Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến chọn lọc hay nhất
1. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến hay nhất (Mẫu 1)
"Cuộc sống mảnh đất màu mỡ để cho thơ bắt rễ sinh sôi." (Puskin) Thơ Quang Dũng chân thực như
chính những trải nghiệm của nhà thơ nơi chiến trường. Ngòi bút của Quang Dũng không né tránh những sự
thật bi thương, những mất mát hi sinh nơi chiến trường. Từ những chặng đường hành quân vất vả giữa núi
cao vực sâu, dốc thẳm đến những đêm hội liên hoan ấm áp tình quân dân đều được tác giả tái hiện một
cách chân thực.
Nếu ở những đoạn thơ đầu, người lính Tây Tiến xuất hiện gián tiếp trong khung cảnh núi rừng miền Tây với
những bước chân hành quân ra trận thì đến khổ thơ thứ ba, hình ảnh các anh được khắc họa trực tiếp với
vẻ đẹp lãng mạn nhưng đậm chất bi tráng. hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã vẽ ra chân dung người lính
Tây Tiến với bề ngoài kì dị khác thường:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Người lính Tây Tiến hiện lên với hình ảnh "không mọc tóc". "Không mọc tóc" bởi những cơn sốt rét rừng
triền miên, cũng thể do các anh tự cạo trọc đầu. Câu thơ còn thể hiểu như các anh không thèm mọc
tóc, không cần mọc tóc, biểu hiện một thái độ coi thường gian khổ hiểm nguy. Từ những chàng trai
Thành vốn hào hoa lịch lãm, người lính Tây Tiến trở thành những anh "vệ trọc" với mái đầu không tóc.
Bên cạnh không mọc tóc còn "quân xanh". Đó màu xanh của bộ quân phục, màu xanh của ngụy
trang hay màu xanh của nước da vàng vọt xanh xao do khó khăn bệnh tật. Màu xanh của nước da như
hòa vào màu xanh bạt ngàn của núi rừng, lột tả được hiện thực đầy khắc nghiệt của chiến tranh.
Vẻ đẹp lãng mạn bi tráng của những người lính Tây Tiến không chỉ thể hiện qua dáng vẻ bề ngoài còn
thể hiện qua đời sống tâm hồn với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa.
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
"Mắt trừng" ánh mắt luôn hướng về phía trước, luôn ngời lên ý chí chiến đấu khát vọng chiến thắng.
Đó ánh mắt của lòng căm thù, của tinh thần cảnh giác sự cả sự kiên cường vững chãi. Các anh gửi
mộng qua biên giới, là giấc mộng đánh đuổi quân xâm lăng, lập nên chiến công, bảo vệ non sông đất nước.
Ý chí của người lính thì mạnh mẽ can trường nhưng lại vô cùng lãng mạn, trái tim luôn rạo rực yêu đời. Vốn
xuất thân từ những học sinh, sinh viên Nội, trải qua gian khổ ác liệt của chiến tranh nhưng tâm hồn
của các anh vẫn rất mộng mơ, lãng mạn, đắm say. Sau một ngày đối mặt với bom đạn chết chóc, đêm về
các anh lại về một dáng "kiều thơm" nơi đất Hà Thành. Nếu người lính trong "Đồng chí" của Chính Hữu
nhớ về quê hương "nước mặn đồng chua", về "giếng nước gốc đa", mái tranh nghèo người vợ trẻ mòn
chân bên cối gạo canh khuya, một giấc mộc mạc chân tình như ca dao tục ngữ, thì người lính Tây Tiến
lại nhớ về những dáng "kiều thơm", bóng dáng thướt tha, yểu điệu của những thiếu nữ nơi đường phố
Thành. Một giấc mộng thật trẻ trung, sôi nổi của thời tuổi trẻ, gợi lên vẻ hồn nhiên, đa tình cũng rất đáng
yêu của người lính. Tình yêu lứa đôi trở thành bệ phóng nâng đỡ vun đắp cho tình yêu quê hương đất
nước. Chính giấc của tuổi trẻ ấy đã cân bằng cuộc sống, tạo ra động lực tinh thần tiếp thêm sức
mạnh để người lính vững bước trên những chặng đường hành quân gian khổ phía trước.
"Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu."
(Nguyễn Đình Thi)
Hay nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng viết:
"Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ như cha như vợ chồng
Ôi Tổ quốc khi cần ta chết
Cho mỗi căn nhà, ngọn núi dòng sông."
Quang Dũng đã xây dựng được hình ảnh tập thể những người lính Tây Tiến với bao gian khổ hi sinh nhưng
không hề nhấn chìm người đọc vào cảm giác bi lụy. Cảm hứng của nhà thơ mỗi lần chìm vào đau thương
lại được nâng lên bởi đôi cánh lãng mạn, đôi cánh tưởng. thế chân dung người lính Tây Tiến hiện lên
không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
"Cuộc bể dâu còn người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc máu trong trái tim người nghệ sĩ." (Tố Hữu)
Mỗi tác phẩm văn học phải hướng đến hiện thực đời sống , nêu được đặc điểm của thời đại ra đời.
Và trong thơ Quang Dũng cũng đã hút được cái nhụy ấy của cuộc sống , đã dám nhìn thẳng vào sự thật với
những mất mát, đau thương, đã không ngần ngại nói đến cái chết và sự ra đi của người lính Tây Tiến.
Chiến tranh vốn khốc liệt, đã biết bao người lính vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, nơi chân đèo dốc
núi, nơi biên cương xa xôi lạnh lẽo. Ngôi mộ của các anh trở thành những nấm mồ ẩn mình giữa rừng sâu
biên giới hoang vu, heo hút. Các anh ra đi trong lặng lẽ, không một mảnh chiếu che thân. Đồng đội vùi xác
các anh vào lòng đất trong sự thiếu thốn tột cùng. Hiện thực nghiệt ngã ấy đã khơi gợi niềm xót xa đau đớn
và sự ngậm ngùi thương cảm của người đọc.
Đau thương, mất mát, hi sinh vậy nhưng qua cách diễn đạt của Quang Dũng, sự ra đi của người lính Tây
Tiến vẫn thật hào hùng, dũng mãnh. Quang Dũng nói đến cái chết chỉ đủ gây thương cảm cho người đọc từ
đó làm nổi bật chí khí tầm vóc của các anh. Cái đau thương bị át đi ngay ở câu thơ nói về bi thương bởi
cách sử dụng từ ngữ Hán Việt (biên cương, viễn xứ). Những từ ngữ Hán Việt này không chỉ làm giảm đi sự
mất mát hi sinh còn gợi lên sự tôn nghiêm vĩnh hằng, sự thành kính thiêng liêng trong sự ra đi của
người lính.
Nhà thơ đã khẳng định tưởng thế lên đường của người lính,vút lên như một lời thề thiêng liêng của
những tráng thời loạn "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh." "Chẳng tiếc" là cách nói ngang tàng đầy khí
phách, là thái độ tự nguyệnkhông ép buộc và một tâm trạng hết sức thanh thản. Họ sẵn sàng hiến dâng đời
với biết bao hi vọng, mộng mơ, sẵn sàng hi sinh đất nước, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. tưởng ấy
thật cao cả, đẹp đẽ, sáng người ý chí quyết tâm. Đây cũng tâm nguyện của những thanh niên Việt Nam
thời chống Mỹ trong thơ thơ của Thanh Thảo:
"Chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc."
Với cái nhìn lãng mạn, Quang Dũng đã khiến cho sự ra đi của người lính Tây Tiến thật hào hùng, sang trọng
cao đẹp bởi hình ảnh "áo bào thay chiếu", đưa các anh về với đất mẹ. Chiếc áo của người lính được thi
vị hóa trở thành áo bào, vừa cổ kính trang trọng lại vừa gần gũi thân thương. Các anh ra đi không da
ngựa bọc thây như những chiến tướng thuở xưa nhưng đã có áo bào lẫm liệt đưa các anh về với núi sông.
Cách dùng từ ngữ của Quang Dũng cũng thật độc đáo. Nhà thơ không dùng từ "chết" "về đất". Cách
nói giảm đã làm vơi bớt đi nỗi đau thương để cái chết ấy trở thành bất tử. Với người lính chết chưa phải
hết, không phải sự ra đi cuộc hành trình trở về với đất mẹ thân yêu. Người mẹ hiền đất nước
đang dang rộng vòng tay để đón các anh về. Linh hồn các anh đã hóa thân vào sông núi để còn mãi với núi
sông, để làm nên vóc dáng, hình hài của đất nước. Sự ra đi ấy thật thanh thản nhẹ nhàng.
"Ôi đất nước 4000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta."
(Nguyễn Khoa Điềm)
Người lính Tây Tiến ra đi đã có dòng sông Mã tấu lên khúc nhạc trầm hùng tiễn đưa linh hồn các anh. Sông
con sông của hoài niệm chuyên chở nỗi nhớ của người lính, giờ đây nhân chứng cuối cùng
trong cuộc đời của các anh. Tiếng gầm thét của sông biểu hiện cao độ cho sự mất mát, cho nỗi tiếc
thương và cả niềm uất hận. Nó như một con chiến mã trung thành đang gầm rú, gào thét vì sự ra đi của chủ
tướng. Dường như cả đất trời núi sông, cả quê hương đều đang nghiêng mình tiễn biệt người lính trong âm
hưởng hào hùng và dữ dội của sông Mã.
"Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt. Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay." Nhà thơ
Quang Dũng đã có quá trình sáng tạo nghệ thuật đầy công phu, nghiêm túc thậm chí là khổ hạnh để tạo nên
một kiệt tác văn chương để đời. Bài thơ Tây Tiến đã khắc họa thành công chân dung của những người lính
Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng, từ đó làm nổi bật tài năng phong cách nghệ thuật của Quang
Dũng với sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, sự hòa quyện giữa chất thơ, chất họa, chất nhạc
của một hồn thơ đầy tài hoa phóng khoáng.
2. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến chọn lọc (Mẫu 2)
Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều
tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc,... "Tây Tiến" của Quang Dũng một trong những
bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững còn có sức sống kì diệu . Trong
tâm hồn thi nhân, Tây Tiến một thời để thương, để nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong
những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ
vừa không kém phần thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ,
những thời khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân... Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ,
người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa
chân dung người lính Tây Tiến:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
.....................
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Lúc bấy giờ, Quang Dũng còn những gương mặt quen thuộc như bác Phạm Ngọc Khuê, đại đội
trưởng - nhạc Như Trang, nhà thơ Trần Văn. Họ đều những chàng trai Thành còn rất trẻ. Binh
đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên tri thức Nội đang theo học tại các trường phạm, Bưởi, Thăng
Long, Văn Long,... Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh"
còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không
ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm nhuần trong
máu, tủy hồn, một chàng trai đa tài, lại đã từng đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn Tây Tiến,
Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, đem đến cho người đọc những
rung cảm thẩm về những chiến hào hùng rất đỗi hào hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang
Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên
đường, không hẹn ngày trở lại.
Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính với vẻ đẹp bình
dị, mộc mạc. Rồi "Đồng chí" của Chính Hữu, "Cá nước" của Tố Hữu đều miêu tả người lính chân quê:
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày."
( "Đồng chí" - Chính Hữu)
Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa những đặc điểm riêng lại vừa được khắc họa theo một
bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn tinh thần bi tráng triển khai trên nền ức (nỗi nhớ), Quang
Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến. Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Một số ý kiến cho rằng đây hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh "đoàn
binh không mọc tóc" "dữ oai hùm" không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh người bộ đội thời
chống Pháp trở nrnr dị khác thường. Cảm nhận thơ như vậy vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp
lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không
chỉ những là anh bộ đội "lá ngụy trang reo với gió đèo" mà còn có cả những "anh vệ trọc" nổi tiếng một thời.
Cho nên, hình ảnh "đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", "dữ oai hùm" vừa là một thực tế, vừa là
sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn.
"Đoàn binh không mọc tóc" hình ảnh đoàn quân không tóc, hậu quả của những con sốt rét rừng hoặc
phải sống triền miên nơi rừng thiêng nước độc. "Quân xanh màu lá" nghĩa đoàn quân nước da xanh
như màu - đây cũng hậu quả của những cơn sốt rét rừng, cả do gian khổ thiếu thốn, thế nhưng
đoàn binh vẫn toát lên vẻ "dữ oai hùm", nghĩa lad vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách
người hùng theo lối cổ chứ không phải "làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội" như có người đã nghĩ.
Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của "đoàn binh". Cách miêu tả
chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người
tráng sĩ với "hào khí Đông A":
"Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"
(Múa giáo non sông đã mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt cả sao Ngưu)
Vẻ đẹp của câu thơ chính tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến, một vẻ đẹp sự cộng
hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những chiến binh năm xưa với người lính cụ Hồ
hôm nay.
Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
"Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới." (Vũ Quần Phương), "thấy nổi lên lời độc tấu của những chàng trai Hà
Nội" (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh "mắt trừng" thể hiện ý chí quyết tâm ngùn
ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ quốc. Hình ảnh ấy cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng
lập công cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc chiến đấu gian khổ dữ dằn đó,
những người lính vẫn để tâm hồn cho những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: "Đêm Nội dáng
kiều thơm."
