng u được Tràng gii thiệu: “Kìa nhà tôi chào u”..”Nhà tôi
mi v làm bn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được vào mt và tai
mình : “Bà lão hấp háy cp mắt cho đỡ nhoèn t dưng lão thấy mt mình nhoèn thì
phải. lão nhìn người đàn lần na, vẫn chưa nhận ra người nào. lão quay sang
nhìn con t ý không hiểu”.
2. Va mng va ti
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, “cúi đầu nín lặng”. liên ng
đến bao cơ sự “oái ăm” “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng
đến người chng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng ti bun, xót xa.
- c T mng cho con t nay yên b gia tht, ti thân làm m không lo ni v cho con.
Gi đây giữa lúc người chết đói “như ngả r" lại người theo con trai v làm v. Cái
ti, cái bun của người m b dn vào cnh nghèo cùng qun. Biết lấy gì để cúng t tiên, đế
trình làng khi con đã vợ. c T khóc mng con vợ, khóc vì thương con dâu
không biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
“Trong kẽ mt kèm nhèm ca r xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc
này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phi duyên phi kiếp với nhau, u cũng mng
lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu
thương chân thành tha thiết của ngưòi mẹ th hin trong nhng li gin d mc mc y.
- c xót xa thương dâu, thương con, ti phận mình: “bà cụ nghn lời không nói được
nữa, nước mt c chy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngn ngang trong lòng.
3. Ni lo
c T lo lng thc s cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng ca gia
lúc đói kém này liệu nuôi nổi nhau? Tương lai rồi s ra sao... chp nhận cái “hạnh
phúc” oái oãm éo le của gia đình. Ngẫm cái phn nghèo bà t nhủ: “Có gặp bước khó khăn,
đói khổ này người ta mi lấy đến con mình. con nh mi v được..”. chỉ biết
khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn hoà thun với nhau đ cùng vượt qua cơn
khốn khó. Đó nỗi lo, nổi thương của người m tng tri, hiểu đời tm lòng sâu thm
đối vi mình. Trong s lo lng ti hn vn nhen nhóm mt nim tin.
4. Nim tin
- Trong cái mng, cái tủi, cái lo, người đọc vn thấy được nim vui ca c. Mt nim vui
ti nghip không sao cất cánh lên được, c b cái bun, cái lo níu kéo xuống. Nhưng cụ
T c vui và gng làm cho con, cho dâu vui.
+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp v tương lai: “Rồi ra may ông giời cho khá…” ai giàu ba h
ai khó ba đời. ra thì con cái chúng mày v sau. c “nói toàn: chuyện vui, toàn
chuyện sung sướng sau này".
+ Vui trong công vic sa sang vườn tược, nhà ca. Bà c giy c cho sch vườn. “Cái mặt
bng beo u ám ca bà rng r hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà ca”.
+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu liên con dâu đó mt bữa “tiệc vi món cháo
loãng và món “chè khoái” đng chát - mt bữa ăn ngày đói rt thm hại nhưng bà cụ c to
ra niềm vui để động viên an i con trai, con dâu.
- Mc cuc sng khc nghit, ngặi nghèo đến tàn bạo đã đầy đo m con bà. vn c
to không khí hoà thun ấm cúng trong gia đình k chuyện làm ăn, nuôi gà... tươi i
đon đả múc cho con dâu nhng bát cháo cám.
Tuy nhiên cái vui y, rt nh vn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối
hin ti: Tiếng khóc, mùi đốt đống rm những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông
lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cc kh dài dc dc của mình, đến cái “đói to” trước mt.
Bà c php phỏng nghĩ về con trai, v con dâu.
Nhân vt bà c T mang nét đạo lí truyn thng:
Trong cái thân hình khng khiu, tàn t, với “cái mặt bng beo, u tối” '"bà vẫn nung nu mt
ý chí sng mãnh lit. hin thân ca những người m nghèo kh tng tri, hiu
biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương nhng cảnh đời ti nghiệp, oái oăm. nung
nu mt khái vng v cuc sống gia đình hạnh phúc.
Qua nhân vt c T, vi nhng din biến tâm trng phc tp - dưới ngòi bút nhân đo
ca Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sc, cảm đng của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi
sâu thm nht của lòng người, bắt độc gi phi khóc, phải cười, phi sng cùng nhân vt
ca mình.
Phân tích nhân vt bà c T mu 5
Những người m luôn người đem lại tình thương yêu ln nht, tình yêu bao la y th
vượt qua những khó khăn, nhng thiếu thn vt chất để mang li mt cuc sng an lành
hnh phúc cho nhau. Trong nền văn học Vit Nam biết bao nhiêu nhà văn xây dựng được
hình tượng người m như thế. Nếu như Nguyễn Minh Châu xây dựng người m đầy đức hi
sinh người đàn hàng chài thì Kim Lân li xây dng thành công nhân vt c T
trong truyn ngn V Nht. Ngoài nhng phm cht của bà thì nhà văn đi vào miêu tả din
biến tâm lý nhân vật này. Để t đó chúng ta càng thấy được nhng hi sinh, nhng ni nim
thương con vô bờ bến ca bà.
C T một người đã tuổi, chồng thì đã mất con gái tên Đục thì đã đi lấy chng
sng vi con trai tên Tràng. Hai m con xut hin trong nn cnh ca nạn đói năm
1945. th nói chính hoàn cảnh khó khăn y càng làm ni bt lên din biến tâm
phm cht ca bà. vn còn phi ra ngoài kiếm đồng rau cái mui, vn biết bao nhiêu
nắng mưa, gánh nặng đổ lên đầu trong bui chiu hôm y bt ng trước hành động
ca con trai mình. Din biến tâm lý cũng bắt đầu t đó.
C v đến đầu cng, cái ho thúng thng ca tui già ct lên, c thy bt ng khi Tràng t ra
vui mừng đến thế. Sau câu nói cất lên “U đã v rồi đấy à” cùng với tâm trạng và hành động
ca Tràng linh cm ca mt m như giúp nhận ra rng một điều đó bất bình
thường. Chính thế c T lo lng lm c thế tâm ca c càng ngày càng din biến
đến tầm cao hơn. Từ lo lng bất thường c ngc nhiên khi thy sao lại có người đàn nào
ngồi đầu giường thng con trai mình thế kia. Nhng câu hi liên tiếp được ct lên cho thy
tâm trng bi ri của người mẹ. Bà chưa biết là ai nhưng linh cảm cho bà thy một điều bt
thường và cuối cùng thì nó đã đến.
c chân ca c T ớc vào đến nhà cũng tâm đạt tới đỉnh điểm. T ch ngc
nhiên khi người đàn y li gi bằng “u” đến ch Tràng nói “kìa ncon chào u
đấy”. Đọc đến đây ta như cảm tưởng được c T đang mắt tròn mt dẹt nhìn người đàn
ri li nhìn con mình không hiểu. tai dường như không nghe thy na. Mt
cm giác khó t diễn ra trong người ph n y. Thế rồi như vỡ l ra mi chuyn khi
Tràng nói thêm v tình cnh này. bun giu nhng giọt nước mt ca mình chp
nhn. Ti sao vậy đáng ra nhà h thì phi vui mới đúng chứ thế đây lại khóc.
Không phải không thích con dâu nhưng trong hoàn cảnh miếng ăn còn chưa lo được
thì ly nhau v li ch kh thêm. Vì thế bà buồn bà thương con trai mình rồi nhìn người đàn
vân áo đã rách bợt cũng thấy thương y. Vy nên nhm mt chp nhn
“Thôi các con đã phi duyên phi kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”. th nói sau cái
gật đầu kia c mt nỗi lòng người m, lo lng cho con vi cuc sng sau nay. thì thế
nào cũng được nhưng bà không muốn con ca bà thì bà muốn nó được sng cho qua cái tao
đoạn này. Nhng cảnh tượng khói m mịt bên ngoài như nói thay cho tâm hồn của người
m y.
Khi đã vơi đi ni lòng y vi trách nhim của người m như khơi sáng cho con
mình những ý nghĩ tốt đẹp cho tương lai. nói rng không ai giàu ba h không ai khó ba
đời c vì thế ch cần qua cái tao đoạn này thì chính h yên b gia tht. Bà lấp đi trong chính
mình cái thc tại đen tối để rồi cùng con cái mình nghĩ về nhng chuyện tương lai.
Bui sáng hôm sau vi bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, dy sm cùng con dâu sa
son lại căn nhà quét dọn sch s mong ch những điều tốt đẹp s đến. ta cũng cm
thấy được nhng nét tâm trng vui v ca bà khi thy con mình hnh phúc. Bữa cơm y
người nói nhiu nhất dường như không th nào giấu đi niềm vui trong lòng mình.
nói vi Tràng v vic ch kia s làm mt cái chuồng gà nuôi hai con đ mỗi ngày nó đ
trứng ra ăn. Niêu cháo đơn sơ y ch vn vn ni cháo hoa lng thế nhưng mọi người ăn
rất ngon cũng như đang rất vui. Hết cháo quyết định mang nồi “chè khoán” lên đãi
các con. Thật ra thì đó cám thế nhưng bà không muốn các con đói cũng mun níu
gi cái không khí vui v hnh phúc y. Biết rng Tràng và v thy chát trong lòng nên bà
an i rng nhiều người còn không có cám mà ăn. Vậy là người m y vi nhng phm cht
của mình đã đem đến cho các con nhng niềm yêu thương niềm tin vào tương lai.
Như vậy th nói c T đã diễn ra nhng cung bc cm c t cao đến thp t bun
đến hạnh phúc vui tươi. Cuộc sng du vt v đói nghèo cái chết t thn thì lúc nào
cũng cận k thế nhưng vẫn cưu mang lấy người đàn kia, yêu thương con trai
hướng cho h cái nhìn v một tương lai tốt đẹp hơn.
Phân tích nhân vt bà c T mu 6
Kim Lân cây bút truyn ngn xut sc. Ông viết rt hay v thú "phong lưu đồng rung".
"Nên v nên chng" "Con chó xu xí" là hai tp truyn ngn ni tiếng của nhà văn. "Vợ
nht" - mt truyn ngắn độc đáo rút trong tập "Con chó xu xí" xut bản năm 1962. Truyện
thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cực khát vng v
hạnh phúc gia đình của người nông dân Vit Nam trong thi Pháp thuộc. Nhà văn k v
chuyn anh cu Tràng "nhặt" được v khi c xóm ng người chết đói như ngả r. Trong
ba nhân vt ca truyn, hình nh c T - m của Tràng để lại cho người đọc nhiu n
ng.
Cuộc đời bà c T thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa ba, hin lành và thm lng...
c lần đầu xut hiện trong bóng hoàng hôn tái, khi người con trai làm ngh kéo xe
dẫn người đàn xa l v gia đình bà. Một mái nhà tranh "đng rúm trên mảnh vườn c
mc ln nhn nhng búi c di". Sau tm phên rách nát nhng "niêu bát, xng áo vt
ba bãi c trên giường dưới đất". Người m già nghèo kh "húng hng ho" chng khác nào
mt chiếc bóng "lng khọng" đi vào ngõ. Bà c ngc nhiên khi cht thy một người đàn bà
xa l đứng ngay đầu giưng thằng con mình. lão ng sng li", càng ngạc nhiên hơn.
Bà băn khoăn tự hi: "Sao li chào mình bng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nh?".
hp háy mt, thy mt mình "nhoèn ra", ... ri "lp cập" bước vào nhà. Li nghe mt
tiếng chào nữa, lão "băn khoăn" ngồi xuống giường, lòng phân vân không k xiết!
Sau khi nghe Tràng "gii thiệu" người khách l, c T va mng va lo li ti thân.
Lòng xáo trn bao ni nim. Một đời người tri qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đng,
bà ly làm xót xa, thy mình làm mkhông tròn bn phn vi con. Bà khóc. Tâm trng
cay đắng, chua xót: "Lòng người m già nghèo kh y... va ai oán, vừa xót thương cho số
kiếp đứa con mình". c T nghĩ đến gia cnh thêm bun ti. Tiếng than, tiếng th
dài như tràn qua dòng c mắt. Thương con, thương cho s phn mình, những tháng năm
dài dng dc vi bao chuyn buồn. thương mình trải qua mt cuộc đời đầy cay đắng:
"Chao ôi! Người ta dng v g chồng con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, nhng mong sinh
con đẻ cái m mt sau này. Còn mình thì...".
Nạn đói đang đe dọa. php phng lo âu: "Chúng nuôi ni nhau sống qua được
cơn đói khát này không?". Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết ri mn con gái chết
con. Bà sng với đứa con trai thô kch "mt nh tí, quai hàm bnh ra" li có tt va đi vừa
nói lm bẩm như người d hơi. Bà mỗi ngày mt già mà Tràng vn sống độc thân. Tc ng
câu: "Tr cy cha, già cy con". m càng thy bun, lo hn. Tuy mc cm cho s
phn, chợt nghĩ đến cái may của gia đình mình: Người gặp bước khó khăn, đói khổ
này, người ta mi lấy đến con nh, con mình mi v được". Hạnh phúc đến vi
tui già quá lớn lao đt ngt! Nim vui xôn xao dậy lên trong lòng người m già nghèo
khổ. vui sướng nhn nàng dâu mi. Chng cn phải cưới cheo. Cũng chẳng tìm đâu ra
c bàn để đón mừng người con dâu mi, c ch rt du dàng, âu yếm. gọi người đàn
xa l "con" rồi xưng "u" mt cách thân tình, rut tht: "Ừ! Thôi thì các con đã phi
duyên phi kiếp nhau, u cũng mừng lòng". nhìn nàng dâu lòng đầy thương cảm.
t qua mi tc l, bà vui mng t nay con trai đã vợ. sung sướng v hnh
phúc ca con. Mng mng ti tủi, nước mt chy ra ròng ròng.
Mu t tình thâm! Lòng m già đối vi con trai và nàng dâu tht là mênh mông. Bà h thp
ging xung thân mt, va khuyên con va an i: "...Ct làm sao chúng mày hòa thun là u
mng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".
nhắc con trai đủ chuyn, t vic đan tm liếp để che chn gian buồng, đến chuyn làm
chung gà, chuyện làm ăn, chứa chan hi vng.
Kim Lân rt tinh tế khi miêu t nhng biến thái trong tâm hn c T. Cnh m chng
đón nàng dâu mới, đơn nghèo nàn cảm động. Tâm trạng người m già lúc thì ngc
nhiên lo lng, lúc thì vui bun ln ln. Mc cm v phận nghèo, nhưng lòng bà vn ít nhiu
hi vng v cuộc đời ca con: "Ri may ra ông tri cho khá... Biết thế nào h con, ai giàu ba
họ, ai khó ba đời? Có ra thì ri con cái chúng v sau"...
Bữa cơm đón nàng dâu mi sau "ti tân hôn" ca Tràng mt nét v rt tài tình, giàu tính
nhân bn. Trên cái mt rách làm mâm một đĩa muối, mt lùm rau chui thái ri mt
ni cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà c T rt vui. Trong ba
ăn bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng v sau này. gi nồi cháo cám "đắng
chát" là "chè khoán" rối rít khen "ngon đáo đ", ít nhiu t hào, an ủi động viên con trai
nàng dâu: "Cám đy mày ạ! Ngon đáo để, c th ăn xem. Xóm ta khối nhà ch cám
ăn đấy!". Sau này, v chng con cái Tràng th nhng bữa cơm no, nhiu tht
ngon lành, nhưng h bao gi quên được mùi v ng chát" ca ni cháo cám y.
trong bát cháo cám ấy đã chứa đựng biết bao tình thương của m già.
n ngoi cnh, s việc để phó din tâm trng nhân vật cũng một thành công ca Kim
Lân trong vic khc ho tâm trng bà c T khi cuộc đời mới đang hé m. Cảnh tượng mi
mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay li
đi đã được hót sch. My chiếc áo quần rách bươm được đem ra phơi... Nhà ca, sân ngõ
được quét dn sch s, quang qu. c T cùng con dâu giy c... Cuộc đời ca bà, ca
con bà, gia đình đã bắt đầu đổi thay. Mc du còn nhiu th thách cam go. Tiếng qu
kêu. Tiếng trng thúc thuế. Tiếng h khóc t ca những nhà người thân mi chết đói.
c mt c T li chảy ra, nhưng "không dám để con dâu nhìn thy bà khóc". Trên
cái nền đen tối y là hình nh lá c đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nht. Trong lo âu
nim vui php phng, thoáng hiện hồ. Nạn đói chưa th vượt qua, nhưng người m
già phúc hu, tng tri là ch da cho hai v chng Tràng đi tới... để khẳng định nim tin:
"Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...".
Hnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà c T lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vng.
Có mt chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người m nghèo kh đã có hai hào
du thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hnh phúc, ánh sáng ca hi
vng.
Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng", T Hu viết:
ời ta gương vỡ li lành,
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa".
Cuộc đời m con Tràng nhất định s "đâm cành nở hoa". Có biết trận đói năm t Du 1945,
hơn hai triệu đồng bào ta b chết đói mới thy hết lòng m được miêu t, mi cm nhn
được giá tr nhân đạo ca truyn ngn "V nht" này. Giọt nước mt, tiếng th dài, n i
ca c T khi nhn nàng dâu mi làm ta cảm động khi khép trang văn "Vợ nht" ca
Kim Lân vi nhiu bâng khuâng.
Phân tích nhân vt bà c T mu 7
V nht mt trong nhng tác phm xut sc viết v người nông dân của nhà văn Kim
Lân. Bằng ngòi bút nhân đạo của mình, người ngh y không ch khc ha nhng hình
nh chân thực đến mc xót xa v người nông dân qua đó còn nói lên nim cảm thương
sâu sắc trước s phn bp bênh, khn cùng ca h. Trong tác phm, c ba nhân vt Tràng,
Th m Tràng đều nhng ni nim riêng, nhng kh tâm riêng, song sau tt thy
trong tâm hn h vn ánh lên nhng v đẹp đáng được trân trng. Nhân vt c T- m
Tràng là nhân vt có tâm lí din biến khá phc tạp được nhà văn diễn t rt thành công.
c T trước hết một người đàn bà, nghèo khổ, góa chng, sng cùng con trai xóm
Ng Cư, cậu con trai tên Tràng, đã lớn nhng anh cu khá ng nghch, li xu xí, thô
kch. Hai m con sng vi nhau, cùng nhau tri qua nhng gian kh ca cuc sng thiếu
thn hi nhng năm 1945. chưa bao gi dám nghĩ anh cu Tràng con mình s v
dù lòng bà rt mun có một người con dâu bi bà biết con mình thế nào, hoàn cnh ca gia
đình ra sao.
Khi anh cu Tràng dt v v ch đợi m trong căn nhà rách nát y, c v ti nhà, thy mt
người đàn đang ngồi đầu giường ca cu con trai, rt ngc nhiên. càng ngc
nhiên hơn khi nghe tiếng chào m t miệng người đàn y. Anh cu Tràng biết m chưa
hiu chuyện đang xảy ra bn ct tiếng Kìa nhà tôi chào u….Nhà tôi mi v làm
bn với tôi đấy u ạ”. Tiếng nói y, li khẳng định ấy được cu con trai ca tht ra,
vẫn chưa thể tin được đây s tht, c nhìn cho người đàn vẫn đang ngồi nơi đầu
giường: “Bà lão hấp háy cp mắt cho đỡ nhoèn vì t dưng lão thấy mt mình nhoèn thì
phải. lão nhìn người đàn lần na, vẫn chưa nhận ra người nào. lão quay sang
nhìn con t ý không hiểu”. Hóa ra con bà đã vợ, một đa va xu, vừa nghèo như cu
Tràng li có k nhn theo v ư? Lòng bà vẫn chưa hết ngạc nhiên, còn đong đầy nhng câu
hi thc mc pha ln tò mò.
Khi dn hiu ra mi chuyn, biết Tràng nhặt được người đàn kia về làm v, ch biết
“cúi đầu nín lặng” thôi. Xót thương biết bao cho s kiếp ca con trai bà, nh v
người chồng năm a của mình, nh v người con gái tng những đã qua đời,
càng thương, càng tủi, càng xót xa. Là một người mẹ, bà thương con vô bờ, bà biết con trai
mình t nay cũng đã yên bề gia tht, mừng đấy chứ, nhưng mừng thì ít lng lo thì
nhiu. trách phn mình làm m li chng th cho con ly mt ngày ấm êm, cũng chẳng
có gì lo cho con khi con ly vợ. Bà cũng nng lòng biết bao khi người chết vì đói thì nhiều,
mng sng mỏng manh như sợi tóc treo ngàn cân, nhà thì thiếu thn, khn khó con trai
li ly v lúc này. Rồi bà khóc vì thương con, thương cô con dâu mới , hai đứa ri s ra sao,
chăng vượt qua được kiếp nạn đọa đày này. “Trong k mt kèm nhèm ca r xung
hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã
phi duyên phi kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xung
đây cho đỡ mỏi chân”. Làm sao thể nói hết những yêu thương tm lòng c dành
cho con, nhng li dịu dàng, chân thành đưc tht lên t trái tim m áp và sâu tn tâm can
của người m khiến ta không khi nghẹn lòng. “Bà cụ nghn lời không nói được nữa, nước
mt c chy xuống ròng ròng”.
một người tng tri, hiểu được rng nếu không nạn đói xảy ra, chc con mình
đa vợ, đói khát thế, người ta mới tìm đến con mình. Du vy, th hnh phúc nh mà
anh Tràng được vẫn mang đến cho bà, cho gia đình nhỏ s m áp. Dù biết phía trước
còn nhng gp ghnh, bà vẫn động viên con, khuyên lơn con. dn con phi sng yêu
thương, thuận hòa, đùm bọc san s nhau vượt qua cơn hoạn nn. Trong li dn dò y, cha
chan c mt nim tin ri mai s khác, rồi tương lai sẽ lại bình yên: “Rồi ra may ông
giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày v sau. Bà c “nói
toàn: chuyn vui, toàn chuyện sung sướng sau này".
Trong bui sáng sau ngày con dâu v, c gng dy tht sm, nh sch vườn c trước
nhà, quét dn li nhà cửa, vườn tược. Hơn ai hết, xem công vic ấy như một s yêu quý
và trân trng của mình dành cho ngưi con dâu mới đến, bà đón con trong niềm vui để con
đỡ ti phận an lòng. “Cái mt bng beo u ám ca rng r hẳn lên. lão xăm xăm
thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa sáng đầu tiên đã con dâu mt ni cháo cám, mt
món ăn chát đắng nhng vn c mỉm cười vui v để động viên con. Đu nghèo khó đến
thế, nhưng trong bữa ăn của bui sáng hôm y ta vn cm nhận được không khí gia đình
đầy m áp, tình cm m con vn dt dào.
Nhân vt c T lp lánh trong tác phm những đức tính cao đẹp ca người ph n,
người m Việt Nam. Đó sự đảm đang, lòng nhân hậu, v tha, tình thương yêu con b
bên và s kiên cường trong ý chí. Trong gian nan, gia ngàn s chết chóc, trăm vạn mi lo
toan, bà vn lc quan, vn không nuôi hy vng và nim tin vào mt ngày mai tốt đẹp.
Bng cách k chuyn hp dn, s thu hiểu tâm lý, lòng người đã giúp nhà văn đi sâu vào
tng ngõ ngách tâm hn ca nhân vật, để khi đc những trang văn viết nên t ngòi bút y,
ta được sng vi nhng cm xúc cùng nhân vật để cùng hnh phúc, cùng lo lng, cùng
khóc, cùng cười. Tht cảm ơn Kim Lân đã dành cho những người nông dân lam lũ mt tình
yêu thương vô bờ và bn chặt đến vy.
Phân tích nhân vt bà c T mu 8
Đặt câu chuyn trong bóng ti ca thi s đói khát chết chóc ấy, nhà văn đã th hin
cảm động tấm lòng yêu thương, đùm bọc ln nhau và nim khao khát hnh phúc ca nhng
người nghèo kh. V đẹp nhân bn ấy được tác gi phát hin tp trung xây dng thành
công nhân vt bà c T, m ca anh Tràng - người đã “nhặt” vợ.
c T người m nghèo kh thương con như muôn ngàn người m Vin Nam khác.
Nhưng người m ấy được đặt trong mt tình cnh hết sức éo le. Đó là việc Tràng, con trai
ca bà, gia lúc nạn đói hoành hành li ly vợ. Nhưng dường như chính nghch cnh này
càng làm ni rõ ánh sáng tâm hn người m đáng thương.
Trong tác phm, c T ch xut hin t gia truyện, lúc anh Tràng đưa vợ v, song t
đấy, rt ít nói, vẫn người thu hút nhiêu nhat tâm trí của người đọc. Bi trong lòng
người m y, cảm trăm mối vò, chuyện nay, chuyện xưa đan xen ln ln, nim vui, ni
bun, s cay đắng ti cc lẫn xót thương vây lấy.
1. Tâm trng bà c T lúc v nhà
Như thưng l, bui chiu y tri sm ti, c T v nhà. Chưa thấy người, nhưng anh
Tràng biết m, bởi ngoài đầu ngõ tiếng người húng hng ho. T ngoài rng tre,
lng khọng đi vào. Tính vẫn thế, vừa đi vừa lm bm tính toán trong miệng. Nhưng
hôm nay khác, thy mẹ, Tràng reo lên như một đứa tr gi với vào trong nhà: U đã về
đấy! Anh con trai lật đt chạy ra đón mẹ t ngoài cng trách sao v mun. , hn
chuyn ri, mi bữa anh cu Tràng đâu thế. còn gi vi vào trong na. Trong nhà
nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mi hai m con.
nhp nháy hai con mt nhìn Tràng, chm hi: Có vic thế vậy? Anh cu Tràng chưa
chu nói, gic bà vào nhà.
Bà c T php phỏng bước vào theo con vào nhà. Php phng vì linh tính cho bà biết trong
nhà hn xy ra chuyn gì. qu đúng như vậy. Mới đến giữa sân, đng sng li
càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà người, lại đàn bà. Người đàn nào trong y
nhỉ? chưa gặp, không quen bao giờ. Người y lại đưng ngay đầu giường thng con
mình thế kia? Sao li chào mình bng u?.. Ai thế nh? Hàng lot câu hỏi đặt ra trong đầu
lão. Hay già ri, trông hoá cuc. Bà lão hp háy cp mắt cho đỡ nhoèn t dưng
lão thy mt mình nhoèn ra thì phi.. Không phi trông hoá cuc, không phi mt
nhoèn. Đúng người ri. lão nhìn k người đàn bà ln na, vẫn chưa nhận ra người
nào. Bà lão quay li nhìn con t ý không hiu
Cái anh cu Tràng hôm nay tht l. T dưng khách sáo với m, c buc bà lão phi ngi lên
giường lên chiếc ghế chĩnh chệnh ri mi nói. lp cập bước vào. Cái người đàn bà l y
ng m Tràng già cả, điếc lác lên ct tiếng chào đến ln th hai. Hoá ra, không điếc,
mải băn khoăn người đàn y chào bng u. Bà vẫn chưa hiu sao li thế. Đến
khi anh Tràng nói: Nhà tôi mi v làm bn vi tôi u ! Thì hiu rất nhanh. Đột ngt
quá! cúi đầu nín lng. không ch hiu chng ấy. Trong lòng người m nghèo y còn
hiu ra biết bao nhiêu sự, va ai oán vừa xót thương cho số kiếp ca đứa con mình.
Chao ôi, người ta dng v g chồng cho con lúc trong nhà ăn nên làm ni, nhng mong
sinh con đẻ cái m mặt sau này. Còn con mình thì… Chỉ nghĩ đó, đã thấy biết bao lo
lắng, xót thương. Trong kẽ mt kèm nhèm ca r xuống hai dòng nước mắt… Biết rng
chúng nó có nuôi ni nhau sống qua được cơn đói khát này không?
2. Tâm trng bà c T với đôi vợ chng son:
V chng anh cu Tràng nào biết ni lòng c T . Trông cnh ca chúng, kh th dài
rồi nhìn đăm đăm vào người đàn t gi phút này đã con dâu. Bà nhìn th
nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mi lấy đến con mình. Mà con
mình mới được vợ… Nghĩ thế, càng cay đắng cho thân phn ca nh. m, bà
đã chẳng lo được gì cho con… May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng
v, yên b nó, chng may ra ông gii bt chết cũng phải chu ch biết thế nào la
cho hết được? Trong cái kh, cái may. kh dng hng mt tiếng, nh nhàng nói vi
“nàng dâu mới”: một khi các con đã phải duyên phi kiếp với nhau, bà cũng mừng lòng.
c T còn dặn đôi v chng tr: Nhà ta nghèo liu bảo nhau làm ăn. Khi anh
Tràng bước dài ra sân, bà đng viên nàng dâu: Ri may ra ông giời cho khá… Biết thế nào
h con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Ri ra thì con cái chúng mày v sau.
Nói vi con dâu thế, nhưng lòng cụ T tht ngổn ngang. đăm đăm nhìn ra sông.
Bóng ti trùm ly hai con mắt. Mùi đốt đống rm những nhà người chết theo gió
thong vào két lt. Bà lão th dài ra một hơi. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đa con gái
út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cc kh dài dng dc ca mình. V chng chúng ly nhau,
cuộc đời chúng liệu hơn bố m trước kia không? Nhng câu hi li bám ly trong
đầu bà. lão nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. nói với con dâu, l ra đám cưới
phải làm được dăm ba mâm, nhưng nhà mình nghèo quá. Chắc cũng chả ai người ta chp
nht, ch mong v chng hoà thun mừng. Nhưng lúc đói to thế này chúng mày
lấy nhau thì bà thương quá.
Ôi biết bao là buồn, vui, vay đắng, ti cc cùng s lo lắng, thương xót đang tràn ngập trong
lòng người m nghèo kh. c nghn lời không nói được nữa. không khóc nước
mt c chy xuống ròng ròng. Nhưng đâu muốn để cho đôi vợ chng son biết đang
bun. Khi anh c Tràng đánh liềm đốt đèn, bà lão vội vàng lau nước mt ngng lên. Bà ch
động nói vui: Có đèn à? thp lên mt cho sáng sủa… Dầu bây gi đắt gm lên .
Nói thế, rồi bà lão đứng dy u oải sang giường bên kia nằm. Bà đem cả cái tâm trng ngn
ngang sang chiếc giường cũ kỹ!
3. Tâm trng bà c T buổi sáng đầu tiên khi có nàng dâu mi.
Anh cu Tràng khi mt tri lên bng con sào, mi tr dậy, người êm ái lửng lơ như người t
trong đi ra. Nàng dâu mới v “biết điều”, dậy sớm hơn, quét li sân. Ch lão,
chắc đêm qua không ng được. Đầu hôm, nghĩ ti vic kiếm ly ít na v đan cái phên
ngăn căn nhà ra. Chưa biết chng nửa khuya bà đã dy. Khi anh cu Tràng thc dy, xung
quanh đã thay đổi mi m, khác l. Nhà cửa, n vườn đều được quét sch s gọn gàng…
Hai cái ang nước vn đ khô ong dưới góc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đng rác mùn tung
hoàn ngay lối đi đã hót sạch. c T đang lúi húi giẫy nhng bi c di mc nham nh
ngoài vườn.
Thấy con trai đã dậy, c T vi giục nàng dâu đi dọn cơm ăn chẳng mun. Sáng nay,
lòng nh nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, i mt bng beo u ám ca rng r hn
lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà ca. c đôi vợ chồng Tràng, hình như ai
nấy đều ý nghĩ rằng thu xếp nhà ca cho quang qu, n nếp thì cuộc đời th khác đi,
làm ăn có cơ khấm khá hơn.
