Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân - Ngữ Văn 12
Xin gửi tới quý thày cô và bạn đọc bài văn mẫu "Phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân" hay nhất. Đây là tài liệu không thể thiếu đối với các bạn học sinh chuẩn bị thi cuối học kì 2 lớp 12 và thi THPT Quốc gia môn NGỮ VĂN. Hy vọng tài liệu trên giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!
Preview text:
Phân tích nhân vật bà cụ tứ
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 1
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm
1945 để diễn tả được cái đói có sức nặng như thế nào, nhưng ngụ ý của tác giả chính là
việc dựa trên nạn đói để lột tả tính cách “trong như ngọc sáng ngời” của những con người,
những mảnh đời lầm thân. Nhân vật bà cụ Tứ là một hình tượng điển hình cho người đàn
bà nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con đến vô bờ bến. Hẳn rằng người
đọc sẽ không bao giờ quên những lời mà Kim Lân đã dành cho bà.
Kim Lân rất khôn khéo khi lựa chọn thời điểm thích hợp để bà cụ Tứ xuất hiện, tại sao
không phải là đầu câu chuyện mà lại ở giữa câu chuyện. Tác giả muốn gợi lên cái nghèo
đói đến thê lương của xóm ngụ cư này, lấy nó làm nền, làm đòn bẩy để đi sâu vào phân
tích diễn biến tâm lý, nội tâm của người đàn bà này. Bà Tứ xuất hiện từ khi Tràng đưa vợ
về nhà, và diễn biến tâm lý của bà cụ thay đổi liên tục từ khi có một người đàn bà khác
xuất hiện trong ngôi nhà của mình.
Như những bà mẹ Việt Nam nghèo khổ khác trong thời kỳ cách mạng tháng tám, bà cụ Tứ
hiện lên là một người mẹ nghèo, bị cái đói làm cho cùng cực, suy nghĩ quá nhiều. Bà cụ Tứ
xuất hiện thật rõ nét qua lời kể tác giả “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà
vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ,
Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật
chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn”. Một bà cụ dáng dấp đã không còn
nhanh nhẹn, tháo vát nữa mà phải “lọng khọng” đi vào nhà gợi nên một thảm cảnh thê lương đến não lòng.
Đặc biệt sự thay đổi bất ngờ khi bà nhìn thấy người đàn bà lạ ngồi ngay giữa nhà mình “Bà
cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết trong
nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và
càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đứng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà
lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà
lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà
nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người
nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.”. Người mẹ nghèo một đời khốn khó như
vậy làm sao có thể không ngạc nhiên cho được khi bà đã hiểu ra cơ sự này. Bà thương
mình, thương con và thương cho người đàn bà lạ kia. Giữa cảnh chết choc như ngả rạ, nạn
đói hoành hành, cái ăn chẳng có, lại còn rước thêm người như thế này bà không lo, không buồn sao được.
Bà nghĩ đến cái cảnh người ta dựng vợ gả chồng cho con cái trong lúc ăn nên làm ra, đằng
này con trai bà lấy vợ trong cảnh bần hàn, thiếu thốn đủ đường thế này. Bà thương mình
bao nhiêu thì thương cho con gấp bội phần, bà cảm thấy tủi nhục khi không thể mang lại
ấm no và hạnh phúc cho đứa con trai tội nghiệp. Bà thương cho người đàn bà héo hon kia
cũng vì đói, vì không còn gì nên mới theo Tràng về làm vợ. Chao ôi những suy nghĩ của bà
cụ Tứ thật khiến người ta đau lòng, não nề, khiến người ta xót thương nhưng chẳng biết
cách nào có thể thương lấy bà, thương lấy những con người trong thời đại này.
Kim Lân đã rất thành công khi phác họa hình ảnh bà cụ Tứ đầy ám ảnh trong lòng người đọc đến như vậy.
Hơn hết diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ thay đổi rất đột ngột, nhưng sự thay đổi đó là tín
hiệu đáng mừng chứng tỏ rằng bà đã chấp nhận người vợ “nhặt” của đứa con, cũng giống
như việc chấp nhận sẽ gánh thêm cái khổ, cái đói, cái nghèo cùng với các con. Cái cách bà
cụ Tứ dặn dò đôi vợ chồng trẻ thật khiến con người ta cảm phục “ Nhà ta nghèo liệu mà
bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông
giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng
mày về sau.”. Sự ân tình, chu đáo của người mẹ nghèo khiến đôi vợ chồng trẻ cảm động,
không biết nói gì hơn, bà đã chấp nhận “người vợ mới” của đứa con, chấp nhận cả cái đói
nghèo mà gia đình bà mang.
Bà ân tình với con dâu, nói cho con dâu yên lòng rằng nhà nghèo, nếu có thì làm dăm ba
mâm nhưng nhà mình nghèo nên động viên con dâu có gắng. Chi tiết này đã cho thấy sự
đồng cảm giữa một người phụ nữ nghèo với một người phụ nữ nghèo. Sự gắn kết này sẽ
mang lại một hơi ấm và sức sống cho gia đình sau này.
Ôi chao, cái đói nghèo hoành hành, con người không lo sao được. Thương cho bà cụ Tứ,
thương cho người đàn bà nghèo và thương cho những người sống trong cảnh khốn đốn đó.
Hình ảnh “nôi cháo cám” sau đêm tân hôn của con mà người mẹ này mang đến thực sự
khiến chúng ta cảm động đến rơi nước mắt. Nồi cháo cám ấy không còn nguyên giá trị thực
như nó vẫn mang, nó là hiện thân của tình yêu thương con vô bờ bến, đức hi sinh lớn lao
của người mẹ nghèo dành cho những đứa con. Nồi cháo cám là chi tiết cực kỳ đắt giá của
câu chuyện, nhân phẩm và lòng vị tha, yêu thương của bà cụ Tứ cũng từ chi tiết này mà
được nhân lên gấp bội, gấp vạn lần.
Hẳn người đọc sẽ không bao giờ quên đi hình ảnh bà cụ Tứ gắn với nồi cháo cám ở cuối
truyện, bà kể toàn chuyện vui cho các con nghe với hi vọng có một tương lai đỡ khổ, đỡ
nhọc nhằn hơn. Một tình yêu đáng ngưỡng mộ trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Hiện thực
dường như không thể đánh gục được tình yêu thương giữa con người với con người với nhau.
Bằng bút pháp khắc họa diễn biến tâm lý sâu sắc, Kim Lân đã để lại trong lòng người đọc
những dư âm khó phai về hình ảnh bà cụ Tứ nghèo đó nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương
đáng ngưỡng mộ. Bà cụ Tứ là hiện thân của những gì cao đẹp nhất của một con người, một nhân cách.
Diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ (mẹ Tràng) mẫu 2
+ Lúc đầu bà cụ không ngờ con mình lấy vợ nên không hiểu người đàn bà ở trong nhà
mình là ai vì bà cụ nghĩ tình cảnh con mình khó lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói khủng
khiếp này. Dạo đầu của chuỗi tâm trạng ấy là 1 loạt những câu hỏi đầy vẻ ngạc nhiên, thắc mắc:
>>> Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối. Chưa thấy người, nhưng anh Tràng biết là
mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi
vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác,
thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi ới vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai
lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi
bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi ới vào trong nữa. Trong nhà nào có ai. Lâu nay,
khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai
con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: "Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà."
"Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con mình thế kia?" "ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?".
>>> Phải, làm sao bà ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói
mỏi, nhà lại nghèo mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến với bà quá
nhanh. Chính bởi tình huống hết sức đặc biệt này của câu chuyện "vợ nhặt", mọi diễn biến
nội tại đã được đẩy lên đến cao trào, trở thành 1 sợi chỉ xuyên suốt làm cho mạch tp đi theo
1 chiều hướng rất logic của tâm lý nhân vật.
Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức:
"không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa". "Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự
dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa
nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu".
+ Khi biết con mình “nhặt” được vợ thì lòng bà mẹ nghèo khổ hiểu ra: buồn, lo, tùi cực, ai
oán, xót thương… Tâm trạng cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ
thông qua lời xác nhận của con trai: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ..."
>>>Lúc ấy tâm trạng của người mẹ lại bước sang 1 trang khác, hứa hẹn nhiều biến động
hơn và tinh tế hơn. Kim Lân đã không tả thêm nữa những suy nghĩ, những căn vặn trong
tâm não của nhân vật, hay những động thái tâm lý phức tạp khác, mà chỉ đơn giản là 1 cái
"cúi đầu nín lặng". Không chỉ là câu trần thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng rưng tấm
lòng hoà cảm đầy ân tình của Kim Lân. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong cái im lặng cúi
đầu ấy. Cái im lặng tủi phận. Cái im lặng cam chịu. Cái im lặng xót xa.
+ Càng nghĩ càng thương con mình, thương cả con dâu: “dù sao người ta chịu lấy con mình thì cũng đáng quí”
>>> Bà thương thầm cho cái số kiếp của đứa con trai độc nhất. Vì người mẹ ấy giờ đây ý
thức rõ hơn vợ chồng Tràng rất nhiều về cái nghịch cảnh quá éo le, nghiệt ngã của cuộc
hôn nhân này. Chừng ấy năm sống trên đời mách bảo bà lão 1 điều rằng: mối duyên kiếp
trớ trêu kia hình như không nên có.