Chiến tranh thật tàn khốc những chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai
thành. Không thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Có một thời, người
ta gán cho "Tây Tiến" những "mộng rớt", "buồn rớt" chính là những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ
đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp
này trong bài thơ "Đất nước":
"Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu."
Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi các nhà thơ khác, Quang Dũng thể hiện tình
cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn của họ vậy. Giấc mơ
đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!
Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và
nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Chất "tráng ca" được bộc lộ một cách hào hùng cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh
phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ "mồ viễn xứ" gợi cảm giác buồn thầm lặng - sự hy sinh thầm
lặng của những chiến danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: "rải rác" nơi đây đó nơi "biên cương",
những nấm mồ "viễn xứ: không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh
chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái
bi thương lại được nang đỡ bởi đôi cánh tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng hình đã đưa câu thơ
trước lên cao. "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn
thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một tưởng cao đẹp nhất. Họ
ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem như "nhẹ tựa
lông hồng".
Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện
thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ của Quang Dũng rất đỗi hùng
tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống của cả một thế
hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Có hiểu được
ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.
Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hi sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu
liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm "áo bào" sang trọng.
"Áo bào" sự kết hợp hai từ "áo vải" "chiến bào" khiến cho "áo bào" vừa bình dị vừa sang trọng. Đây
cách nói theo Quang Dũng để "an ủi linh hồn những người lính". Xuất phát điểm tình yêu đồng đội.
Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để "sang trọng hóa"
cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của
các chiến binh xưa. "Áo bào thay chiếu anh về đất". Câu thơ mang sức ngợi ca. Không thể tìm được từ nào
hay hơn để thay thế cho từ "về đất" trong câu thơ này. "Về đất" không những diễn tả được sự hi sinh của
người chiến mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. "Về đất"
hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi trường tồn cùng Tổ quốc. Dòng sông
đã tấu lên "khúc độc hành" dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến với bao tiếc
thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả
núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất này nảy nở đầy thơ, đầy nhạc cùng với
thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.
Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ thủ pháp đối lập còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt dùng các
động từ. Nhà thơ Quần Phương nhận xét: "Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống
các động từ." Động từ "gầm" trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội vào núi rừng miền
Tây ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các từ Hán Việt, nhà thơ đã đưa người đọc vào
một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa
cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.
Đây đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên
một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng
sông Mã, âm hưởng Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.
3. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến ngắn gọn (Mẫu 3)
Nếu như đoạn đầu của bài thơ nỗi "nhớ chơi với" với bao kỉ niệm đẹp cảm động của một thời trận
mạc đầy gian khổ, hi sinh thì tám câu thơ đoạn ba lại khắc họa khí phách anh hùng tâm hồn lãng mạn
của người chiến trong máu lửa., qua đó thể hiện niềm tự hào của tác giả. Bốn câu thơ đầu tác giả đã
khắc họa thành công hình ảnh của người lính Tây Tiến trong những năm tháng hào hùng của dân tộc:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Mở đầu khổ thơ đảo ngữ "Tây Tiến" nhằm nhấn mạnh khắc sâu ấn tượng về một cái tên Tây Tiến, chỉ
riêng cái tên thôi đã gợi trong lòng thi nhân biết bao kỉ niệm về một đời không thể nào quên. Không chỉ vậy,
vượt qua gió bụi của thời gian, "Tây Tiến" đã đi vào lịch sử như một đoàn binh một không hai, chủ
nhân của một thời đại gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc. Bên cạnh đó, những người lính Tây Tiến với
cái tên "đoàn binh" từ Hán Việt gợi cảm giác về một đoàn quân được trang bị đầy đủ tinh nhuệ. Qua
bút pháp tả thực, cụm từ "không mọc tóc" hiện lên đầy ấn tượng qua cách sử dụng bút pháp đề cập đến sự
khốc liệt của chiến tranh. Đó những cơn sốt rét rừng hành hạ khiến cho người lính Tây Tiến bị rụng hết
tóc. Trong văn học kháng chiến không ít lần chúng ta bắt gặp hình ảnh của những cơn sốt rét rừng. Nhà thơ
Nguyễn Đức Mậu từng viết:
"Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân"
Cách diễn đạt của Quang Dũng thật độc đáo khi chuyển "không mọc tóc" từ thế bị động sang thế chủ động,
đó không thèm mọc tóc khiến cho người đọc cảm nhận về một đoàn quân kiêu hùng ngang tàng, bất
chấp mọi hiểm nguy, gian khổ. Họ vẫn kiêu hãnh nhìn thẳng về phía trước, lạc quan hài hước hóm hỉnh.
Trong sự thiếu thốn trăm bề ấy là hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên chân thực oai hùng: "Quân xanh
màu dữ oai hùm". Xanh màu hình ảnh tả thực: màu xanh ấy thể màu xanh của quần áo lính,
màu lá ngụy trang, hay đó có thể là nước da xanh xao do cơn sốt rét rừng, do thiếu thốn và bệnh tật. Nhưng
độc đáo hơn cụm từ "dữ oai hùm" qua bút pháp ẩn dụ độc đáo. Bên trong hình tượng tưởng chừng như
tiều tụy ấy là cả một khí phách, một bản lĩnh kiên cường, một sự oai nghiêm dữ dằn đầy sức mạnh như một
vị chúa sơn lâm. Đúng như nhà thơ Quần Phương đã nhận xét: "Lối viết của Quang Dũng thật tài hoa.
Nói được lính ốm mà không thấy lính yếu."
Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật,... muôn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn những giấc mơ,
giấc mộng rất đẹp:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Chân dung người chiến Tây Tiến không chỉ nét ngang tàng, oai phong trong dáng vẻ dữ dội, uy nghi
mà còn được thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn. "Mắt trừng" là từ để diễn tả ánh nhìn đầy sự quyết
tâm nung nấu, chứa đựng bao hoài bão. Đó cái nhìn đầy oai phong lẫm liệt. Còn "mộng" ước giết
giặc lập công của những người chiến sĩ. Đó cái mộng để hướng tới hòa bình độc lập, bảo vệ quê hương
tổ quốc. Đây cái mộng cao cả xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước. Mộng của người chiến Tây
Tiến rất giống với quan niệm nợ công danh của những trang hào kiệt, đấng nam nhi thời Trung đại. Mộng thì
gửi về biên cương nhưng mơ thì hướng về Hà Nội:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các anh vẫn về
Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ trường xưa, "những phố dài xao xác hơi
may"? Quên sao được những áo trắng, những thiếu nữ thân yêu, những "dáng kiều thơm" từng hẹn.
Đó thể người vợ, người yêu hay một người em gái chưa từng dám ngỏ lời. Câu thơ thể hiện cái nhìn
lãng mạn, đa tình, cũng như gửi gắm khát khao thầm kín về hạnh phúc lứa đôi. Bởi chiến sĩ Tây Tiến vốn là
những học sinh, sinh viên, những chàng trai Thành "xếp bút nghiên theo việc đao, cung", giàu lòng yêu
nước, phong độ hào hoa.
"Từ thuở mang gươm đi giữ nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long."
(Huỳnh Văn Nghệ)
Quang Dũng đã khắc họa thành công hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ ngòi xanh xao, tiều tụy nhưng
mang một ý chí mạnh mẽ, thế chiến đấu oai hùng, tinh thần yêu nước thiết tha tâm hồn lãng mạn hào
hoa. Đó cũng chính một nét khám phá mới của nhà thơ khi vẽ chân dung anh bộ đội cụ Hồ xuất thân từ
tầng lớp tiểu sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh đó đoạn thơ như một khúc hùng ca
bi tráng và oai hùng về một thời đại không thể nào quên với Quang Dũng và những người lính Tây Tiến qua
sự kết hợp tài tình giữa bút pháp lãng mạn bút pháp hiện thực, sử dụng thành công các biện pháp tu từ:
ẩn dụ, đảo ngữ,... cùng một lối diễn đạt giàu cảm xúc, giàu hình ảnh.
Chiến tranh đã lùi xa, hòa bình lập lại nhưng lẽ hình ảnh những người chiến đã ngã xuống vẫn in sâu
trong từng tấc đất, bản làng, ngõ xóm. Tưởng chừng tất cả đã qua đi nhưng hinhf ảnh xương máu của cha
ông một lần nữa được tái hiện trong âm hưởng bi tráng và niềm tự hào dân tộc:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Câu thơ đầu đem đến một cảm giác buồn bã, ảm đạm về cái chết "rải rác biên cương mồ viễn xứ". Nhịp
ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ vào chữ mồ, một âm tiết mang thanh bằng âm vực thấp, một từ gợi ý
nghĩa hiện hữu của cái chết, câu thơ thế đem đến cảm giác trầm buồn ảm đạm. Trong đoạn thơ sử
dụng rất nhiều từ Hán Việt: biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào. Tất cả được sử dụng một cách trang
nghiêm như những nén tâm hương thắp lên để tưởng nhớ những người chiến đã hi sinh tổ quốc. "Mồ"
chỉ nắm đất đắp vội chôn ngay dọc đường hành quân để đoàn quân tiếp tục lên đường. Đặt trong không
gian nơi biên cương miền viễn xứ khiến nấm mồ ấy gợi bao xót xa. Khi nằm xuống, bất cứ ai cũng mong trở
về nơi quê hương đất mẹ, được vùi mình xuống dòng nước mát quê hương. Nhưng ảm đạm thay họ phải hi
sinh nơi đất khách quê người gợi biết bao thương tiếc. Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật đảo
"rải rác" lên đầu câu sự thưa thớt. Đó những nấm mồ nằm lẻ loi dọc đường hành quân, cũng nơi
những người lính Tây Tiến đã nằm xuống. Đó cũng chính hiện thực chiến tranh tàn khốc không ai
thể trốn tránh. Nhờ đó, cảm giác ảm đạm ngậm ngùi trong câu năm đã nhanh chóng được xóa đi bởi tứ thơ
mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm hiu hắt, đem đến
nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: "Chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh" đã nâng cao chí khí tầm vóc người lính. Nghệ thuật đảo trong cụm từ "chiến trường đi" nhấn
mạnh điểm đến. Chiến trường chính nơi sủng nổ bom rơi đầy gian khổ hi sinh. Nhưng chiến trường cũng
chính là lựa chọn đầy trách nhiệm của cả thế hệ trẻ vì đối với họ "đường ra trận mùa này đẹp lắm". Và cuộc
đời đẹp nhất là trên trận chiến đấu chống quân thù.
Hơn hết, cách nói "chẳng tiếc đời xanh" cho thấy sự dứt khoát quyết tâm. "Đời xanh" tuổi trẻ, thanh
xuân của những "chàng trai chưa trắng nợ anh hùng", những học sinh, sinh viên Nội. Họ "quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh", câu thơ vang lên như một lời thề thiêng liêng cao cả. Các anh quyết đem xương máu
để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Chúng ta cũng từng thấy tinh thần ấy trong "Trường ca những
người đi tới biển" của nhà thơ Thanh Thảo:
"Chúng tôi đi chẳng tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi thì làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc."
Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá. Chúng ta thà hi sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu làm lệ. Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến chiến trường miền Tây
thuở ấy:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Hình ảnh "áo bào thay chiếu" một hình ảnh chân thực đến xót xa của chiến tranh. Đó sự thiếu thốn về
vật chất. Họ hi sinh chỉ tấm chiếu chôn vào lòng đất. Nhưng đây không chiếu áo bào. Hình
ảnh áo bào lẽ chính tấm áo lính họ mặc chiến đấu hàng ngày, giống áo bào của những tráng
xưa. Cách nói như vậy để vinh danh những người lính Tây Tiến như cách tráng da ngựa bọc thây,
áo bào bọc thây. Quang Dũng có kể lại: "Khi tử sĩ nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm, nói áo bào thay
chiếu là mượn cách nói của thơ trước đây để an ủi những đồng chí vừa ngã xuống". Còn cụm từ "về đất"
cách nói giảm nói tránh nhưng ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng sâu xa. Chết không phải đi vào cõi
trở về với đất mẹ thân yêu. Đất mẹ mở lòng đang dang tay đón những đứa con ưu của mình.
Các anh đã ngã xuống để hóa thân cho dáng hình xứ sở để mỗi tên làng, tên sông, tên núi đều hình
bóng các anh.
Hình ảnh con sông lại một lần nữa xuất hiện: mở đầu cho cuộc hành trình trở về Tây Tiến trong ức
của nhà thơ con sông Mã. lúc này khi đưa tiễn những con người trở về với đất mẹ cũng con sông
Mã. Với nghệ thuật nhân hóa "sông gầm" dòng sông ấy gầm lên trong cơn giận dữ đau thương uất
nghẹn. Đau thương ấy sẽ biến thành sức mạnh của lòng căm thù. Hơn hết "độc hành" tức một mình.
Những người lính Tây Tiến hi sinh là những mất mát không gì bù đắp được, để lại sự thương tiếc xót xa
hụt hẫng.
Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ Tây Tiến đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử
thi cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả biểu lộ cảm xúc, tạo
nên những câu thơ có hồn. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến
mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc:
"Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!"
4. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Mẫu 4)
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội
suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng vẽ lại bức chân dung của họ
với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây
Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả quân đoàn. Người lính ấy
phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu gian khổ, thiếu thốn nên một vẻ bề ngoài dị khác
thường:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó căn bệnh sốt rét hiểm nghèo người lính thường mắc
phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" cũng đề cập đến căn bệnh này: "Anh với tôi biết từng cơn
ớn lạnh - Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi." Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian
khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác sự hi sinh lớn lao của người lính Tây Tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã
ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc cận chiến, những
cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì thiếu thốn, sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại
trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực yêu thương:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức "trừng" lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn
để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn thành, những người em, những người bạn gái thân
thương nơi quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc họa chân dung người lính không chỉ
dáng vẻ bề ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này không che
giấu theo cách riêng của ông:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng như "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường" kết hợp với từ láy "rải
rác" đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ
đẹp lãng mạn của tưởng quên mình, xả thân Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói "chẳng
tiếc đời xanh" vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến.
Hai câu thơ:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến đấu không
đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang
trọng mang dáng dấp của những tráng oai hùng thuở xưa, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm
thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng
Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng
khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Đoạn thơ thứ ba giọng điệu chủ đạo trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương hạn sự trân
trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Đoạn thơ với cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc
sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây Tiến
đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về
đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền Tây. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại như cái thời
mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
5. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến dễ hiểu nhất (Mẫu 5)
"Thơ trước hết cuộc đời sau đó mới nghệ thuật" (Bielinxki) Quả thật vậy, không rời xa thực tế, Quang
Dũng đã khắc họa bức chân dung người lính Tây Tiến một cách chân thực nhất với vẻ bề ngoài dị khác
thường.
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Hai câu thơ đầu mở ra, giữa cái mỹ lệ, nên thơ của núi rừng, vẻ đẹp của người lính Cụ Hồ hiện lên thật bi
tráng. Không phải những đoàn quân với những người lính khỏe mạnh, trên đầu mang một màu tóc xanh
của tuổi trẻ, đoàn quân của Quang Dũng hiện lên thật dị khác thường. Cả một đoàn quân tuổi đời còn trẻ
măng nhưng ai cũng "không mọc tóc". Vì đâu mà cả một đoàn binh lớn nhường ấy lại có điều dị thường đến
vậy? Phải chăng đây kết quả những cơn sốt rét rừng khủng khiếp? Ngoại hình tiều tụy, ốm yếu, đầu trọc,
da xanh đã gợi lên trong lòng chúng ta biết bao sự hi sinh. Hình ảnh ấy tuy gân guốc thế nhưng lại cái
hiện thực - một hiện thực trần trụi. Các chiến Tây Tiến ngày đó phải hoạt động trong rừng núi phía Tây
Bắc của Tổ quốc, nơi rừng thiêng nước độc, nơi ấy những trận sốt rét đến kinh người cả những ngày
hành quân đói rét vất vả. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính với những trận sốt rét trong thơ
Chính Hữu:
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi"
Người lính Tây Tiến vẫn mang thêm chút đặc biệt hơn một phần nào đó. Phải chăng những mái tóc
xanh chẳng còn nữa, những người lính trở thành cả "đoàn binh không mọc tóc"? Đoàn quân đang trải qua
những gian khổ khó khăn cản bước tiến hành quân của họ.
Nhưng nếu câu trước hình tượng những người lính hiện lên thật trần trụi, bi thương thì ngay câu thơ
sau, người ta lại thấy Quang Dũng thể hiện hình ảnh những người lính thật oai phong:
"Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
"Quân xanh" đây phải chăng những tán ngụy trang, màu áo xanh người lính hay chính làn da
xanh xao bệnh tật, đói rét của những chiến giải phóng quân. Một hình ảnh hiện thực trần trụi được
Quang Dũng đưa trực tiếp vào thơ. Chẳng hề một sự phóng đại hay cách điệu nào hết. Đó hiện thực,
thực tại của những người lính đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng, tuy xanh xao, mệt mỏi, vất vả thế,
nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần "dữ oai hùm". nơi rừng thiêng nước độc, nhưng những người anh
hùng giải phóng quân vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, toát lên vẻ oai hùng như chúa sơn lâm.
Hai câu đầu, hình tượng người lính của đoàn quân Tây Tiến hiện lên thật sống động biết bao, Đoàn quân ấy
đang đi giữa rừng xanh, đi giữa núi rừng âm u hiểm trở gặp biết bao gian lao, vất vả, bệnh tật đói rét.
Thế nhưng, các anh thế nào vẫn giữ được thế hiên ngang, "oai hùm" giữa chốn rừng thiêng nước
độc. Có thể nói, Quang Dũng đã đưa vào đây chất liệu hiện thực - một hiện thực trần trụi gửi vào đó một
chút lãng mạn của thi ca.
Bước sang những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên là vẻ đẹp tâm hồn của những chiến sĩ ấy, một vẻ
đẹp của tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Tây Tiến đoàn binh với thành phần chủ yếu những người con đất thành, những học sinh, sinh
viên đang còn tuổi xuân xanh tươi đẹp, thế nên ẩn sau ngoại hình xanh xao ấy cả một bầu trời tâm hồn
lãng mạn. Những người lính ấy đến với biên cương bằng sức trẻ, bằng hoài bão, bằng khát vọng hòa bình.
Họ nghe theo tiếng gọi Tổ quốc, ra đi bảo vệ bờ cõi núi sông. Vậy nên, "mắt trừng" kia phải chăng chính
đôi mắt mang theo sự căm thù, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc xâm lược. Không chỉ vậy, đôi mắt ấy còn
"gửi mộng qua biên giới", đến những nơi xa xôi, về với mảnh đất Nội thân yêu - nơi người thân, gia
đình của những chàng trai Tây Tiến. "Mộng biên giới" chăng chính giấc mộng hòa bình, giấc mộng
chiến thắng để trở về với quê hương, với gia đình người thương. đôi mắt ấy cũng không chỉ ánh lên
khát vọng mà còn cả cái tình, cả cảm xúc yêu thương:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đôi mắt ấy thao thức trong canh thâu, nhớ về một Hà Nội cổ kính, với phố phường, với gia đình và cả "dáng
kiều thơm" trong trí nhớ. những tri thức xếp bút nghiên, vác lên vai cây súng bảo vệ quê hương, những
người lính Tây Tiến luôn giữ trong mình cái vẻ hào hoa, lãng mạn của những người tri thức ấy. Họ không
như những anh lính mộc mạc trong thơ Chính Hữu:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá."
Chính "dáng kiều thơm" ấy động lực để thôi thúc các anh hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình. Đồng
thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương.
Trong chiến tranh, biết bao người lính ra đi khi tuổi đời còn trẻ, với khát vọng hòa bình, nhưng lại chẳng trở
về. Người ta thường nói, chiến tranh khốc liệt, làm sao tránh được hi sinh, mất mát:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Những ngôi mộ danh nằm "rải rác" nơi biên cương "viễn xứ", nơi rừng hoang heo hút không người qua
lại, không một nén hương tưởng nhớ. Từ Hán Việt "mồ viễn xứ", "biên cương" đã tạo nên không khí thật
trang trọng, bi hùng như khúc ca tiễn biệt những người lính. Họ đã ngã xuống nơi đây, trở thành người lính
vô danh góp phần làm nên độc lập dân tộc:
"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước."
Thế nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì người lính Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi vì khát vọng hòa bình.
Vì khát khao cháy bỏng ấy, họ nguyện hiến dâng cho Tổ quốc cả tuổi thanh xuân, cả tính mạng của mình:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
"Đời xanh" nghĩa tuổi thanh xuân của các anh, tuổi trẻ với bao khát vọng. Thế nhưng, nghe theo tiếng
gọi tổ quốc ra chiến trường diệt quân thù, các anh quyết chí, đồng lòng ra đi, "chẳng tiếc" điều gì.
Vẫn trong âm hưởng hào hùng đó, nhà thơ đã tiếp tục khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây
Tiến:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
đây, Quang Dũng đã mỹ lệ hóa chiếc "áo bào", tấm áo ấy như một sự vinh danh dành cho người lính
danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. "Áo bào thay chiếu" lời nói bi tráng hóa sự hi sinh của
người lính Tây Tiến. Và cụm từ "anh về đất" nghe sao nhẹ nhàng nhưng đó chỉ là cách nói giảm cho sự đau
xót, thương cảm vô hạn. Với người lính Tây Tiến, con sông Mã là con sông của lịch sử, của ký ức tươi đẹp,
người bạn đồng hành trên chặng đường hành quân gian lao vất vả. giờ đây, khi họ ngã xuống,
"gầm" lên khúc tráng ca tiễn biệt người đồng đội của mình. Tiếng âm vang ấy như khúc nhạc độc tấu dành
riêng cho người lính, tiễn đưa họ vào cõi bất tử.
6. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến siêu hay (Mẫu 6)
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian thể phủ dày lên hình ảnh những anh hùng danh
nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc
hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống nền độc lập của Tổ quốc trong suốt
trường kỳ lịch sử. trong thơ Quang Dũng lad dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính
trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó bức tượng đài đã làm cho những
người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm hoa lửa ấy bất tử cùng thời gian:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
"Tây Tiến" của Quang Dũng dòng hồi ức cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những
người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ
yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ.
Chính thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường
hành quân gian khổ hy sinh "đời vẫn cứ tươi" như 14 câu thơ đầu tiên còn khắc tạc hình ảnh của
những người lính với đời sống tình cảm hết sức phong phú. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu
hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hóa, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh
nhằm khắc sâu vào tim người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó
bức tượng đài sừng sững giữa núi cao vực sâu, giữa một không gian hùng vĩ:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giũ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc họa từ những đường nét nhằm đậm cuộc sống
gian khổ của họ. Nếu như những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra với "đoàn quân mỏi" hay
trong đêm lửa trại ấm áp tình quân dân, thì đây người lính hiện lên với vẻ bề ngoài dị khác thường.
Cảm hứng chân thực của Quang Dũng không tránh việc tả cuộc sống gian khổ người lính phải
chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng khiến họ rụng tóc, biến thành những anh "Vệ trọc" khi tuổi mười tám,
đôi mươi. Cũng vì những cơn sốt rét rừng khủng khiếp, da họ xanh xao như lá. Nhưng thế giới tinh thần của
người lính lại cho thấy họ chính những chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo
quân thù, dũng mãnh như hổ báo. Cái hay của Quang Dũng đã lột tả những người lính với những nét
khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng. Câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc"
với những thanh trắc rơi vào âm đầu cuối của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy
âm hưởng câu thơ như vút lên. Chẳng những thế, họ còn cả một đoàn binh. Hai chữ "đoàn binh" âm
Hán Việt đã gợi ra khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ
không chỉ còn tên gọi của đoàn binh nữa, gợi ra hình ảnh một đầu không mọc tóc vẫn đang quả
cảm tiến bước về phía trước. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu
dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính còn thấm sâu màu sắc văn
hóa của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm với
sức mạnh bách chiến bách thắng. Đây hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa, Phạm Ngũ Lão cũng ca
ngợi những anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu."
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân."
thể nói Quang Dũng đã sử dụng một típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm
vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc
câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của hào khí Đông A ngút trời.
Hình tượng người lính Tây Tiến càng trở nên đẹp đẽ hơn khi nhà thơ bổ sung vào bức tượng đài chất hào
hoa, lãng mạn trong tâm hồn của họ:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Trước hết đó một tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người lính dẫu nơi biên cương
hay viễn xứ xa xôi lòng lúc nào cũng hướng về Nội. Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng
qua biên giới" nỗi nhớ niềm thương vẫn hướng về một "dáng kiều thơm" thành. Đã một thời, người
ta phê phán thói tiểu sản, với cái "buồn rớt", "mộng rớt" , thực ra nhờ vẻ đẹp ấy tâm hồn của người
lính sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người
Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên
cường với ý chí sắt thép cũng chính con người đời sống nội tâm phong phú. Người lính Tây Tiến
không chỉ biết cầm súng cầm gương theo tiếng gọi của non sông còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian
khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về "dáng kiều thơm", nhớ về Nội - Thăng
Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau,
vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây
cũng chính là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước
chân vang dội, khí thế hào hùng tâm hồn hết sức lãng mạn thì đây bức tượng đài người lính Tây Tiến
được khắc tạc bằng những hi sinh, mất mát của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh
riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi lụy về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến rất
ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến thường đề cập nhiều đến sự hào hùng ít quan tâm đến cái bi,
Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một
cách chân thực sự hi sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng thế chẳng những không
rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ "rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là
câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như
mỗi lúc nhấn thêm một nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình
ảnh những nấm mồ nơi biên cương ấy đã trở về trong lòng Tổ quốc, về nới niềm biết ơn của nhân dân. Bởi
đó chính nấm mồ của những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đồng thời cũng
chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng
niệm của Tổ quốc đối với người lính đã tiếng gọi của chiến trường hiến dâng tuổi xanh của mình.
Trong thơ Quang Dũng luôn là sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hi sinh của người lính còn được tráng lệ hóa trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh về đất". Bao nhiêu
thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng
không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa như vậy, cảnh tiễn đưa với bao
thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn vì chiến trận.