Bữa cơm sáng hôm nay cũng bữa cơm ngày đói trông thật thm hại. Nhưng có điu l
hôm nay, b c vừa ăn vừa k chuyện làm ăn, gia cảnh vi con dâu. Bà nói toàn chuyn vui,
chuyện sung sướng v sau này. bàn tính vi nàng dâu khi nào tin mua lấy đôi gà,
ri ngoảnh đi ngoảng li chng my chc một đàn cho xem. thế chưa bao gi
trong nhà này m con lại đầm m, hoà hp đến thế. Khi niêu cháo lõng bõng, mỗi người
được có lưng nửa bát đã hết nhn, lão lật đt chy xung bếp, l m bưng ra mt cái ni
khói bốc lên nghi ngút. Đy ni cám, mỗi khi đưa vào miệng, đắng chát nghn b
trong cổ, nhưng lão cho mọi người miệng tươi cười, đon đả nói, gọi “chè khoán”
khen ngon đáo để. không mun bữa ăn đang vui bỗng ngng li. Thực ra, lòng đau
lm. C mt ni ti hờn đang len vào tâm trí bà.
Khi ngoài đình bỗng di lên mt hi trng, dn dp, vi khiến đàn qu trên nhng cây
go cao chót vót ngoài bãi cht ht hoảng bay lên, n thành từng đám bay vẩn trên
nn trời như những đám mây đen, cụ gii thích cho nàng dâu biết đy tiếng trng
thúc gic thuế. Đói khát như thế này, vn phải đóng thuế, làm sao sống qua ngày đưc.
ngonh vội ra ngoài không dám để con dâu thấy khóc. đó li nhng git
noc mt khóc bởi cái tương lai mờ mt, xanh xám ca các con bà!
Bng ngh thut phân tích tâm lí nhân vt bc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình
để thấy được v đẹp tâm hn, tm lòng bao dung nhân hu ca c T với đôi vợ chng
tr. c T chính hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại din tiêu biu cho hàng triu m Vit
Nam. Đồng thi qua nhân vật này cũng thể hin giá tr nhân đạo sâu sc ca Kim Lân.
Phân tích nhân vt bà c T mu 9
Người m Vit Nam luôn là mt ngun cm hng sáng to của văn chương. Không một th
loi nào không các tác phm viết v m. Trong các tác phm của nhà văn của Kim
Lân, người đọc chc l không th không b ấn tượng bi nhân vt c T. mt
người m nghèo tm lòng nhân hậu, tình yêu thương con người nim tin vào
tương lai.
c T m ca anh cu Tràng. Trong tác phm, xut hiện trước người đọc trong
bóng hoàng hôn tái, người m nghèo kh "húng hng ho" chng khác nào mt cái bóng
đi vào ngõ. Trước mái tranh đng rúm trên mảnh vườn mc ln nhn nhng búi c di.
Nhà văn đặt nhân vt vào hoàn cnh bt ng đó việc đứa con trai đưa một người đàn
v nhà làm v vào giữa ngày đói khủng khiếp cái chết đang rình rập ca tng nhà.
Viết v c T nhà văn đi sâu vào phân tích tâm tấm lòng nhân ái đáng quí đáng
trng của bà đối vi các con.
Cũng như mọi người trong xóm ng cư, lúc đu rt ngc nhiên không th hiu ni
điều xy ra. Thấy Tràng ra đón từ ngoài ngõ lại reo lên như một đứa tr vn khác
thường. Tâm trng c T tr nên php phỏng, có cái đấy bất thường đang chờ đợi bà.
Đến giữa sân lão đứng sng li, càng ngạc nhiên hơn. Kim Lân đã chọn ngôn ng độc
thoi nội tâm để din t tâm trng bà c: "Quái sao lại người đàn bà nào trong y nh?
Người đàn nào lại đứng ngay đầu giường con trai mình thế kia? Sao li chào mình bng
u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Cho đến khi nghe Tràng phân trn cắt nghĩa,
c mi hiu. Lòng ngn ngang nhng lo âu, ti cực, xót thương ln vui mng. "Bà
lão cúi đầu nín lặng". Trong lòng đy nhng ám nh ca một vãng nặng trĩu những
đắng cay. Bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con Út, đến cuộc đời cơ cực dài dng dc ca mình
thương, tủi cực xót xa: "Chao ôi, người ta dng v g chng cho con lúc trong
nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái n mặt sau này. Còn mình thì…" Trong k
mt kèm nhèm ca r xuống hai hàng nước mt. Nạn đói đang đe dọa, con v lo
lng th
T xót xa, mc cm, lo lắng nghĩ tới cái may của gia đình. xót thương người đàn
lạ. Lòng người m nghèo nhân hu thu hiu cnh ng người con gái xa l bng tr thành
con dâu của mình. "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mi lấy đến con
mình. con mình mi v được.." Nghĩ thế vui trong lòng, c ch ca du dàng
âu yếm. gọi người đàn xa lạ "con" xưng "u" mt cách chân tình: "Thôi thì các
con phi duyên kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Vi bn phn làm mẹ, ao ước
được "dăm ba mâm" trước cúng t tiên sau mi làng xóm. th nói người suy nghĩ
trước sau song cái khó bó cái khôn, ao ước gin d y không th thc hin vì quá nghèo.
Thương con, thương dâu. dn nàng dâu bng nhng lời động viên an i "Nhà ta
thì nghèo con . V chng chúng mày liu bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông tri cho
khá. Biết thế nào h con, ai giàu ba h ai khó ba đời? Có ra ri con cái chúng mày v sau".
lại động viên an i " ct làm sao chúng mày hòa thun u mng ri. Chúng mày ly
nhau lúc này u thương quá".
Sáng hôm sau, con trai đã vợ. Gia đình dường như đã thay đổi. Sáng hôm sau
cùng con dâu dy sm thu dọn, quét tước nhà ca." Bà m Tràng cũng nh nhõm, tươi tỉnh
khác ngày thường, cái mt bng beo u ám ca rng r hn lên". Bữa cơm đãi nàng dâu
tht thm hi. "Gia cái mẹt rách có độc mt lùm rau chui thái ri, và một đĩa muối ăn với
cháo". đãi nàng dâu mới món "chè khoán" cháo cám. Nhưng toàn nói chuyn vui,
chuyện sung sướng sau này, dn con trai. My hôm na mua ít na v ngăn cho khi
trng, tin nuôi my con chng my chc c đàn gà. đem li cho con nim
tin cuc sng mc tiếng trng thúc thuế vn dn dp, tiếng qu kêu tng hi thê thiết.
Không khí ảm đạm vn bao trùm cuc sng. Có th nói trong bc tranh xã hi sáng hôm y,
bà c T là một điểm sáng v đạo lý làm người. Người m không ao ước cho mình mà luôn
sng vì con, cho con, cho lp con cháu mai sau.
Nhân vt c T ởng như không th được nht trong hoàn cảnh gia đình bà, sự
tăm ti ca xã hi. Ngn la tình mu t ấy cũng đã đủ nhóm lên gi nim tin hi vng vào
tương lai tươi sáng. Nét đẹp nhân hu vốn trong được tác gi din t tinh tế qua
cách s dng ngôn ng chn lc trong din t tâm nhân vt, góp phn khc ha v đp
tâm hn của người m nghèo Vit Nam.
Phân tích nhân vt bà c T mu 10
Không phi nhân vt chính, li xut hin phn cui ca tác phẩm nhưng bà cụ T - m
ca anh cu Tràng trong V nht của Kim Lân đã góp phn làm cho tác phm sâu sắc hơn.
Vi tình huống anh cu Tràng “nhặt” được v trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân mun
khc ho s phận bi đát của người nông dân trưc cách mng tháng Tám, th hin s cm
thông, s chia trước khát khao hnh phúc ca nhng s phn khn cùng y.
Sau tình hung nhặt đưc v, anh cu Tràng, ch v người m đường như trở thành
người khác. c T người m nghèo đã bộc l tm lòng sâu sc ca một người m
suốt đời nhng buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bi thế nhân vt ph này đã
to lên mt phn không nh giá tr nhân văn của tác phm.
Chân tht trong hình nh và chân tht trong tng chi tiết, Kim Lân dường như không kể
dắt ta đến vi c T. Bắt đầu cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lm bm
tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu thân thương, trìu mến. Ta gp li dáng hình
gy gầy, còng còng sương gió cuộc đời của người đàn quen thuc. T “lng khọng”
đầy sáng to và giàu sc to hình. Cái lm cm, chm chp theo nổi “phấp phỏng” trước s
đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bước vào trong nhà. Khi thy một người đàn
bà đứng ngay đầu giường con mình, bà hết sc ngc nhiên.
Hàng lot câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn nào lại đứng đầu
giường thng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai ihế nh ? Sao li chào mình
bằng u ?”. Phải, bà làm sao ng được giữa năm đói, nhà li nghèo mà con bà li dn không
v một người vợ! Băn khoãn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa sót
thương cho số kiếp con mình”. Thương con đ ri ti phận mình. “Chao ôi, người ta đựng
v g chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”. Đọc nhng dòng này,
ta cảm giác như trái tim người m trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đn,
xót xa. Vic trọng đại trong đi con, l ra “làm được dăm ba mâm cơm mi phải”, nhưng
"nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được.
c thương con, tủi phn ri lại thương dâu. “Người ta gặp bước khó khăn đói khổ
này, người ta mi lấy đến con mình. con mình mi v được …” Vừa mng ti, va
lo lng, lo ni lo rất chính đáng của con người đã trải qua cuộc đời cc nhọc, đớn đau:
“Biết rng chúngcó nuôi ni nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén ni lo
trong lòng, c động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chng chúng mày liu bo
nhau làm ăn. Rồi may ra ông gii cho khá... Biết thế nào h con, ai giàu ba h, ai khó ba
đời?...". nói vi con dâu bng ging của người tng tri - va lo lng, vừa thương xót;
“...Năm nay thì đói to đây. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...” nghn li
không nói được nữa...”. Nhưng ta hiểu, người con dâu lúc này rt hiu bà, thy thân
thiết gn bó vi bà, thc s coi bà là mẹ. Và nghĩa là “ đám cưới ” đã xong.
Chng l nghi, không đưa đón, tấm lòng chân tht, nhân hu của người m nghèo đã thay
thế tt cả. Đến đây ta cứ liên tưởng ti m chng. Dần trong “một đám cưới”(Nam Cao).
Người m ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiu, rt “ngọt ngào” để kho lp s “không
nhiu liền”, làm “mát ng mát ruột” cha Dn. Chao ôi, những người m nông dân nghèo
trước cách mng thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhim ca người làm m
khiến h i v cho con bng tt c nhng kh năng mình thể, du ch li
nói...Nhưng nếu m chng Dn nói rt nhiu thì thì bà c T lúc này ch nói rt ít. Bà khóc
“Nước mt c chy xung ròng ròng”. Những giọt nước mt ấy đã nói lên tt c tm lòng
chân tht ca bà. Bà dành li cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau - “toàn chuyện vui,
chuyện sung sướng v sau này”, bà say sưa với các con nhng d định cho tương lai...
T s ng ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao sự”, t giọt nước mt ti phn
nghèo, thương con dâu đến ni lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sng nổi qua ihì đói
không” đến nim vui mng, niềm tin vào tương lai..., tt c đan xen, hin hiện dưới ngòi
bút Kim Lân. Tác gi đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế ca bà c T, th hin mt
cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, li nói. Lỗi lo xa cho tương lai, lối nhìn
người ngẫm đến mình, ti phn mình hay duy tâm của người già: "...chng may ông
gii bt chết cũng phi chu ch biết làm thế nào lo cho hết được? ”tưởng đọc lên ta
không th không chc chắn đó lời ca c T. Qu không th lẫn đi đâu được cách
nói, cách nghĩ vừa ln thn, va hn hu của người m già nông thôn.
Tác gi va hóa thân vào nhân vật để phân tích din biến tâm va khách quan ghi li.
Đặt nhân vt trong hoàn cnh không gian, thi gian nhất định, Kim Lân đã din t sâu sc
tâm trng nhân vt. c T ngửi “mùi đốt đống rm những nhà người chết thong
vào khét lẹt” “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc đời cc
kh dng dc của mình” để ri php phng lo lắng cho tương lai của con: “liệu chúng
có hơn bố m chúng nó trước kia không?”.
Ngh thuật “biện chng pháp tâm hồn” đã thể hin nhun nh trong tng biến thái tinh tế,
phong phú của tâm người m nghèo. Tác gi phi s thu hiu, trân trọng đc bit,
phi vn sống phong phú đến mức độ nào mi th din t mt cách chân thc, tài
tình đến vy. V nht không còn những trang văn, đó là những trang đời - nhng trang
đời thâm đẫm nhng giọt nước mt ti cc, xót xa, php phng nổi lo cho tương lai và rạng
r trong trái tim ngưi m nghèo. Chân thực cũng thật cảm động, hình nh c T
không ch giúp ta chng kiến din biến tinh tế của tâm con rung cảm sâu sắc trước
tâm, trước tm chân tình tha thiết của người m.
Đọc truyn, có l không ai quên được cách giu giếm đầy ngượng ngp, vng v v nhng
dòng nước mắt xót thương con của lão: “Có đèn đy à? thp lên cho sáng sa...Du
bây gi đắt gm lên mày ạ...”. đã cố nén s xúc động của mình, đã cố nut nhng git
nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã
chát đắng ca một đời ti cc. Và khi ấy, trước đôi mắt nhoà l của người đọc, dòng “nước
mt c chảy ròng ròng” sau lời bc bch tâm tình vi con dâu ca bà lão li hin lên rõ nét
hơn bao giờ hết. Nhng giọt nước mt trong sut t đôi mắt đục m. Nhng giọt nước mt
lp lánh lòng v tha cao quý của người m. Nhng giọt nước mt mn mòi là mui của đất,
là mui của trái tim yêu thương dạt dào như biển c..
Nhng giọt nước mt ln vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động “xăm
xn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu t những d định nào ngăn buồng cho đôi trẻ,
nào mua đôi gà... Để ý ta s thấy chính lão “gần đất xa trời” này lại người nói đến
tương lai nhiều hơn tt c. Không đơn thuần ch tâm lc quan khe khon của người
lao động, đó cả niềm ao ước thiết tha v mt ngày mai sáng sủa hơn cho con của người
m nghèo. th chng còn sng my nữa. Nhưng sống con, tìm thấy ý nghĩa đời
người trong s chăm lo vun vén cho con. bởi vy, những ước mun, hy vọng đâu chỉ
dành cho tui tr - nó tr nên đm sâu, nng thắm hơn trong tâm lòng của những người m
nghèo như cụ T. Ai dám bo m lm cm, d dẩn? Ai dám cười những ước mong,
d định ca bà? Cái gc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi mà ngưc li
càng xanh tươi hơn trong mưa nng cuc đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, thm thía bao
điều...
Tâm tính y khiến ba cháo thành ba tic, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn b trong ming
ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước s hào hng, vui v khi
lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đ tươi cười múc cho con
bảo: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, c th ăn xem”. Phải, cái ni cháo cám hèn h
đành rồi, nhưng tấm lòng người m quê ngm lại không đáng thương, đáng quý hay sao?
ờng như cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, c gắng vượt lên hoàn cnh bng s
tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái v tươi tỉnh y, ta biết lòng người m đang thổn
thc.
Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa... Tội nghip thay nim vui ca lão - cái nim
vui không cất cánh lên được. Bi, vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trng thúc
thuế dn dp khiến nim vui không th trn vẹn... “Bà không dám đ con dâu nhìn thy
khóc” còn người đọc thì nhìn thy nhng giọt nước mt trong lòng bà, thy nhng
giọt nước mt ca Kim Lân khi viết nhng dòng này. Bng tt c s nâng niu, trân trng,
Kim Lân đã để trái tim đập cùng mt nhp với trái lim người m nông dân nghèo...
Qua "V nhặt", Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người m nghèo trong trận đói
khng khiếp 1945. Người m nghèo tin bạc nhưng giàu lòng yêu thương hết mình
con - người m Vit Nam truyn thống. Đằng sau c T, ta thy thp thoáng nhng Lão
Hc, ch Du, m Dn... những người sng tn lòng cho những người thân yêu ca h.
Phân tích nhân vt bà c T mu 11
V nht tác phm hoàn ho ca Kim Lân viết v cuc sng ngt ngt ca dân chúng ta
trong nạn đói năm 1945. Tin thân ca truyn ngn này tiu thuyết “xóm ngụ cư” được
viết ngay sau cách mạng tháng tám nhưng dang dở. Sau lúc hòa bình lp li (1954), Kim
Lân da vào mt phn ct truyện để viết truyn ngn này. vi tác phm v nht, Kim
Lân đã rất thành công trong việc đi sâu phân tách din biến tâm nhân vt, tiêu biu
nhân vt bà c T.