3. Tấm lòng người mẹ quê nghèo trước hạnh phúc bất ngờ của con trai bà.
+ Bà Tứ tự trách mình: làm mẹ đã không lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ thì cũng mừng,
bà thấy có trách nhiệm với hai vợ chồng mới.
"Chao ôi! người ta dựng vơ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong
sinh con đẻ cái mở mặt sau này - còn mình thì..."
>>> Bao nhiêu ngập ngừng, tủi cực, chua xót dồn nén sau chữ "thì" vô vọng ấy. Bà xót xa
vì không thể làm tròn bổn phận của người mẹ: ko lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây,
giữa lúc người chết đói "như ngả rạ", lại có người theo con trai mình về làm vợ. Người mẹ
bị dồn vào cảnh túng quẫn, khó xử, không biết lấy gì cúng tổ tiên, trình làng khi con đã có vợ.
>>> Cái buồn, cái tủi lại chan đầy nước mắt, và bà đâm khóc vì thương con, thương dâu ko
biết làm sao đây để vượt qua cơn khốn khó này:
"Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống 2 hàng nước mắt",
>>> Kim Lân như 1 nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình
chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim 1 đời
vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra 2 dòng nước mắt khô héo.
"Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không".
>>> Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm
cõi đang rung lên đau đớn, xót xa như xát muối.
>>> Bà thương con, tủi phận để rồi lại thương dâu: mắt "đăm đăm nhìn người đàn bà"
>>> Như để nhận mặt người đồng hành khốn trong cuộc đời khổ nghèo, bà thấy người con
dâu đứng đấy, tay "vân vê tà áo đã rách bợt". Và cũng từ đó đã thức dậy trong bà lão bao ý
nghĩ nhân đạo và một sự hàm ơn:
"Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con
mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con..."
>>> Câu văn thật cảm động! Nó vừa nhoi nhói 1 tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa
như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước 1 sự việc đã rồi, lại vừa rưng rưng, xao xuyến 1
niềm vui. Những lời độc thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ, vừa khắc
khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung cảm xót xa
trong trái tim nhân đạo của Kim Lân. Ta cũng thấy tim ta thổn thức cùng với những trăn
trở bình dị mà xiết bao ân tình.
+ Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: "kể có ra làm được
dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo... lấy nhau lúc này u thương quá....".
>>> "Lúc này" ở đây chính là thời điểm năm 1945 - cái mốc in dấu 1 nạn đói khủng khiếp
đã đi vào lịch sử: "hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói" (Tuyên ngôn độc lập), câu nói ấy vẫn
còn vang lên như 1 chứng tích tội ác của thực dân Pháp, không khí quê hương "vẩn lên 1
mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người", "dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì,
bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma". Ấy vậy mà, "như bèo gặp nước",
vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ. Thử hỏi
sao lòng người mẹ ko đau đáu. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở
hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng
trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm...
+ Bà cụ cố nén nỗi buồn, nỗi lo động viên con tin ở sự sống và tương lai: “… tươi tỉnh
khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”
>>> Đẹp biết bao 2 tiếng "mừng lòng" của bà lão nói với các con. Chữ "mừng" thật là đắc
địa, có vẻ như ko đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lột tả đúng cái thần thái của 1
tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót
thương vì sợ phiền lòng cho chính người mình đang thương xót.
+ Những hành động của bà: dọn dẹp nhà cửa, động viên vợ chồng mới bằng những chuyện
vui, chuyện tương lai sáng sủa: "Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên 1 tí cho sáng sủa...Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ".
>>> Người mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình
thương của mình an ủi các con. Nỗi lo sợ ngày mai mãi chỉ là 1 niềm riêng không chia sẻ.
Bới trái tim người mẹ ấy hiền hậu nhân từ lắm.
+ Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng
như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân".
>>> Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng - nàng dâu?
+ Niềm ao ước thiết tha về 1 ngày mai sáng sủa hơn cho con của bà mẹ nghèo: "Rồi may
ông giời cho khá....ai giàu ba họ, ai khó ba đời..."
>>> Lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của 1 bà mẹ nông dân từng
trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững
vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết. Câu nói ấy chỉ có thể
thốt lên từ 1 tấm lòng cao cả, tràn ngập tình thương.
+ Bà vui trong công việc "sửa sang nhà cửa vườn tược".
>>> Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường,
"cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên".
+ Bà đã chủ động tạo nên niềm vui đó trong ngày đầu tiên gia đình đón chào 1 nàng dâu
mới: bà dậy từ rất sớm, "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn".
>>> Bởi bà hiểu rằng, bắt đầu từ hôm nay đã đánh dấu 1 bước ngoặt trong cuộc đời các
con mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và bà cảm thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các con.
+ Bà đã đon đả lo chu tất, chuẩn bị bữa cơm đón dâu, nhưng "cái bữa cơm ngày đói thật
thảm hại" lại chỉ là 1 bữa "tiệc" với món cháo loãng và món "chè khoán" đắng chat
>>> Nhưng bà vẫn cố tạo ra 1 không khí ấm cúng, vui vẻ để động viên, làm giảm bớt nỗi thất vọng cho các con.
+ Dù cuộc sống này có khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo, đầy đoạ mẹ con bà, bà vẫn nói
toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, chuyện nuôi đôi gà cho nó sinh sôi nảy nở thành đàn gà con...
>>> Người mẹ già ấy vẫn nghĩ đến cái sống, nghĩ đến ánh sáng của ngày mai ngay bên bờ
vực thẳm của cái chết. Hình ảnh đàn gà sinh sôi trong bữa cơm ngày đói đã nói lên sức
sống kì diệu của người lao động.
+ Nhưng xúc động nhất là nồi cháo cám mà bà đã cố tình giấu con trai, con dâu cho đến
phút cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui vẻ khi bà "lễ mễ bưng
nồi cháo cám nghi ngút khói" lên nhà, tươi cười đon đả múc cho các con rồi mời mọc:
"cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ ăn thử mà xem".
>>> Nhưng ta biết, bên trong cái vẻ tươi tỉnh niềm nở ấy, lòng mẹ đang quặn thắt. Cái món
mà bà cụ Tứ gọi là "chè khoán" ấy hoá ra lại là cám, gọi như vậy để cho các con bớt tủi
thân, lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi.
>>> Bà muốn con được no đủ, hạnh phúc trong 1 việc làm mà bà cố gắng tạo nên dẫu biết
rằng đó chỉ là ảo giác, sau đó thực tại sẽ lại trở về nguyên bản, bẽ bàng và chua chát.
Dường như bà có ý xua tan đi không khí ảm đạm, cố che đậy, vùi đi thực cảnh thê lương.
Nhưng thật tội nghiệp cho bà lão, tội nghiệp thay cho cái niềm vui bé nhỏ chới với giữa 1
bể bi luỵ, khi mà màu sắc của hiện tại phải được trả về đúng nghĩa của nó.
+ "Bà ko dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".
Một lần nữa, người mẹ lại nuốt đắng cay vào trong. Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi
trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt
hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, bà
cụ Tứ giải thích cho nàng dâu biết đấy là tiếng trống thúc giục thuế. Đói khát như thế này,
vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được. Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám
để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là những giọt nước mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà.
Những giọt nước mắt lại rơi. Những giọt nước mắt ám ảnh ấy.... III. Kết bài:
Ý nghĩa nhân vật Bà cụ Tứ, ý đồ của tác giả khi tạo hình nhân vật này.
Bà cụ Tứ xuất hiện trong Vợ nhặt của Kim Lân có một đêm và non buổi sáng hôm sau.
Chừng ấy thời gian vừa đủ cho một người ngủ dậy muôn. Nhưng đối với người mẹ nghèo
khổ kia, quả là rất dài. Chừng ấy thời gian, song ở bà, có biết bao buồn vui, mừng tủi, cay
đắng, âu lo, lẫn hy vọng. Người mẹ ấy đã sống trọn tất cả đời sống bên trong của một người con.
Nhân vật bà cụ Tứ đã cho ta hiểu bao điều về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ
dành cho con. Bà chính là là linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tình mẫu tử, là hình
tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt Nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân
ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát
khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con. Người mẹ già
ấy phải chăng chính là ánh sáng của cả thiên truyện, lặng thầm đằng sau bóng tối bi thảm
của những kiếp đời nghèo khổ. Ánh sáng ấy làm cho câu chuyện anh Tràng nhặt vợ trở nên
thấm thía cảm động hơn, nâng truyện ngắn "Vợ nhặt" lên tầm cao, mang chiều sâu của 1
truyện ngắn "hiện thực - nhân bản".
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 3
Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân
cũng có tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và
con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một nhà văn chân chất vốn là đứa con
của đồng ruộng. Trong bối cảnh của nạn đói năm 1945, Kim Lân viết truyện ngắn Vợ nhặt.