Hai câu thơ mới đọc qua tưởng như chỉ âm hưởng bi tráng, đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại
một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Hai câu hỏi mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường những sức gợi thật
lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi cảm khái,
thương cảm thật sâu xa. Làm sao thể dửng dưng trước cảnh "anh về đất"? "Anh về đất" hóa thân cho
dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông về xuôi như loại
đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên
bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa sức khái quát, tiêu biểu
cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên kháng chiến chống thực
dân Pháp. Đó bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. thế từ bức
tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh
hùng.
7. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến (Mẫu 7)
"Thơ điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu." Theo dòng ức, ngược về quá khứ, ta bắt gặp không
biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi chúng ta đắm say mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang Dũng một
nhà thơ như vậy. Ông một người rất đỗi tài hoa, không chỉ làm thơ còn vẽ tranh, soạn nhạc. "Tây
Tiến" chính bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Quang Dũng với nét hào hùng, bi tráng cùng cảm hứng lãng
mạn đan xen, hài hòa. thể nói, xuyên suốt bài thơ nỗi nhớ về Tây Tiến, về những người đồng đội, để
rồi lắng đọng và tập trung rõ nét nhất qua bức chân dung người lính Tây Tiến:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Thật vậy, bài thơ Tây Tiến được ra đời trong những năm tháng không thể nào quên của Quang Dũng. Tây
Tiến tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947, nhiệm vụ phối hợp với lực lượng trang
Lào bảo vệ biên giới. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, với
nỗi nhớ đơn vị cũ, đồng đội cũ, ông chắp bút cho ra đời tác phẩm "Tây Tiến", in trong tập "Mây đầu ô" năm
1986. Bài thơ bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên hùng vĩ, về quãng thời gian chiến đấu gian khổ ngày
đêm bên nhau với ý chí, tinh thần quật cường. Đặc biệt hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai
hùng, kiêu ngạo, vừa thơ mộng trữ tình.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vừa chân thực, vừa hào hùng. Nếu hai đoạn thơ trước, thiên nhiên
là nhân vật chính thì khổ ba, con người vượt lên để làm điểm nhấn, chất xúc tác cảm xúc cho bài thơ đến
cao trào.
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đoạn thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. họ mang một hào khí
đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ những cậu sinh viên thành mới từ giã mới trường, gia đình lên đường đi
chiến đấu với bao bỡ ngỡ, lạ lùng, ngây ngô. Nhưng vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó sự oai
hùng của tuổi trẻ, của sự nhiệt huyết bừng cháy. Nhà thơ dùng "không mọc tóc" để miêu tả đoàn binh. Đó
hình ảnh chiến rất khác lạ. Bên cạnh việc ngày đêm phải chống chọi với kẻ thù, họ còn phải gồng mình
vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt. Họ sống chiến đấu nơi rừng thiêng nước độc, nơi sông sâu núi thẳm,
thiếu thốn trăm bề, bị cơn bệnh sốt rét rừng hoành hành đến trọc đầu.
Nhà thơ đã lột tả một cách trần trụi sự khắc nghiệt của thiên nhiên khiến cho họ trở nên dị khác thường.
Đó cũng hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Xanh xao gian khó, bệnh tật những đoàn binh ấy vẫn toát
lên chí khí "oai hùm" khiến kẻ địch phải khiếp sợ. Đó chính nét đẹp đáng kính, đáng khâm phục của quân
đoàn Tây Tiến.
Mặc quyết tâm đánh giặc nhưng trong họ vẫn tỏa ra chất lãng mạn vốn của người lính. Họ không
cứng nhắc, khô khan, cũng những phút giây dành cho mộng mơ tuổi thanh xuân. Họ nhớ về quê hương,
về những bóng dáng thân yêu nơi phố thị Hà thành. Hình ảnh "mắt trừng" là ánh mắt gợi lên sự quyết tâm, ý
chí chiến đấu đánh lui kẻ thù bảo vệ đất nước. thể thấy nhà thơ đã rất khéo léo khắc họa hình tượng
người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ vẻn vẹn qua
bốn câu thơ.
Không chỉ nhắc đến hiện thực đời sống vật chất thiếu thốn, khó khăn, Quang Dũng đã không ngần ngại khi
nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Hình ảnh người lính hi sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt khiến cho người đọc không khỏi tiếc
thương, đau xót. Họ đã cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc, họ ngã xuống nơi biên cương xa xôi hẻo
lánh, họ nằm lại nơi đất khách quê người, không một nén hương, không một vòng hoa tưởng nhớ. Lạnh lẽo,
bi thương nhưng trước khi cầm súng lên đường chiến đấu họ đã xác định ranh giới giữa cái chết sự
sống là quá mong manh. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
"Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa."
Họ mang tuổi trẻ, nhiệt huyết của mình cống hiến cho quê hương. Tuổi trẻ tuổi đẹp nhất của đời người
với bao ước hoài bão hứa hẹn, nhưng họ chẳng tieevs dâng hiến cho Tổ quốc. Đó một sự hi
sinh vĩ đại, thầm lặng đáng ngợi ca và trân trọng biết bao.
Cái chết của họ qua ngòi bút của Quang Dũng không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Hình ảnh "áo
bào" thay "chiếu" khiến ta thấm thía suy ngẫm. Thi nhân đã khéo léo dùng từ Hán Việt để giảm bớt sự bi
thương cho cái chết oanh liệt ấy. Đất Mẹ như ôm ấp, vỗ về, dang tay đón những đứa con vào lòng. Quang
Dũng đã mượn luôn âm thanh của thiên nhiên như khúc ca gợi thêm sự đau thương mất mát. Sông Mã gầm
lên ai oán, mang âm hưởng dữ dội xoáy sâu vào lòng người đọc sự đau thương, mất mát không đắp
được.
8. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến hay nhất (Mẫu 8)
Nếu như những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân hiện lên qua nét vẽ gián tiếp thì đây, đoàn quân ấy
đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc nhưng cũng rất đỗi tài hoa và lãng mạn.
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm, đoàn binh Tây Tiến hiện lên
giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu
xanh của rừng, với nước da xanh xao sốt rét, thiếu thốn. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh
khốc liệt gian khó. Cái hình hài dị "xanh màu lá", "không mọc tóc" tương phản với "dữ oai hùm" là một
nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây
Tiến từng làm cho quân giặc khiếp sợ. "Dữ oai hùm" một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang
tính kế thừa sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh "Sát Thát" thời Trần: "Tỳ hổ ba quân, giáo gươm

Preview text:

Phân tích đoạn 3 bài thơ Tây Tiến chọn lọc hay nhất
1. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến hay nhất (Mẫu 1)
"Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để cho thơ bắt rễ và sinh sôi." (Puskin) Thơ Quang Dũng chân thực như
chính những trải nghiệm của nhà thơ nơi chiến trường. Ngòi bút của Quang Dũng không né tránh những sự
thật bi thương, những mất mát hi sinh nơi chiến trường. Từ những chặng đường hành quân vất vả giữa núi
cao vực sâu, dốc thẳm đến những đêm hội liên hoan ấm áp tình quân dân đều được tác giả tái hiện một cách chân thực.
Nếu ở những đoạn thơ đầu, người lính Tây Tiến xuất hiện gián tiếp trong khung cảnh núi rừng miền Tây với
những bước chân hành quân ra trận thì đến khổ thơ thứ ba, hình ảnh các anh được khắc họa trực tiếp với
vẻ đẹp lãng mạn nhưng đậm chất bi tráng. Ở hai câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã vẽ ra chân dung người lính
Tây Tiến với bề ngoài kì dị khác thường:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Người lính Tây Tiến hiện lên với hình ảnh "không mọc tóc". "Không mọc tóc" bởi những cơn sốt rét rừng
triền miên, cũng có thể do các anh tự cạo trọc đầu. Câu thơ còn có thể hiểu như các anh không thèm mọc
tóc, không cần mọc tóc, biểu hiện một thái độ coi thường gian khổ hiểm nguy. Từ những chàng trai Hà
Thành vốn hào hoa lịch lãm, người lính Tây Tiến trở thành những anh "vệ trọc" với mái đầu không tóc.
Bên cạnh không mọc tóc còn là "quân xanh". Đó là màu xanh của bộ quân phục, màu xanh của lá ngụy
trang hay là màu xanh của nước da vàng vọt xanh xao do khó khăn bệnh tật. Màu xanh của nước da như
hòa vào màu xanh bạt ngàn của núi rừng, lột tả được hiện thực đầy khắc nghiệt của chiến tranh.
Vẻ đẹp lãng mạn bi tráng của những người lính Tây Tiến không chỉ thể hiện qua dáng vẻ bề ngoài mà còn
thể hiện qua đời sống tâm hồn với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa.
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
"Mắt trừng" là ánh mắt luôn hướng về phía trước, luôn ngời lên ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng.
Đó là ánh mắt của lòng căm thù, của tinh thần cảnh giác và sự cả sự kiên cường vững chãi. Các anh gửi
mộng qua biên giới, là giấc mộng đánh đuổi quân xâm lăng, lập nên chiến công, bảo vệ non sông đất nước.
Ý chí của người lính thì mạnh mẽ can trường nhưng lại vô cùng lãng mạn, trái tim luôn rạo rực yêu đời. Vốn
xuất thân từ những học sinh, sinh viên Hà Nội, dù trải qua gian khổ ác liệt của chiến tranh nhưng tâm hồn
của các anh vẫn rất mộng mơ, lãng mạn, đắm say. Sau một ngày đối mặt với bom đạn chết chóc, đêm về
các anh lại mơ về một dáng "kiều thơm" nơi đất Hà Thành. Nếu người lính trong "Đồng chí" của Chính Hữu
nhớ về quê hương "nước mặn đồng chua", về "giếng nước gốc đa", mái tranh nghèo và người vợ trẻ mòn
chân bên cối gạo canh khuya, một giấc mơ mộc mạc chân tình như ca dao tục ngữ, thì người lính Tây Tiến
lại nhớ về những dáng "kiều thơm", bóng dáng thướt tha, yểu điệu của những thiếu nữ nơi đường phố Hà
Thành. Một giấc mộng thật trẻ trung, sôi nổi của thời tuổi trẻ, gợi lên vẻ hồn nhiên, đa tình và cũng rất đáng
yêu của người lính. Tình yêu lứa đôi trở thành bệ phóng nâng đỡ vun đắp cho tình yêu quê hương đất
nước. Chính giấc mơ của tuổi trẻ ấy đã cân bằng cuộc sống, tạo ra động lực tinh thần và tiếp thêm sức
mạnh để người lính vững bước trên những chặng đường hành quân gian khổ phía trước.
"Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu." (Nguyễn Đình Thi)
Hay nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng viết:
"Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ như cha như vợ chồng
Ôi Tổ quốc khi cần ta chết
Cho mỗi căn nhà, ngọn núi dòng sông."
Quang Dũng đã xây dựng được hình ảnh tập thể những người lính Tây Tiến với bao gian khổ hi sinh nhưng
không hề nhấn chìm người đọc vào cảm giác bi lụy. Cảm hứng của nhà thơ mỗi lần chìm vào đau thương
lại được nâng lên bởi đôi cánh lãng mạn, đôi cánh lý tưởng. Vì thế chân dung người lính Tây Tiến hiện lên
không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
"Cuộc bể dâu mà còn người nhìn thấy trong văn thơ dân tộc là máu trong trái tim người nghệ sĩ." (Tố Hữu)
Mỗi tác phẩm văn học phải hướng đến hiện thực đời sống , nêu được đặc điểm của thời đại mà nó ra đời.
Và trong thơ Quang Dũng cũng đã hút được cái nhụy ấy của cuộc sống , đã dám nhìn thẳng vào sự thật với
những mất mát, đau thương, đã không ngần ngại nói đến cái chết và sự ra đi của người lính Tây Tiến.
Chiến tranh vốn khốc liệt, đã có biết bao người lính vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường, nơi chân đèo dốc
núi, nơi biên cương xa xôi lạnh lẽo. Ngôi mộ của các anh trở thành những nấm mồ ẩn mình giữa rừng sâu
biên giới hoang vu, heo hút. Các anh ra đi trong lặng lẽ, không một mảnh chiếu che thân. Đồng đội vùi xác
các anh vào lòng đất trong sự thiếu thốn tột cùng. Hiện thực nghiệt ngã ấy đã khơi gợi niềm xót xa đau đớn
và sự ngậm ngùi thương cảm của người đọc.
Đau thương, mất mát, hi sinh là vậy nhưng qua cách diễn đạt của Quang Dũng, sự ra đi của người lính Tây
Tiến vẫn thật hào hùng, dũng mãnh. Quang Dũng nói đến cái chết chỉ đủ gây thương cảm cho người đọc từ
đó làm nổi bật chí khí và tầm vóc của các anh. Cái đau thương bị át đi ngay ở câu thơ nói về bi thương bởi
cách sử dụng từ ngữ Hán Việt (biên cương, viễn xứ). Những từ ngữ Hán Việt này không chỉ làm giảm đi sự
mất mát hi sinh mà còn gợi lên sự tôn nghiêm vĩnh hằng, sự thành kính thiêng liêng trong sự ra đi của người lính.