Nhân vt c T được gii thiệu là 1 ngưi m nghèo kh, sng cộng 1 đứa con trai chu
rng rãi thit thòi, cnh ng ca m con thật đáng thương nhất trong cảnh đói năm
1945. mẫu đói đã kéo tới xóm ng cư và vào đến tn trong nhà bà. loi nạn đói được tác gi
bc l, trên tri từng đàn qu đen rỉa xác người chết đói bay lên, gào lên tng hi khn
thiết. Dưới đất bên các gốc đa gốc gạo xì, bóng các người đói chuyển động dt d như
nhng bóng ma. ko khí vn lên mùi m mc của rác rưởi mùi gây của xác người, đa số
to nên 1 bu ko khí ảm đạm tóc tang thê lương. loại đói, loại chết len lách vào ngõ
ngách, gõ ca từng nhà, đụng chm ti từng người, cõi âm hòa mang cõi dương, cuc sng
mp bên b vc ca chiếc chết. Gia bi cnh ti sm lại đói khát đó thì 1 việc h
trng nht của 1 đời người li din ra 1 cách thc chóng vánh vi vàng, y vic anh cu
Tràng có v.
Con trai bà, anh cu Tràng được biết tới là 1 người xấu xí, đói nghèo, lại là dân cư ngụ, sng
trong tình cảnh đó chưa bao giờ anh nghĩ mình sẽ ly v lấy được vợ. Nhưng, cũng
trong nạn đói tàn khốc đấy câu của anh như xua tan mt mi, cm giác vui vui.
ch vài ba câu đề cp tầm phơ mà Thị sn sàng theo không anh v làm v. Tình hung nht
v ca anh cu Tràng làm cho c xóm ngụ ng ngàng, còn c T thì khôn cùng sng
st. c kinh ngc con mình nghèo, xu xí, dân ng lại đang thời buổi đói khát,
nuôi thân chng xong.
Tràng còn dám ly vợ, rước thêm mồm ăn. khi cụ đi làm cho về mun, thấy người đàn
ngi đầu giường con mình rt ngc nhiên, càng sng sốt hơn khi được người đàn
chào bằng u và được Tràng gii thiệu: “Kìa nhà tôi chào u”..”Nhà tôi mi v làm
bn với tôi đấy u ạ”. sửng sốt đến mức không còn tin được vào mắt tai mình : “Bà
lão hp háy cp mắt cho đỡ nhoèn t nhiên bà lão thy mt mình nhoèn thì phi. lão
nhìn người n gii ln na, vẫn chưa nhìn thấy người nào. Bà lão quay sang nhìn còn t
ý không hiểu”. lúc đã hiu ra, lại xót thương cho số kiếp ca con trai mình, liên
ởng đến người chng quá c, tới đứa con gái đã tắt hơi, lòng nặng trĩu tủi bun, xót
xa.
c T mng cho con trong khong này yên b gia tht, ti thân làm cho m không lo
ni v cho con. Gi đây giữa khi người chết đói “như ngả r" lại mang người theo con trai
v làm cho v. cái ti, mu bun của người m b dn vào cnh nghèo qun bách. Biết
lấy gì để cúng tiên sư, đế trình làng khi con đã với v. Bà c T khóc mng con vi v,
khóc thương con dâu không biết khiến sao vượt qua ni cnh tranh này. c xót xa
thương con dâu, thương con trai, tủi phận mình: “bà cụ nghn li không nhắc được na,
nước mt c chy xuống ròng rã ròng”. bao nhiêu lo âu bộn b trong lòng.
Trong mu mng, loi ti, chiếc lo, người đọc vn thấy được nim vui ca c. mt nim
vui kh thân không sao chứa cánh lên được, c b mu bun, cái lo níu kéo xuống. Nhưng
c T c vui gng làm con, cho dâu vui. c nhc toàn chuyn vui, nào chuyn
v chng dy d nhau khiến ăn, chuyện mai sau, chuyn con dòng, nhà ca. Bà tin vào hc
thuyết nhân sinh “người nào giàu ba họ, ai khó ba đời”, các lời k ca bà gia hin thực đói
khát thê thm y là bí quyết để lấn áp bóng đêm bao trùm.
Qua vic khc ha hình nh nhân vt bà c Tứ, nhà văn thật tinh tế nhận ra được nét tâm
thân thuc của ngưi cao tui. Trong bế tc, trong tuyến đường cùng h thường k đến
tương lai, tới các điu r đẹp, do đó khi ánh đèn trong nhà bà được thp lên thì bà c T đã
lau nước mt, tin vào mt cuc sng r đẹp hơn lâu dài s đến với con trai bà, gia đình
bà và c xóm cư ngụ.
Nhân vt c T đã đem đến 1 lung gió mi cho tác phm, khi nhc tới bà người đọc s
không th quên 1 người m ân cần, chu đáo, luôn hình dung các điều r đẹp cho con mình,
một người luôn hướng ti 1 cuc sng hnh phúc, r đẹp hơn sẽ đến 1 mai sau không xa.
Phân tích nhân vt bà c T mu 12
Kim Lân thuc hàng nhng cây bút truyn ngắn tài năng của văn học Vit Nam hiện đi.
Ông thường viết v nông thôn những con người dân quê, lam hồn hu, cht phác
giàu tình yêu thương. V nht mt trong nhng sáng tác tiêu biu ca ông. Tác phẩm đã
khc ho tình cnh thê thm ca nhân dân ta trong nạn đói năm 1945 đồng thi khẳng định,
ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng đến tương lai của nhng
người dân lao động. Trong đó nhân vt bà c T được nhà văn khắc ho rất sinh đng, tinh
tế, một người m nghèo kh, trải đời, giàu tình yêu thương ni tâm phong phú,
phc tp.
Kim Lân rt am hiểu nông thôn đi sng ca nhân dân nên ông nhng trang viết sâu
sc, cảm động. Truyn V nht rút t tp Con chó xấu xí) được coi truyn ngn xut sc
nht ca Kim Lân. Thiên truyn mt quá trình sáng tác khá dài. vốn được rút ra t
tiu thuyết Xóm ng (cuốn tiu thuyết viết dang d thời trước Cách mng). Hoà
bình lp li, Kim Lân viết li. V nht mang du n ca c mt quá trình nghin ngm lâu
dài v ni dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng v ngh thut.
Tác phẩm đã tái hin li bi cảnh ngày đói cùng thê thảm nông thôn Vit Nam do
thc dân Pháp phát xít Nhật gây ra năm 1945. Ông đặc t chân dung người năm đói
"khuôn mt hc hác u ti", "Những gia đình t những vùng Nam Định, Thái Bình, đội
chiếu lượt bng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma", "bóng nhng
người đói dật d đi lại lng l như những bóng ma". Trong không gian ca thế gii ngn
ngang người sng k chết y, tiếng qu "gào lên tng hi thê thiết" cùng vi "mùi gây ca
xác người". Nhưng quan trọng hơn, bên cạnh mng ti ca bc tranh hin thc buồn đau là
mng sáng của tình người, ca mt ch nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong truyn ngn V nht, Kim Lân bc l một quan điểm nhân đạo u sc ca mình.
Nhà văn phát hin ra v đẹp diu của người lao đng trong s túng đói quay quắt, trong
bt hoàn cnh khn kh nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng v cuc sng gia
đình, vẫn yêu thương nhau hi vọng vào ngày mai. Th hin sâu sc cho ng y
chân dung tính cách, tâm ca c T trước nh hung bt ngờ: con trai mình đột ngt
có v.
Tâm c T phn phc tp, vi nhng ni nim trc n trong chiu sâu riêng ca
người già tng tri và nhân hu. Khởi đầu tâm lí bà c T là ng ngàng trưc mt s vic
dường như không hiểu được. gái xut hiện trong nhà phút đu mt hiện tượng l.
Trng thái ng ngàng ca c T được khơi sâu bởi hàng lot nhng câu hi nghi vn:
"Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà y nh ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu
giường thng con mình thế kia? Sao li chào mình bng u? Không phải con cái Đc mà. Ai
thế nh?" Ri li:"Ô hay, thế thế nào nh?". S ngc nhiên này th hin nỗi đau của
người viết: chính s cùng qun ca hoàn cảnh đánh mất người m s nhy cảm trước
vic con trai yêu quý ca mình có v.
Sau khi hiu ra mi chuyện, lão"cúi đầu nín lng". S nín lặng đầy nội tâm. Đó nỗi
niềm xót xa, lo, thương trộn lẫn. Tình thương ca m nhân hu mi bao dung làm sao:
"... chúng nó có nuôi ni nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Trong chữ "chúng
nó" người m đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong ch cúi đầu, m tiếp
nhn hnh phúc ca con bng kinh nghim sng, bng s tr giá ca mt chuỗi đời nng
nhc, bng ý thc sâu sắc trước hoàn cnh.
Rồi tình thương li chìm vào ni lo, to thành mt trng thái tâm trin miên day dt.
mẹ: nghĩ đến bn phn làm m chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến ni
kh đời của mình, nghĩ đến tương lai của con..., để cui cùng dn t bao lo lng, yêu
thương trong mt câu nói gin d:"chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá..." Trên ngn
ngang nhng ni bun lo, nim vui ca m vn c ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để
cái ánh sáng k diệu đó tỏa ra t... nồi cháo cám. Hãy nghe người m nói: "chè đây -
lão múc ra mt bát - chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Chữ "ngon"này cn phi cm th
một cách đặc bit.
Đó không phi là xúc cm v vt cht, (xúc cm v cháo cám) mà là xúc cm v tinh thn:
người m, nim tin v hnh phúc ca con biến đắng chát thành ngt ngào. Chn hình nh
ni cháo cám, Kim Lân mun chính mình cho cái chất người: trong bt k hoàn cnh nào,
tình nghĩa hi vọng không th b tiêu diệt, con người mun sng cho ra sng, cái cht
người th hin cách sống tình nghĩa hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải nhà văn
lãng mn. Nim vui ca c T vn c nim vui ti nghip, bi thc ti vn nghit ngã
vi miếng cháo cám "đắng chát và nghn b".
V nht truyn ngn xut sc nht ca Kim n, là tác phm giàu giá tr hin thc, nhân
đạo; bài ca v tình người những người nghèo kh, ca ngi nim tin bt diệt vào tương
lai tươi sáng của con người. Truyn xây dựng thành công hình tượng nhân vt bà c T,
một người m nghèo khấm áp tình thương, niềm hi vng, lc quan qua cách dng tình
hung truyn dn truyện độc đáo, nhất ngòi bút miêu t tâm lí tinh tế, khiến tác phm
mang chất thơ cảm động và hp dn.
Phân tích nhân vt bà c T mu 13
Ch đề người nông dân luôn là ngun cm hng bt tận đối với các nhà văn Vit Nam. Ni
bật trong đó ta không th không k ti V Nht ca tác gi Kim Lân. Trong nhng tháng
ngày đen tối nạn đói khủng khiếp, ta vn thấy được nhen nhóm hình nh một người m
với nh yêu thương con thắp sáng c tác phẩm, người m y không ai khác chính bà c
T.
c T một người đàn nghèo khổ, góa chng sng cùng con trai xóm ng cư.
một người ph n hin hu, tấm lòng yêu thương con tha thiết. biết hoàn cnh
ca con trai mình ng nghch, xu xí thô kch nên chng có v. Hai m con sng vi nhau,
tri qua nhng gian kh ca cuc sng thiếu thn. Trong những năm 1945, rất mun
một người con dâu nhưng hiểu hoàn cnh hiểu con trai mình nên không dám nghĩ
ngi nhiu.
Khi phát hiện con trai mình đã vợ, đi từ ngạc nhiên đến sng st. Mt bui chiu
khi anh cu Tràng dt v v ch đợi m trong căn nhà rách nát. Khi về ti nhà, thy mt
người đàn đang ngi đầu giường ca cu con trai mình. ngc nhiên càng ngc
nhiên hơn khi nghe tiếng chào m t người đàn y. Bà bt ng khi anh cu Tràng gii
thiu: kìa nhà tôi nó chào u, nhà tôi nó mi v làm bn với tôi đấy u
Khi cu con trai lên tiếng xác nhn, vẫn chưa tin được đây sự tht. C nhìn cho k
người đàn đang ngồi nơi đầu giường vi cp mt hp háy. thy mắt nh như nhòe
đi. Hóa ra con bà đã có v. Một đứa va xu vừa nghèo như cu Tràng li có k theo v làm
v.
Lòng bà chưa hết ngạc nhiên còn đong đầy nhng câu hi thc mc pha ln tò mò. Khi biết
được đầu đuôi câu chuyện đi từ ngc nhiên, bt ng chuyn sang va vui va bun.
ch biết cúi đầu, bà xót thương biết bao cho s kiếp ca con trai bà. Bà nh v người chng
quá c, nh v đứa con gái, nh v cuộc đời gian kh của bà. càng thương, càng ti,
càng xót xa.
một người mẹ, thương con bờ, biết con trai mình t nay đã yên bề gia tht.
Nhưng mừng thì ít lo lng thì nhiu. than trách mình làm m nhưng không trách
nhim lo cho con một đám cưới đàng hoàng như người ta. cũng nặng trĩu lòng khi nhìn
ngoài kia biết bao người chết đói, mng sng mng manh nhà ca thiếu thn, gi con trai
li ly v lúc này.
khóc thương con, thương người con dâu mi. chẳng dám nghĩ đến tương lai hai
v chng s ra sao, vượt qua được nạn đói lớn này. Trong k mt kèm nhèm ca r
xuống hai dòng nước mt.
Nhưng gạt nước mt sang một bên, động viên hai con. một người tình yêu
thương con tha thiết. Nhng li chân thành nói với nàng dâu được tht ra t trái tim m áp
của người m, một người tng tri hiểu được rng nếu không nạn đói xảy ra thì
con mình làm gì đã có v, cùng cc lắm người ta mới tìm đến con mình. Dù biết trước phía
trước còn nhng chông gai vẫn động viên các con phi sống yêu thương, hòa thuận,
đùm bọc san s với nhau để vượt qua cơn hoạn nn.
Trong nhng ngày tối tăm của nạn đói 1945, vẫn nhen nhóm một tương lai tràn đy hy
vọng phía trước. c nói toàn chuyn vui chuyện sung sướng sau này. Trong khung
cnh tối tăm cùng cực nhưng vẫn nhen nhóm lên trong lòng những ngưi nông dân mt
nim tin v mt xã hội đổi mi, v một tương lai hạnh phúc m no.
Trong buổi sáng đầu tiên khi cô con dâu v bà đã dậy tht sm nh sạch vườn c trước nhà,
quét dn li nhà cửa, ờn tược. nghĩ rằng đó sự khởi đầu mi s trân trng
dành cho người con dâu mi. rng r hẳn lên, xăm xăm thu dọn, quét tước nhà ca.
Trong bữa sáng đầu tiên v nhà chồng, bà đã đãi con dâu mình mt ni cháo cám. Tuy mt
món ăn đắng chát nhưng mà vẫn c mỉm cười vui v động viên các con.
bữa ăn thật nghèo khó, nhưng chúng ta cảm nhận được mt không khí m áp ca tình
cảm gia đình. cụ T hin lên vi những đức tính cao đẹp ca người ph n Vit Nam.
Đó sự đảm đang, lòng nhân hậu, v tha với tình yêu thương con bờ bến. Trong khó
khăn hoạn nn vẫn suy nghĩ về một tương lai tươi sáng.
Vi cách k chuyn hp dn, tác gi đã xây dựng din biến tâm nhân vt phù hp vi
tiến trình câu chuyện. Qua đó làm nổi bt lên tính cách và tm lòng ca bà c T.
| 1/29

Preview text:

Phân tích nhân vật bà cụ tứ
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 1
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm
1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là
việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người,
những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn
bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người
đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.
Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao
không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo
đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân
tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ
về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác
xuất hiện trong ngôi nhà của mình.
Như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, bà cụ Tứ
hiện lên là một người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá nhiều. Bà cụ Tứ
xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà
vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ,
Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật
chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”. Một bà cụ dáng dấp đã không còn
nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.
Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình “Bà
cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết trong
nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và
càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đứng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà
lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà
lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà
nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người
nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.”. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như
vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương
mình, thương con và thương cho người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết choc như ngả rạ, nạn
đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người như thế này bà không lo, không buồn sao được.
Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng
này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình
bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại
ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho người đàn bà héo hon kia
cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Chao ôi những suy nghĩ của bà
cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề, khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết
cách nào có thể thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.
Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.
Hơn hết diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín
hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con, cũng giống
như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà
cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục “ Nhà ta nghèo liệu mà
bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông
giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng
mày về sau.”. Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động,
không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận “người vợ mới” của đứa con, chấp nhận cả cái đói
nghèo mà gia đình bà mang.
Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm ba
mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu có gắng. Chi tiết này đã cho thấy sự
đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo. Sự gắn kết này sẽ
mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này.
Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho bà cụ Tứ,
thương cho người đàn bà nghèo và thương cho những người sống trong cảnh khốn đốn đó.
Hình ảnh “nôi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này mang đến thực sự
khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực
như nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao
của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của
câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà
được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.
Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở cuối
truyện, bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ
nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực
dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.
Bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc
những dư âm khó phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương
đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ là hiện thân của những gì cao đẹp nhất của một con người, một nhân cách.
Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ (mẹ Tràng) mẫu 2
+ Lúc đầu bà cụ không ngờ con mình lấy vợ nên không hiểu người đàn bà ở trong nhà
mình là ai vì bà cụ nghĩ tình cảnh con mình khó lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói khủng
khiếp này. Dạo đầu của chuỗi tâm trạng ấy là 1 loạt những câu hỏi đầy vẻ ngạc nhiên, thắc mắc:
>>> Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối. Chưa thấy người, nhưng anh Tràng biết là
mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi
vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác,
thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai
lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi
bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi ới vào trong nữa. Trong nhà nào có ai. Lâu nay,
khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai
con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: "Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà."
"Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con mình thế kia?" "ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?".
>>> Phải, làm sao bà ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói
mỏi, nhà lại nghèo mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến với bà quá
nhanh. Chính bởi tình huống hết sức đặc biệt này của câu chuyện "vợ nhặt", mọi diễn biến
nội tại đã được đẩy lên đến cao trào, trở thành 1 sợi chỉ xuyên suốt làm cho mạch tp đi theo
1 chiều hướng rất logic của tâm lý nhân vật.
Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức:
"không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa". "Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự
dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa
nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu".
+ Khi biết con mình “nhặt” được vợ thì lòng bà mẹ nghèo khổ hiểu ra: buồn, lo, tùi cực, ai
oán, xót thương… Tâm trạng cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ
thông qua lời xác nhận của con trai: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ..."
>>>Lúc ấy tâm trạng của người mẹ lại bước sang 1 trang khác, hứa hẹn nhiều biến động
hơn và tinh tế hơn. Kim Lân đã không tả thêm nữa những suy nghĩ, những căn vặn trong
tâm não của nhân vật, hay những động thái tâm lý phức tạp khác, mà chỉ đơn giản là 1 cái
"cúi đầu nín lặng". Không chỉ là câu trần thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng rưng tấm
lòng hoà cảm đầy ân tình của Kim Lân. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong cái im lặng cúi
đầu ấy. Cái im lặng tủi phận. Cái im lặng cam chịu. Cái im lặng xót xa.
+ Càng nghĩ càng thương con mình, thương cả con dâu: “dù sao người ta chịu lấy con mình thì cũng đáng quí”
>>> Bà thương thầm cho cái số kiếp của đứa con trai độc nhất. Vì người mẹ ấy giờ đây ý
thức rõ hơn vợ chồng Tràng rất nhiều về cái nghịch cảnh quá éo le, nghiệt ngã của cuộc
hôn nhân này. Chừng ấy năm sống trên đời mách bảo bà lão 1 điều rằng: mối duyên kiếp
trớ trêu kia hình như không nên có.
3. Tấm lòng người mẹ quê nghèo trước hạnh phúc bất ngờ của con trai bà.
+ Bà Tứ tự trách mình: làm mẹ đã không lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ thì cũng mừng,
bà thấy có trách nhiệm với hai vợ chồng mới.
"Chao ôi! người ta dựng vơ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong
sinh con đẻ cái mở mặt sau này - còn mình thì..."
>>> Bao nhiêu ngập ngừng, tủi cực, chua xót dồn nén sau chữ "thì" vô vọng ấy. Bà xót xa
vì không thể làm tròn bổn phận của người mẹ: ko lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây,
giữa lúc người chết đói "như ngả rạ", lại có người theo con trai mình về làm vợ. Người mẹ
bị dồn vào cảnh túng quẫn, khó xử, không biết lấy gì cúng tổ tiên, trình làng khi con đã có vợ.
>>> Cái buồn, cái tủi lại chan đầy nước mắt, và bà đâm khóc vì thương con, thương dâu ko
biết làm sao đây để vượt qua cơn khốn khó này:
"Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống 2 hàng nước mắt",
>>> Kim Lân như 1 nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình
chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim 1 đời
vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra 2 dòng nước mắt khô héo.
"Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không".
>>> Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm
cõi đang rung lên đau đớn, xót xa như xát muối.
>>> Bà thương con, tủi phận để rồi lại thương dâu: mắt "đăm đăm nhìn người đàn bà"
>>> Như để nhận mặt người đồng hành khốn trong cuộc đời khổ nghèo, bà thấy người con
dâu đứng đấy, tay "vân vê tà áo đã rách bợt". Và cũng từ đó đã thức dậy trong bà lão bao ý
nghĩ nhân đạo và một sự hàm ơn:
"Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con
mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con..."
>>> Câu văn thật cảm động! Nó vừa nhoi nhói 1 tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa
như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước 1 sự việc đã rồi, lại vừa rưng rưng, xao xuyến 1
niềm vui. Những lời độc thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ, vừa khắc
khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung cảm xót xa
trong trái tim nhân đạo của Kim Lân. Ta cũng thấy tim ta thổn thức cùng với những trăn
trở bình dị mà xiết bao ân tình.
+ Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: "kể có ra làm được
dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo... lấy nhau lúc này u thương quá....".
>>> "Lúc này" ở đây chính là thời điểm năm 1945 - cái mốc in dấu 1 nạn đói khủng khiếp
đã đi vào lịch sử: "hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói" (Tuyên ngôn độc lập), câu nói ấy vẫn
còn vang lên như 1 chứng tích tội ác của thực dân Pháp, không khí quê hương "vẩn lên 1
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì,
bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma". Ấy vậy mà, "như bèo gặp nước",
vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ. Thử hỏi
sao lòng người mẹ ko đau đáu. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở
hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng
trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm...
+ Bà cụ cố nén nỗi buồn, nỗi lo động viên con tin ở sự sống và tương lai: “… tươi tỉnh
khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”
>>> Đẹp biết bao 2 tiếng "mừng lòng" của bà lão nói với các con. Chữ "mừng" thật là đắc
địa, có vẻ như ko đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lột tả đúng cái thần thái của 1
tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót
thương vì sợ phiền lòng cho chính người mình đang thương xót.
+ Những hành động của bà: dọn dẹp nhà cửa, động viên vợ chồng mới bằng những chuyện
vui, chuyện tương lai sáng sủa: "Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên 1 tí cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ".
>>> Người mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình
thương của mình an ủi các con. Nỗi lo sợ ngày mai mãi chỉ là 1 niềm riêng không chia sẻ.
Bới trái tim người mẹ ấy hiền hậu nhân từ lắm.
+ Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng
như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân".
>>> Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng - nàng dâu?
+ Niềm ao ước thiết tha về 1 ngày mai sáng sủa hơn cho con của bà mẹ nghèo: "Rồi may
ông giời cho khá....ai giàu ba họ, ai khó ba đời..."
>>> Lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của 1 bà mẹ nông dân từng
trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững
vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết. Câu nói ấy chỉ có thể
thốt lên từ 1 tấm lòng cao cả, tràn ngập tình thương.
+ Bà vui trong công việc "sửa sang nhà cửa vườn tược".
>>> Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường,
"cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên".
+ Bà đã chủ động tạo nên niềm vui đó trong ngày đầu tiên gia đình đón chào 1 nàng dâu
mới: bà dậy từ rất sớm, "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn".
>>> Bởi bà hiểu rằng, bắt đầu từ hôm nay đã đánh dấu 1 bước ngoặt trong cuộc đời các
con mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và bà cảm thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các con.
+ Bà đã đon đả lo chu tất, chuẩn bị bữa cơm đón dâu, nhưng "cái bữa cơm ngày đói thật
thảm hại" lại chỉ là 1 bữa "tiệc" với món cháo loãng và món "chè khoán" đắng chat
>>> Nhưng bà vẫn cố tạo ra 1 không khí ấm cúng, vui vẻ để động viên, làm giảm bớt nỗi thất vọng cho các con.
+ Dù cuộc sống này có khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo, đầy đoạ mẹ con bà, bà vẫn nói
toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, chuyện nuôi đôi gà cho nó sinh sôi nảy nở thành đàn gà con...
>>> Người mẹ già ấy vẫn nghĩ đến cái sống, nghĩ đến ánh sáng của ngày mai ngay bên bờ
vực thẳm của cái chết. Hình ảnh đàn gà sinh sôi trong bữa cơm ngày đói đã nói lên sức
sống kì diệu của người lao động.
+ Nhưng xúc động nhất là nồi cháo cám mà bà đã cố tình giấu con trai, con dâu cho đến
phút cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui vẻ khi bà "lễ mễ bưng
nồi cháo cám nghi ngút khói" lên nhà, tươi cười đon đả múc cho các con rồi mời mọc:
"cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ ăn thử mà xem".
>>> Nhưng ta biết, bên trong cái vẻ tươi tỉnh niềm nở ấy, lòng mẹ đang quặn thắt. Cái món
mà bà cụ Tứ gọi là "chè khoán" ấy hoá ra lại là cám, gọi như vậy để cho các con bớt tủi
thân, lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi.
>>> Bà muốn con được no đủ, hạnh phúc trong 1 việc làm mà bà cố gắng tạo nên dẫu biết
rằng đó chỉ là ảo giác, sau đó thực tại sẽ lại trở về nguyên bản, bẽ bàng và chua chát.
Dường như bà có ý xua tan đi không khí ảm đạm, cố che đậy, vùi đi thực cảnh thê lương.
Nhưng thật tội nghiệp cho bà lão, tội nghiệp thay cho cái niềm vui bé nhỏ chới với giữa 1
bể bi luỵ, khi mà màu sắc của hiện tại phải được trả về đúng nghĩa của nó.
+ "Bà ko dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".
Một lần nữa, người mẹ lại nuốt đắng cay vào trong. Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi
trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt
hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, bà
cụ Tứ giải thích cho nàng dâu biết đấy là tiếng trống thúc giục thuế. Đói khát như thế này,
vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được. Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám
để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là những giọt nước mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà.
Những giọt nước mắt lại rơi. Những giọt nước mắt ám ảnh ấy.... III. Kết bài:
Ý nghĩa nhân vật Bà cụ Tứ, ý đồ của tác giả khi tạo hình nhân vật này.
Bà cụ Tứ xuất hiện trong Vợ nhặt của Kim Lân có một đêm và non buổi sáng hôm sau.
Chừng ấy thời gian vừa đủ cho một người ngủ dậy muôn. Nhưng đối với người mẹ nghèo
khổ kia, quả là rất dài. Chừng ấy thời gian, song ở bà, có biết bao buồn vui, mừng tủi, cay
đắng, âu lo, lẫn hy vọng. Người mẹ ấy đã sống trọn tất cả đời sống bên trong của một người con.
Nhân vật bà cụ Tứ đã cho ta hiểu bao điều về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ
dành cho con. Bà chính là là linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tình mẫu tử, là hình
tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt Nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân
ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát
khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con. Người mẹ già
ấy phải chăng chính là ánh sáng của cả thiên truyện, lặng thầm đằng sau bóng tối bi thảm
của những kiếp đời nghèo khổ. Ánh sáng ấy làm cho câu chuyện anh Tràng nhặt vợ trở nên
thấm thía cảm động hơn, nâng truyện ngắn "Vợ nhặt" lên tầm cao, mang chiều sâu của 1
truyện ngắn "hiện thực - nhân bản".
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 3
Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân
cũng có tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và
con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một nhà văn chân chất vốn là đứa con
của đồng ruộng. Trong bối cảnh của nạn đói năm 1945, Kim Lân viết truyện ngắn Vợ nhặt.
Tác phẩm là một đóng góp xuất sắc cho nền văn xuôi dân tộc. Với một cốt truyện đơn giản
nhưng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Vợ nhặt đề cập đến một vấn đề lớn có tính
hiện thực và nhân đạo sâu sắc; những con người Việt Nam lương thiện, trong tai họa đói
kém khủng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng,
trông chờ vào sức mạnh giải phóng của cách mạng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc với
tác phẩm có lẽ là tấm lòng đáng quý của mẹ con Tràng và cũng là tâm lòng thật đáng quý
của nhà văn đối với những người lao động nghèo khổ.
Anh Tràng có vợ trong một hoàn cảnh không bình thường. Không phải anh Tràng cưới vợ,
cũng không phải là lấy vợ theo nghĩa thông thường mà là "nhặt vợ", nói như người miền
Trung và miền Nam là "lượm vợ" ở ngoài đường. Nhưng việc làm đó lại có ý nghĩa nhân ái
của một lấm lòng nhân hậu. Thấy người đàn bà đói quá anh sẵn sàng cho ăn dù chẳng dư
dật gì. Thấy người đàn bà quyết tâm theo mình, dù cũng sợ cho tương lai, anh vẫn không
nỡ nào từ chối. Tràng dắt vợ về nhà trong một tâm trạng vừa lo lắng bâng quơ và sung
sướng một cách mới mẻ, lạ lẫm...
Nhân vật thứ hai của câu truyện, bà cụ Tứ, mẹ Tràng không được tác giả nói đến nhiều
nhưng qua những nét đặc tả và tâm lý tính cách rất chân thật sinh động, nhân vật đã tạo
được một sự cảm thông sâu sắc với người đọc. Cũng như Tràng, người mẹ khốn khổ, già
yếu sống trong một xóm ngụ cư vất vưởng ấy một người đàn bà nhân hậu.
Vừa về đến nhà, thấy một người đàn lạ, bà cụ Tứ "đứng sững lại" hết sức ngạc nhiên, "thế
là thế nào". Bà không thể tin rằng con mình lấy vợ trong hoàn cảnh này. Nhưng khi hiểu ra
cớ sự, "bà lão cúi đầu nín lặng", bà hờn tủi xót thương cho số kiếp của đứa con mình và
cho thân phận của mình. "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?". Rồi bà cảm thấy khổ tâm, nghèo quá lấy gì để ra mắt bạn bè lối xóm. "Kể có ra
làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà quá nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt
chi cái úc này... chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Và nỗi khổ tâm đau xót ấy cô
đọng lại, biến thành những "dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng" thật tội nghiệp. Trong
truyện ngắn Một đám cưới của Nam Cao cảnh đời đã khổ (phải rước dâu vào ban đêm để
mọi người khỏi thấy cô dâu rách rưới, nhờ có đám cưới con, cha mẹ mới được một bữa ăn
no), ở chuyện này, cái khổ nhiều hơn gấp bội. Bữa ăn đầu tiên của gia đình thay cho đám
cưới là một bữa "chè cám".
Đem một người đàn bà xa lạ về làm vợ trong một hoàn cảnh như vậy, mẹ nghĩ thế nào?
Tràng lo lắm chứ. Khi biết mẹ đồng ý trước một sự việc đã rồi "Tràng thở phào một cái,
ngực nhẹ hẳn đi". Bởi người mẹ ấy có quyền không đồng tình, có quyền trách mắng Tràng.
Nhưng vì thương con bà cụ cũng thương dâu. Bà hiểu ra rằng dù sao người ta chịu lấy con
mình cũng là điều đáng quý. Với những người già cả, trong môi trường xã hội phong kiến
khắt khe, không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Bà "nghĩ đến cuộc đời cơ cực khổ
dài dằng dặc của mình" rồi nhìn đứa con dâu cũng cực khổ như mình "lòng đầy thươg xót".