Tác phẩm là một đóng góp xuất sắc cho nền văn xuôi dân tộc. Với một cốt truyện đơn giản
nhưng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Vợ nhặt đề cập đến một vấn đề lớn có tính
hiện thực và nhân đạo sâu sắc; những con người Việt Nam lương thiện, trong tai họa đói
kém khủng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng,
trông chờ vào sức mạnh giải phóng của cách mạng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc với
tác phẩm có lẽ là tấm lòng đáng quý của mẹ con Tràng và cũng là tâm lòng thật đáng quý
của nhà văn đối với những người lao động nghèo khổ.
Anh Tràng có vợ trong một hoàn cảnh không bình thường. Không phải anh Tràng cưới vợ,
cũng không phải là lấy vợ theo nghĩa thông thường mà là "nhặt vợ", nói như người miền
Trung và miền Nam là "lượm vợ" ở ngoài đường. Nhưng việc làm đó lại có ý nghĩa nhân ái
của một lấm lòng nhân hậu. Thấy người đàn bà đói quá anh sẵn sàng cho ăn dù chẳng dư
dật gì. Thấy người đàn bà quyết tâm theo mình, dù cũng sợ cho tương lai, anh vẫn không
nỡ nào từ chối. Tràng dắt vợ về nhà trong một tâm trạng vừa lo lắng bâng quơ và sung
sướng một cách mới mẻ, lạ lẫm...
Nhân vật thứ hai của câu truyện, bà cụ Tứ, mẹ Tràng không được tác giả nói đến nhiều
nhưng qua những nét đặc tả và tâm lý tính cách rất chân thật sinh động, nhân vật đã tạo
được một sự cảm thông sâu sắc với người đọc. Cũng như Tràng, người mẹ khốn khổ, già
yếu sống trong một xóm ngụ cư vất vưởng ấy một người đàn bà nhân hậu.
Vừa về đến nhà, thấy một người đàn lạ, bà cụ Tứ "đứng sững lại" hết sức ngạc nhiên, "thế
là thế nào". Bà không thể tin rằng con mình lấy vợ trong hoàn cảnh này. Nhưng khi hiểu ra
cớ sự, "bà lão cúi đầu nín lặng", bà hờn tủi xót thương cho số kiếp của đứa con mình và
cho thân phận của mình. "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này
không?". Rồi bà cảm thấy khổ tâm, nghèo quá lấy gì để ra mắt bạn bè lối xóm. "Kể có ra
làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà quá nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt
chi cái úc này... chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá". Và nỗi khổ tâm đau xót ấy cô
đọng lại, biến thành những "dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng" thật tội nghiệp. Trong
truyện ngắn Một đám cưới của Nam Cao cảnh đời đã khổ (phải rước dâu vào ban đêm để
mọi người khỏi thấy cô dâu rách rưới, nhờ có đám cưới con, cha mẹ mới được một bữa ăn
no), ở chuyện này, cái khổ nhiều hơn gấp bội. Bữa ăn đầu tiên của gia đình thay cho đám
cưới là một bữa "chè cám".
Đem một người đàn bà xa lạ về làm vợ trong một hoàn cảnh như vậy, mẹ nghĩ thế nào?
Tràng lo lắm chứ. Khi biết mẹ đồng ý trước một sự việc đã rồi "Tràng thở phào một cái,
ngực nhẹ hẳn đi". Bởi người mẹ ấy có quyền không đồng tình, có quyền trách mắng Tràng.
Nhưng vì thương con bà cụ cũng thương dâu. Bà hiểu ra rằng dù sao người ta chịu lấy con
mình cũng là điều đáng quý. Với những người già cả, trong môi trường xã hội phong kiến
khắt khe, không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Bà "nghĩ đến cuộc đời cơ cực khổ
dài dằng dặc của mình" rồi nhìn đứa con dâu cũng cực khổ như mình "lòng đầy thươg xót".
Trong không khí ngại ngùng, lúng túng của mọi người, bà đã có thái độ tế nhị, quan tâm đầy nhân hậu.
Bà nói đỡ cho cô dâu còn xấu hổ: "Con ngồi xuống đáy, ngồi xuống đây cho đỡ mỗi chân".
Bà lưu tâm ý tứ đến tình cảm riêng tư của con: "Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan
cái phên mà ngăn ra mày ạ".
Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng quý. Không lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ thì bà
cũng mừng và thấy phải có trách nhiệm với nó. Bà cố nén nỗi buồn, nỗi lo, động viên con
tin ở sự sống và tương lai bằng việc làm chăm sóc của mình. Bà cùng cô dâu mới sửa sang
dọn dẹp lại nhà cửa, động viên nhau bằng những chuyện vui, chuyện tương lai sáng sủa:
Khi nào có tiền mua lấy đôi gà...này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho
mà xem". Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ dường như cũng được
đổi khác, bà "cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thương, cái mặt bủng beo u ám của bà
rạng rỡ hẳn lên". Từ thái độ bao dung ấy, hạnh phúc đơn sơ nhưng tấm lòng đã đến với mọi
người. Nhân vật bà cụ Tứ đã mang được một ý nghĩa khái quát lớn: ở thời đại nào, hoàn
cảnh nào tâm trạng của những bà mẹ nghèo cũng thật tội nghiệp, họ hiểu con, thương con,
lo lắng cho con nhưng vì nghèo khổ họ phải chịu đắng cay, chua xót.
Với một cốt truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dựng tinh tế, truyện ngắn
Vợ nhặt của Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề có tính nhân bản sâu sắc. Con người
lao động dù ở tình huống bi thảm đến đâu vẫn khao khát hạnh phúc và họ chí tìm thấy khi
biết cưu mang giúp đỡ lẫn nhau. Cảm động biết bao, dưới cái nhìn nhân ái của nhà văn,
những con người khốn khổ ấy đã có thể tìm thấy những hạnh phúc, dù nhỏ nhoi trong cuộc đời.
Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của những tác phẩm hiện thực phê phán
của Nam Cao, Tô Hoài từ trước Cách mạng tháng Tám. Cảnh đời cũng vẫn là tối tăm, ngột
ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Và chắc
chắn cuộc đời sẽ được đổi khác, hình ảnh cuối cùng của tác phẩm "lá cờ đỏ bay phất phới" thể hiện niềm tin đó.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 4
Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà
tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của
Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài
xác xơ vì đói khổ của nhân vật.
Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), cụ Tứ, mẹ
Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng di thể hiện nổi bật nội dung
nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả rất
thành công trạng thái tâm lí đó
1. Sự ngạc nhiên đến sững sờ
- Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình lấy vợ. Bà cụ
ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân
chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy
người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được
người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”..”Nhà tôi nó
mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được vào mắt và tai
mình : “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì
phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang
nhìn con tỏ ý không hiểu”. 2. Vừa mừng vừa tủi
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên tưởng
đến bao cơ sự “oái ăm” “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng
đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con.
Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ" lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái
tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, đế
trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu
không biết làm sao vượt qua nổi khó khăn này.
“Trong kẽ mất kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc
này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng
lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu
thương chân thành tha thiết của ngưòi mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
- Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói được
nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng. 3. Nỗi lo
Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa
lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao... Bà chấp nhận cái “hạnh
phúc” oái oãm éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn,
đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”. Bà chỉ biết
khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận với nhau để cùng vượt qua cơn
khốn khó. Đó là nỗi lo, nổi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm
đối với mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin. 4. Niềm tin
- Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. Một niềm vui
tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ
Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ
ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn
chuyện sung sướng sau này".
+ Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn. “Cái mặt
bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”.
+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu liên có con dâu đó là một bữa “tiệc với món cháo
loãng và món “chè khoái” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo
ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
- Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt, ngặi nghèo đến tàn bạo đã đầy đoạ mẹ con bà. Bà vẫn cố
tạo không khí hoà thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà... tươi cười
đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối
hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông
lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của mình, đến cái “đói to” trước mắt.
Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.
Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” '"bà vẫn nung nấu một
ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu
biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung
nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút nhân đạo
của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi
sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 5
Những người mẹ luôn là người đem lại tình thương yêu lớn nhất, tình yêu bao la ấy có thể
vượt qua những khó khăn, những thiếu thốn vật chất để mang lại một cuộc sống an lành
hạnh phúc cho nhau. Trong nền văn học Việt Nam biết bao nhiêu nhà văn xây dựng được
hình tượng người mẹ như thế. Nếu như Nguyễn Minh Châu xây dựng người mẹ đầy đức hi
sinh là người đàn bà hàng chài thì Kim Lân lại xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ
trong truyện ngắn Vợ Nhặt. Ngoài những phẩm chất của bà thì nhà văn đi vào miêu tả diễn
biến tâm lý nhân vật này. Để từ đó chúng ta càng thấy được những hi sinh, những nỗi niềm
thương con vô bờ bến của bà.