Nhà thơ đã khẳng định lý tưởng và tư thế lên đường của người lính,vút lên như một lời thề thiêng liêng của
những tráng sĩ thời loạn "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh." "Chẳng tiếc" là cách nói ngang tàng đầy khí
phách, là thái độ tự nguyệnkhông ép buộc và một tâm trạng hết sức thanh thản. Họ sẵn sàng hiến dâng đời
với biết bao hi vọng, mộng mơ, sẵn sàng hi sinh vì đất nước, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Lý tưởng ấy
thật cao cả, đẹp đẽ, sáng người ý chí quyết tâm. Đây cũng là tâm nguyện của những thanh niên Việt Nam
thời chống Mỹ trong thơ thơ của Thanh Thảo:
"Chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi tổ quốc."
Với cái nhìn lãng mạn, Quang Dũng đã khiến cho sự ra đi của người lính Tây Tiến thật hào hùng, sang trọng
và cao đẹp bởi hình ảnh "áo bào thay chiếu", đưa các anh về với đất mẹ. Chiếc áo của người lính được thi
vị hóa trở thành áo bào, vừa cổ kính trang trọng lại vừa gần gũi thân thương. Các anh ra đi không có da
ngựa bọc thây như những chiến tướng thuở xưa nhưng đã có áo bào lẫm liệt đưa các anh về với núi sông.
Cách dùng từ ngữ của Quang Dũng cũng thật độc đáo. Nhà thơ không dùng từ "chết" mà là "về đất". Cách
nói giảm đã làm vơi bớt đi nỗi đau thương để cái chết ấy trở thành bất tử. Với người lính chết chưa phải là
hết, nó không phải là sự ra đi mà là cuộc hành trình trở về với đất mẹ thân yêu. Người mẹ hiền đất nước
đang dang rộng vòng tay để đón các anh về. Linh hồn các anh đã hóa thân vào sông núi để còn mãi với núi
sông, để làm nên vóc dáng, hình hài của đất nước. Sự ra đi ấy thật thanh thản nhẹ nhàng.
"Ôi đất nước 4000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta." (Nguyễn Khoa Điềm)
Người lính Tây Tiến ra đi đã có dòng sông Mã tấu lên khúc nhạc trầm hùng tiễn đưa linh hồn các anh. Sông
Mã là con sông của hoài niệm chuyên chở nỗi nhớ của người lính, giờ đây nó là nhân chứng cuối cùng
trong cuộc đời của các anh. Tiếng gầm thét của sông Mã là biểu hiện cao độ cho sự mất mát, cho nỗi tiếc
thương và cả niềm uất hận. Nó như một con chiến mã trung thành đang gầm rú, gào thét vì sự ra đi của chủ
tướng. Dường như cả đất trời núi sông, cả quê hương đều đang nghiêng mình tiễn biệt người lính trong âm
hưởng hào hùng và dữ dội của sông Mã.
"Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt. Một mật ngọt thành đòi vạn chuyến ong bay." Nhà thơ
Quang Dũng đã có quá trình sáng tạo nghệ thuật đầy công phu, nghiêm túc thậm chí là khổ hạnh để tạo nên
một kiệt tác văn chương để đời. Bài thơ Tây Tiến đã khắc họa thành công chân dung của những người lính
Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn, bi tráng, từ đó làm nổi bật tài năng và phong cách nghệ thuật của Quang
Dũng với sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, sự hòa quyện giữa chất thơ, chất họa, chất nhạc
của một hồn thơ đầy tài hoa phóng khoáng.
2. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến chọn lọc (Mẫu 2)
Những bài thơ hay thường tạo nên nhiều rung cảm thẩm mỹ nơi người đọc, thậm chí còn gây nên nhiều
tranh luận xung quanh các câu chữ, hình ảnh, cảm xúc,... "Tây Tiến" của Quang Dũng là một trong những
bài thơ như thế. Hơn nửa thế kỉ trôi qua, Tây Tiến không chỉ đứng vững mà còn có sức sống kì diệu . Trong
tâm hồn thi nhân, Tây Tiến là một thời để thương, để nhớ những kỉ niệm của người chiến binh trong
những ngày tháng sống và chiến đấu cùng binh đoàn, nhớ cảnh rừng núi Tây Bắc vừa hiểm trở vừa hùng vĩ
vừa không kém phần thơ mộng, nhớ những tháng ngày hành quân gian khổ, nhớ những kỉ niệm đẹp đẽ,
những thời khắc nghỉ lại bản làng đầm ấm, thắm thiết tình quân dân... Nếu như ở hai đoạn đầu của bài thơ,
người đọc được tiếp cận với hình ảnh người lính một cách gián tiếp thì đoạn thơ thứ ba trực tiếp khắc họa
chân dung người lính Tây Tiến:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
.....................
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Lúc bấy giờ, Quang Dũng còn có những gương mặt quen thuộc như bác sĩ Phạm Ngọc Khuê, đại đội
trưởng - nhạc sĩ Như Trang, nhà thơ Trần Lê Văn. Họ đều là những chàng trai Hà Thành còn rất trẻ. Binh
đoàn Tây Tiến phần đông là thanh niên tri thức Hà Nội đang theo học tại các trường Sư phạm, Bưởi, Thăng
Long, Văn Long,... Họ mang vào chiến trường không chỉ tinh thần "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" mà
còn cả những nét hào hoa, thanh lịch của người Tràng An. Cuộc sống chiến đấu gian khổ thiếu thốn không
ngăn được lính Tây Tiến vui vẻ, sôi nổi, yêu đời và mộng mơ. Tố chất người Tràng An thấm nhuần trong
máu, tủy và hồn, là một chàng trai đa tài, lại đã từng là đại đội trưởng một đại đội thuộc binh đoàn Tây Tiến,
Quang Dũng đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lính Tây Tiến, đem đến cho người đọc những
rung cảm thẩm mĩ về những chiến sĩ hào hùng mà rất đỗi hào hoa. Hình tượng người lính trong thơ Quang
Dũng thấp thoáng dáng dấp của những chinh phu trong văn học cổ, hay người hùng nước Vệ dứt áo lên
đường, không hẹn ngày trở lại.
Thời chống Pháp, thơ viết về anh bộ đội thường viết về những người nông dân mặc áo lính với vẻ đẹp bình
dị, mộc mạc. Rồi "Đồng chí" của Chính Hữu, "Cá nước" của Tố Hữu đều miêu tả người lính chân quê:
"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày."
( "Đồng chí" - Chính Hữu)
Người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng vừa có những đặc điểm riêng lại vừa được khắc họa theo một
bút pháp riêng. Bằng bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng triển khai trên nền ký ức (nỗi nhớ), Quang
Dũng đã dựng lên tượng đài bằng thơ về người lính Tây Tiến. Đó là bức chân dung lẫm liệt, oai hùng:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm"
Một số ý kiến cho rằng đây là hình ảnh tột đỉnh của sự độc đáo. Ngược lại, một số cho rằng hình ảnh "đoàn
binh không mọc tóc" và "dữ oai hùm" là không chân thực, thậm chí còn làm cho hình ảnh người bộ đội thời
chống Pháp trở nrnr kì dị khác thường. Cảm nhận thơ như vậy vừa chưa đúng với đặc trưng của bút pháp
lãng mạn, vừa chưa thật hiểu đầy đủ thực tế của cuộc kháng chiến. Thực tế kháng chiến chống Pháp không
chỉ những là anh bộ đội "lá ngụy trang reo với gió đèo" mà còn có cả những "anh vệ trọc" nổi tiếng một thời.
Cho nên, hình ảnh "đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", "dữ oai hùm" vừa là một thực tế, vừa là
sản phẩm của cảm hứng và bút pháp lãng mạn.
"Đoàn binh không mọc tóc" là hình ảnh đoàn quân không có tóc, hậu quả của những con sốt rét rừng hoặc
phải sống triền miên nơi rừng thiêng nước độc. "Quân xanh màu lá" nghĩa là đoàn quân có nước da xanh
như màu lá - đây cũng là hậu quả của những cơn sốt rét rừng, và cả do gian khổ và thiếu thốn, thế nhưng
đoàn binh vẫn toát lên vẻ "dữ oai hùm", nghĩa lad vẫn dữ tợn như loài hổ báo của rừng xanh. Đây là cách ví
người hùng theo lối cổ chứ không phải "làm xấu đi hình ảnh anh bộ đội" như có người đã nghĩ.
Âm hưởng đoạn thơ hào hùng do nhấn mạnh tính chất oai phong lẫm liệt của "đoàn binh". Cách miêu tả
chân dung người lính Tây Tiến khiến ta nhớ tới câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần cũng miêu tả người
tráng sĩ với "hào khí Đông A":
"Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"
(Múa giáo non sông đã mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt cả sao Ngưu)
Vẻ đẹp của câu thơ chính là ở tinh thần bi tráng lẫm liệt của đoàn binh Tây Tiến, một vẻ đẹp có sự cộng
hưởng của âm vang truyền thống và tinh thần thời đại, giữa những chiến binh năm xưa với người lính cụ Hồ hôm nay.
Hai câu thơ tiếp theo đã khắc họa một cách sinh động đời sống tâm hồn của những chiến sĩ Tây Tiến:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
"Hai câu thơ như nhốt cả hai thế giới." (Vũ Quần Phương), "thấy nổi lên lời độc tấu của những chàng trai Hà
Nội" (Đặng Anh Đào) vừa rất hào hùng lại rất hào hoa. Hình ảnh "mắt trừng" thể hiện ý chí quyết tâm ngùn
ngụt của ngọn lửa chiến đấu bảo vệ biên cương Tổ quốc. Hình ảnh ấy cũng biểu hiện hoài bão, khát vọng
lập công và cháy bỏng căm thù của người lính Tây Tiến. Và ngay trong cuộc chiến đấu gian khổ dữ dằn đó,
những người lính vẫn để tâm hồn cho những hình ảnh thật dịu hiền, thân thương: "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Chiến tranh thật tàn khốc những chiến tranh không thể cướp được chất hào hoa của những chàng trai Hà
thành. Không gì có thể ngăn được những phút giây mơ mộng trong tâm hồn người lính. Có một thời, người
ta gán cho "Tây Tiến" những "mộng rớt", "buồn rớt" chính là vì những câu thơ như thế này. Thực ra câu thơ
đã diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn đạt rất thành công vẻ đẹp
này trong bài thơ "Đất nước":
"Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu."
Khác với nỗi nhớ của người lính trong thơ Nguyễn Đình Thi và các nhà thơ khác, Quang Dũng thể hiện tình
cảm của người lính qua giấc mơ, khiến cho nỗi nhớ cũng lãng mạn như chính tâm hồn của họ vậy. Giấc mơ
đã nâng đỡ tâm hồn con người. Thật sang trọng và hào hoa!
Nói đến chiến tranh, nói đến đời lính không thể không nói đến cái chết. Quang Dũng cũng không né tránh và
nhà thơ đã nói theo cách riêng của mình:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Chất "tráng sĩ ca" được bộc lộ một cách hào hùng và cũng đầy bi tráng. Nhà thơ mượn một ý thơ cổ (Chinh
phụ ngâm) nhưng tình ý thì rất mới. Ba chữ "mồ viễn xứ" gợi cảm giác buồn thầm lặng - sự hy sinh thầm
lặng của những chiến sĩ vô danh. Ý nghĩa câu thơ mở ra thật lớn: "rải rác" nơi đây đó nơi "biên cương",
những nấm mồ "viễn xứ: không một vòng hoa, không một nén hương, thật lạnh lẽo, thê lương. Bức tranh
chiến trận sẽ trở nên ảm đạm nếu nhìn bi quan như vậy. Nhưng hồn thơ Quang Dũng mỗi khi chạm vào cái
bi thương lại được nang đỡ bởi đôi cánh lí tưởng. Câu thơ sau như một lực nâng vô hình đã đưa câu thơ
trước lên cao. "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Cái bi thảm bỗng trở nên bi tráng. Với tinh thần dấn
thân, tự nguyện, quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất họ đã hiến dâng cho một lý tưởng cao đẹp nhất. Họ
ngã xuống thanh thản không chút vướng bận, không mảy may hối tiếc, cái chết được xem như "nhẹ tựa lông hồng".
Viết về chiến tranh, nhiều nhà thơ đã né tránh cái chết. Còn Quang Dũng cảm nhận cái chết như là một hiện
thực tất yếu của chiến tranh. Cái chết của những người lính qua con mắt thơ của Quang Dũng rất đỗi hùng
tráng mà không hề giả dối. Cái bi tráng của câu thơ đã khẳng định được phương châm sống của cả một thế
hệ cha anh trong những năm tháng chống Pháp gian khổ: "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Có hiểu được
ý chí sắt đá của một dân tộc mới thấy hết được cái hay trong câu thơ Quang Dũng.
Hai câu sau vẫn tiếp tục nói đến cái chết trong âm hưởng sử thi hào hùng ấy:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Nhà thơ đã nói lên một sự thật bi thảm là: Người lính hi sinh trên đường hành quân đến một manh chiếu
liệm cũng thiếu. Con mắt thơ Quang Dũng đã bao bọc đồng đội mình trong những tấm "áo bào" sang trọng.