Trong không khí ngại ngùng, lúng túng của mọi người, bà đã có thái độ tế nhị, quan tâm đầy nhân hậu.
Bà nói đỡ cho cô dâu còn xấu hổ: "Con ngồi xuống đáy, ngồi xuống đây cho đỡ mỗi chân".
Bà lưu tâm ý tứ đến tình cảm riêng tư của con: "Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan
cái phên mà ngăn ra mày ạ".
Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng quý. Không lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ thì bà
cũng mừng và thấy phải có trách nhiệm với nó. Bà cố nén nỗi buồn, nỗi lo, động viên con
tin ở sự sống và tương lai bằng việc làm chăm sóc của mình. Bà cùng cô dâu mới sửa sang
dọn dẹp lại nhà cửa, động viên nhau bằng những chuyện vui, chuyện tương lai sáng sủa:
Khi nào có tiền mua lấy đôi gà...này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho
mà xem". Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ dường như cũng được
đổi khác, bà "cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thương, cái mặt bủng beo u ám của bà
rạng rỡ hẳn lên". Từ thái độ bao dung ấy, hạnh phúc đơn sơ nhưng tấm lòng đã đến với mọi
người. Nhân vật bà cụ Tứ đã mang được một ý nghĩa khái quát lớn: ở thời đại nào, hoàn
cảnh nào tâm trạng của những bà mẹ nghèo cũng thật tội nghiệp, họ hiểu con, thương con,
lo lắng cho con nhưng vì nghèo khổ họ phải chịu đắng cay, chua xót.
Với một cốt truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dựng tinh tế, truyện ngắn
Vợ nhặt của Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề có tính nhân bản sâu sắc. Con người
lao động dù ở tình huống bi thảm đến đâu vẫn khao khát hạnh phúc và họ chí tìm thấy khi
biết cưu mang giúp đỡ lẫn nhau. Cảm động biết bao, dưới cái nhìn nhân ái của nhà văn,
những con người khốn khổ ấy đã có thể tìm thấy những hạnh phúc, dù nhỏ nhoi trong cuộc đời.
Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của những tác phẩm hiện thực phê phán
của Nam Cao, Tô Hoài từ trước Cách mạng tháng Tám. Cảnh đời cũng vẫn là tối tăm, ngột
ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Và chắc
chắn cuộc đời sẽ được đổi khác, hình ảnh cuối cùng của tác phẩm "lá cờ đỏ bay phất phới" thể hiện niềm tin đó.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 4
Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà
tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của
Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài
xác xơ vì đói khổ của nhân vật.
Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), cụ Tứ, mẹ
Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng di thể hiện nổi bật nội dung
nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả rất
thành công trạng thái tâm lí đó
1. Sự ngạc nhiên đến sững sờ
- Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình lấy vợ. Bà cụ
ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân
chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy
người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được
người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”..”Nhà tôi nó
mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được vào mắt và tai
mình : “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì
phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang
nhìn con tỏ ý không hiểu”. 2. Vừa mừng vừa tủi
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên tưởng
đến bao cơ sự “oái ăm” “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng
đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con.
Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ" lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái
tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, đế
trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu
không biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
“Trong kẽ mất kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc
này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng
lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu
thương chân thành tha thiết của ngưòi mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
- Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói được
nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng. 3. Nỗi lo
Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa
lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao... Bà chấp nhận cái “hạnh
phúc” oái oãm éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn,
đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”. Bà chỉ biết
khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận với nhau để cùng vượt qua cơn
khốn khó. Đó là nỗi lo, nổi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm
đối với mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin. 4. Niềm tin
- Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. Một niềm vui
tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ
Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ
ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn
chuyện sung sướng sau này".
+ Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn. “Cái mặt
bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”.
+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu liên có con dâu đó là một bữa “tiệc với món cháo
loãng và món “chè khoái” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo
ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
- Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặi nghèo đến tàn bạo đã đầy đoạ mẹ con bà. Bà vẫn cố
tạo không khí hoà thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà... tươi cười
đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối
hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông
lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của mình, đến cái “đói to” trước mắt.
Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.
Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” '"bà vẫn nung nấu một
ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu
biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung
nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút nhân đạo
của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi
sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 5
Những người mẹ luôn là người đem lại tình thương yêu lớn nhất, tình yêu bao la ấy có thể
vượt qua những khó khăn, những thiếu thốn vật chất để mang lại một cuộc sống an lành
hạnh phúc cho nhau. Trong nền văn học Việt Nam biết bao nhiêu nhà văn xây dựng được
hình tượng người mẹ như thế. Nếu như Nguyễn Minh Châu xây dựng người mẹ đầy đức hi
sinh là người đàn bà hàng chài thì Kim Lân lại xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ
trong truyện ngắn Vợ Nhặt. Ngoài những phẩm chất của bà thì nhà văn đi vào miêu tả diễn
biến tâm lý nhân vật này. Để từ đó chúng ta càng thấy được những hi sinh, những nỗi niềm
thương con vô bờ bến của bà.
Cụ Tứ là một người đã có tuổi, chồng thì đã mất con gái tên Đục thì đã đi lấy chồng bà
sống với con trai tên là Tràng. Hai mẹ con bà xuất hiện trong nền cảnh của nạn đói năm
1945. Có thể nói chính hoàn cảnh khó khăn ấy càng làm nổi bật lên diễn biến tâm lý và
phẩm chất của bà. Bà vẫn còn phải ra ngoài kiếm đồng rau cái muối, vẫn biết bao nhiêu
nắng mưa, gánh nặng đổ lên đầu và trong buổi chiều hôm ấy bà bất ngờ trước hành động
của con trai mình. Diễn biến tâm lý cũng bắt đầu từ đó.
Cụ về đến đầu cổng, cái ho thúng thắng của tuổi già cất lên, cụ thấy bất ngờ khi Tràng tỏ ra
vui mừng đến thế. Sau câu nói cất lên “U đã về rồi đấy à” cùng với tâm trạng và hành động
của Tràng linh cảm của một bà mẹ như giúp bà nhận ra rằng có một điều gì đó bất bình
thường. Chính vì thế cụ Tứ lo lắng lắm và cứ thế tâm lý của cụ càng ngày càng diễn biến
đến tầm cao hơn. Từ lo lắng bất thường cụ ngạc nhiên khi thấy sao lại có người đàn bà nào
ngồi đầu giường thằng con trai mình thế kia. Những câu hỏi liên tiếp được cất lên cho thấy
tâm trạng bối rối của người mẹ. Bà chưa biết là ai nhưng linh cảm cho bà thấy một điều bất
thường và cuối cùng thì nó đã đến.
Bước chân của cụ Tứ bước vào đến nhà cũng là tâm lý đạt tới đỉnh điểm. Từ chỗ ngạc
nhiên khi người đàn bà ấy lại gọi bà bằng “u” đến chỗ Tràng nói “kìa nhà con nó chào u
đấy”. Đọc đến đây ta như cảm tưởng được cụ Tứ đang mắt tròn mắt dẹt nhìn người đàn bà
rồi lại nhìn con mình mà không hiểu. Và tai bà dường như không nghe thấy gì nữa. Một
cảm giác khó tả diễn ra trong người phụ nữ ấy. Thế rồi bà như vỡ lẽ ra mọi chuyện khi
Tràng nói thêm về tình cảnh này. Bà buồn bà giấu những giọt nước mắt của mình mà chấp
nhận. Tại sao vậy đáng ra nhà có hỉ thì phải vui mới đúng chứ thế mà ở đây bà lại khóc.
Không phải bà không thích có con dâu nhưng trong hoàn cảnh miếng ăn còn chưa lo được
thì lấy nhau về lại chỉ khổ thêm. Vì thế bà buồn bà thương con trai mình rồi nhìn người đàn
bà vân vê tà áo đã rách bợt cũng thấy thương cô ấy. Vậy nên bà nhắm mắt mà chấp nhận
“Thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”. Có thể nói sau cái
gật đầu kia là cả một nỗi lòng người mẹ, lo lắng cho con với cuộc sống sau nay. Bà thì thế
nào cũng được nhưng bà không muốn con của bà thì bà muốn nó được sống cho qua cái tao
đoạn này. Những cảnh tượng khói mờ mịt bên ngoài như nói thay cho tâm hồn của người mẹ ấy.
Khi bà đã vơi đi nỗi lòng ấy bà với trách nhiệm của người mẹ bà như khơi sáng cho con
mình những ý nghĩ tốt đẹp cho tương lai. Bà nói rằng không ai giàu ba họ không ai khó ba
đời cả vì thế chỉ cần qua cái tao đoạn này thì chính họ yên bề gia thất. Bà lấp đi trong chính
mình cái thực tại đen tối để rồi cùng con cái mình nghĩ về những chuyện tương lai.
Buổi sáng hôm sau với bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà dạy sớm cùng con dâu sửa
soạn lại căn nhà quét dọn sạch sẽ mong chờ những điều tốt đẹp sẽ đến. Và ta cũng cảm
thấy được những nét tâm trạng vui vẻ của bà khi thấy con mình hạnh phúc. Bữa cơm ấy bà
là người nói nhiều nhất dường như bà không thể nào giấu đi niềm vui trong lòng mình. Bà
nói với Tràng về việc chỗ kia sẽ làm một cái chuồng gà nuôi hai con gà để mỗi ngày nó đẻ
trứng ra ăn. Niêu cháo đơn sơ ấy chỉ vẻn vẹn có nồi cháo hoa lỏng thế nhưng mọi người ăn
rất ngon cũng như bà đang rất vui. Hết cháo bà quyết định mang nồi “chè khoán” lên đãi
các con. Thật ra thì đó là cám thế nhưng bà không muốn các con đói và bà cũng muốn níu
giữ cái không khí vui vẻ hạnh phúc ấy. Biết rằng Tràng và vợ thấy chát ở trong lòng nên bà
an ủi rằng nhiều người còn không có cám mà ăn. Vậy là người mẹ ấy với những phẩm chất
của mình đã đem đến cho các con những niềm yêu thương niềm tin vào tương lai.
Như vậy có thể nói bà cụ Tứ đã diễn ra những cung bậc cảm xúc từ cao đến thấp từ buồn
đến hạnh phúc vui tươi. Cuộc sống dẫu có vất vả đói nghèo cái chết tử thần thì lúc nào
cũng cận kề thế nhưng bà vẫn cưu mang lấy người đàn bà kia, yêu thương con trai và
hướng cho họ cái nhìn về một tương lai tốt đẹp hơn.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 6
Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú "phong lưu đồng ruộng".
"Nên vợ nên chồng" và "Con chó xấu xí" là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. "Vợ
nhặt" - một truyện ngắn độc đáo rút trong tập "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Truyện
thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về
hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Nhà văn kể vể
chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như ngả rạ. Trong
ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ - mẹ của Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.
Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng...
Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe
dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh "đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ
mọc lổn nhổn những búi cỏ dại". Sau tấm phên rách nát là những "niêu bát, xống áo vứt
bừa bãi cả trên giường dưới đất". Người mẹ già nghèo khổ "húng hắng ho" chẳng khác nào
một chiếc bóng "lọng khọng" đi vào ngõ. Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà
xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão "đứng sững lại", càng ngạc nhiên hơn.
Bà băn khoăn tự hỏi: "Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?".
Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình "nhoèn ra", ... rồi "lập cập" bước vào nhà. Lại nghe một
tiếng chào nữa, bà lão "băn khoăn" ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết!
Sau khi nghe Tràng "giới thiệu" người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân.
Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng,
bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng
cay đắng, chua xót: "Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy... vừa ai oán, vừa xót thương cho số
kiếp đứa con mình". Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn tủi. Tiếng than, tiếng thở
dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm
dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng:
"Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh
con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...".
Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được
cơn đói khát này không?". Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết
con. Bà sống với đứa con trai thô kệch "mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra" lại có tật vừa đi vừa
nói lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ
có câu: "Trẻ cậy cha, già cậy con". Bà mẹ càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số
phận, bà chợt nghĩ đến cái may của gia đình mình: Người có gặp bước khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được". Hạnh phúc đến với
tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo
khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Chẳng cần phải cưới cheo. Cũng chẳng tìm đâu ra
cỗ bàn để đón mừng người con dâu mới, cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn
bà xa lạ là "con" rồi xưng "u" một cách thân tình, ruột thịt: "Ừ! Thôi thì các con đã phải
duyên phải kiếp nhau, u cũng mừng lòng". Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm.
Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng vì từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh
phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.
Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp
giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: "...Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u
mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".
Bà nhắc con trai đủ chuyện, từ việc đan tấm liếp để che chắn gian buồng, đến chuyện làm
chuồng gà, chuyện làm ăn, chứa chan hi vọng.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng
đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già lúc thì ngạc
nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều
hi vọng về cuộc đời của con: "Rồi may ra ông trời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba
họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng về sau"...
Bữa cơm đón nàng dâu mới sau "tối tân hôn" của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tính
nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rối và một
nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa
ăn bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà gọi nồi cháo cám "đắng
chát" là "chè khoán" rối rít khen "ngon đáo để", ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và
nàng dâu: "Cám đấy mày ạ! Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám
mà ăn đấy!". Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm no, nhiều thịt cá
ngon lành, nhưng họ có bao giờ quên được mùi vị "đắng chát" của nồi cháo cám ấy. Vì
trong bát cháo cám ấy đã chứa đựng biết bao tình thương của mẹ già.
Mượn ngoại cảnh, sự việc để phó diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim
Lân trong việc khắc hoạ tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới
mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối
đi đã được hót sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm được đem ra phơi... Nhà cửa, sân ngõ
được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu giẫy cỏ... Cuộc đời của bà, của
con bà, gia đình bà đã bắt đầu đổi thay. Mặc dầu còn nhiều thử thách cam go. Tiếng quạ
kêu. Tiếng trống thúc thuế. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói.
Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng bà "không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc". Trên
cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu
có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ
già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới... để khẳng định niềm tin:
"Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...".
Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng.
Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào
dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.
Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng", Tố Hữu viết:
"Đời ta gương vỡ lại lành,
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa".
Cuộc đời mẹ con Tràng nhất định sẽ "đâm cành nở hoa". Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945,
hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận
được giá trị nhân đạo của truyện ngắn "Vợ nhặt" này. Giọt nước mắt, tiếng thở dài, nụ cười
của bà cụ Tứ khi nhận nàng dâu mới làm ta cảm động khi khép trang văn "Vợ nhặt" của
Kim Lân với nhiều bâng khuâng.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 7
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về người nông dân của nhà văn Kim
Lân. Bằng ngòi bút nhân đạo của mình, người nghệ sĩ ấy không chỉ khắc họa những hình
ảnh chân thực đến mức xót xa về người nông dân mà qua đó còn nói lên niềm cảm thương
sâu sắc trước số phận bấp bênh, khốn cùng của họ. Trong tác phẩm, cả ba nhân vật Tràng,
Thị và mẹ Tràng đều có những nỗi niềm riêng, những khổ tâm riêng, song sau tất thảy
trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những vẻ đẹp đáng được trân trọng. Nhân vật bà cụ Tứ- mẹ
Tràng là nhân vật có tâm lí diễn biến khá phức tạp được nhà văn diễn tả rất thành công.
Bà cụ Tứ trước hết là một người đàn bà, nghèo khổ, góa chồng, sống cùng con trai ở xóm
Ngụ Cư, cậu con trai tên Tràng, dù đã lớn những anh cu khá ngờ nghệch, lại xấu xí, thô
kệch. Hai mẹ con sống với nhau, cùng nhau trải qua những gian khổ của cuộc sống thiếu
thốn xã hội những năm 1945. Bà chưa bao giờ dám nghĩ anh cu Tràng con mình sẽ có vợ
dù lòng bà rất muốn có một người con dâu bởi bà biết con mình thế nào, hoàn cảnh của gia đình ra sao.