Cụ Tứ là một người đã có tuổi, chồng thì đã mất con gái tên Đục thì đã đi lấy chồng bà
sống với con trai tên là Tràng. Hai mẹ con bà xuất hiện trong nền cảnh của nạn đói năm
1945. Có thể nói chính hoàn cảnh khó khăn ấy càng làm nổi bật lên diễn biến tâm lý và
phẩm chất của bà. Bà vẫn còn phải ra ngoài kiếm đồng rau cái muối, vẫn biết bao nhiêu
nắng mưa, gánh nặng đổ lên đầu và trong buổi chiều hôm ấy bà bất ngờ trước hành động
của con trai mình. Diễn biến tâm lý cũng bắt đầu từ đó.
Cụ về đến đầu cổng, cái ho thúng thắng của tuổi già cất lên, cụ thấy bất ngờ khi Tràng tỏ ra
vui mừng đến thế. Sau câu nói cất lên “U đã về rồi đấy à” cùng với tâm trạng và hành động
của Tràng linh cảm của một bà mẹ như giúp bà nhận ra rằng có một điều gì đó bất bình
thường. Chính vì thế cụ Tứ lo lắng lắm và cứ thế tâm lý của cụ càng ngày càng diễn biến
đến tầm cao hơn. Từ lo lắng bất thường cụ ngạc nhiên khi thấy sao lại có người đàn bà nào
ngồi đầu giường thằng con trai mình thế kia. Những câu hỏi liên tiếp được cất lên cho thấy
tâm trạng bối rối của người mẹ. Bà chưa biết là ai nhưng linh cảm cho bà thấy một điều bất
thường và cuối cùng thì nó đã đến.
Bước chân của cụ Tứ bước vào đến nhà cũng là tâm lý đạt tới đỉnh điểm. Từ chỗ ngạc
nhiên khi người đàn bà ấy lại gọi bà bằng “u” đến chỗ Tràng nói “kìa nhà con nó chào u
đấy”. Đọc đến đây ta như cảm tưởng được cụ Tứ đang mắt tròn mắt dẹt nhìn người đàn bà
rồi lại nhìn con mình mà không hiểu. Và tai bà dường như không nghe thấy gì nữa. Một
cảm giác khó tả diễn ra trong người phụ nữ ấy. Thế rồi bà như vỡ lẽ ra mọi chuyện khi
Tràng nói thêm về tình cảnh này. Bà buồn bà giấu những giọt nước mắt của mình mà chấp
nhận. Tại sao vậy đáng ra nhà có hỉ thì phải vui mới đúng chứ thế mà ở đây bà lại khóc.
Không phải bà không thích có con dâu nhưng trong hoàn cảnh miếng ăn còn chưa lo được
thì lấy nhau về lại chỉ khổ thêm. Vì thế bà buồn bà thương con trai mình rồi nhìn người đàn
bà vân vê tà áo đã rách bợt cũng thấy thương cô ấy. Vậy nên bà nhắm mắt mà chấp nhận
“Thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”. Có thể nói sau cái
gật đầu kia là cả một nỗi lòng người mẹ, lo lắng cho con với cuộc sống sau nay. Bà thì thế
nào cũng được nhưng bà không muốn con của bà thì bà muốn nó được sống cho qua cái tao
đoạn này. Những cảnh tượng khói mờ mịt bên ngoài như nói thay cho tâm hồn của người mẹ ấy.
Khi bà đã vơi đi nỗi lòng ấy bà với trách nhiệm của người mẹ bà như khơi sáng cho con
mình những ý nghĩ tốt đẹp cho tương lai. Bà nói rằng không ai giàu ba họ không ai khó ba
đời cả vì thế chỉ cần qua cái tao đoạn này thì chính họ yên bề gia thất. Bà lấp đi trong chính
mình cái thực tại đen tối để rồi cùng con cái mình nghĩ về những chuyện tương lai.
Buổi sáng hôm sau với bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà dạy sớm cùng con dâu sửa
soạn lại căn nhà quét dọn sạch sẽ mong chờ những điều tốt đẹp sẽ đến. Và ta cũng cảm
thấy được những nét tâm trạng vui vẻ của bà khi thấy con mình hạnh phúc. Bữa cơm ấy bà
là người nói nhiều nhất dường như bà không thể nào giấu đi niềm vui trong lòng mình. Bà
nói với Tràng về việc chỗ kia sẽ làm một cái chuồng gà nuôi hai con gà để mỗi ngày nó đẻ
trứng ra ăn. Niêu cháo đơn sơ ấy chỉ vẻn vẹn có nồi cháo hoa lỏng thế nhưng mọi người ăn
rất ngon cũng như bà đang rất vui. Hết cháo bà quyết định mang nồi “chè khoán” lên đãi
các con. Thật ra thì đó là cám thế nhưng bà không muốn các con đói và bà cũng muốn níu
giữ cái không khí vui vẻ hạnh phúc ấy. Biết rằng Tràng và vợ thấy chát ở trong lòng nên bà
an ủi rằng nhiều người còn không có cám mà ăn. Vậy là người mẹ ấy với những phẩm chất
của mình đã đem đến cho các con những niềm yêu thương niềm tin vào tương lai.
Như vậy có thể nói bà cụ Tứ đã diễn ra những cung bậc cảm xúc từ cao đến thấp từ buồn
đến hạnh phúc vui tươi. Cuộc sống dẫu có vất vả đói nghèo cái chết tử thần thì lúc nào
cũng cận kề thế nhưng bà vẫn cưu mang lấy người đàn bà kia, yêu thương con trai và
hướng cho họ cái nhìn về một tương lai tốt đẹp hơn.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 6
Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú "phong lưu đồng ruộng".
"Nên vợ nên chồng" và "Con chó xấu xí" là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. "Vợ
nhặt" - một truyện ngắn độc đáo rút trong tập "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Truyện
thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về
hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Nhà văn kể vể
chuyện anh cu Tràng "nhặt" được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như ngả rạ. Trong
ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ - mẹ của Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.
Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng...
Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe
dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh "đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ
mọc lổn nhổn những búi cỏ dại". Sau tấm phên rách nát là những "niêu bát, xống áo vứt
bừa bãi cả trên giường dưới đất". Người mẹ già nghèo khổ "húng hắng ho" chẳng khác nào
một chiếc bóng "lọng khọng" đi vào ngõ. Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà
xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão "đứng sững lại", càng ngạc nhiên hơn.
Bà băn khoăn tự hỏi: "Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?".
Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình "nhoèn ra", ... rồi "lập cập" bước vào nhà. Lại nghe một
tiếng chào nữa, bà lão "băn khoăn" ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết!
Sau khi nghe Tràng "giới thiệu" người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân.
Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiều đau khổ, mất mát, cay đắng,
bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng
cay đắng, chua xót: "Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy... vừa ai oán, vừa xót thương cho số
kiếp đứa con mình". Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn tủi. Tiếng than, tiếng thở
dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm
dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng:
"Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng con lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh
con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì...".
Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: "Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được
cơn đói khát này không?". Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết
con. Bà sống với đứa con trai thô kệch "mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra" lại có tật vừa đi vừa
nói lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ
có câu: "Trẻ cậy cha, già cậy con". Bà mẹ càng thấy buồn, lo vô hạn. Tuy mặc cảm cho số
phận, bà chợt nghĩ đến cái may của gia đình mình: Người có gặp bước khó khăn, đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được". Hạnh phúc đến với
tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo
khổ. Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Chẳng cần phải cưới cheo. Cũng chẳng tìm đâu ra
cỗ bàn để đón mừng người con dâu mới, cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn
bà xa lạ là "con" rồi xưng "u" một cách thân tình, ruột thịt: "Ừ! Thôi thì các con đã phải
duyên phải kiếp nhau, u cũng mừng lòng". Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm.
Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng vì từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh
phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.
Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp
giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: "...Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u
mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".
Bà nhắc con trai đủ chuyện, từ việc đan tấm liếp để che chắn gian buồng, đến chuyện làm
chuồng gà, chuyện làm ăn, chứa chan hi vọng.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng
đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già lúc thì ngạc
nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều
hi vọng về cuộc đời của con: "Rồi may ra ông trời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba
họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng về sau"...
Bữa cơm đón nàng dâu mới sau "tối tân hôn" của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tính
nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rối và một
nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui. Trong bữa
ăn bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này. Bà gọi nồi cháo cám "đắng
chát" là "chè khoán" rối rít khen "ngon đáo để", ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và
nàng dâu: "Cám đấy mày ạ! Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám
mà ăn đấy!". Sau này, vợ chồng con cái Tràng có thể có những bữa cơm no, nhiều thịt cá
ngon lành, nhưng họ có bao giờ quên được mùi vị "đắng chát" của nồi cháo cám ấy. Vì
trong bát cháo cám ấy đã chứa đựng biết bao tình thương của mẹ già.
Mượn ngoại cảnh, sự việc để phó diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim
Lân trong việc khắc hoạ tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới
mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối
đi đã được hót sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm được đem ra phơi... Nhà cửa, sân ngõ
được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu giẫy cỏ... Cuộc đời của bà, của
con bà, gia đình bà đã bắt đầu đổi thay. Mặc dầu còn nhiều thử thách cam go. Tiếng quạ
kêu. Tiếng trống thúc thuế. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói.
Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng bà "không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc". Trên
cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu
có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ
già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới... để khẳng định niềm tin:
"Ai giàu ba họ, ai khó ba đời...".
Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng.
Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào
dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.
Trong bài thơ "Ba mươi năm đời ta có Đảng", Tố Hữu viết:
"Đời ta gương vỡ lại lành,
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa".
Cuộc đời mẹ con Tràng nhất định sẽ "đâm cành nở hoa". Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945,
hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận
được giá trị nhân đạo của truyện ngắn "Vợ nhặt" này. Giọt nước mắt, tiếng thở dài, nụ cười
của bà cụ Tứ khi nhận nàng dâu mới làm ta cảm động khi khép trang văn "Vợ nhặt" của
Kim Lân với nhiều bâng khuâng.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 7
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về người nông dân của nhà văn Kim
Lân. Bằng ngòi bút nhân đạo của mình, người nghệ sĩ ấy không chỉ khắc họa những hình
ảnh chân thực đến mức xót xa về người nông dân mà qua đó còn nói lên niềm cảm thương
sâu sắc trước số phận bấp bênh, khốn cùng của họ. Trong tác phẩm, cả ba nhân vật Tràng,
Thị và mẹ Tràng đều có những nỗi niềm riêng, những khổ tâm riêng, song sau tất thảy
trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những vẻ đẹp đáng được trân trọng. Nhân vật bà cụ Tứ- mẹ
Tràng là nhân vật có tâm lí diễn biến khá phức tạp được nhà văn diễn tả rất thành công.
Bà cụ Tứ trước hết là một người đàn bà, nghèo khổ, góa chồng, sống cùng con trai ở xóm
Ngụ Cư, cậu con trai tên Tràng, dù đã lớn những anh cu khá ngờ nghệch, lại xấu xí, thô
kệch. Hai mẹ con sống với nhau, cùng nhau trải qua những gian khổ của cuộc sống thiếu
thốn xã hội những năm 1945. Bà chưa bao giờ dám nghĩ anh cu Tràng con mình sẽ có vợ
dù lòng bà rất muốn có một người con dâu bởi bà biết con mình thế nào, hoàn cảnh của gia đình ra sao.
Khi anh cu Tràng dắt vợ về chờ đợi mẹ trong căn nhà rách nát ấy, lúc về tới nhà, thấy một
người đàn bà đang ngồi ở đầu giường của cậu con trai, bà rất ngạc nhiên. Và càng ngạc
nhiên hơn khi nghe tiếng chào mẹ từ miệng người đàn bà ấy. Anh cu Tràng biết mẹ chưa
hiểu chuyện gì đang xảy ra bền cất tiếng “ Kìa nhà tôi nó chào u….Nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ”. Tiếng nói ấy, lời khẳng định ấy được cậu con trai của bà thốt ra, bà
vẫn chưa thể tin được đây là sự thật, cố nhìn cho kĩ người đàn bà vẫn đang ngồi nơi đầu
giường: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì
phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang
nhìn con tỏ ý không hiểu”. Hóa ra con bà đã có vợ, một đứa vừa xấu, vừa nghèo như cu
Tràng lại có kẻ nhận theo về ư? Lòng bà vẫn chưa hết ngạc nhiên, còn đong đầy những câu
hỏi thắc mắc pha lẫn tò mò.
Khi dần hiểu ra mọi chuyện, biết Tràng nhặt được người đàn bà kia về làm vợ, bà chỉ biết
“cúi đầu nín lặng” mà thôi. Xót thương biết bao cho số kiếp của con trai bà, bà nhớ về
người chồng năm xưa của mình, nhớ về người con gái bà từng có những đã qua đời, bà
càng thương, càng tủi, càng xót xa. Là một người mẹ, bà thương con vô bờ, bà biết con trai
mình từ nay cũng đã yên bề gia thất, có mừng đấy chứ, nhưng mừng thì ít mà lắng lo thì
nhiều. Bà trách phận mình làm mẹ lại chẳng thể cho con lấy một ngày ấm êm, cũng chẳng
có gì lo cho con khi con lấy vợ. Bà cũng nặng lòng biết bao khi người chết vì đói thì nhiều,
mạng sống mỏng manh như sợi tóc treo ngàn cân, nhà thì thiếu thốn, khốn khó mà con trai
lại lấy vợ lúc này. Rồi bà khóc vì thương con, thương cô con dâu mới , hai đứa rồi sẽ ra sao,
có chăng vượt qua được kiếp nạn đọa đày này. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống
hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống
đây cho đỡ mỏi chân”. Làm sao có thể nói hết những yêu thương mà tấm lòng bà cụ dành
cho con, những lời dịu dàng, chân thành được thốt lên từ trái tim ấm áp và sâu tận tâm can
của người mẹ khiến ta không khỏi nghẹn lòng. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước
mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.
Là một người từng trải, bà hiểu được rằng nếu không có nạn đói xảy ra, chắc gì con mình
đa có vợ, đói khát thế, người ta mới tìm đến con mình. Dẫu vậy, thứ hạnh phúc nhỏ bé mà
anh Tràng có được vẫn mang đến cho bà, cho gia đình nhỏ sự ấm áp. Dù biết phía trước
còn những gập ghềnh, bà vẫn động viên con, khuyên lơn con. Bà dặn con phải sống yêu
thương, thuận hòa, đùm bọc san sẻ nhau vượt qua cơn hoạn nạn. Trong lời dặn dò ấy, chứa
chan cả một niềm tin rồi mai sẽ khác, rồi tương lai sẽ lại bình yên: “Rồi ra may mà ông
giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói
toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này".
Trong buổi sáng sau ngày cô con dâu về, bà cố gắng dậy thật sớm, nhổ sạch vườn cỏ trước
nhà, quét dọn lại nhà cửa, vườn tược. Hơn ai hết, bà xem công việc ấy như một sự yêu quý
và trân trọng của mình dành cho người con dâu mới đến, bà đón con trong niềm vui để con
đỡ tủi phận mà an lòng. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm
thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa sáng đầu tiên đã con dâu là một nồi cháo cám, dù là một
món ăn chát đắng những bà vẫn cố mỉm cười vui vẻ để động viên con. Đu nghèo khó đến
thế, nhưng trong bữa ăn của buổi sáng hôm ấy ta vẫn cảm nhận được không khí gia đình
đầy ấm áp, tình cảm mẹ con vẫn dạt dào.
Nhân vật bà cụ Tứ lấp lánh trong tác phẩm những đức tính cao đẹp của người phụ nữ,
người mẹ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, lòng nhân hậu, vị tha, tình thương yêu con vô bờ
bên và sự kiên cường trong ý chí. Trong gian nan, giữa ngàn sự chết chóc, trăm vạn mối lo
toan, bà vẫn lạc quan, vẫn không nuôi hy vọng và niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp.
Bằng cách kể chuyện hấp dẫn, sự thấu hiểu tâm lý, lòng người đã giúp nhà văn đi sâu vào
từng ngõ ngách tâm hồn của nhân vật, để khi đọc những trang văn viết nên từ ngòi bút ấy,
ta được sống với những cảm xúc cùng nhân vật để cùng hạnh phúc, cùng lo lắng, cùng
khóc, cùng cười. Thật cảm ơn Kim Lân đã dành cho những người nông dân lam lũ một tình
yêu thương vô bờ và bền chặt đến vậy.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 8
Đặt câu chuyện trong bóng tối của thời sự đói khát và chết chóc ấy, nhà văn đã thể hiện
cảm động tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và niềm khao khát hạnh phúc của những
người nghèo khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả phát hiện và tập trung xây dựng thành
công ở nhân vật bà cụ Tứ, mẹ của anh Tràng - người đã “nhặt” vợ.
Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ thương con như muôn ngàn người mẹ Viện Nam khác.
Nhưng người mẹ ấy được đặt trong một tình cảnh hết sức éo le. Đó là việc Tràng, con trai
của bà, giữa lúc nạn đói hoành hành lại lấy vợ. Nhưng dường như chính nghịch cảnh này
càng làm nổi rõ ánh sáng tâm hồn ở người mẹ đáng thương.
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện từ giữa truyện, lúc anh Tràng đưa vợ về, song từ
đấy, dù rất ít nói, bà vẫn là người thu hút nhiêu nhat tâm trí của người đọc. Bởi trong lòng
người mẹ ấy, cảm trăm mối tơ vò, chuyện nay, chuyện xưa đan xen lẫn lộn, niềm vui, nỗi
buồn, sự cay đắng tủi cực lẫn xót thương vây lấy.
1. Tâm trạng bà cụ Tứ lúc về nhà
Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối, bà cụ Tứ về nhà. Chưa thấy người, nhưng anh
Tràng biết là mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà
lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng
hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi với vào trong nhà: U đã về
đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn. Ồ, hẳn có
chuyện gì rồi, mọi bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi với vào trong nữa. Trong nhà
nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con.
Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa
chịu nói, giục bà vào nhà.
Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết trong
nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và
càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy
nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đưng ngay đầu giường thằng con
mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.. Ai thế nhỉ? Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà
lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà
lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà
nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người
nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu
Cái anh cu Tràng hôm nay thật lạ. Tự dưng khách sáo với mẹ, cứ buộc bà lão phải ngồi lên
giường lên chiếc ghế chĩnh chệnh rồi mới nói. Bà lập cập bước vào. Cái người đàn bà lạ ấy
tưởng mẹ Tràng già cả, điếc lác lên cất tiếng chào đến lần thứ hai. Hoá ra, bà không điếc,
bà mải băn khoăn vì người đàn bà ấy chào bà bằng u. Bà vẫn chưa hiểu vì sao lại thế. Đến
khi anh Tràng nói: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi u ạ! Thì bà hiểu rất nhanh. Đột ngột
quá! Bà cúi đầu nín lặng. Bà không chỉ hiểu chừng ấy. Trong lòng người mẹ nghèo ấy còn
hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của đứa con mình.
Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong
sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn con mình thì… Chỉ nghĩ đó, bà đã thấy biết bao lo
lắng, xót thương. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng
chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
2. Tâm trạng bà cụ Tứ với đôi vợ chồng son:
Vợ chồng anh cu Tràng nào biết nỗi lòng bà cụ Tứ . Trông cảnh của chúng, bà khẽ thở dài
rồi nhìn đăm đăm vào người đàn bà mà từ giờ phút này đã là con dâu. Bà nhìn thị và bà
nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con
mình mới có được vợ… Nghĩ thế, bà càng cay đắng cho thân phận của mình. Bà là mẹ, bà
đã chẳng lo được gì cho con… May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng
có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà la
cho hết được? Trong cái khổ, có cái may. Bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với
“nàng dâu mới”: một khi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, bà cũng mừng lòng.
Bà cụ Tứ còn dặn dò đôi vợ chồng trẻ: Nhà ta nghèo liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh
Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào
hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.
Nói với con dâu là thế, nhưng lòng bà cụ Tứ thật ngổn ngang. Bà đăm đăm nhìn ra sông.
Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió
thoảng vào két lẹt. Bà lão thở dài ra một hơi. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái
út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau,
cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không? Những câu hỏi lại bám lấy trong
đầu bà. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. Bà nói với con dâu, lẽ ra đám cưới
phải làm được dăm ba mâm, nhưng nhà mình nghèo quá. Chắc cũng chả ai người ta chấp
nhặt, chỉ mong vợ chồng hoà thuận là bà mừng. Nhưng lúc đói to thế này mà chúng mày
lấy nhau thì bà thương quá.
Ôi biết bao là buồn, vui, vay đắng, tủi cực cùng sự lo lắng, thương xót đang tràn ngập trong
lòng người mẹ nghèo khổ. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa. Bà không khóc mà nước
mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Nhưng bà đâu muốn để cho đôi vợ chồng son biết bà đang
buồn. Khi anh cụ Tràng đánh liềm đốt đèn, bà lão vội vàng lau nước mắt ngửng lên. Bà chủ
động nói vui: Có đèn à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên mà ạ.
Nói thế, rồi bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Bà đem cả cái tâm trạng ngổn
ngang sang chiếc giường cũ kỹ!
3. Tâm trạng bà cụ Tứ buổi sáng đầu tiên khi có nàng dâu mới.
Anh cu Tràng khi mặt trời lên bằng con sào, mới trở dậy, người êm ái lửng lơ như người từ
trong mơ đi ra. Nàng dâu mới có vẻ “biết điều”, dậy sớm hơn, quét lại sân. Chỉ có bà lão,
chắc đêm qua không ngủ được. Đầu hôm, bà nghĩ tới việc kiếm lấy ít nứa về đan cái phên
ngăn căn nhà ra. Chưa biết chừng nửa khuya bà đã dậy. Khi anh cu Tràng thức dậy, xung
quanh đã thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn đều được quét sạch sẽ gọn gàng…
Hai cái ang nước vẫn để khô ong ở dưới góc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung
hoàn ngay lối đi đã hót sạch. Bà cụ Tứ đang lúi húi giẫy những bụi cỏ dại mọc nham nhở ngoài vườn.
Thấy con trai đã dậy, bà cụ Tứ vội giục nàng dâu đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Sáng nay,
lòng bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của và rạng rỡ hẳn
lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa. Bà và cả đôi vợ chồng Tràng, hình như ai
nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời có thể khác đi,
làm ăn có cơ khấm khá hơn.
Bữa cơm sáng hôm nay cũng là bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Nhưng có điều lạ là
hôm nay, bạ cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà nói toàn chuyện vui,
chuyện sung sướng về sau này. Bà bàn tính với nàng dâu khi nào có tiền mua lấy đôi gà,
rồi ngoảnh đi ngoảng lại chẳng mấy chốc có một đàn gà cho mà xem. Vì thế chưa bao giờ
trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hoà hợp đến thế. Khi niêu cháo lõng bõng, mỗi người
được có lưng nửa bát đã hết nhẵn, bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi
khói bốc lên nghi ngút. Đấy là nồi cám, mỗi khi đưa vào miệng, đắng chát và nghẹn bứ
trong cổ, nhưng bà lão cho mọi người mà miệng tươi cười, đon đả nói, gọi là “chè khoán”
và khen ngon đáo để. Bà không muốn bữa ăn đang vui bỗng ngừng lại. Thực ra, lòng đau
lắm. Cả một nỗi tủi hờn đang len vào tâm trí bà.
Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những cây
gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên
nền trời như những đám mây đen, bà cụ Tú giải thích cho nàng dâu biết đấy là tiếng trống
thúc giục thuế. Đói khát như thế này, vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được.
Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là những giọt
nứoc mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà!
Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình
để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng
trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt
Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 9
Người mẹ Việt Nam luôn là một nguồn cảm hứng sáng tạo của văn chương. Không một thể
loại nào là không có các tác phẩm viết về mẹ. Trong các tác phẩm của nhà văn của Kim
Lân, người đọc chắc có lẽ không thể không bị ấn tượng bởi nhân vật bà cụ Tứ. Bà là một
người mẹ nghèo có tấm lòng nhân hậu, tình yêu thương con người và có niềm tin vào tương lai.
Bà cụ Tứ là mẹ của anh cu Tràng. Trong tác phẩm, bà xuất hiện trước người đọc trong
bóng hoàng hôn tê tái, người mẹ nghèo khổ "húng hắng ho" chẳng khác nào một cái bóng
đi vào ngõ. Trước mái tranh đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.
Nhà văn đặt nhân vật vào hoàn cảnh bất ngờ đó là việc đứa con trai đưa một người đàn bà
về nhà làm vợ vào giữa ngày đói khủng khiếp và cái chết đang rình rập gõ cửa từng nhà.
Viết về bà cụ Tứ nhà văn đi sâu vào phân tích tâm lý và tấm lòng nhân ái đáng quí đáng
trọng của bà đối với các con.
Cũng như mọi người trong xóm ngụ cư, lúc đầu bà rất ngạc nhiên và không thể hiểu nổi
điều gì xảy ra. Thấy Tràng ra đón từ ngoài ngõ lại reo lên như một đứa trẻ vồn vã khác
thường. Tâm trạng bà cụ Tứ trở nên phấp phỏng, có cái gì đấy bất thường đang chờ đợi bà.
Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn. Kim Lân đã chọn ngôn ngữ độc
thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng bà cụ: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?
Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng
u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Cho đến khi nghe Tràng phân trần cắt nghĩa,
bà cụ mới hiểu. Lòng bà ngổn ngang những lo âu, tủi cực, xót thương lẫn vui mừng. "Bà
lão cúi đầu nín lặng". Trong lòng bà đầy những ám ảnh của một dĩ vãng nặng trĩu những
đắng cay. Bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con Út, đến cuộc đời cơ cực dài dằng dặc của mình
mà thương, mà tủi cực xót xa: "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong
nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…" Trong kẽ
mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt. Nạn đói đang đe dọa, con có vợ bà lo lắng thự
Từ xót xa, mặc cảm, lo lắng bà nghĩ tới cái may của gia đình. Bà xót thương người đàn bà
lạ. Lòng người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu cảnh ngộ người con gái xa lạ bỗng trở thành
con dâu của mình. "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con
mình. Mà con mình mới có vợ được.." Nghĩ thế bà vui trong lòng, cử chỉ của bà dịu dàng
âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là "con" xưng hô "u" một cách chân tình: "Thôi thì các
con phải duyên kiếp với nhau u cũng mừng lòng". Với bổn phận làm mẹ, bà ao ước có
được "dăm ba mâm" trước cúng tổ tiên sau mời làng xóm. Có thể nói bà là người suy nghĩ
trước sau song cái khó bó cái khôn, ao ước giản dị ấy không thể thực hiện vì quá nghèo.
Thương con, bà thương dâu. Bà dặn dò nàng dâu bằng những lời động viên an ủi "Nhà ta
thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông trời cho
khá. Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời? Có ra rồi con cái chúng mày về sau".
Bà lại động viên an ủi " cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy
nhau lúc này u thương quá".