"Áo bào" là sự kết hợp hai từ "áo vải" và "chiến bào" khiến cho "áo bào" vừa bình dị vừa sang trọng. Đây là
cách nói mà theo Quang Dũng là để "an ủi linh hồn những người lính". Xuất phát điểm là tình yêu đồng đội.
Chính tình yêu thương đã khiến hồn thơ hào hoa Quang Dũng tìm được hình ảnh đẹp để "sang trọng hóa"
cái chết của người lính. Người lính ngã xuống với chiến bào đỏ thắm trong vầng hào quang lồng lộng của
các chiến binh xưa. "Áo bào thay chiếu anh về đất". Câu thơ mang sức ngợi ca. Không thể tìm được từ nào
hay hơn để thay thế cho từ "về đất" trong câu thơ này. "Về đất" không những diễn tả được sự hi sinh của
người chiến sĩ mà còn thể hiện được sự trân trọng, yêu thương của những người đồng đội ở lại. "Về đất" là
là hòa vào linh hồn đất nước để bất tử cùng hồn thiêng sông núi và trường tồn cùng Tổ quốc. Dòng sông
Mã đã tấu lên "khúc độc hành" dữ dội hùng tráng để tiễn đưa hương hồn người chiến sĩ với bao tiếc
thương, cảm phục. Những mất mát đau thương như dồn nén, tích tụ trong tiếng gầm vang rung chuyển cả
núi rừng của dòng sông Mã. Các anh đã hi sinh cho mảnh đất này nảy nở đầy thơ, đầy nhạc và cùng với
thiên nhiên, linh hồn các anh vẫn hát mãi khúc quân hành.
Đặc sắc của đoạn thơ không chỉ ở thủ pháp đối lập mà còn bộc lộ trong việc dùng từ, đặc biệt là dùng các
động từ. Nhà thơ Vũ Quần Phương nhận xét: "Nội lực trong cảm hứng thơ Quang Dũng thường dội xuống
ở các động từ." Động từ "gầm" trong câu thơ khiến âm hưởng cứ âm vang mãi như dội vào núi rừng miền
Tây và ngân lên trong tâm hồn độc giả. Cộng hưởng với các từ Hán Việt, nhà thơ đã đưa người đọc vào
một không gian cổ kính, trang trọng. Tất cả những thủ pháp nghệ thuật đó đã bộc lộ được sự hài hòa giữa
cái bi và cái hùng tạo nên chất bi tráng trong bức tượng đài cao cả về người lính Tây Tiến.
Đây là đoạn thơ mang tính chất cao trào trong toàn bộ khúc độc hành Tây Tiến. Chất bi tráng đã tạo nên
một tượng đài độc đáo về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ khép lại nhưng cùng với khúc độc hành của dòng
sông Mã, âm hưởng Tây Tiến vẫn vang cả núi rừng và vọng qua năm tháng.
3. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến ngắn gọn (Mẫu 3)
Nếu như đoạn đầu của bài thơ là nỗi "nhớ chơi với" với bao kỉ niệm đẹp và cảm động của một thời trận
mạc đầy gian khổ, hi sinh thì tám câu thơ đoạn ba lại khắc họa khí phách anh hùng và tâm hồn lãng mạn
của người chiến sĩ trong máu lửa., qua đó thể hiện rõ niềm tự hào của tác giả. Bốn câu thơ đầu tác giả đã
khắc họa thành công hình ảnh của người lính Tây Tiến trong những năm tháng hào hùng của dân tộc:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Mở đầu khổ thơ là đảo ngữ "Tây Tiến" nhằm nhấn mạnh khắc sâu ấn tượng về một cái tên Tây Tiến, chỉ
riêng cái tên thôi đã gợi trong lòng thi nhân biết bao kỉ niệm về một đời không thể nào quên. Không chỉ vậy,
vượt qua gió bụi của thời gian, "Tây Tiến" đã đi vào lịch sử như một đoàn binh có một không hai, là chủ
nhân của một thời đại gian khổ nhưng hào hùng của dân tộc. Bên cạnh đó, những người lính Tây Tiến với
cái tên "đoàn binh" là từ Hán Việt gợi cảm giác về một đoàn quân được trang bị đầy đủ và tinh nhuệ. Qua
bút pháp tả thực, cụm từ "không mọc tóc" hiện lên đầy ấn tượng qua cách sử dụng bút pháp đề cập đến sự
khốc liệt của chiến tranh. Đó là những cơn sốt rét rừng hành hạ khiến cho người lính Tây Tiến bị rụng hết
tóc. Trong văn học kháng chiến không ít lần chúng ta bắt gặp hình ảnh của những cơn sốt rét rừng. Nhà thơ
Nguyễn Đức Mậu từng viết:
"Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân"
Cách diễn đạt của Quang Dũng thật độc đáo khi chuyển "không mọc tóc" từ thế bị động sang thế chủ động,
đó là không thèm mọc tóc khiến cho người đọc cảm nhận về một đoàn quân kiêu hùng ngang tàng, bất
chấp mọi hiểm nguy, gian khổ. Họ vẫn kiêu hãnh nhìn thẳng về phía trước, lạc quan hài hước và hóm hỉnh.
Trong sự thiếu thốn trăm bề ấy là hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên chân thực và oai hùng: "Quân xanh
màu lá dữ oai hùm". Xanh màu lá là hình ảnh tả thực: màu xanh ấy có thể là màu xanh của quần áo lính,
màu lá ngụy trang, hay đó có thể là nước da xanh xao do cơn sốt rét rừng, do thiếu thốn và bệnh tật. Nhưng
độc đáo hơn là cụm từ "dữ oai hùm" qua bút pháp ẩn dụ độc đáo. Bên trong hình tượng tưởng chừng như
tiều tụy ấy là cả một khí phách, một bản lĩnh kiên cường, một sự oai nghiêm dữ dằn đầy sức mạnh như một
vị chúa sơn lâm. Đúng như nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét: "Lối viết của Quang Dũng thật tài hoa.
Nói được lính ốm mà không thấy lính yếu."
Gian khổ, ác liệt, thiếu thốn, bệnh tật,... muôn lần khó khăn, thử thách nhưng họ vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Chân dung người chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng, oai phong trong dáng vẻ dữ dội, uy nghi
mà còn được thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn. "Mắt trừng" là từ để diễn tả ánh nhìn đầy sự quyết
tâm nung nấu, chứa đựng bao hoài bão. Đó là cái nhìn đầy oai phong lẫm liệt. Còn "mộng" là ước mơ giết
giặc lập công của những người chiến sĩ. Đó là cái mộng để hướng tới hòa bình độc lập, bảo vệ quê hương
tổ quốc. Đây là cái mộng cao cả xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước. Mộng của người chiến sĩ Tây
Tiến rất giống với quan niệm nợ công danh của những trang hào kiệt, đấng nam nhi thời Trung đại. Mộng thì
gửi về biên cương nhưng mơ thì hướng về Hà Nội:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Sống giữa núi rừng miền Tây, gian khổ, ác liệt, cái chết bủa vây, lửa đạn mịt mù, nhưng các anh vẫn mơ về
Hà Nội. Quên sao được những hàng me, hàng sấu, những phố cũ trường xưa, "những phố dài xao xác hơi
may"? Quên sao được những tà áo trắng, những thiếu nữ thân yêu, những "dáng kiều thơm" từng hò hẹn.
Đó có thể là người vợ, người yêu hay một người em gái chưa từng dám ngỏ lời. Câu thơ thể hiện cái nhìn
lãng mạn, đa tình, cũng như gửi gắm khát khao thầm kín về hạnh phúc lứa đôi. Bởi chiến sĩ Tây Tiến vốn là
những học sinh, sinh viên, những chàng trai Hà Thành "xếp bút nghiên theo việc đao, cung", giàu lòng yêu nước, phong độ hào hoa.
"Từ thuở mang gươm đi giữ nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long." (Huỳnh Văn Nghệ)
Quang Dũng đã khắc họa thành công hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ ngòi xanh xao, tiều tụy nhưng
mang một ý chí mạnh mẽ, tư thế chiến đấu oai hùng, tinh thần yêu nước thiết tha và tâm hồn lãng mạn hào
hoa. Đó cũng chính là một nét khám phá mới của nhà thơ khi vẽ chân dung anh bộ đội cụ Hồ xuất thân từ
tầng lớp tiểu tư sản trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh đó đoạn thơ như một khúc hùng ca
bi tráng và oai hùng về một thời đại không thể nào quên với Quang Dũng và những người lính Tây Tiến qua
sự kết hợp tài tình giữa bút pháp lãng mạn và bút pháp hiện thực, sử dụng thành công các biện pháp tu từ:
ẩn dụ, đảo ngữ,... cùng một lối diễn đạt giàu cảm xúc, giàu hình ảnh.
Chiến tranh đã lùi xa, hòa bình lập lại nhưng có lẽ hình ảnh những người chiến sĩ đã ngã xuống vẫn in sâu
trong từng tấc đất, bản làng, ngõ xóm. Tưởng chừng tất cả đã qua đi nhưng hinhf ảnh xương máu của cha
ông một lần nữa được tái hiện trong âm hưởng bi tráng và niềm tự hào dân tộc:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Câu thơ đầu đem đến một cảm giác buồn bã, ảm đạm về cái chết "rải rác biên cương mồ viễn xứ". Nhịp
ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ vào chữ mồ, một âm tiết mang thanh bằng ở âm vực thấp, một từ gợi ý
nghĩa hiện hữu của cái chết, câu thơ vì thế đem đến cảm giác trầm buồn và ảm đạm. Trong đoạn thơ sử
dụng rất nhiều từ Hán Việt: biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào. Tất cả được sử dụng một cách trang
nghiêm như những nén tâm hương thắp lên để tưởng nhớ những người chiến sĩ đã hi sinh vì tổ quốc. "Mồ"
chỉ nắm đất đắp vội chôn ngay dọc đường hành quân để đoàn quân tiếp tục lên đường. Đặt trong không
gian nơi biên cương miền viễn xứ khiến nấm mồ ấy gợi bao xót xa. Khi nằm xuống, bất cứ ai cũng mong trở
về nơi quê hương đất mẹ, được vùi mình xuống dòng nước mát quê hương. Nhưng ảm đạm thay họ phải hi
sinh nơi đất khách quê người gợi biết bao thương tiếc. Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật đảo
"rải rác" lên đầu câu sự thưa thớt. Đó là những nấm mồ nằm lẻ loi dọc đường hành quân, cũng là nơi
những người lính Tây Tiến đã nằm xuống. Đó cũng chính là hiện thực chiến tranh tàn khốc mà không ai có
thể trốn tránh. Nhờ đó, cảm giác ảm đạm ngậm ngùi trong câu năm đã nhanh chóng được xóa đi bởi tứ thơ
mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Nếu tách câu thơ trên ra khỏi đoạn thơ thì nó tựa như bức tranh xám lạnh, ảm đạm và hiu hắt, đem đến
nhiều xót thương. Nhưng nằm trong văn cảnh, đoạn mạch, câu thơ tiếp theo: "Chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh" đã nâng cao chí khí và tầm vóc người lính. Nghệ thuật đảo trong cụm từ "chiến trường đi" nhấn
mạnh điểm đến. Chiến trường chính là nơi sủng nổ bom rơi đầy gian khổ hi sinh. Nhưng chiến trường cũng
chính là lựa chọn đầy trách nhiệm của cả thế hệ trẻ vì đối với họ "đường ra trận mùa này đẹp lắm". Và cuộc
đời đẹp nhất là trên trận chiến đấu chống quân thù.
Hơn hết, cách nói "chẳng tiếc đời xanh" cho thấy sự dứt khoát quyết tâm. "Đời xanh" là tuổi trẻ, là thanh
xuân của những "chàng trai chưa trắng nợ anh hùng", những học sinh, sinh viên Hà Nội. Họ "quyết tử cho
Tổ quốc quyết sinh", câu thơ vang lên như một lời thề thiêng liêng cao cả. Các anh quyết đem xương máu
để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Chúng ta cũng từng thấy tinh thần ấy trong "Trường ca những
người đi tới biển" của nhà thơ Thanh Thảo:
"Chúng tôi đi chẳng tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi thì làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc."
Anh bộ đội cũng như nhân dân ta đã đứng lên kháng chiến với quyết tâm sắt đá. Chúng ta thà hi sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu làm nô lệ. Quang Dũng ghi lại cảnh bi tráng giữa chiến chiến trường miền Tây thuở ấy:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Hình ảnh "áo bào thay chiếu" là một hình ảnh chân thực đến xót xa của chiến tranh. Đó là sự thiếu thốn về
vật chất. Họ hi sinh chỉ có tấm chiếu chôn vào lòng đất. Nhưng ở đây không có chiếu mà có áo bào. Hình
ảnh áo bào có lẽ chính là tấm áo lính họ mặc chiến đấu hàng ngày, nó giống áo bào của những tráng sĩ
xưa. Cách nói như vậy là để vinh danh những người lính Tây Tiến như cách tráng sĩ có da ngựa bọc thây,
áo bào bọc thây. Quang Dũng có kể lại: "Khi tử sĩ nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm, nói áo bào thay
chiếu là mượn cách nói của thơ trước đây để an ủi những đồng chí vừa ngã xuống". Còn cụm từ "về đất" là
cách nói giảm nói tránh nhưng có ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng và sâu xa. Chết không phải đi vào cõi hư
vô mà là trở về với đất mẹ thân yêu. Đất mẹ mở lòng đang dang tay đón những đứa con ưu tú của mình.