Khi anh cu Tràng dắt vợ về chờ đợi mẹ trong căn nhà rách nát ấy, lúc về tới nhà, thấy một
người đàn bà đang ngồi ở đầu giường của cậu con trai, bà rất ngạc nhiên. Và càng ngạc
nhiên hơn khi nghe tiếng chào mẹ từ miệng người đàn bà ấy. Anh cu Tràng biết mẹ chưa
hiểu chuyện gì đang xảy ra bền cất tiếng “ Kìa nhà tôi nó chào u….Nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ”. Tiếng nói ấy, lời khẳng định ấy được cậu con trai của bà thốt ra, bà
vẫn chưa thể tin được đây là sự thật, cố nhìn cho kĩ người đàn bà vẫn đang ngồi nơi đầu
giường: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì
phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang
nhìn con tỏ ý không hiểu”. Hóa ra con bà đã có vợ, một đứa vừa xấu, vừa nghèo như cu
Tràng lại có kẻ nhận theo về ư? Lòng bà vẫn chưa hết ngạc nhiên, còn đong đầy những câu
hỏi thắc mắc pha lẫn tò mò.
Khi dần hiểu ra mọi chuyện, biết Tràng nhặt được người đàn bà kia về làm vợ, bà chỉ biết
“cúi đầu nín lặng” mà thôi. Xót thương biết bao cho số kiếp của con trai bà, bà nhớ về
người chồng năm xưa của mình, nhớ về người con gái bà từng có những đã qua đời, bà
càng thương, càng tủi, càng xót xa. Là một người mẹ, bà thương con vô bờ, bà biết con trai
mình từ nay cũng đã yên bề gia thất, có mừng đấy chứ, nhưng mừng thì ít mà lắng lo thì
nhiều. Bà trách phận mình làm mẹ lại chẳng thể cho con lấy một ngày ấm êm, cũng chẳng
có gì lo cho con khi con lấy vợ. Bà cũng nặng lòng biết bao khi người chết vì đói thì nhiều,
mạng sống mỏng manh như sợi tóc treo ngàn cân, nhà thì thiếu thốn, khốn khó mà con trai
lại lấy vợ lúc này. Rồi bà khóc vì thương con, thương cô con dâu mới , hai đứa rồi sẽ ra sao,
có chăng vượt qua được kiếp nạn đọa đày này. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống
hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống
đây cho đỡ mỏi chân”. Làm sao có thể nói hết những yêu thương mà tấm lòng bà cụ dành
cho con, những lời dịu dàng, chân thành được thốt lên từ trái tim ấm áp và sâu tận tâm can
của người mẹ khiến ta không khỏi nghẹn lòng. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước
mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.
Là một người từng trải, bà hiểu được rằng nếu không có nạn đói xảy ra, chắc gì con mình
đa có vợ, đói khát thế, người ta mới tìm đến con mình. Dẫu vậy, thứ hạnh phúc nhỏ bé mà
anh Tràng có được vẫn mang đến cho bà, cho gia đình nhỏ sự ấm áp. Dù biết phía trước
còn những gập ghềnh, bà vẫn động viên con, khuyên lơn con. Bà dặn con phải sống yêu
thương, thuận hòa, đùm bọc san sẻ nhau vượt qua cơn hoạn nạn. Trong lời dặn dò ấy, chứa
chan cả một niềm tin rồi mai sẽ khác, rồi tương lai sẽ lại bình yên: “Rồi ra may mà ông
giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói
toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này".
Trong buổi sáng sau ngày cô con dâu về, bà cố gắng dậy thật sớm, nhổ sạch vườn cỏ trước
nhà, quét dọn lại nhà cửa, vườn tược. Hơn ai hết, bà xem công việc ấy như một sự yêu quý
và trân trọng của mình dành cho người con dâu mới đến, bà đón con trong niềm vui để con
đỡ tủi phận mà an lòng. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm
thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa sáng đầu tiên đã con dâu là một nồi cháo cám, dù là một
món ăn chát đắng những bà vẫn cố mỉm cười vui vẻ để động viên con. Đu nghèo khó đến
thế, nhưng trong bữa ăn của buổi sáng hôm ấy ta vẫn cảm nhận được không khí gia đình
đầy ấm áp, tình cảm mẹ con vẫn dạt dào.
Nhân vật bà cụ Tứ lấp lánh trong tác phẩm những đức tính cao đẹp của người phụ nữ,
người mẹ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, lòng nhân hậu, vị tha, tình thương yêu con vô bờ
bên và sự kiên cường trong ý chí. Trong gian nan, giữa ngàn sự chết chóc, trăm vạn mối lo
toan, bà vẫn lạc quan, vẫn không nuôi hy vọng và niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp.
Bằng cách kể chuyện hấp dẫn, sự thấu hiểu tâm lý, lòng người đã giúp nhà văn đi sâu vào
từng ngõ ngách tâm hồn của nhân vật, để khi đọc những trang văn viết nên từ ngòi bút ấy,
ta được sống với những cảm xúc cùng nhân vật để cùng hạnh phúc, cùng lo lắng, cùng
khóc, cùng cười. Thật cảm ơn Kim Lân đã dành cho những người nông dân lam lũ một tình
yêu thương vô bờ và bền chặt đến vậy.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 8
Đặt câu chuyện trong bóng tối của thời sự đói khát và chết chóc ấy, nhà văn đã thể hiện
cảm động tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và niềm khao khát hạnh phúc của những
người nghèo khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả phát hiện và tập trung xây dựng thành
công ở nhân vật bà cụ Tứ, mẹ của anh Tràng - người đã “nhặt” vợ.
Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ thương con như muôn ngàn người mẹ Viện Nam khác.
Nhưng người mẹ ấy được đặt trong một tình cảnh hết sức éo le. Đó là việc Tràng, con trai
của bà, giữa lúc nạn đói hoành hành lại lấy vợ. Nhưng dường như chính nghịch cảnh này
càng làm nổi rõ ánh sáng tâm hồn ở người mẹ đáng thương.
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện từ giữa truyện, lúc anh Tràng đưa vợ về, song từ
đấy, dù rất ít nói, bà vẫn là người thu hút nhiêu nhat tâm trí của người đọc. Bởi trong lòng
người mẹ ấy, cảm trăm mối tơ vò, chuyện nay, chuyện xưa đan xen lẫn lộn, niềm vui, nỗi
buồn, sự cay đắng tủi cực lẫn xót thương vây lấy.
1. Tâm trạng bà cụ Tứ lúc về nhà
Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối, bà cụ Tứ về nhà. Chưa thấy người, nhưng anh
Tràng biết là mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà
lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng
hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi với vào trong nhà: U đã về
đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có
chuyện gì rồi, mọi bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi với vào trong nữa. Trong nhà
nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con.
Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa
chịu nói, giục bà vào nhà.
Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết trong
nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và
càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đưng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà
lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà
lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà
nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người
nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu
Cái anh cu Tràng hôm nay thật lạ. Tự dưng khách sáo với mẹ, cứ buộc bà lão phải ngồi lên
giường lên chiếc ghế chĩnh chệnh rồi mới nói. Bà lập cập bước vào. Cái người đàn bà lạ ấy
tưởng mẹ Tràng già cả, điếc lác lên cất tiếng chào đến lần thứ hai. Hoá ra, bà không điếc,
bà mải băn khoăn vì người đàn bà ấy chào bà bằng u. Bà vẫn chưa hiểu vì sao lại thế. Đến
khi anh Tràng nói: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi u ạ! Thì bà hiểu rất nhanh. Đột ngột
quá! Bà cúi đầu nín lặng. Bà không chỉ hiểu chừng ấy. Trong lòng người mẹ nghèo ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của đứa con mình.
Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn con mình thì… Chỉ nghĩ đó, bà đã thấy biết bao lo
lắng, xót thương. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
2. Tâm trạng bà cụ Tứ với đôi vợ chồng son:
Vợ chồng anh cu Tràng nào biết nỗi lòng bà cụ Tứ . Trông cảnh của chúng, bà khẽ thở dài
rồi nhìn đăm đăm vào người đàn bà mà từ giờ phút này đã là con dâu. Bà nhìn thị và bà
nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con
mình mới có được vợ… Nghĩ thế, bà càng cay đắng cho thân phận của mình. Bà là mẹ, bà
đã chẳng lo được gì cho con… May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng
có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà la
cho hết được? Trong cái khổ, có cái may. Bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với
“nàng dâu mới”: một khi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, bà cũng mừng lòng.
Bà cụ Tứ còn dặn dò đôi vợ chồng trẻ: Nhà ta nghèo liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh
Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào
hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.
Nói với con dâu là thế, nhưng lòng bà cụ Tứ thật ngổn ngang. Bà đăm đăm nhìn ra sông.
Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió
thoảng vào két lẹt. Bà lão thở dài ra một hơi. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái
út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau,
cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không? Những câu hỏi lại bám lấy trong
đầu bà. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. Bà nói với con dâu, lẽ ra đám cưới
phải làm được dăm ba mâm, nhưng nhà mình nghèo quá. Chắc cũng chả ai người ta chấp
nhặt, chỉ mong vợ chồng hoà thuận là bà mừng. Nhưng lúc đói to thế này mà chúng mày
lấy nhau thì bà thương quá.
Ôi biết bao là buồn, vui, vay đắng, tủi cực cùng sự lo lắng, thương xót đang tràn ngập trong
lòng người mẹ nghèo khổ. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa. Bà không khóc mà nước
mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Nhưng bà đâu muốn để cho đôi vợ chồng son biết bà đang
buồn. Khi anh cụ Tràng đánh liềm đốt đèn, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên. Bà chủ
động nói vui: Có đèn à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên mà ạ.
Nói thế, rồi bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Bà đem cả cái tâm trạng ngổn
ngang sang chiếc giường cũ kỹ!
3. Tâm trạng bà cụ Tứ buổi sáng đầu tiên khi có nàng dâu mới.
Anh cu Tràng khi mặt trời lên bằng con sào, mới trở dậy, người êm ái lửng lơ như người từ
trong mơ đi ra. Nàng dâu mới có vẻ “biết điều”, dậy sớm hơn, quét lại sân. Chỉ có bà lão,
chắc đêm qua không ngủ được. Đầu hôm, bà nghĩ tới việc kiếm lấy ít nứa về đan cái phên
ngăn căn nhà ra. Chưa biết chừng nửa khuya bà đã dậy. Khi anh cu Tràng thức dậy, xung
quanh đã thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn đều được quét sạch sẽ gọn gàng…
Hai cái ang nước vẫn để khô ong ở dưới góc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung
hoàn ngay lối đi đã hót sạch. Bà cụ Tứ đang lúi húi giẫy những bụi cỏ dại mọc nham nhở ngoài vườn.
Thấy con trai đã dậy, bà cụ Tứ vội giục nàng dâu đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Sáng nay,
lòng bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của và rạng rỡ hẳn
lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa. Bà và cả đôi vợ chồng Tràng, hình như ai
nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời có thể khác đi,
làm ăn có cơ khấm khá hơn.
Bữa cơm sáng hôm nay cũng là bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Nhưng có điều lạ là
hôm nay, bạ cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà nói toàn chuyện vui,
chuyện sung sướng về sau này. Bà bàn tính với nàng dâu khi nào có tiền mua lấy đôi gà,
rồi ngoảnh đi ngoảng lại chẳng mấy chốc có một đàn gà cho mà xem. Vì thế chưa bao giờ
trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hoà hợp đến thế. Khi niêu cháo lõng bõng, mỗi người
được có lưng nửa bát đã hết nhẵn, bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi
khói bốc lên nghi ngút. Đấy là nồi cám, mỗi khi đưa vào miệng, đắng chát và nghẹn bứ
trong cổ, nhưng bà lão cho mọi người mà miệng tươi cười, đon đả nói, gọi là “chè khoán”
và khen ngon đáo để. Bà không muốn bữa ăn đang vui bỗng ngừng lại. Thực ra, lòng đau
lắm. Cả một nỗi tủi hờn đang len vào tâm trí bà.
Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những cây
gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên
nền trời như những đám mây đen, bà cụ Tú giải thích cho nàng dâu biết đấy là tiếng trống
thúc giục thuế. Đói khát như thế này, vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được.
Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là những giọt
nứoc mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà!
Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình
để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng
trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt
Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 9
Người mẹ Việt Nam luôn là một nguồn cảm hứng sáng tạo của văn chương. Không một thể
loại nào là không có các tác phẩm viết về mẹ. Trong các tác phẩm của nhà văn của Kim
Lân, người đọc chắc có lẽ không thể không bị ấn tượng bởi nhân vật bà cụ Tứ. Bà là một
người mẹ nghèo có tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương con người và có niềm tin vào tương lai.
Bà cụ Tứ là mẹ của anh cu Tràng. Trong tác phẩm, bà xuất hiện trước người đọc trong
bóng hoàng hôn tê tái, người mẹ nghèo khổ "húng hắng ho" chẳng khác nào một cái bóng
đi vào ngõ. Trước mái tranh đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
Nhà văn đặt nhân vật vào hoàn cảnh bất ngờ đó là việc đứa con trai đưa một người đàn bà
về nhà làm vợ vào giữa ngày đói khủng khiếp và cái chết đang rình rập gõ cửa từng nhà.
Viết về bà cụ Tứ nhà văn đi sâu vào phân tích tâm lý và tấm lòng nhân ái đáng quí đáng
trọng của bà đối với các con.
Cũng như mọi người trong xóm ngụ cư, lúc đầu bà rất ngạc nhiên và không thể hiểu nổi
điều gì xảy ra. Thấy Tràng ra đón từ ngoài ngõ lại reo lên như một đứa trẻ vồn vã khác
thường. Tâm trạng bà cụ Tứ trở nên phấp phỏng, có cái gì đấy bất thường đang chờ đợi bà.
Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn. Kim Lân đã chọn ngôn ngữ độc
thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng bà cụ: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?
Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng
u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Cho đến khi nghe Tràng phân trần cắt nghĩa,
bà cụ mới hiểu. Lòng bà ngổn ngang những lo âu, tủi cực, xót thương lẫn vui mừng. "Bà
lão cúi đầu nín lặng". Trong lòng bà đầy những ám ảnh của một dĩ vãng nặng trĩu những
đắng cay. Bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con Út, đến cuộc đời cơ cực dài dằng dặc của mình
mà thương, mà tủi cực xót xa: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong
nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…" Trong kẽ
mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt. Nạn đói đang đe dọa, con có vợ bà lo lắng thự
Từ xót xa, mặc cảm, lo lắng bà nghĩ tới cái may của gia đình. Bà xót thương người đàn bà
lạ. Lòng người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu cảnh ngộ người con gái xa lạ bỗng trở thành
con dâu của mình. "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con
mình. Mà con mình mới có vợ được.." Nghĩ thế bà vui trong lòng, cử chỉ của bà dịu dàng
âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" xưng hô "u" một cách chân tình: "Thôi thì các
con phải duyên kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Với bổn phận làm mẹ, bà ao ước có
được "dăm ba mâm" trước cúng tổ tiên sau mời làng xóm. Có thể nói bà là người suy nghĩ
trước sau song cái khó bó cái khôn, ao ước giản dị ấy không thể thực hiện vì quá nghèo.
Thương con, bà thương dâu. Bà dặn dò nàng dâu bằng những lời động viên an ủi "Nhà ta
thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho
khá. Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời? Có ra rồi con cái chúng mày về sau".
Bà lại động viên an ủi " cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy
nhau lúc này u thương quá".
Sáng hôm sau, con trai đã có vợ. Gia đình bà dường như đã thay đổi. Sáng hôm sau bà
cùng con dâu dậy sớm thu dọn, quét tước nhà cửa." Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh
khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Bữa cơm đãi nàng dâu
thật thảm hại. "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với
cháo". Bà đãi nàng dâu mới món "chè khoán" cháo cám. Nhưng bà toàn nói chuyện vui,
chuyện sung sướng sau này, bà dặn con trai. Mấy hôm nữa mua ít nứa về ngăn cho khỏi
trống, có tiền nuôi mấy con gà chẳng mấy chốc có cả đàn gà. Bà đem lại cho cá con niềm
tin cuộc sống mặc dù tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết.
Không khí ảm đạm vẫn bao trùm cuộc sống. Có thể nói trong bức tranh xã hội sáng hôm ấy,
bà cụ Tứ là một điểm sáng về đạo lý làm người. Người mẹ không ao ước cho mình mà luôn
sống vì con, cho con, cho lớp con cháu mai sau.