Sáng hôm sau, con trai đã có vợ. Gia đình bà dường như đã thay đổi. Sáng hôm sau bà
cùng con dâu dậy sớm thu dọn, quét tước nhà cửa." Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh
khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên". Bữa cơm đãi nàng dâu
thật thảm hại. "Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với
cháo". Bà đãi nàng dâu mới món "chè khoán" cháo cám. Nhưng bà toàn nói chuyện vui,
chuyện sung sướng sau này, bà dặn con trai. Mấy hôm nữa mua ít nứa về ngăn cho khỏi
trống, có tiền nuôi mấy con gà chẳng mấy chốc có cả đàn gà. Bà đem lại cho cá con niềm
tin cuộc sống mặc dù tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết.
Không khí ảm đạm vẫn bao trùm cuộc sống. Có thể nói trong bức tranh xã hội sáng hôm ấy,
bà cụ Tứ là một điểm sáng về đạo lý làm người. Người mẹ không ao ước cho mình mà luôn
sống vì con, cho con, cho lớp con cháu mai sau.
Nhân vật bà cụ Tứ tưởng như không thể có được nhất là trong hoàn cảnh gia đình bà, sự
tăm tối của xã hội. Ngọn lửa tình mẫu tử ấy cũng đã đủ nhóm lên giữ niềm tin hi vọng vào
tương lai tươi sáng. Nét đẹp và nhân hậu vốn có trong bà được tác giả diễn tả tinh tế qua
cách sử dụng ngôn ngữ chọn lọc trong diễn tả tâm lý nhân vật, góp phần khắc họa vẻ đẹp
tâm hồn của người mẹ nghèo Việt Nam.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 10
Không phải là nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của tác phẩm nhưng bà cụ Tứ - mẹ
của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm sâu sắc hơn.
Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân muốn
khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm
thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy.
Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, chị vợ và người mẹ đường như trở thành
người khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ
suốt đời những buồn đau, lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã
tạo lên một phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.
Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà
dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm
tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Ta gặp lại dáng hình
gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. Từ “lọng khọng”
đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nổi “phấp phỏng” trước sự
đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn
bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên.
Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu
giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai ihế nhỉ ? Sao lại chào mình
bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không
về một người vợ! Băn khoãn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa sót
thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta đựng
vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”. Đọc những dòng này,
ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn,
xót xa. Việc trọng đại trong đời con, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng
"nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được.
Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ
này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được …” Vừa mừng tủi, vừa
lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải qua cuộc đời cực nhọc, đớn đau:
“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo
trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo
nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba
đời?...". Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải - vừa lo lắng, vừa thương xót;
“...Năm nay thì đói to đây. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...” “ bà nghẹn lời
không nói được nữa...”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy thân
thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “ đám cưới ” đã xong.
Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay
thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng. Dần trong “một đám cưới”(Nam Cao).
Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khoả lấp sự “không có
nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo
trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ
khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời
nói...Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc này chỉ nói rất ít. Bà khóc
“Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng
chân thật của bà. Bà dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau - “toàn chuyện vui,
chuyện sung sướng về sau này”, bà say sưa với các con những dự định cho tương lai...
Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng, “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi phận
nghèo, thương con dâu đến nổi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi qua ihì đói
không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai..., tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi
bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một
cách tài tình trong từng suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo xa cho tương lai, lối nhìn
người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của người già: "...chẳng may ông
giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được? ”tưởng đọc lên ta
không thể không chắc chắn đó là lời của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách
nói, cách nghĩ vừa lẫn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn.
Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi lại.
Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc
tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng
vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc đời cực
khổ dằng dặc của mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “liệu chúng nó
có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”.
Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế,
phong phú của tâm lý người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt,
phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài
tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời - những trang
đời thâm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nổi lo cho tương lai và rạng
rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ
không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con rung cảm sâu sắc trước
tâm, trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ.
Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về về những
dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho sáng sủa...Dầu
bây giờ đắt gớm lên mày ạ...”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt
nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã
chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhoà lệ của người đọc, dòng “nước
mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét
hơn bao giờ hết. Những giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt
lấp lánh lòng vị tha cao quý của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất,
là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả..
Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động “xăm
xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho đôi trẻ,
nào mua đôi gà... Để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến
tương lai nhiều hơn tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lí lạc quan khỏe khoắn của người
lao động, đó là cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của người
mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời
người trong sự chăm lo vun vén cho con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng đâu chỉ
dành cho tuổi trẻ - nó trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của những người mẹ
nghèo như bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong,
dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi mà ngược lại
càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, thấm thía bao điều...
Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc, khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng
mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, vui vẻ khi bà
lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà
bảo: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám hèn hạ
đành rồi, nhưng tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao?
Dường như bà cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự
tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.
Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa... Tội nghiệp thay niềm vui của bà lão - cái niềm
vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc
thuế dồn dập khiến niềm vui không thể trọn vẹn... “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà
khóc” còn người đọc thì nhìn thấy rõ những giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rõ những
giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng,
Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái lim người mẹ nông dân nghèo...
Qua "Vợ nhặt", Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo trong trận đói
khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết mình vì
con - người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau bà cụ Tứ, ta thấy thấp thoáng những Lão
Hạc, chị Dậu, mẹ Dần... những người sống tận lòng cho những người thân yêu của họ.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 11
Vợ nhặt là tác phẩm hoàn hảo của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt của dân chúng ta
trong nạn đói năm 1945. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “xóm ngụ cư” được
viết ngay sau cách mạng tháng tám nhưng dang dở. Sau lúc hòa bình lập lại (1954), Kim
Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này. với tác phẩm vợ nhặt, Kim
Lân đã rất thành công trong việc đi sâu phân tách diễn biến tâm lí nhân vật, tiêu biểu là nhân vật bà cụ Tứ.
Nhân vật bà cụ Tứ được giới thiệu là 1 người mẹ nghèo khổ, sống cộng 1 đứa con trai chịu
rộng rãi thiệt thòi, cảnh ngộ của mẹ con bà thật đáng thương nhất là trong cảnh đói năm
1945. mẫu đói đã kéo tới xóm ngụ cư và vào đến tận trong nhà bà. loại nạn đói được tác giả
bộc lộ, trên trời từng đàn quạ đen rỉa xác người chết đói bay lên, gào lên từng hồi khẩn
thiết. Dưới đất bên các gốc đa gốc gạo xù xì, bóng các người đói chuyển động dật dờ như
những bóng ma. ko khí vẩn lên mùi ẩm mốc của rác rưởi và mùi gây của xác người, đa số
tạo nên 1 bầu ko khí ảm đạm tóc tang và thê lương. loại đói, loại chết len lách vào ngõ
ngách, gõ cửa từng nhà, đụng chạm tới từng người, cõi âm hòa mang cõi dương, cuộc sống
mấp mé bên bờ vực của chiếc chết. Giữa bối cảnh tối sầm lại vì đói khát đó thì 1 việc hệ
trọng nhất của 1 đời người lại diễn ra 1 cách thức chóng vánh vội vàng, ấy là việc anh cu Tràng có vợ.
Con trai bà, anh cu Tràng được biết tới là 1 người xấu xí, đói nghèo, lại là dân cư ngụ, sống
trong tình cảnh đó chưa bao giờ anh nghĩ là mình sẽ lấy vợ và lấy được vợ. Nhưng, cũng
trong nạn đói tàn khốc đấy câu hò của anh như xua tan mệt mỏi, có cảm giác vui vui. có
chỉ vài ba câu đề cập tầm phơ mà Thị sẵn sàng theo không anh về làm vợ. Tình huống nhặt
vợ của anh cu Tràng làm cho cả xóm cư ngụ ngỡ ngàng, còn bà cụ Tứ thì khôn cùng sửng
sốt. Bà cụ kinh ngạc vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong.
Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm mồm ăn. khi bà cụ đi làm cho về muộn, thấy người đàn
bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng sửng sốt hơn khi được người đàn bà
chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “ “Kìa nhà tôi nó chào u”..”Nhà tôi nó mới về làm
bạn với tôi đấy u ạ”. Bà sửng sốt đến mức không còn tin được vào mắt và tai mình : “Bà
lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự nhiên bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão
nhìn kĩ người nữ giới lẫn nữa, vẫn chưa nhìn thấy người nào. Bà lão quay sang nhìn còn tỏ
ý không hiểu”. lúc đã hiểu ra, bà lại xót thương cho số kiếp của con trai mình, bà liên
tưởng đến người chồng quá cố, tới đứa con gái đã tắt hơi, lòng bà nặng trĩu tủi buồn, xót xa.
Bà cụ Tứ mừng cho con trong khoảng này yên bề gia thất, tủi thân làm cho mẹ không lo
nổi vợ cho con. Giờ đây giữa khi người chết đói “như ngả rạ" lại mang người theo con trai
bà về làm cho vợ. cái tủi, mẫu buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo quẫn bách. Biết
lấy gì để cúng tiên sư, đế trình làng khi con đã với vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con với vợ,
khóc vì thương con dâu không biết khiến sao vượt qua nổi cạnh tranh này. Bà cụ xót xa
thương con dâu, thương con trai, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nhắc được nữa,
nước mắt cứ chảy xuống ròng rã ròng”. bao nhiêu lo âu bộn bề trong lòng.