Các anh đã ngã xuống để hóa thân cho dáng hình xứ sở để mỗi tên làng, tên sông, tên núi đều có hình bóng các anh.
Hình ảnh con sông Mã lại một lần nữa xuất hiện: mở đầu cho cuộc hành trình trở về Tây Tiến trong kí ức
của nhà thơ là con sông Mã. Và lúc này khi đưa tiễn những con người trở về với đất mẹ cũng là con sông
Mã. Với nghệ thuật nhân hóa "sông Mã gầm" dòng sông ấy gầm lên trong cơn giận dữ đau thương và uất
nghẹn. Đau thương ấy sẽ biến thành sức mạnh của lòng căm thù. Hơn hết "độc hành" tức là một mình.
Những người lính Tây Tiến hi sinh là những mất mát không gì bù đắp được, để lại sự thương tiếc xót xa và hụt hẫng.
Đoạn thơ viết về chân dung người lính trong bài thơ Tây Tiến là đoạn thơ độc đáo nhất. Khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn được nhà thơ kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc, tạo
nên những câu thơ có hồn. Người lính đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến
mãi mãi là một tượng đài nghệ thuật bi tráng in sâu vào tâm hồn dân tộc: "Anh Vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế!"
4. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng (Mẫu 4)
Nhớ Tây Tiến, Quang Dũng không chỉ nhớ núi rừng mà còn nhớ những người đồng đội cùng trèo đèo lội
suối, vượt qua muôn ngàn thử thách, vào sinh ra tử. Nhà thơ đã hồi tưởng và vẽ lại bức chân dung của họ
với vẻ đẹp đậm chất bi tráng. Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây
Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể, khái quát được gương mặt chung của cả quân đoàn. Người lính ấy
phải sống trong điều kiện sinh hoạt, chiến đấu gian khổ, thiếu thốn nên có một vẻ bề ngoài kì dị khác thường:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Hai câu thơ đã đề cập đến một hiện thực, đó là căn bệnh sốt rét hiểm nghèo mà người lính thường mắc
phải. Nhà thơ Chính Hữu trong bài thơ "Đồng chí" cũng đề cập đến căn bệnh này: "Anh với tôi biết từng cơn
ớn lạnh - Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi." Quang Dũng trong bài thơ cũng không che giấu những gian
khổ, khó khăn, căn bệnh quái ác và sự hi sinh lớn lao của người lính Tây Tiến, nhưng hiện thực nghiệt ngã
ấy lại được nhìn qua một tâm hồn lãng mạn. Những cái đầu cạo trọc để thuận lợi cho việc cận chiến, những
cái đầu bị rụng tóc, vẻ xanh xao vì thiếu thốn, sốt rét của những người lính qua cái nhìn của Quang Dũng lại
trở nên oai phong, dữ dằn, lẫm liệt như những con hổ chốn rừng thiêng.
Những người lính ấy một mặt đầy oai hùng, một mặt lại rạo rực yêu thương:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
Các chàng trai Tây Tiến với đôi mắt thao thức "trừng" lên quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ nhưng trái tim vẫn
để dành chỗ cho những dáng kiều thơm chốn Hà thành, những người em, những người bạn gái thân
thương nơi quê nhà. Quang Dũng với cái nhìn nhiều chiều, đã khắc họa chân dung người lính không chỉ ở
dáng vẻ bề ngoài mà còn thể hiện được thế giới nội tâm, tâm hồn mộng mơ lãng mạn, phong phú của họ.
Trong chiến tranh, mất mát hi sinh là không tránh khỏi. Quang Dũng đã nêu lên hiện thực này không che
giấu theo cách riêng của ông:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng như "biên cương", "viễn xứ", "chiến trường" kết hợp với từ láy "rải
rác" đã làm giảm nhẹ yếu tố bi thương, làm những đau thương vì mất mát lắng xuống. Điều nổi bật lên là vẻ
đẹp lãng mạn của lí tưởng quên mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến. Cách nói "chẳng
tiếc đời xanh" vang lên khảng khái khẳng định vẻ đẹp hào hùng của các chàng trai Tây Tiến. Hai câu thơ:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Nhắc đến một sự thật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường hành quân chiến đấu không
có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng lại được bọc trong những tấm áo bào sang
trọng mang dáng dấp của những tráng sĩ oai hùng thuở xưa, rồi cái bi ấy bị lấn át hẳn đi trong tiếng gầm
thét dữ dội của sông Mã. Quang Dũng đã mượn âm thanh của dòng sông, của thiên nhiên, của hồn thiêng
Tây Bắc để nói lời từ biệt, lời biết ơn ngợi ca đồng đội. Câu thơ mang âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng
khiến cho sự hi sinh của người lính không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.
Đoạn thơ thứ ba có giọng điệu chủ đạo là trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân
trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Đoạn thơ với cảm hứng lãng mạn, ngòi bút sắc
sảo, táo bạo, trên nền hiện thực nghiệt ngã đã chạm khắc chân dung tập thể những người lính Tây Tiến
đậm chất bi tráng. Quang Dũng qua khổ thơ này đã bộc lộ sâu sắc sự gắn bó, ám ảnh, ghi nhớ hình ảnh về
đồng đội những ngày gian khổ nơi núi rừng miền Tây. Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại như cái thời
mơ mộng, lãng mạn hào hùng đến nhường ấy trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
5. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến dễ hiểu nhất (Mẫu 5)
"Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật" (Bielinxki) Quả thật vậy, không rời xa thực tế, Quang
Dũng đã khắc họa bức chân dung người lính Tây Tiến một cách chân thực nhất với vẻ bề ngoài kì dị khác thường.
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Hai câu thơ đầu mở ra, giữa cái mỹ lệ, nên thơ của núi rừng, vẻ đẹp của người lính Cụ Hồ hiện lên thật bi
tráng. Không phải những đoàn quân với những người lính khỏe mạnh, trên đầu mang một màu tóc xanh
của tuổi trẻ, đoàn quân của Quang Dũng hiện lên thật kì dị khác thường. Cả một đoàn quân tuổi đời còn trẻ
măng nhưng ai cũng "không mọc tóc". Vì đâu mà cả một đoàn binh lớn nhường ấy lại có điều dị thường đến
vậy? Phải chăng đây là kết quả những cơn sốt rét rừng khủng khiếp? Ngoại hình tiều tụy, ốm yếu, đầu trọc,
da xanh đã gợi lên trong lòng chúng ta biết bao sự hi sinh. Hình ảnh ấy tuy có gân guốc thế nhưng lại là cái
hiện thực - một hiện thực trần trụi. Các chiến sĩ Tây Tiến ngày đó phải hoạt động trong rừng núi phía Tây
Bắc của Tổ quốc, nơi rừng thiêng nước độc, nơi ấy có những trận sốt rét đến kinh người và cả những ngày
hành quân đói rét vất vả. Chúng ta cũng từng bắt gặp hình ảnh người lính với những trận sốt rét trong thơ Chính Hữu:
"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh
Rét run người vầng trán ướt mồ hôi"
Người lính Tây Tiến vẫn mang thêm chút đặc biệt hơn ở một phần nào đó. Phải chăng là những mái tóc
xanh chẳng còn nữa, những người lính trở thành cả "đoàn binh không mọc tóc"? Đoàn quân đang trải qua
những gian khổ khó khăn cản bước tiến hành quân của họ.
Nhưng nếu ở câu trước hình tượng những người lính hiện lên thật trần trụi, bi thương thì ngay ở câu thơ
sau, người ta lại thấy Quang Dũng thể hiện hình ảnh những người lính thật oai phong:
"Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
"Quân xanh" ở đây phải chăng là những tán lá ngụy trang, là màu áo xanh người lính hay chính là làn da
xanh xao vì bệnh tật, đói rét của những chiến sĩ giải phóng quân. Một hình ảnh hiện thực trần trụi được
Quang Dũng đưa trực tiếp vào thơ. Chẳng hề có một sự phóng đại hay cách điệu nào hết. Đó là hiện thực,
là thực tại của những người lính đoàn quân Tây Tiến. Thế nhưng, tuy có xanh xao, mệt mỏi, vất vả là thế,
nhưng họ vẫn giữ vững tinh thần "dữ oai hùm". Dù là nơi rừng thiêng nước độc, nhưng những người anh
hùng giải phóng quân vẫn giữ được tư thế hiên ngang, bất khuất, toát lên vẻ oai hùng như chúa sơn lâm.
Hai câu đầu, hình tượng người lính của đoàn quân Tây Tiến hiện lên thật sống động biết bao, Đoàn quân ấy
đang đi giữa rừng xanh, đi giữa núi rừng âm u hiểm trở và gặp biết bao gian lao, vất vả, bệnh tật và đói rét.
Thế nhưng, các anh dù có thế nào vẫn giữ được tư thế hiên ngang, "oai hùm" giữa chốn rừng thiêng nước
độc. Có thể nói, Quang Dũng đã đưa vào đây chất liệu hiện thực - một hiện thực trần trụi và gửi vào đó một
chút lãng mạn của thi ca.
Bước sang những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên là vẻ đẹp tâm hồn của những chiến sĩ ấy, một vẻ
đẹp của tâm hồn mơ mộng, tràn trề sức xuân:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Tây Tiến là đoàn binh với thành phần chủ yếu là những người con đất Hà thành, là những học sinh, sinh
viên đang còn tuổi xuân xanh tươi đẹp, thế nên ẩn sau ngoại hình xanh xao ấy là cả một bầu trời tâm hồn
lãng mạn. Những người lính ấy đến với biên cương bằng sức trẻ, bằng hoài bão, bằng khát vọng hòa bình.
Họ nghe theo tiếng gọi Tổ quốc, ra đi bảo vệ bờ cõi núi sông. Vậy nên, "mắt trừng" kia phải chăng chính là
đôi mắt mang theo sự căm thù, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc xâm lược. Không chỉ vậy, đôi mắt ấy còn
"gửi mộng qua biên giới", đến những nơi xa xôi, về với mảnh đất Hà Nội thân yêu - nơi có người thân, gia
đình của những chàng trai Tây Tiến. "Mộng biên giới" có chăng chính là giấc mộng hòa bình, giấc mộng
chiến thắng để trở về với quê hương, với gia đình và người thương. Và đôi mắt ấy cũng không chỉ ánh lên
khát vọng mà còn cả cái tình, cả cảm xúc yêu thương:
"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đôi mắt ấy thao thức trong canh thâu, nhớ về một Hà Nội cổ kính, với phố phường, với gia đình và cả "dáng
kiều thơm" trong trí nhớ. Là những tri thức xếp bút nghiên, vác lên vai cây súng bảo vệ quê hương, những
người lính Tây Tiến luôn giữ trong mình cái vẻ hào hoa, lãng mạn của những người tri thức ấy. Họ không
như những anh lính mộc mạc trong thơ Chính Hữu:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá."
Chính "dáng kiều thơm" ấy là động lực để thôi thúc các anh hoàn thành nhiệm vụ cao cả của mình. Đồng
thời nó cũng là niềm khao khát của những người lính biên cương.
Trong chiến tranh, biết bao người lính ra đi khi tuổi đời còn trẻ, với khát vọng hòa bình, nhưng lại chẳng trở
về. Người ta thường nói, chiến tranh khốc liệt, làm sao tránh được hi sinh, mất mát:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Những ngôi mộ vô danh nằm "rải rác" nơi biên cương "viễn xứ", nơi rừng hoang heo hút không người qua
lại, không một nén hương tưởng nhớ. Từ Hán Việt "mồ viễn xứ", "biên cương" đã tạo nên không khí thật
trang trọng, bi hùng như khúc ca tiễn biệt những người lính. Họ đã ngã xuống nơi đây, trở thành người lính
vô danh góp phần làm nên độc lập dân tộc: "Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước."
Thế nhưng dù có phải đối mặt với cái chết thì người lính Tây Tiến vẫn quyết tâm ra đi vì khát vọng hòa bình.
Vì khát khao cháy bỏng ấy, họ nguyện hiến dâng cho Tổ quốc cả tuổi thanh xuân, cả tính mạng của mình:
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
"Đời xanh" nghĩa là tuổi thanh xuân của các anh, là tuổi trẻ với bao khát vọng. Thế nhưng, nghe theo tiếng
gọi tổ quốc ra chiến trường diệt quân thù, các anh quyết chí, đồng lòng ra đi, "chẳng tiếc" điều gì.