Nhân vật bà cụ Tứ tưởng như không thể có được nhất là trong hoàn cảnh gia đình bà, sự
tăm tối của xã hội. Ngọn lửa tình mẫu tử ấy cũng đã đủ nhóm lên giữ niềm tin hi vọng vào
tương lai tươi sáng. Nét đẹp và nhân hậu vốn có trong bà được tác giả diễn tả tinh tế qua
cách sử dụng ngôn ngữ chọn lọc trong diễn tả tâm lý nhân vật, góp phần khắc họa vẻ đẹp
tâm hồn của người mẹ nghèo Việt Nam.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 10
Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ - mẹ
của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu sắc hơn.
Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân muốn
khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm
thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy.
Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ đường như trở thành
người khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ
suốt đời những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã
tạo lên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà
dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm
tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp lại dáng hình
gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. Từ “lọng khọng”
đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nổi “phấp phỏng” trước sự
đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn
bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên.
Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu
giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai ihế nhỉ ? Sao lại chào mình
bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không
về một người vợ! Băn khoãn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa sót
thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta đựng
vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”. Đọc những dòng này,
ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn,
xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng
"nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được.
Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được …” Vừa mừng tủi, vừa
lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải qua cuộc đời cực nhọc, đớn đau:
“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo
trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo
nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba
đời?...". Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải - vừa lo lắng, vừa thương xót;
“...Năm nay thì đói to đây. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...” “ bà nghẹn lời
không nói được nữa...”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy thân
thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “ đám cưới ” đã xong.
Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay
thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng. Dần trong “một đám cưới”(Nam Cao).
Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khoả lấp sự “không có
nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo
trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ
khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời
nói...Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít. Bà khóc
“Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng
chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau - “toàn chuyện vui,
chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với các con những dự định cho tương lai...
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi phận
nghèo, thương con dâu đến nổi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi qua ihì đói
không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai..., tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi
bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một
cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo xa cho tương lai, lối nhìn
người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của người già: "...chẳng may ông
giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được? ”tưởng đọc lên ta
không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách
nói, cách nghĩ vừa lẫn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn.
Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi lại.
Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc
tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng
vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc đời cực
khổ dằng dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “liệu chúng nó
có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”.
Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế,
phong phú của tâm lý người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt,
phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài
tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời - những trang
đời thâm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nổi lo cho tương lai và rạng
rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ
không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con rung cảm sâu sắc trước
tâm, trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về về những
dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho sáng sủa...Dầu
bây giờ đắt gớm lên mày ạ...”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt
nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã
chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhoà lệ của người đọc, dòng “nước
mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét
hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt
lấp lánh lòng vị tha cao quý của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất,
là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả..
Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động “xăm
xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho đôi trẻ,
nào mua đôi gà... Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến
tương lai nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe khoắn của người
lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người
mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời
người trong sự chăm lo vun vén cho con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng đâu chỉ
dành cho tuổi trẻ - nó trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của những người mẹ
nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong,
dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi mà ngược lại
càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều...
Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng
mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà
lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà
bảo: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám hèn hạ
đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao?
Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự
tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.
Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa... Tội nghiệp thay niềm vui của bà lão - cái niềm
vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc
thuế dồn dập khiến niềm vui không thể trọn vẹn... “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà
khóc” còn người đọc thì nhìn thấy rõ những giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rõ những
giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng,
Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái lim người mẹ nông dân nghèo...
Qua "Vợ nhặt", Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo trong trận đói
khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết mình vì
con - người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau bà cụ Tứ, ta thấy thấp thoáng những Lão
Hạc, chị Dậu, mẹ Dần... những người sống tận lòng cho những người thân yêu của họ.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 11
Vợ nhặt là tác phẩm hoàn hảo của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt của dân chúng ta
trong nạn đói năm 1945. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “xóm ngụ cư” được
viết ngay sau cách mạng tháng tám nhưng dang dở. Sau lúc hòa bình lập lại (1954), Kim
Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. với tác phẩm vợ nhặt, Kim
Lân đã rất thành công trong việc đi sâu phân tách diễn biến tâm lí nhân vật, tiêu biểu là nhân vật bà cụ Tứ.
Nhân vật bà cụ Tứ được giới thiệu là 1 người mẹ nghèo khổ, sống cộng 1 đứa con trai chịu
rộng rãi thiệt thòi, cảnh ngộ của mẹ con bà thật đáng thương nhất là trong cảnh đói năm
1945. mẫu đói đã kéo tới xóm ngụ cư và vào đến tận trong nhà bà. loại nạn đói được tác giả
bộc lộ, trên trời từng đàn quạ đen rỉa xác người chết đói bay lên, gào lên từng hồi khẩn
thiết. Dưới đất bên các gốc đa gốc gạo xù xì, bóng các người đói chuyển động dật dờ như
những bóng ma. ko khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác rưởi và mùi gây của xác người, đa số
tạo nên 1 bầu ko khí ảm đạm tóc tang và thê lương. loại đói, loại chết len lách vào ngõ
ngách, gõ cửa từng nhà, đụng chạm tới từng người, cõi âm hòa mang cõi dương, cuộc sống
mấp mé bên bờ vực của chiếc chết. Giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát đó thì 1 việc hệ
trọng nhất của 1 đời người lại diễn ra 1 cách thức chóng vánh vội vàng, ấy là việc anh cu Tràng có vợ.
Con trai bà, anh cu Tràng được biết tới là 1 người xấu xí, đói nghèo, lại là dân cư ngụ, sống
trong tình cảnh đó chưa bao giờ anh nghĩ là mình sẽ lấy vợ và lấy được vợ. Nhưng, cũng
trong nạn đói tàn khốc đấy câu hò của anh như xua tan mệt mỏi, có cảm giác vui vui. có
chỉ vài ba câu đề cập tầm phơ mà Thị sẵn sàng theo không anh về làm vợ. Tình huống nhặt
vợ của anh cu Tràng làm cho cả xóm cư ngụ ngỡ ngàng, còn bà cụ Tứ thì khôn cùng sửng
sốt. Bà cụ kinh ngạc vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong.
Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm mồm ăn. khi bà cụ đi làm cho về muộn, thấy người đàn
bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng sửng sốt hơn khi được người đàn bà
chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “ “Kìa nhà tôi nó chào u”..”Nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ”. Bà sửng sốt đến mức không còn tin được vào mắt và tai mình : “Bà
lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự nhiên bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão
nhìn kĩ người nữ giới lẫn nữa, vẫn chưa nhìn thấy người nào. Bà lão quay sang nhìn còn tỏ
ý không hiểu”. lúc đã hiểu ra, bà lại xót thương cho số kiếp của con trai mình, bà liên
tưởng đến người chồng quá cố, tới đứa con gái đã tắt hơi, lòng bà nặng trĩu tủi buồn, xót xa.
Bà cụ Tứ mừng cho con trong khoảng này yên bề gia thất, tủi thân làm cho mẹ không lo
nổi vợ cho con. Giờ đây giữa khi người chết đói “như ngả rạ" lại mang người theo con trai
bà về làm cho vợ. cái tủi, mẫu buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo quẫn bách. Biết
lấy gì để cúng tiên sư, đế trình làng khi con đã với vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con với vợ,
khóc vì thương con dâu không biết khiến sao vượt qua nổi cạnh tranh này. Bà cụ xót xa
thương con dâu, thương con trai, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nhắc được nữa,
nước mắt cứ chảy xuống ròng rã ròng”. bao nhiêu lo âu bộn bề trong lòng.
Trong mẫu mừng, loại tủi, chiếc lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. một niềm
vui khổ thân không sao chứa cánh lên được, cứ bị mẫu buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng
bà cụ Tứ cố vui và gắng làm con, cho dâu vui. Bà cố nhắc toàn chuyện vui, nào là chuyện
vợ chồng dạy dỗ nhau khiến ăn, chuyện mai sau, chuyện con dòng, nhà cửa. Bà tin vào học
thuyết nhân sinh “người nào giàu ba họ, ai khó ba đời”, các lời kể của bà giữa hiện thực đói
khát thê thảm ấy là bí quyết để lấn áp bóng đêm bao trùm.
Qua việc khắc họa hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn thật tinh tế nhận ra được nét tâm lí
thân thuộc của người cao tuổi. Trong bế tắc, trong tuyến đường cùng họ thường kể đến
tương lai, tới các điều rẻ đẹp, do đó khi ánh đèn trong nhà bà được thắp lên thì bà cụ Tứ đã
lau nước mắt, bà tin vào một cuộc sống rẻ đẹp hơn lâu dài sẽ đến với con trai bà, gia đình bà và cả xóm cư ngụ.
Nhân vật bà cụ Tứ đã đem đến 1 luồng gió mới cho tác phẩm, khi nhắc tới bà người đọc sẽ
không thể quên 1 người mẹ ân cần, chu đáo, luôn hình dung các điều rẻ đẹp cho con mình,
một người luôn hướng tới 1 cuộc sống hạnh phúc, rẻ đẹp hơn sẽ đến ở 1 mai sau không xa.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 12
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại.
Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà
giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã
khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945 đồng thời khẳng định,
ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng đến tương lai của những
người dân lao động. Trong đó nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ rất sinh động, tinh
tế, là một người mẹ nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.
Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu
sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc
nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ
tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà
bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu
dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
Tác phẩm đã tái hiện lại bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do
thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Ông đặc tả chân dung người năm đói
"khuôn mặt hốc hác u tối", "Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội
chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma", và "bóng những
người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma". Trong không gian của thế giới ngổn
ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ "gào lên từng hồi thê thiết" cùng với "mùi gây của
xác người". Nhưng quan trọng hơn, bên cạnh mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là
mảng sáng của tình người, của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình.
Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong
bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia
đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Thể hiện sâu sắc cho tư tưởng ấy là
chân dung tính cách, tâm lý của bà cụ Tứ trước tình huống bất ngờ: con trai mình đột ngột có vợ.
Tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp, với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của
người già từng trải và nhân hậu. Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc
dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ.
Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn:
"Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu
giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai
thế nhỉ?" Rồi lại:"Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của
người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước
việc con trai yêu quý của mình có vợ.
Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão"cúi đầu nín lặng". Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi
niềm xót xa, lo, thương trộn lẫn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao:
"... chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Trong chữ "chúng
nó" người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp
nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng
nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà
mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi
khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con..., để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu
thương trong một câu nói giản dị:"chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá..." Trên ngổn
ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để
cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ... nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: "chè đây - Bà
lão múc ra một bát - chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Chữ "ngon"này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt.
Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần:
ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh
nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào,
tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất
người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn
lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã
với miếng cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ".
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân
đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương
lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ,
một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình
huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm
mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 13
Chủ đề người nông dân luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà văn Việt Nam. Nổi
bật trong đó ta không thể không kể tới Vợ Nhặt của tác giả Kim Lân. Trong những tháng
ngày đen tối vì nạn đói khủng khiếp, ta vẫn thấy được nhen nhóm hình ảnh một người mẹ
với tình yêu thương con thắp sáng cả tác phẩm, người mẹ ấy không ai khác chính là bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, góa chồng sống cùng con trai ở xóm ngụ cư. Bà
là một người phụ nữ hiền hậu, có tấm lòng yêu thương con tha thiết. Bà biết rõ hoàn cảnh
của con trai mình ngờ nghệch, xấu xí thô kệch nên chẳng có vợ. Hai mẹ con sống với nhau,
trải qua những gian khổ của cuộc sống thiếu thốn. Trong những năm 1945, bà rất muốn có
một người con dâu nhưng bà hiểu hoàn cảnh và hiểu con trai mình nên không dám nghĩ ngợi nhiều.
Khi bà phát hiện con trai mình đã có vợ, bà đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Một buổi chiều
khi anh cu Tràng dắt vợ về chờ đợi mẹ trong căn nhà rách nát. Khi về tới nhà, thấy một
người đàn bà đang ngồi ở đầu giường của cậu con trai mình. Bà ngạc nhiên và càng ngạc
nhiên hơn khi nghe tiếng chào mẹ từ người đàn bà ấy. Bà bất ngờ khi anh cu Tràng giới
thiệu: kìa nhà tôi nó chào u, nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ
Khi cậu con trai lên tiếng xác nhận, bà vẫn chưa tin được đây là sự thật. Cố nhìn cho kỹ
người đàn bà đang ngồi nơi đầu giường với cặp mắt hấp háy. Bà thấy mắt mình như nhòe
đi. Hóa ra con bà đã có vợ. Một đứa vừa xấu vừa nghèo như cu Tràng lại có kẻ theo về làm vợ.
Lòng bà chưa hết ngạc nhiên còn đong đầy những câu hỏi thắc mắc pha lẫn tò mò. Khi biết
được đầu đuôi câu chuyện bà đi từ ngạc nhiên, bất ngờ chuyển sang vừa vui vừa buồn. Bà
chỉ biết cúi đầu, bà xót thương biết bao cho số kiếp của con trai bà. Bà nhớ về người chồng
quá cố, nhớ về đứa con gái, nhớ về cuộc đời gian khổ của bà. Bà càng thương, càng tủi, càng xót xa.
Là một người mẹ, bà thương con vô bờ, bà biết con trai mình từ nay đã yên bề gia thất.
Nhưng mừng thì ít mà lo lắng thì nhiều. Bà than trách mình làm mẹ nhưng không có trách
nhiệm lo cho con một đám cưới đàng hoàng như người ta. Bà cũng nặng trĩu lòng khi nhìn
ngoài kia biết bao người chết đói, mạng sống mỏng manh nhà cửa thiếu thốn, giờ con trai lại lấy vợ lúc này.
Bà khóc vì thương con, thương người con dâu mới. Bà chẳng dám nghĩ đến tương lai hai
vợ chồng sẽ ra sao, có vượt qua được nạn đói lớn này. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ
xuống hai dòng nước mắt.
Nhưng gạt nước mắt sang một bên, bà động viên hai con. Bà là một người có tình yêu
thương con tha thiết. Những lời chân thành nói với nàng dâu được thốt ra từ trái tim ấm áp
của người mẹ, là một người từng trải và hiểu được rằng nếu không có nạn đói xảy ra thì
con mình làm gì đã có vợ, cùng cực lắm người ta mới tìm đến con mình. Dù biết trước phía
trước còn những chông gai bà vẫn động viên các con phải sống yêu thương, hòa thuận,
đùm bọc san sẻ với nhau để vượt qua cơn hoạn nạn.
Trong những ngày tối tăm của nạn đói 1945, bà vẫn nhen nhóm một tương lai tràn đầy hy
vọng phía trước. Bà cụ nói toàn chuyện vui chuyện sung sướng sau này. Trong khung
cảnh tối tăm cùng cực nhưng vẫn nhen nhóm lên trong lòng những người nông dân một
niềm tin về một xã hội đổi mới, về một tương lai hạnh phúc ấm no.
Trong buổi sáng đầu tiên khi cô con dâu về bà đã dậy thật sớm nhổ sạch vườn cỏ trước nhà,
quét dọn lại nhà cửa, vườn tược. Bà nghĩ rằng đó là sự khởi đầu mới và là sự trân trọng
dành cho người con dâu mới. Bà rạng rỡ hẳn lên, bà xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa.
Trong bữa sáng đầu tiên về nhà chồng, bà đã đãi con dâu mình một nồi cháo cám. Tuy một
món ăn đắng chát nhưng mà vẫn cố mỉm cười vui vẻ động viên các con.
Dù bữa ăn thật nghèo khó, nhưng chúng ta cảm nhận được một không khí ấm áp của tình
cảm gia đình. Bà cụ Tứ hiện lên với những đức tính cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Đó là sự đảm đang, lòng nhân hậu, vị tha với tình yêu thương con vô bờ bến. Trong khó
khăn hoạn nạn vẫn suy nghĩ về một tương lai tươi sáng.
Với cách kể chuyện hấp dẫn, tác giả đã xây dựng diễn biến tâm lý nhân vật phù hợp với
tiến trình câu chuyện. Qua đó làm nổi bật lên tính cách và tấm lòng của bà cụ Tứ.