Trong mẫu mừng, loại tủi, chiếc lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. một niềm
vui khổ thân không sao chứa cánh lên được, cứ bị mẫu buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng
bà cụ Tứ cố vui và gắng làm con, cho dâu vui. Bà cố nhắc toàn chuyện vui, nào là chuyện
vợ chồng dạy dỗ nhau khiến ăn, chuyện mai sau, chuyện con dòng, nhà cửa. Bà tin vào học
thuyết nhân sinh “người nào giàu ba họ, ai khó ba đời”, các lời kể của bà giữa hiện thực đói
khát thê thảm ấy là bí quyết để lấn áp bóng đêm bao trùm.
Qua việc khắc họa hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn thật tinh tế nhận ra được nét tâm lí
thân thuộc của người cao tuổi. Trong bế tắc, trong tuyến đường cùng họ thường kể đến
tương lai, tới các điều rẻ đẹp, do đó khi ánh đèn trong nhà bà được thắp lên thì bà cụ Tứ đã
lau nước mắt, bà tin vào một cuộc sống rẻ đẹp hơn lâu dài sẽ đến với con trai bà, gia đình bà và cả xóm cư ngụ.
Nhân vật bà cụ Tứ đã đem đến 1 luồng gió mới cho tác phẩm, khi nhắc tới bà người đọc sẽ
không thể quên 1 người mẹ ân cần, chu đáo, luôn hình dung các điều rẻ đẹp cho con mình,
một người luôn hướng tới 1 cuộc sống hạnh phúc, rẻ đẹp hơn sẽ đến ở 1 mai sau không xa.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 12
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại.
Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà
giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã
khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945 đồng thời khẳng định,
ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng đến tương lai của những
người dân lao động. Trong đó nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ rất sinh động, tinh
tế, là một người mẹ nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.
Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu
sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc
nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ
tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà
bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu
dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
Tác phẩm đã tái hiện lại bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do
thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Ông đặc tả chân dung người năm đói
"khuôn mặt hốc hác u tối", "Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội
chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma", và "bóng những
người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma". Trong không gian của thế giới ngổn
ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ "gào lên từng hồi thê thiết" cùng với "mùi gây của
xác người". Nhưng quan trọng hơn, bên cạnh mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là
mảng sáng của tình người, của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình.
Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong
bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia
đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Thể hiện sâu sắc cho tư tưởng ấy là
chân dung tính cách, tâm lý của bà cụ Tứ trước tình huống bất ngờ: con trai mình đột ngột có vợ.
Tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp, với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của
người già từng trải và nhân hậu. Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc
dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ.
Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn:
"Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu
giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai
thế nhỉ?" Rồi lại:"Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của
người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước
việc con trai yêu quý của mình có vợ.
Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão"cúi đầu nín lặng". Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi
niềm xót xa, lo, thương trộn lẫn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao:
"... chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?". Trong chữ "chúng
nó" người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp
nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng
nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà
mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi
khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con..., để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu
thương trong một câu nói giản dị:"chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá..." Trên ngổn
ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để
cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ... nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: "chè đây - Bà
lão múc ra một bát - chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Chữ "ngon"này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt.
Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần:
ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh
nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào,
tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất
người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn
lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã
với miếng cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ".
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân
đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương
lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ,
một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình
huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm
mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
Phân tích nhân vật bà cụ Tứ mẫu 13
Chủ đề người nông dân luôn là nguồn cảm hứng bất tận đối với các nhà văn Việt Nam. Nổi
bật trong đó ta không thể không kể tới Vợ Nhặt của tác giả Kim Lân. Trong những tháng
ngày đen tối vì nạn đói khủng khiếp, ta vẫn thấy được nhen nhóm hình ảnh một người mẹ
với tình yêu thương con thắp sáng cả tác phẩm, người mẹ ấy không ai khác chính là bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ là một người đàn bà nghèo khổ, góa chồng sống cùng con trai ở xóm ngụ cư. Bà
là một người phụ nữ hiền hậu, có tấm lòng yêu thương con tha thiết. Bà biết rõ hoàn cảnh
của con trai mình ngờ nghệch, xấu xí thô kệch nên chẳng có vợ. Hai mẹ con sống với nhau,
trải qua những gian khổ của cuộc sống thiếu thốn. Trong những năm 1945, bà rất muốn có
một người con dâu nhưng bà hiểu hoàn cảnh và hiểu con trai mình nên không dám nghĩ ngợi nhiều.
Khi bà phát hiện con trai mình đã có vợ, bà đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Một buổi chiều
khi anh cu Tràng dắt vợ về chờ đợi mẹ trong căn nhà rách nát. Khi về tới nhà, thấy một
người đàn bà đang ngồi ở đầu giường của cậu con trai mình. Bà ngạc nhiên và càng ngạc
nhiên hơn khi nghe tiếng chào mẹ từ người đàn bà ấy. Bà bất ngờ khi anh cu Tràng giới
thiệu: kìa nhà tôi nó chào u, nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ
Khi cậu con trai lên tiếng xác nhận, bà vẫn chưa tin được đây là sự thật. Cố nhìn cho kỹ
người đàn bà đang ngồi nơi đầu giường với cặp mắt hấp háy. Bà thấy mắt mình như nhòe
đi. Hóa ra con bà đã có vợ. Một đứa vừa xấu vừa nghèo như cu Tràng lại có kẻ theo về làm vợ.
Lòng bà chưa hết ngạc nhiên còn đong đầy những câu hỏi thắc mắc pha lẫn tò mò. Khi biết
được đầu đuôi câu chuyện bà đi từ ngạc nhiên, bất ngờ chuyển sang vừa vui vừa buồn. Bà
chỉ biết cúi đầu, bà xót thương biết bao cho số kiếp của con trai bà. Bà nhớ về người chồng
quá cố, nhớ về đứa con gái, nhớ về cuộc đời gian khổ của bà. Bà càng thương, càng tủi, càng xót xa.
Là một người mẹ, bà thương con vô bờ, bà biết con trai mình từ nay đã yên bề gia thất.
Nhưng mừng thì ít mà lo lắng thì nhiều. Bà than trách mình làm mẹ nhưng không có trách
nhiệm lo cho con một đám cưới đàng hoàng như người ta. Bà cũng nặng trĩu lòng khi nhìn
ngoài kia biết bao người chết đói, mạng sống mỏng manh nhà cửa thiếu thốn, giờ con trai lại lấy vợ lúc này.
Bà khóc vì thương con, thương người con dâu mới. Bà chẳng dám nghĩ đến tương lai hai
vợ chồng sẽ ra sao, có vượt qua được nạn đói lớn này. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ
xuống hai dòng nước mắt.
Nhưng gạt nước mắt sang một bên, bà động viên hai con. Bà là một người có tình yêu
thương con tha thiết. Những lời chân thành nói với nàng dâu được thốt ra từ trái tim ấm áp
của người mẹ, là một người từng trải và hiểu được rằng nếu không có nạn đói xảy ra thì
con mình làm gì đã có vợ, cùng cực lắm người ta mới tìm đến con mình. Dù biết trước phía
trước còn những chông gai bà vẫn động viên các con phải sống yêu thương, hòa thuận,
đùm bọc san sẻ với nhau để vượt qua cơn hoạn nạn.
Trong những ngày tối tăm của nạn đói 1945, bà vẫn nhen nhóm một tương lai tràn đầy hy
vọng phía trước. Bà cụ nói toàn chuyện vui chuyện sung sướng sau này. Trong khung
cảnh tối tăm cùng cực nhưng vẫn nhen nhóm lên trong lòng những người nông dân một
niềm tin về một xã hội đổi mới, về một tương lai hạnh phúc ấm no.
Trong buổi sáng đầu tiên khi cô con dâu về bà đã dậy thật sớm nhổ sạch vườn cỏ trước nhà,
quét dọn lại nhà cửa, vườn tược. Bà nghĩ rằng đó là sự khởi đầu mới và là sự trân trọng
dành cho người con dâu mới. Bà rạng rỡ hẳn lên, bà xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa.
Trong bữa sáng đầu tiên về nhà chồng, bà đã đãi con dâu mình một nồi cháo cám. Tuy một
món ăn đắng chát nhưng mà vẫn cố mỉm cười vui vẻ động viên các con.
Dù bữa ăn thật nghèo khó, nhưng chúng ta cảm nhận được một không khí ấm áp của tình
cảm gia đình. Bà cụ Tứ hiện lên với những đức tính cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Đó là sự đảm đang, lòng nhân hậu, vị tha với tình yêu thương con vô bờ bến. Trong khó
khăn hoạn nạn vẫn suy nghĩ về một tương lai tươi sáng.
Với cách kể chuyện hấp dẫn, tác giả đã xây dựng diễn biến tâm lý nhân vật phù hợp với
tiến trình câu chuyện. Qua đó làm nổi bật lên tính cách và tấm lòng của bà cụ Tứ.