Vẫn trong âm hưởng hào hùng đó, nhà thơ đã tiếp tục khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Ở đây, Quang Dũng đã mỹ lệ hóa chiếc "áo bào", tấm áo ấy như một sự vinh danh dành cho người lính vô
danh đã ngã xuống, trở về với đất mẹ thân yêu. "Áo bào thay chiếu" là lời nói bi tráng hóa sự hi sinh của
người lính Tây Tiến. Và cụm từ "anh về đất" nghe sao nhẹ nhàng nhưng đó chỉ là cách nói giảm cho sự đau
xót, thương cảm vô hạn. Với người lính Tây Tiến, con sông Mã là con sông của lịch sử, của ký ức tươi đẹp,
là người bạn đồng hành trên chặng đường hành quân gian lao và vất vả. Và giờ đây, khi họ ngã xuống, nó
"gầm" lên khúc tráng ca tiễn biệt người đồng đội của mình. Tiếng âm vang ấy như khúc nhạc độc tấu dành
riêng cho người lính, tiễn đưa họ vào cõi bất tử.
6. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến siêu hay (Mẫu 6)
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh những anh hùng vô danh
nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc
hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt
trường kỳ lịch sử. Ở trong thơ Quang Dũng lad dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính
trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là bức tượng đài đã làm cho những
người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm hoa lửa ấy bất tử cùng thời gian:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc ...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những
người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ
yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ.
Chính vì thế Quang Dũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường
hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 câu thơ đầu tiên mà còn khắc tạc hình ảnh của
những người lính với đời sống tình cảm hết sức phong phú. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu
hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hóa, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh
nhằm khắc sâu vào tim người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là
bức tượng đài sừng sững giữa núi cao vực sâu, giữa một không gian hùng vĩ:
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá giũ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc họa từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống
gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra với "đoàn quân mỏi" hay
trong đêm lửa trại ấm áp tình quân dân, thì ở đây người lính hiện lên với vẻ bề ngoài kì dị khác thường.
Cảm hứng chân thực của Quang Dũng không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải
chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng khiến họ rụng tóc, biến thành những anh "Vệ trọc" khi ở tuổi mười tám,
đôi mươi. Cũng vì những cơn sốt rét rừng khủng khiếp, da họ xanh xao như lá. Nhưng thế giới tinh thần của
người lính lại cho thấy họ chính là những chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo
quân thù, dũng mãnh như hổ báo. Cái hay của Quang Dũng là đã lột tả những người lính với những nét
khắc khổ tiều tụy nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng. Câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc"
với những thanh trắc rơi vào âm đầu và cuối của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy
mà âm hưởng câu thơ như vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. Hai chữ "đoàn binh" âm
Hán Việt đã gợi ra khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ
không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả
cảm tiến bước về phía trước. Thủ pháp tương phản mà Quang Dũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá
dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn
hóa của dân tộc. Ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm với
sức mạnh bách chiến bách thắng. Đây là hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa, Phạm Ngũ Lão cũng ca
ngợi những anh hùng vệ quốc trong câu thơ:
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu."
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết:
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân."
Có thể nói Quang Dũng đã sử dụng một mô típ mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm
vang của lịch sử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dân tộc. Đọc
câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của hào khí Đông A ngút trời.
Hình tượng người lính Tây Tiến càng trở nên đẹp đẽ hơn khi nhà thơ bổ sung vào bức tượng đài chất hào
hoa, lãng mạn trong tâm hồn của họ:
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
Trước hết đó là một tấm lòng luôn hướng về tổ quốc, hướng về thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương
hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về Hà Nội. Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng
qua biên giới" mà nỗi nhớ niềm thương vẫn hướng về một "dáng kiều thơm" Hà thành. Đã một thời, người
ta phê phán thói tiểu tư sản, với cái "buồn rớt", "mộng rớt" , thực ra nhờ vẻ đẹp ấy mà tâm hồn của người
lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người
Việt Nam. Quang Dũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên
cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có đời sống nội tâm phong phú. Người lính Tây Tiến
không chỉ biết cầm súng cầm gương theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian
khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về "dáng kiều thơm", nhớ về Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau,
vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây
cũng chính là đặc trưng của thơ Quang Dũng.
Nếu như ở bốn câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước
chân vang dội, khí thế hào hùng và tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến
được khắc tạc bằng những hi sinh, mất mát của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh
riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi lụy về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến rất
ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến thường đề cập nhiều đến sự hào hùng mà ít quan tâm đến cái bi,
Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu Quang Dũng đã mô tả một
cách chân thực sự hi sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không
rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ "rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là
câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như
mỗi lúc nhấn thêm một nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình
ảnh những nấm mồ nơi biên cương ấy đã trở về trong lòng Tổ quốc, về nới niềm biết ơn của nhân dân. Bởi
đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Đồng thời cũng
chính câu thơ thứ hai đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng
niệm của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình.
Trong thơ Quang Dũng luôn là sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hi sinh của người lính còn được tráng lệ hóa trong câu thơ "áo bào thay chiếu anh về đất". Bao nhiêu
thương yêu của Quang Dũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo Quang Dũng
không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa như vậy, cảnh tiễn đưa với bao
thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn vì chiến trận.
Hai câu thơ mới đọc qua tưởng như chỉ âm hưởng bi tráng, tô đậm thêm sự mất mát hi sinh nhưng đó lại là
một cái chết cao đẹp - cái chết bất tử của người lính Tây Tiến:
"Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Hai câu hỏi mới đọc qua tưởng như chỉ làm nhiệm vụ miêu tả, thông báo bình thường những sức gợi thật
lớn. Đâu đây vẫn như còn thấy những giọt nước mắt đọng sau hàng chữ. Hai câu thơ rắn rỏi mà cảm khái,
thương cảm thật sâu xa. Làm sao có thể dửng dưng trước cảnh "anh về đất"? "Anh về đất" là hóa thân cho
dáng hình xứ sở, thực hiện xong nghĩa vụ quang vinh của mình. Tiếng gầm của sông Mã về xuôi như loại
đại bác rền vang, vĩnh biệt những người con yêu của giống nòi.
Từ sự kết hợp một cách hài hòa giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã dựng lên
bức chân dung, một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu
cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên kháng chiến chống thực
dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Vì thế từ bức
tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng.
7. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến (Mẫu 7)
"Thơ là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu." Theo dòng ký ức, ngược về quá khứ, ta bắt gặp không
biết bao nhiêu hồn thơ khiến mỗi chúng ta đắm say mê mẩn như lạc vào thế giới đó. Quang Dũng là một
nhà thơ như vậy. Ông là một người rất đỗi tài hoa, không chỉ làm thơ mà còn vẽ tranh, soạn nhạc. Và "Tây
Tiến" chính là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Quang Dũng với nét hào hùng, bi tráng cùng cảm hứng lãng
mạn đan xen, hài hòa. Có thể nói, xuyên suốt bài thơ là nỗi nhớ về Tây Tiến, về những người đồng đội, để
rồi lắng đọng và tập trung rõ nét nhất qua bức chân dung người lính Tây Tiến:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc ...
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Thật vậy, bài thơ Tây Tiến được ra đời trong những năm tháng không thể nào quên của Quang Dũng. Tây
Tiến là tên một đơn vị bộ đội được thành lập vào năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng vũ trang
Lào bảo vệ biên giới. Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Tại làng Phù Lưu Chanh, với
nỗi nhớ đơn vị cũ, đồng đội cũ, ông chắp bút cho ra đời tác phẩm "Tây Tiến", in trong tập "Mây đầu ô" năm
1986. Bài thơ là bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên hùng vĩ, về quãng thời gian chiến đấu gian khổ ngày
đêm bên nhau với ý chí, tinh thần quật cường. Đặc biệt hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên vừa oai
hùng, kiêu ngạo, vừa thơ mộng trữ tình.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên vừa chân thực, vừa hào hùng. Nếu ở hai đoạn thơ trước, thiên nhiên
là nhân vật chính thì ở khổ ba, con người vượt lên để làm điểm nhấn, chất xúc tác cảm xúc cho bài thơ đến cao trào.
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đoạn thơ trên làm sống dậy một hình ảnh đoàn binh Tây Tiến gan góc, dũng cảm. Ở họ mang một hào khí
đáng ngưỡng mộ. Họ chỉ là những cô cậu sinh viên Hà thành mới từ giã mới trường, gia đình lên đường đi
chiến đấu với bao bỡ ngỡ, lạ lùng, ngây ngô. Nhưng vượt lên trên cảm giác sợ hãi, thay vào đó là sự oai
hùng của tuổi trẻ, của sự nhiệt huyết bừng cháy. Nhà thơ dùng "không mọc tóc" để miêu tả đoàn binh. Đó là
hình ảnh chiến sĩ rất khác lạ. Bên cạnh việc ngày đêm phải chống chọi với kẻ thù, họ còn phải gồng mình
vượt qua thiên nhiên khắc nghiệt. Họ sống và chiến đấu nơi rừng thiêng nước độc, nơi sông sâu núi thẳm,
thiếu thốn trăm bề, bị cơn bệnh sốt rét rừng hoành hành đến trọc đầu.
Nhà thơ đã lột tả một cách trần trụi sự khắc nghiệt của thiên nhiên khiến cho họ trở nên kì dị khác thường.
Đó cũng là hiện thực khốc liệt của chiến tranh. Xanh xao vì gian khó, bệnh tật những đoàn binh ấy vẫn toát
lên chí khí "oai hùm" khiến kẻ địch phải khiếp sợ. Đó chính là nét đẹp đáng kính, đáng khâm phục của quân đoàn Tây Tiến.
Mặc dù quyết tâm đánh giặc nhưng trong họ vẫn tỏa ra chất lãng mạn vốn có của người lính. Họ không
cứng nhắc, khô khan, cũng có những phút giây dành cho mộng mơ tuổi thanh xuân. Họ nhớ về quê hương,
về những bóng dáng thân yêu nơi phố thị Hà thành. Hình ảnh "mắt trừng" là ánh mắt gợi lên sự quyết tâm, ý
chí chiến đấu đánh lui kẻ thù bảo vệ đất nước. Có thể thấy nhà thơ đã rất khéo léo khắc họa hình tượng
người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng bi tráng nhưng cũng rất đỗi lãng mạn tình tứ chỉ vẻn vẹn qua bốn câu thơ.
Không chỉ nhắc đến hiện thực đời sống vật chất thiếu thốn, khó khăn, Quang Dũng đã không ngần ngại khi
nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến:
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
Hình ảnh người lính hi sinh bản thân nơi chiến trường khắc nghiệt khiến cho người đọc không khỏi tiếc
thương, đau xót. Họ đã cống hiến bản thân mình cho Tổ quốc, họ ngã xuống nơi biên cương xa xôi hẻo
lánh, họ nằm lại nơi đất khách quê người, không một nén hương, không một vòng hoa tưởng nhớ. Lạnh lẽo,
bi thương nhưng trước khi cầm súng lên đường chiến đấu họ đã xác định ranh giới giữa cái chết và sự
sống là quá mong manh. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
"Đời cách mạng, từ khi tôi đã hiểu
Dấn thân vô là phải chịu tù đày
Là gươm kề cổ, súng kề tai
Là thân sống chỉ coi còn một nửa."
Họ mang tuổi trẻ, nhiệt huyết của mình cống hiến cho quê hương. Tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất của đời người
với bao ước mơ hoài bão và hứa hẹn, nhưng họ chẳng tieevs mà dâng hiến cho Tổ quốc. Đó là một sự hi
sinh vĩ đại, thầm lặng đáng ngợi ca và trân trọng biết bao.
Cái chết của họ qua ngòi bút của Quang Dũng không hề bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Hình ảnh "áo
bào" thay "chiếu" khiến ta thấm thía và suy ngẫm. Thi nhân đã khéo léo dùng từ Hán Việt để giảm bớt sự bi
thương cho cái chết oanh liệt ấy. Đất Mẹ như ôm ấp, vỗ về, dang tay đón những đứa con vào lòng. Quang
Dũng đã mượn luôn âm thanh của thiên nhiên như khúc ca gợi thêm sự đau thương mất mát. Sông Mã gầm
lên ai oán, mang âm hưởng dữ dội xoáy sâu vào lòng người đọc sự đau thương, mất mát không gì bù đắp được.
8. Phân tích đoạn 3, bài thơ Tây Tiến hay nhất (Mẫu 8)
Nếu như ở những đoạn thơ đầu, hình ảnh đoàn quân hiện lên qua nét vẽ gián tiếp thì ở đây, đoàn quân ấy
đã hiện lên với những nét vẽ cụ thể, gân guốc nhưng cũng rất đỗi tài hoa và lãng mạn.
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Trên những nẻo đường hành quân chiến đấu, vượt qua bao núi cao dốc thẳm, đoàn binh Tây Tiến hiện lên
giữa màu xanh của núi rừng trùng điệp, vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu
xanh của lá rừng, với nước da xanh xao vì sốt rét, thiếu thốn. Câu thơ trần trụi như hiện thực chiến tranh
khốc liệt và gian khó. Cái hình hài kì dị "xanh màu lá", "không mọc tóc" tương phản với "dữ oai hùm" là một
nét chạm khắc tài tình làm nổi bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây
Tiến từng làm cho quân giặc khiếp sợ. "Dữ oai hùm" là một hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí người lính mang
tính kế thừa và sáng tạo của Quang Dũng. Các chiến binh "Sát Thát" thời Trần: "Tỳ hổ ba quân, giáo gươm